Chương 7 - Kinh điển đạo Phật

19 Tháng Sáu 20163:02 CH(Xem: 3004)
Chương 7 - Kinh điển đạo Phật

Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tịnh Liên Đồ Thư Quán Tái Bản Lần Thứ Nhất tại Hoa Kỳ 2002

 

 

 

Thiên Thứ Nhất
Chương Bảy
Kinh Điển Đạo Phật

Tiết Mục:

I. Sau thời kiết tập. 

II. Kinh Phật tiếng Ba ly. 

III. Kinh Phật tiếng Phạm. 

IV. Hai hệ thống kinh điển Phật giáo. 

V. Ba tạng. 

VI. Mười hai phần giáo. 

Kinh sách tham khảo: Kinh Đại Niết Bàn, Luận Du Già, Luận Tỳ Bà Sa, Phật Học Đại Cương, Phật Giáo Khái Luận, Ấn Độ Phật Giáo Sử.

Đề yếu: Trong bốn tiết đầu, đại khái nói về sự phát nguyên của hai hệ thống Phật giáo Nam, Bắc. Khi Phật còn tại thế thuyết pháp, Ngài thường dùng lối ngôn ngữ phổ thông của miền đông Ấn Độ. Sau lúc đức Thế Tôn Niết Bàn, những pháp âm của Ngài mới được ghi chép bằng hai thứ tiếng: Phạn, và Ba ly; nhưng sự xuất phát trước sau của hai loại kinh này chưa tìm được tài liệu để chứng minh. Và hai thứ kinh điển Phạn và Ba ly, đã là nguyên nhân đưa Phật giáo đến hai hệ thống: Nam truyền và Bắc truyền.

Hai tiết sau phân tích về ba tạng, mười hai phần giáo. Mười hai phần giáo không phải là những bộ loại riêng cho tạng Tu Đa La, mà gồm cả Tỳ Nại Gia và A Tỳ Đàm. Và, tất cả pháp điển của Đại thừa, Tiểu thừa tuy nhiều danh mục sai biệt, song tóm lại không ngoài ba tạng, mười hai phần giáo.

Tiết I: Sau Thời Kiết Tập

Sau khi trải qua mấy kỳ kiết tập, nội dung kinh điển Phật giáo thật phong phú, sách vở rất nhiều, đời sau lại còn tăng thêm mãi. Hiện thời pháp tạng đang lưu truyền gồm có đến 5000 quyển, 7000 quyển, hoặc 8000 quyển. Nhìn khắp tất cả tôn giáo trên thế giới, không có đạo nào kinh điển nhiều bằng ba tạng của Phật giáo.

Trong hai lần kiết tập đầu tiên, chư Tăng thi hành pháp sự theo thể thức hội tụng (Samgìti), chưa dùng cách biên chép. Thể thức này là đại chúng vân tập ở một nơi, rồi cùng nhau đọc lại và xét định những lời lẽ của Phật đã dạy để lưu truyền. Bởi theo tập tục của thời đó, người ta cho rằng viết chép là làm mất giá trị của thần thánh. Lại còn một nguyên nhân nữa, là do thiếu những dụng cụ biên chép mà phải như thế. Chẳng hạn, như tình trạng thời xưa ở Trung Hoa, vì thiếu giấy bút nên người đời Lưỡng Hán muốn lưu lại điều chi, phần nhiều đều dùng cách truyền khẩu.

Nhưng đến hai lần kiết tập sau, nhằm vào thời vua A Dục và Ca Nị Sắc Ca, ngoài cách hội tụng, các đệ tử Phật còn ghi chép tam tạng thành sách vở. Sự kiện này đã được thể hiện bằng hai lối văn tự: Ba ly (Pali) và Phạm ngữ (Sanskrit).

Trong phái quý tộc Ấn Độ lại có sẵn một lối nhã ngữ đã lưu hành, được gọi là thứ tiếng của người học thức, hợp với vận luật kinh Phệ Đà. Khi Đức Phật còn tại thế, vì bình đẳng thí pháp đối với bốn giai cấp, ít khi Ngài dùng thứ nhã ngữ ấy. Nhưng sau khi đức Thế Tôn Niết bàn khoảng một trăm năm, ông Ba Nhĩ Ni (Pànini) là một học giả chuyên về văn pháp, đem thứ nhã ngữ ấy quy định lại rất rõ ràng, được nhiều người khen ngợi, cổ xúy cho sự lưu thông. Nhân đó, Phật giáo đồ cũng thu dụng thứ tiếng ấy để biên chép kinh Phật. Vậy kinh Phật bằng tiếng Phạn hoặc tiếng Ba ly, thứ nào trước, thứ nào sau. Điều đó, thật ra ta chưa tìm được bằng chứng. Nhưng xét về khu vựu lưu hành của mỗi thứ, ta thấy rõ ràng không đồng nhau. Như kinh Phật bằng tiếng Ba ly thì lưu hành về phương Nam, mà Tích Lan là trung tâm điểm. Còn kinh Phật bằng tiếng Phạn được lưu truyền sang miền Bắc, trung tâm điểm trước kia là xứ Ca Thấp Di La, sau lần chuyển sang Trung Quốc.

Tiết II: Kinh Phật Tiếng Ba Ly (Pali)

Vào thời vua A Dục, trước tiên có hai vị A la hán là Ma Sấn Đà và Nhất Địa Tẩu sang Tích Lan truyền giáo. Sau lại có con gái A Dục Vương là Tăng Già Mật Đa (Sanghamittà) mang một nhánh cây bồ đề từ nơi đức Phật thành đạo tới trồng tại Tích Lan, mà trong sử gọi là chuyển cây "Thánh thọ". Đương thời vị quốc vương bản xứ là Thiên Ái Đế Tu (Devànàmpriya - Tissa) tín ngưỡng chánh pháp rất mạnh. Người đã cúng khu vườn Mi Già và lập tinh xá để chư Tăng cư trú, về sau thành một cảnh chùa rất nguy nga. Nơi đây là cơ sở của Đại Tự Phái (Theriyanikàya). Những kinh điển do hai vị A la hán đem truyền sang Tích Lan là pháp tạng kiết tập trong kỳ thứ ba, ghi chép bằng thứ ngôn ngữ phổ thông của xứ Ấn Độ, lấy gốc ở tiếng Ma ga đi (Magadhi). Về sau người Tích Lan canh cải ngôn ngữ này thành tiếng Ba ly (Pali). Và thứ tiếng này được dùng để chép kinh điển của Nam truyền Phật giáo.

Vào khoảng thế kỷ đầu của Tây lịch, tại Tích Lan có Vô Úy Vương (Vathagàmani - Abhaya) lên ngôi, rất sùng tín đạo Phật. Vua cho xây dựng một cảnh chùa rất to lớn tại núi Vô Úy (Abhaya) gọi là Vô Úy Sơn Tự (Abhayagiri) để cúng dường Tam Bảo. Về sau, chư Tăng ở đây vì bất đồng ý kiến về giới luật, chi rẽ với phái Đại Tự, và biệt lập một môn phái gọi là Vô Úy Sơn Tự, thuộc Pháp Hỷ bộ (Dhamaruci - Nikàya). Vị quốc vương đương thời thấy thế mới triệu thỉnh 500 vị đại đức Tỷ khưu, căn cứ vào ba tạng khẩu truyền bằng tiếng Ba ly, đính chánh cẩn thận rồi chép vào sách. Tại Tích Lan, kinh Phật bằng tiếng Ba ly có sự ghi chép bắt đầu từ đó. Tuy nhiên, về phần chú thích, người ta vẫn còn viết bằng thứ thổ ngữ của Tích Lan. Còn cách biên chép thì họ y theo tục lệ Ấn Độ, dùng lá cây Bối đa la (Battrà) lấy kim chính thành văn tự rồi nhuộm mực, có thể để lâu đời không phai.

Ở triều vua Cù Đàm Bà Gia (Gotabhaya), nhằm 205 năm sau kỷ nguyên, Phật giáo Tích Lan lại phát sinh ra một phái mới gọi là Kỳ Đà Lâm Tự phái (Tetavana). Như vậy Phật giáo Tích Lan thời này có ba phái đối lập nhau.

Phật giáo Tích Lan từ thời cổ vẫn truyền tụng bằng cách đọc thuộc lòng, nhưng cuối triều đại Ba Đà Già Ma Ni Vô Úy (Vatthagàmani - Abhaya), kinh điển mới bắt đầu được ghi chép bằng tiếng Ba ly. Đến đầu thế kỷ thứ V, có Ngài Phật Âm (Budhaghosa), người sứ Trung Ấn đến Tích Lan, Ngài nghiên cứu giáo lý của Đại Tự Phái, chế tác ra bộ Thanh tịnh đạo luận (Visuđhimagga). Nội dung của bộ này là một thể hệ tam học, và cũng là một giáo học hoàn bị của Đại Tự Phái. Là một vị thông minh bác học, Phật Âm tôn giả đem phần chú thích tam tạng bằng thổ ngữ Tích Lan, chép lại thành tiếng Ba ly. Những bộ phận chú thích chưa xong, thì Ngài Hộ Pháp (Dharmapàla) tiếp tục hoàn thành. Bấy giờ kinh Phật bằng tiếng Ba ly ở Tích Lan mới được chỉnh bị. Vì thế, các học giả gần đây đều tôn xưng Ngài Phật Âm là vị giáo tổ thứ hai của Phật giáo Tích Lan. Xem đó, chúng ta có thể biết được lòng tôn sùng của họ là thế nào?

Tiết III: Kinh Phật Tiếng Phạn

Khi Phật còn tại thế thuyết pháp, Ngài dùng thứ ngôn ngữ phổ thông, tức là tục ngữ của miền đông Ấn Độ. Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, giáo pháp của Ngài được ghi chép bằng hai thứ tiếng: Phạn và Ba ly. Tiếng Ba ly tương tợ với tục ngữ Ấn Độ, còn tiếng Phạn là một lối nhã ngữ ở bản xứ được ông Ba Nhĩ Ni tu chỉnh lại.

Về kinh Phật bằng tiếng Phạn, đại khái đến đời vua Ca Nị Sắc Ca mới hoàn bị. Tương truyền rằng việc thẩm định tam tạng hồi thời ấy, nếu thứ nào không có bản truyền lại, chư Tăng chép thành bản mới, thứ nào đã có sẵn, cũng đem ra giáo chính kỹ càng. Cho nên những kinh chữ Phạn lúc bấy giờ rất đầy đủ. Tại nước Trung Hoa, khi kinh Phật từ Tây Vức truyền đến, là đã có ngay bản chữ Phạn. Dọc theo miền Ni Bá Nhĩ (Népal) còn rất nhiều bản kinh chữ Phạn truyền lại, nhưng vì hệ thống kết cấu toàn thể không hoàn bị bằng tam tạng tiếng Ba ly, nên rất khó cho người nghiên cứu.

Vào khoảng thế kỷ thứ VII Tây lịch, ở Tây Tạng có vua Song Tán Tư Cam Phổ ra đời. Quốc vương là một tín đồ thuần thành của đạo Phật. Ngài có cho mười sáu quan đại thần do ông Đoan Mỹ Tam Bồ Đề lãnh đạo, sang Ấn Độ học chữ Phạn và kinh điển Phật giáo. Các vị này lưu trú tại xứ Nam Thiên Trúc bảy năm, lúc trở về có đem theo rất nhiều kinh tượng và pháp khí. Sau khi về đến nước nhà, mười sáu đại thần căn cứ theo Phạn ngữ chế ra chữ Tây Tạng và phiên dịch kinh điển. Đây là giai đoạn mở đầu của kho pháp giáo Tây Tạng trong hệ thống phương Bắc Phật giáo.

Sau khi đó, Phật giáo ở Tây Tạng rất thịnh hành và được chuyển đổi lại thành quốc giáo. Các vị cao Tăng Ấn Độ đến Tây Tạng hoằng pháp, cũng chuyên về việc phiên dịch kinh điển Phạn văn ra chữ Tây Tạng. Hầu hết kinh Phật Trung Hoa tuy được dịch ra từ Phạn văn, nhưng đôi khi cũng có thứ phiên dịch từ văn tự Tây Tạng.

Hiện thời kinh Phật ở Tây Tạng chia ra làm hai loại: Một là Cam Thù Nhĩ (Kanjur), có nghĩa: "Lời Phật dạy", biên tập tất cả kinh và luật, gồm 108 bộ sách lớn. Hai là Đan Thù Nhĩ (Danjur), có nghĩa "Lý Luận", biên tập những thứ biện luận và trứ tác, gồm 225 pho sách.

Kinh điển Tây Tạng được thạnh truyền ở miền Trung Á. Vào khoảng thế kỷ thứ XIII, vua Thế Tổ nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt, xâm nhập Tây Tạng, tín dụng Lạt Ma Giáo và phong cho Phát Tư Ba làm quốc sư. Vâng lệnh vua, quốc sư chế ra chữ Mông Cổ, rồi căn cứ vào kinh Phật của Tây Tạng mà dịch thành đại tạng kinh bằng tiếng Mông Cổ.

Nước Trung Hoa vào thời Hán Minh Đế, niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười (sau kỷ nguyên, 6, 7 năm), có hai vị A la hán là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan từ Ấn Độ đến. Hai vị ấy lưu trú tại chùa Bạch Mã, tỉnh Lạc Dương, bắt đầu dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương và Thập Địa Đoạn Kiết. Về sau, các triều đại khác đều lấy việc phiên dịch tam tạng làm phần chính trong công cuộc quảng bá Phật giáo.

Tiết IV: Hai Hệ Thống Kinh Điển Phật Giáo

Phật giáo chia thành hai hệ thống lớn là Đại thừa và Tiểu thừa. Những nước thuộc hệ thống Đại thừa Phật giáo như: Bắc Ấn, các địa phương Trung Á, Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Các nước thuộc hệ thống Tiểu thừa Phật giáo như: Nam Ấn, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao (Lào), Cao Miên (Campuchia). Phật giáo ở những nước này gọi là Nam truyền hay Nam Phương Phật giáo. Kinh điển của Nam phương Phật giáo được ghi chép bằng tiếng Ba ly, nên gọi là Ba ly Phật điển. Kinh điển của Bắc phương Phật giáo được ghi chép bằng tiếng Phạn, nên gọi là Phạn ngữ Phật điển.

Tuy phân chia Đại thừa, Tiểu thừa hay Nam truyền, Bắc truyền, song thật ra Bắc truyền Phật giáo cũng gồm có Kinh, Luật, Luận của Tiểu thừa; Nam truyền Phật giáo cũng có nơi xen lẫn giáo lý Đại thừa. Danh từ Bắc phương hay Nam phương Phật giáo là chỉ cho hai hệ thống kinh điển Phạn ngữ và Ba ly, chớ không phải chỉ trên phương diện địa lý. Chẳng hạn như đảo Xà Bà (Java), địa cảnh thuộc về Nam phương, nhưng nhân dân xứ ấy đã từng tín phụng Bí mật giáo của Đại thừa. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại đảo này những tượng Phật, Bồ tát và kinh điển của Đại thừa Phật giáo.

Tiết V: Ba Tạng

Kinh điển đạo Phật chia ra làm ba loại, người ta thường gọi là tam tạng: Kinh, Luật, Luận.

"Kinh" là những pháp về giáo lý, giải, hạnh, do đức Như lai nói ra, hoặc hàng Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác hay Hóa nhân nói, mà được Phật Ấn chứng. Đạo pháp này hợp với chân lý, căn cơ, để cho người học Phật tu hành dứt trừ phiền não. "Luật" là những giới luật của Phật chế định, để cho hàng đệ tử y theo đó ngăn trừ những phi hạnh, tu tập các pháp lành, thân tâm dần dần được thanh tịnh. "Luận" có nghĩa: bàn luận, là những sách do các đệ tử Phật viết ra, để phát huy nghĩa lý nhiệm mầu trong kinh luật. Đây là bộ phận triết học của Phật giáo, có công năng quyết đoán tánh tướng các pháp, phân biệt lẽ chánh tà, khiến cho học giả khỏi nhận lầm.

Những điểm đồng và dị của tam tạng như thế nào? Luận Tỳ Bà Sa nói:

Chư Phật ra đời đều có ba tạng (Tripitaka): Tu đa la (Sùtra), Tỳ nại gia (Vinaya), A tỳ đạt ma (Abhidharma). Ba tạng này thật ra không khác mà khác, hay nói ngược lại. Không khác là tất cả Phật giáo đều từ nơi một biển trí mà sinh ra, đều đồng một nhiếp thọ, lực, vô uý, và đều do tâm đại bi phát khởi. Có khác là Tu đa la y nơi tâm mà luận, Tỳ nại gia y nơi giới mà luận, A tỳ đàm y nơi huệ mà luận. Đây là nói về sở y sai biệt. Lại, Tu đa la do nơi thứ đệ mà hiển, Tỳ nại gia do nơi duyên khởi mà hiển, A tỳ đàm do nơi tướng tánh mà hiển. Đây là nói về sở hiển sai biệt. Lại, Tu đa la thuộc về dòng trí lực, Tỳ nại gia thuộc về dòng đại bi, A tỳ đàm thuộc về dòng vô úy. Đây là nói về đẳng lưu sai biệt. Công năng của Tu đa la là: người chưa trồng căn lành, khiến cho trồng căn lành. Công năng của Tỳ nại gia là: người đă trồng căn lành, khiến cho tiếp tục được thành thục. Công năng của A tỳ đàm là: người đă chủng căn lành thành thục, khiến cho được sự giải thoát chân chánh. Đây là nói về sở vi sai biệt. Tu đa la do hàng thỉ nghiệp mà nói, Tỳ nại gia do hàng quán tập mà nói, A tỳ đàm do hàng đã vượt qua sự tác ý mà nói. Đây là nói về phận vị sai biệt. Nẻo tiến của Tu đa la là: người chưa vào chánh pháp, khiến cho thọ trì học xứ. Nẻo tiến của A tỳ đàm là: người đã thọ kỳ học xứ, khiến cho thông đạt tánh tướng chân thật của các pháp. Đây nói về tiến thú sai biệt.

Trong Tu đa la cũng có luận về giới và huệ. Trong Tỳ nại gia cũng có luận về huệ và tâm. Trong A tỳ đàm cũng có luận về tâm và giới. Đây là điểm khác mà không khác của ba tạng.

Sao gọi là "tạng". Chữ "tạng" (Pitaka) có nghĩa: trùm chứa. Kinh, luật, luận sở dĩ được gọi là tạng, vì nội dung trùm chứa vô lượng nghĩa lý nhiệm mầu, vì là giáo pháp thuyết minh tạng tánh của Như Lai.

Trong ba tạng, theo nghĩa hẹp, riêng về giáo pháp của Phật nói ra hoặc ấn chứng, được gọi là Kinh, còn bao nhiêu thì là Luật hay Luận. Nhưng ba tạng đều là giáo điển của đạo Phật, đều có liên quan với lời Phật dạy, nên theo nghĩa rộng, cũng thông gọi là Kinh. Vì thế, nên lại có những danh từ như: Nhất thế kinh, Đại tạng kinh, với ý nghĩa gọi chung cho ba phần giáo điển.

Ngoài ra, những kinh điển Đại thừa còn gọi là Bồ tát tạng, kinh điển Tiểu thừa gọi là Thanh văn tạng. Cả Đại thừa, Tiểu thừa đều có ba tạng, nghĩa là kinh, luật, luận riêng. Tam tạng của Đại thừa, về kinh như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, về luật như: Phạm Võng, Đại Thừa Giới Kinh, về luận như Khởi Tín, Đại Trí Độ. Tam tạng của Tiểu thừa, về kinh như: A Hàm, Pháp Cú; về luật như: Ngũ Phần, Thập Tụng; về luận như: Câu Xá, Thành Thật.

Lại còn có những danh từ như Bí mật tạng, Tạp tạng...., mà nội dung là: bộ phận mật chú, bộ phận hợp tập những bài thuyết pháp tản mác của đức Phật. Nhưng dù là Bồ tát, Thanh văn tạng, Bí mật tạng hay Tạp tạng, đều không ngoài ý nghĩa ba tạng. Tam tạng là danh từ thống nhất của giáo điển đạo Phật, gồm cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa.

Tiết VI: Mười Hai Phần Giáo

Ba tạng kinh điển của đạo Phật, y theo thể tài, được phân chia thành mười hai bộ loại. Người học Phật thường gọi những bộ loại này là "mười hai phần giáo":

1. Tu Đa La (Sùtra): Danh từ này có một lối gọi là Tô Tát Lãm, Trung Hoa dịch là Kinh hay Khế Kinh. Chữ "Khế" có nghĩa là "hợp", chữ "Kinh" có nghĩa là "thường". Pháp giải thoát là pháp chư Phật trong ba đời vẫn thường nói, và pháp ấy hợp với chân lý, hoặc với nhân duyên thời tiết cùng căn cơ của chúng sinh, nên gọi là Khế Kinh. Kinh cũng gọi là Trường Hàng (tản văn, văn xuôi), một lối văn chỉ nói ngay ý nghĩa của mình, tùy theo nghĩa lý mà đọc ra câu văn dài hay ngắn. Lối văn này không cần sửa soạn lắm như lối văn từ phú.

Luận Du Già nói: "Kinh là những danh, cú, văn thân, phát huy nghĩa nhiệm mầu, chân thật, thuần thiện. Kinh hay khiến cho chúng sinh được điều lợi ích của giáo nghĩa và dẫn khởi sự tu tập phạm hạnh".

Kinh Đại Niết Bàn nói: "Thiện nam tử! Sao gọi là Khế Kinh? Ấy là giáo thuyết của Phật từ câu "Như thế, tôi nghe" cho đến câu, "vui mừng phụng hành".

2. Kỳ Dạ (Geya): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Ứng Tụng hay Trùng Tụng. Đây là lối kệ văn thuật lại những ý nghĩa của đoạn văn Trường Hàng nói trên, có khi nói thêm cho ý nghĩa ấy được đầy đủ. Lối văn này thường lấy bốn, năm hoặc bảy, tám chữ làm một câu, bốn câu làm một bài. Lại có khi một bài gồm nhiều câu, tùy theo sự diễn ý rộng hay hẹp. Trong pháp hội, đức Thế Tôn thường nói văn Trùng Tụng, với dụng ý làm cho thính giả ghi nhớ và có thể tóm tắt lại giáo nghĩa mà Ngài vừa tuyên thuyết.

3. Thọ Ký: Thọ ký cũng gọi là Ký Biệt. Đây là những đoạn văn mà đức Phật ghi nhận cho đệ tử sau sẽ sinh về đâu, hoặc chừng nào sẽ chứng đạo quả, hoặc tương lai sẽ xảy ra sự gì tốt hay xấu. Như đức Phật nói: "A Dật Đa! Đời vị lai có vị quốc vương tên là Nhương Khê. Ông sẽ ở nơi thời ấy mà thành phật, hiệu là Di Lặc".

4. Dà Đà (Gàthà): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Phúng Tụng hoặc Cô Khởi. Phúng Tụng là làm những bài kệ hoặc hai ba bốn, năm, sáu câu. Nói Cô Khởi, là lối văn này không thuật lại ý nghĩa đoạn văn Trường Hàng trên, mà chỉ làm riêng từng bài kệ thôi.

5. Ưu Đà Na (Udàna): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Tự Thuyết. Đây là những kinh do Phật dùng trí huệ xem xét căn cơ chúng sinh, rồi Ngài tự nói pháp, không đợi phải có người thưa thỉnh yêu cầu.

6. Ni Đà Na (Nidàna): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Nhân Duyên. Đây là những kinh nhân có người thỉnh, hay nhân có duyên chi Phật mới nói ra, hoặc nói về nhân duyên gặp Phật nghe pháp, những chỗ có nhân duyên hóa độ, hay nói về duyên khởi của vũ trụ. Thí dụ như thuở xưa ở nước Xá Vệ có người dùng lưới bắt chim để chơi. Khi bắt được, anh đem nó nhốt vào lòng cho ăn lúa uống nước xem cho chán rồi thả. Phật thấy thế, biết rõ nhân duyên trước sau, khuyên rằng: "Chớ khinh tội nhỏ. Cho là không sao. Giọt nước tuy ít. Lần đầy chum lớn".

7. A Ba Đà Na (Avadàna): Danh từ này có nghĩa là Thí Dụ. Pháp của Phật nói ra rất mầu nhiệm, người căn cơ tối chậm khó mà hiểu thấu. Vì thế, khi giảng dạy đức Như Lai phải dùng những thí dụ cho thính chúng dễ hiểu. Đại khái như những lời thí dụ trong các kinh điển.

8. Y Đế Mục Đa Dà (Itivrttaka): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Bản Sự. Đây là những kinh văn Phật nói chỗ tu nhân của các vị Bồ tát, đệ tử về đời quá khứ, hoặc những ngôn giáo, sự nghĩa liên quan với đời trước. Thí dụ như đoạn: Này các Tỷ khưu! Pháp của ta nói hôm nay gọi là Giới kinh, đời Phật Câu Lưu Tôn gọi là Cam lồ cổ, đời Phật Câu Na Hàm Mâu Ni gọi là Pháp cảnh, đời phật Ca Diếp gọi là Biệt không.

9. Xa Đà Dà (Jàtaka): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Bản Sanh. Đây là những kinh Phật nói về nhân duyên thọ sanh của chính Ngài hoặc các đệ tử trong nhiều đời trước. Như đoạn: Các ông nên biết, đời quá khứ khi hành đạo Bồ tát, ta đã từng thọ thân hươu, nai, thỏ, gấu, rồng, kim súy điểu, Túc tán vương, Chuyển luân vương.

10. Tỳ Phật Lược (Vaipulya): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Phương Quảng. Đây là những kinh Đại thừa Phương Đẳng, nội dung hàm nghĩa lý cao siêu, rộng rãi, như mười phương hư không.

11. A Tỳ Đạt Ma (Adbhuta dharma): Danh từ này, Trung Hoa dịch là Vị Tằng Hữu hoặc Hi pháp. Đây là kinh văn nói về những thần lực, những nghiệp duyên, những công đức tối thắng, lạ lùng, ít có, mà trí phàm phu khó tin hiểu. Như kinh Đại Niết bàn nói: "Thế nào là pháp Vị Tằng Hữu? Như Bồ tát khi mới sinh ra, không người nâng đở, mà tự đi bảy bước, phóng đại quang minh, nhìn khắp mười phương. Như con vượn tay bưng bát mật cúng dường Như Lai. Như con chó cổ trắng theo bên Phật nghe thuyết pháp. Như Thiên ma Ba Tuần biến làm con thanh ngưu đi trên những bát bằng sành, khiến cho các bát va chạm nhau mà không sứt bể. Và cũng như Bồ tát khi mới sinh được đưa vào miếu thờ thiên thần, các thiên tượng đều đứng lên lễ kỉnh".

12. Ưu Bà Đề Xá (Upadesa): Danh từ này có nghĩa Luận Nghị. Đây là lối kinh văn có tính cách vấn đáp biện luận, hoặc phân biệt các tướng mạo, các lẽ chánh tà. Luận Du Già nói: "Thế nào là Luận Nghị? Đây là tất cả đối pháp luận, nghiên cứu nghĩa rộng sâu của Tô Đát Lãm, tuyên dương tông yếu của các kinh".

Trong mười hai bộ loại trên, chỉ có Tu Đa La, Kỳ Dạ và Dà Đà là thể tài chính thức của kinh giáo. Còn chín loại kia, chẳng qua là y theo các sự kiện sai biệt của pháp điển mà lập ra vậy thôi.

Và mười hai phần giáo này, không phải trong kinh nào cũng có đủ cả. Có thứ kinh chỉ được một hai phần, có thứ kinh gồm đến năm sáu phần chẳng hạn. Ấy là tùy theo thời tiết, cơ duyên riêng biệt của mỗi thứ kinh, mà có những sự sai khác hoặc ít hoặc nhiều.