TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Sự canh tân của Phật giáo từ Đông sang Tây
Tác giả : Heinz Bechert
Chuyển ngữ : Hoang Phong
Vài lời giới thiệu của người dịch :
Đại Học Phật giáo Âu châu trong bức thư hàng tháng (số 28 tháng 12, năm 2010) gởi cho các thành viên có giới thiệu quyển sách "Le Monde du Bouddhisme" ("Thế giới Phật giáo") do hai Giáo sư Heinz Bechert và Richard Gombrich chủ biên (nhà xuất bản Thames & Hudson, Paris, 1998). Bức thư cũng trích dẫn và giới thiệu một bài viết trong quyển sách này mang tựa đề là "Phật giáo trong thế giới tân tiến ngày nay" của Giáo sư người Đức Heinz Bechert. Dưới đây là phần chuyển ngữ lời giới thiệu của Đại Học Phật giáo Âu châu và bài viết của Heinz Bechert.
Lời giới thiệu của Đại Học Phật giáo Âu châu về bài viết của Giáo sư Heinz Bechert :
Phật giáo "tân tiến",
Người Á châu "tây phương hóa Phật giáo" ra sao...
Trong vài thập niên gần đây chủ đề "Tây phương hóa Phật giáo" (occidentalisation) được người Tây phương mổ xẻ rất nhiều, thế nhưng người ta lại không biết rằng thông điệp của Đức Cồ-đàm Thích-ca Mâu-ni đã bị biến đổi trước khi du nhập vào thế giới Tây phương chưa đầy một thế kỷ nay...
Một trào lưu Phật giáo đổi mới tại Á châu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX gọi là "Phật giáo canh tân" ("modernisme bouddhique") có thể xem như là một hình thức " Phật giáo tin lành " (protestantisme bouddhisme) thế nhưng một số lớn các các điểm đổi mới ấy lại rất phù hợp với quan niệm của chúng ta [người Tây phương] đối với Phật giáo. Công trình của các người khởi xướng [Phật giáo tại Tây phương] mang chủ đích trước hết là tạo ra cho Phật giáo một hình ảnh hoàn toàn tương phản với các tôn giáo Thiên chúa tại Âu châu ; các quốc gia Á châu cũng nhân biến chuyển đó biến Phật giáo của mình thành một "dụng cụ" tuyệt vời chống lại các nhà truyền giáo Thiên chúa trong đám thực dân Anh và Pháp, và đồng thời tạo ra một nền móng giáo lý mang tinh thần quốc gia trên toàn thể Á-châu...
Vào đầu thế kỷ XX, tác động của phong trào này tạo ra ảnh hưởng mạnh trong các quốc gia Á châu và cả Âu châu, đã góp phần không nhỏ vào sự bành trướng chung của Phật giáo sau khi được "tây phương hóa" [thành một phương tiện chống lại các tôn giáo hữu thần]. Ngày nay sự bành trướng đó vẫn đang tiếp diễn, mặc dù không mấy ai chú ý - đấy cũng là một bằng chứng cho thấy một sự thành công nào đó ! [vì sự bành trướng Phật giáo đã trở thành một sự kiện hiển nhiên]. Chúng tôi mời người đọc tìm hiểu lịch sử và vài khía cạnh chính yếu của sự bành trướng Phật giáo qua bài viết của Giáo sư đại học Heinz Bechert trong quyển sách trên đây mà ngày nay đã tuyệt bản.
Bài viết của Giáo sư Heinz Bechert
Bối cảnh Lịch sử
Sự bành trướng của Phật giáo nói chung đã chấm dứt cách nay khoảng một ngàn năm khi các đạo quân xâm lược Hồi giáo tràn vào A-phú-hãn (Afghanistan) và Tây bắc nước Ấn. Sau biến cố đó dù Phật giáo gặt hái được một vài thành công khi truyền bá sang Mông cổ và một vài lãnh thổ thuộc các sắc tộc nhỏ trong các vùng phía bắc và trung bộ Á châu, thế nhưng Phật giáo mất ảnh hưởng tại nhiều nước Á châu khác. Tại Ấn độ, Phật giáo hoàn toàn biến mất vào năm 1500 dưới sự tàn phá khủng khiếp của các đạo quân xâm lược Hồi giáo vào thế kỷ XII, các nhóm Phật giáo lẻ tẻ còn sót lại cũng dần dần bị Ấn giáo đồng hóa. Vào cùng thời kỳ này Phật giáo cũng bị loại khỏi vùng phía đông Turkestan (Sinkiang - Tân cương), và vùng này cũng lọt vào tay người Hồi giáo. Hồi giáo cũng bành trướng sang Mã lai và Nam Dương (Inđônêxia) khiến cho Phật giáo biến mất tại các nơi này. Kể từ đầu thế kỷ XVII có thể nói là đảo Java hoàn toàn trở thành một lãnh địa của Hồi giáo.
Với cao trào đánh chiếm thuộc địa, trên sân khấu lịch sử hiện ra một kẻ thù mới (nouvel ennemi) của Phật giáo : đó là các nhà truyền giáo Thiên chúa đổ bộ khắp nơi vào đầu thế kỷ XVI. Thật ra người ta cũng không biết được nhiều những gì xảy ra phía sau sự liên kết chặt chẽ giữa quyền lợi của đám người đánh chiếm thuộc địa và các hoạt động của các nhà truyền giáo, vì thế chúng ta cũng chỉ nêu lên trường hợp của xứ Tích lan làm thí dụ điển hình. Tại đây người Bồ-đào-nha bắt buộc tất cả dân chúng ven biển trong vùng chiếm đóng của họ phải theo Thiên chúa giáo. Sau đó kể từ năm 1636 người Hòa-lan lại tiếp tục công trình cải đạo do người Bồ-đào-nha để lại và áp dụng cùng một chính sách từ trước, bắt buộc dân chúng phải theo Tin lành giáo, đồng thời đàn áp người Phật giáo, Ấn giáo và cả Thiên chúa giáo. Một số người Thiên chúa giáo phải bỏ trốn vào các vùng trung tâm của đảo thuộc vương quốc Kandy, vì nhà vua của vương quốc này là một người Phật giáo chủ trương tự do tôn giáo đúng với giáo lý Phật giáo từ ngàn xưa. Sau này khi người Hòa-lan ban bố tự do tôn giáo cho dân chúng của họ vào cuối thế kỷ XVIII, một phần lớn người dân trên đất Tích-lan cũng nhân cơ hội này để quay về với Phật giáo và Ấn giáo là các tôn giáo của tổ tiên họ.
Vào thế kỷ XIX người Pháp và người Anh chiếm cứ toàn bộ các vùng phía nam Á châu và hầu hết các quốc gia Đông nam Á, chỉ trừ vương quốc Siam (trở thành Thái-lan). Những người đô hộ không trực tiếp xen vào các vấn đề tôn giáo trong các vùng lãnh thổ mà họ chiếm đóng. Thế nhưng trong giai đoạn đầu của phong trào đánh chiếm thuộc địa, người Anh sử dụng chính sách ưu đãi những người cải đạo theo Thiên chúa giáo bằng cách ban cho họ một loạt đặc quyền ... Do đó sinh ra trong xã hội một giai cấp "ưu tú" chạy theo các giá trị và phong cách sống của những người đô hộ mới.
Sự vực dậy của Phật giáo trong giai đoạn thứ nhất
Mặc dù các biện pháp khuyến dụ cải đạo trên đây được áp dụng, số người Phật giáo theo Thiên chúa giáo thật hiếm hoi. Vào cuối thế kỷ XIX, xu hướng chạy theo các giá trị truyền thống Tây phương mất hết ảnh hưởng và một làn sóng mới quay về với văn hóa dân tộc bắt đầu phát sinh trong giới học thức và trưởng giả, các phong trào dành lại chủ quyền quốc gia theo đó cũng được hình thành. Nước Tích-lan giữ vai trò quan trọng nhất trong phong trào trên đây. Tại quốc gia này Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại bất chấp những đợt tấn công tôn giáo ào ạt của người đô hộ Tây phương. Bắt đầu từ năm 1865, nhiều cuộc tranh luận được tổ chức giữa các nhà sư Phật giáo và các cố đạo Thiên chúa giáo nhằm mục đích so sánh giá trị của hai tôn giáo. Một tập sách tựa đề là "Cuộc tranh luận lớn tại Panadura" [một thị trấn phía nam Colombo] được phát hành năm 1873 ghi lại nội dung cuộc tranh luận giữa nhà sư Mohottivatte Gunananda Thera đại diện cho Phật giáo và các mục sư David de Silva và F. Sirimanne đại diện cho Thiên chúa giáo được xuất bản, đánh dấu một khúc quanh giữa Phật giáo Thiên chúa giáo tại Tích-lan. Ngay trong năm đó tập sách được dịch ra tiếng Anh và được một người Mỹ là ông J.M. Peebles tại Battle Creek thuộc tiểu bang Michigan phát hành. Quyển sách gây được sự chú ý của đại tá Henry Steel Olcott (1832-1907) người đã hợp tác với bà Blavatski (tên bà khi còn con gái là Hélèna Petrovna Hahn von Rottenstern, 1831-1891) thành lập hội Thông thiên học. Thông thiên học khác với Phật giáo trên rất nhiều điểm, thế nhưng nhờ uy tín rất lớn của hai vị sáng lập nên hội Thông thiên lôi cuốn được nhiều người Mỹ và Âu châu, một loạt sách do Thông thiên học phát hành sau khi thành lập mang tựa đề "Phật giáo thần bí" cũng đã góp phần không nhỏ vào sự thu hút đó.
Bà Héléna Petrovna và đại tá Henry Steel Olcott
sáng lập viên hội "Thông thiên học". Chính ông Olcott là người sáng tạo
ra lá cờ Phật giáo ngày nay và được các tập thể Phật giáo trên toàn thế giới sử dụng
Bà Blavatski và đại tá Olcott viếng thăm Tích-lan năm 1880 và chuyến du hành này đã đánh dấu giai đoạn hồi sinh của Phật giáo tân tiến trên hòn đảo này. Cuộc viếng thăm Tích lan của hai người Tây phương tiếng tăm, vốn ngưỡng mộ và có cảm tình với Phật giáo, đã mang lại sự phấn khởi cho người Phật giáo địa phương, vào một thời điểm mà Thiên chúa giáo gần như hùng cứ trên toàn thế giới. Olcott thiết lập Hội Thông thiên học tại Tích-lan với chủ đích bảo vệ Phật giáo và đồng thời ông mở các trường học phật giáo chuyên giảng dạy về giáo lý nhà Phật.
Trong thời kỳ phục hưng đầu tiên này của Phật giáo xuất hiện một số nhân vật đáng chú ý, chẳng hạn như David Hewavitarne (1864-1933) [người Tích-lan] được nhiều người biết đến dưới pháp danh Anaganka Dharmapala. Hewavitarne sinh trưởng trong một gia đình Phật giáo tại Tích-lan, theo học một trường trung học Tin lành Anglican. Vào thời bấy giờ không có trường Phật giáo cho cấp trung học vì áp lực của các cơ quan truyền bá Thiên chúa giáo, các cơ quan này xem những truyền thống lâu đời của Phật giáo như những thứ hỗn tạp và cuồng tín. Ít ra tình trạng này cũng xảy ra trong giai đoạn đầu của chế độ thuộc địa. Kinh nghiệm tuổi trẻ của cậu bé Hewavitarne lưu lại trong lòng cậu sự ghét cay ghét đắng bất cứ thể dạng nào của sự "man rợ thiên chúa giáo" ("barbarie chrétienne").
David Hewavitarne, thường được biết đến hơn dưới pháp danh Anagarika Dharmapala, người sáng lập Phật giáo "canh tân" tại Tích-lan, là sáng lập viên của Hội Maha-bodhi Society, và cũng là người hồi phục truyền thống tu tập "vipassana" dành cho người thế tục
Hewavitarne tìm gặp đại tá Olcott khi ông đến Tích-lan năm 1880. Năm 1889 Hewavitarne tháp tùng Olcott đi Nhật bản, cuộc viếng thăm này đánh dấu mối bang giao đầu tiên giữa Phật giáo Nhật bản và Phật giáo Tích-lan trong thời kỳ lịch sử cận đại. Khi Dharmapala [tức Hewavitarne] viếng Bồ-đề Đạo-tràng (Bodh-Gaya) vào năm 1891, ông rất đau lòng trước cảnh hoang tàn đổ nát của thánh tích thiêng liêng nhất của Phật giáo và quyết tâm vận động trùng tu di tích lịch sử này. Vào cùng năm đó Dharmapala thành lập "Hội Bodh-Gaya Mahabodhi" tại Colombo ; đấy là hội Phật giáo quốc tế đầu tiên được thành lập nhằm mục đích kết hợp người Phật giáo thuộc tất cả các quốc gia trên thế giới và biến Bồ-đề Đạo-tràng thành một biểu tượng sùng kính và thiêng liêng. Năm 1892 Hội Maha Bodhi, tên gọi phổ biến của Hội Bodh-Gaya Mahabodhi, thiết lập trụ sở trung ương tại Calcutta [Ấn độ] giúp đỡ người Ấn quay về với Phật giáo.
Thánh tích Maha-bodhi (Đại Giác ngộ) tại Bồ-đề Đạo-tràng (Bodh-Gaya)
ảnh chụp trước khi trùng tu (vào năm 1870) và sau khi trùng tu
Sự hình thành của Phật giáo Tây phương
Trong hai mươi năm cuối cùng của thế kỷ XIX, Phật giáo trở thành một tôn giáo lớn mạnh tại nhiều quốc gia [Tây phương] mà trước đây không lâu Phật giáo trong các quốc gia ấy chỉ là một ngành nghiên cứu hoàn toàn mang tính cách sử học. Thật vậy một số tư tưởng gia độc lập [các triết gia không ngả theo một xu hướng tôn giáo hay phong trào nào của Âu châu] rất thán phục các giá trị tư tưởng Phật giáo. Sáng chói nhất phải nói là triết gia người Đức là Schopenhauer (1788-1860). Đối với Schopenhauer Phật giáo là tôn giáo tốt nhất vượt lên trên tất cả các tôn giáo khác, hơn hẳn đạo Bà-la-môn vốn chủ trương phân chia giai cấp trong xã hội và còn cao hơn nữa đối với Thiên chúa giáo chủ trương các tư tưởng ngụy biện (idées fallacieuses) về một vị Trời và các giới luật đạo đức quá tồi tệ bất kể đến loài súc vật. Schopenhauer cho rằng triết học của ông phù hợp với giáo lý của Đức Phật. Mặc dù sự hiểu biết của Schopenhauer được căn cứ vào các nguồn tư liệu Phật giáo thiếu sót và không được chính xác của tiền bán thế kỷ XIX, thế nhưng tư tưởng triết học của ông và Phật giáo mang nhiều khía cạnh tương tợ nhau. Khi nghiên cứu sâu xa triết học của Schopenhauer người ta có cảm giác như đấy là một thứ giáo lý Phật giáo nhưng còn mang nhiều khiếm khuyết. Kể từ cuối thế kỷ XIX triết học của Schopenhauer được đại chúng ưa chuộng. Sự ngưỡng mộ của ông đối với Phật giáo góp phần không nhỏ vào sự quảng bá các tư tưởng Phật giáo do ông chủ xướng, ông cho rằng Phật giáo không phải chỉ là một chủ đề nghiên cứu suông mà còn là một cách sống và suy tư mà con người có thể tìm thấy chính mình trong đó.
Arthur Schopenhauer và Edwin Arnold
Tại Anh quốc, Edwin Arnold (1832-1904) xuất bản vào năm 1879 một tập thơ mang tựa đề "La Lumière de l'Asie, ou la grande renonciation : la vie et la pensée de Gautama, prince de l'Inde et fondateur du Bouddhisme, telle qu'elle est racontée en vers par un bouddhiste indien" ("Ánh sáng của Á châu hay sự từ bỏ thế tục trọng đại : cuộc đời và tư tưởng của vị Cồ-đàm, một hoàng thân Ấn độ sáng lập ra Phật giáo, theo những lời tường thuật bằng thi ca của một người Phật giáo Ấn độ"). Đại tá Olcott thì cho xuất bản quyển "Le cathéchisme bouddhique selon le canon de l'Église du Sud" ("Giáo lý Phật giáo theo kinh sách của trường phái phương Nam") tại Colombo vào năm 1881. Quyển sách này sau đó được xuất bản lần đầu ở Mỹ tại Boston vào năm 1885. Ba năm sau một tác giả người Đức tên là Friedrich Zimmermann xuất bản một quyển sách dưới bút hiệu Subhadra Bhikshu tựa là : "Cathéchisme bouddhique : introduction à l'enseignement du Bouddha Gautama" ("Giáo lý Phật giáo : tìm hiểu giáo huấn của Đức Phật Cồ-đàm"), ngay sau đó quyển sách được dịch ra mười thứ tiếng khác nhau. Tác giả cho biết là ông cố gắng trình bày Phật giáo đúng theo giáo lý chính thống của Đức Phật bằng cách loại bỏ các thêm thắt do các nhà tu uyên bác sau này ghép thêm vào trong mục đích thổi phồng những lời giảng dạy của Đức Phật, đồng thời ông cũng loại bỏ những chuyện mê tín và tưởng tượng của đại chúng làm rườm rà thêm những lời giáo huấn của Đức Phật. Tóm lại sự hiểu biết về Phật giáo của những người Tây phương đầu tiên được căn cứ vào kinh sách Pa-li đúng theo Phật giáo Nguyên thủy (Theravada).
Các kết quả nghiên cứu khoa học vượt bực do các chuyên gia về Phật giáo thực hiện trong khoảng hai mươi lăm năm sau cùng của thế kỷ XIX đã góp phần tích cực vào việc đánh giá lại các nguồn tư liệu xưa của Phật giáo. Các cuộc nghiên cứu sâu rộng đầu tiên được một nhà bác học người Pháp là Eugène Burnouf (1801-1852) thực hiện và quyển sách nổi tiếng nhất của ông là "Introduction à l'histoire du Bouddhisme indien" ("Tìm hiểu lịch sử Phật giáo Ấn độ") phát hành vào năm 1844. Hầu hết các công cuộc nghiên cứu Burnouf được căn cứ vào kinh sách tiếng Phạn của Đại thừa và đồng thời ông cũng dịch bộ kinh "Saddhadharmapundarika" tức là "Kinh Hoa sen" [Diệu pháp liên hoa kinh] vào năm 1852. Tuy nhiên các học giả Tây phương suy ra được lịch sử chính thống của Đức Phật và giáo lý của Ngài là nhờ vào các công cuộc tra cứu toàn bộ hệ thống kinh điển Pa-li. Hai học giả góp phần lớn nhất vào các công cuộc nghiên cứu trên đây là một người Anh Thomas Williams Rhys Davids (1843-1922) và một người Đức Hermann Oldenberg (1854-1920).
Từ trái sang phải : Eugene Burnouf, Thomas Williams Rhys Davids và Hermann Oldenberg
Hai quyển sách "Buddhism, Being and Sketch of the Life and Teaching of Gautama, the Buddha" (Phật giáo: Con người, Tiểu sử và Giáo lý của Đức Phật Cồ-đàm") (1877) của Rhys Davids và "Buddha : Sein Leben, Seine Lehre, Seine Gemeinde" ("Đức Phật : Cuộc đời, Giáo lý và Tăng đoàn của Ngài") (1881) của Oldenberg đánh dấu thời kỳ nghiên cứu đầu tiên của Phật giáo tân tiến. Oldenberg đồng thời cũng điều khiển một ban dịch thuật và xuất bản toàn bộ Luật tạng (Vinaya Pitaka) gồm năm quyển (1879-1883). Công trình nghiên cứu và dịch thuật của ông đã góp phần không nhỏ vào việc nghiên cứu Phật giáo xưa dựa vào các nguồn tư liệu vẫn còn được xem là căn bản và giá trị nhất cho đến nay. Năm 1881 Rhys Davids thành lập Hội kinh điển Pa-li ("Pali Text Society") tại Anh quốc với mục đích dịch thuật và phát hành các kinh điển Pa-li và các tập sách bình giải của học phái Phật giáo Nguyên thủy (Theravada). Trong khoảng thời gian hoạt động đầu tiên kéo dài suốt ba mươi năm, hiệp hội này nhờ sự cộng tác thêm của nhiều học giả từ các nước khác đã xuất bản được nhiều tập kinh quan trọng thuộc kinh điển Pa-li.
Vào khoảng năm 1990 trở về sau này các người Phật giáo Tây phương thuần thành ngày càng đông đảo hơn và tỏ ra rất tích cực. Người Phật giáo đầu tiên gia nhập Tăng đoàn là một người Anh tên Allan Bennett McGregor (1872-1923). Trước đó ông tham gia một nhóm chủ trương sự huyền bí (occultisme - occultism) thế nhưng sau đó từ bỏ và sang Tích-lan tu học. Năm 1902 ông được thụ phong tỳ kheo tại Akyab Miến điện, pháp danh là Ananda Metteyya. Hai năm sau tại Rangoon [thủ đô Miến điện] Anton Gueh (1878-1957) một danh tài vĩ cầm người Đức cũng gia nhập Tăng đoàn với pháp danh Nyanatiloka, ông là người Âu châu thứ hai xuất gia. Ông rất uyên thâm về Phật pháp lại tu tập rất chuyên cần do đó ông được nhiều người trên thế giới biết đến. Ông trải qua phần lớn cuộc đời còn lại tại Tích-lan. Vào năm 1911 ông được cử làm trụ trì một ngôi chùa trên đảo Polgasduwa gần Dodanduwa [thuộc vùng bờ biển phía nam của Tích-lan]. Nhiều người Âu châu kéo nhau đến Tích-lan xin quy y với ông, trong số các đệ tử của ông có một người lừng danh nhất pháp danh là Nyanaponika, là một nhà bác học Phật giáo vẫn còn sống và vô cùng tích cực [thật ra thì Nyanaponika đã mất vào năm 1994, tức hai năm trước khi quyển sách của Heinz Bechert được xuất bản].
Bên trái : Allan Bennett Mcgregor (pháp danh Ananda Matayya)
Bên phải : Anton Gueth (pháp danh Nyanatiloka)
Bắt đầu từ năm 1897, Anagarika Dharmapala thành lập các tổ chức Phật giáo đầu tiên tại Âu châu, đấy là các chi nhánh của hội Maha Bodhi Society. Sau đó ông lên đường sang Mỹ theo lời mời của một người Phật giáo Hoa-kỳ là Paul Carus. Năm 1903, Karl Seidenstüker một học giả có tiếng nghiên cứu kinh sách Pa-li đứng ra thành lập tại Leipzig hiệp hội Phật giáo đầu tiên tại nước Đức, mang tên là "Buddhistischer Missionsverein für Deutschland" ("Hiệp hội các tu sĩ Phật giáo Đức quốc"). Cùng năm đó, một vị tỳ kheo người Anh là Ananda Mettayya đã nhắc đến trên đây, thành lập một hội Phật giáo quốc tế lấy tên là "Buddhasasana Samagama" tại Rangoon, chi nhánh của hội này mọc ra khắp nơi trong nhiều quốc gia khác. Hội Phật giáo đầu tiên của Anh quốc mang tên là "Hội Phật giáo Anh quốc và Ái-nhĩ-lan", được thành lập tại Luân đôn vào năm 1907 và người chủ tịch đầu tiên là T.W. Rhys Davids, hội tồn tại đến năm 1926. Phần lớn các hiệp hội Phật giáo Âu châu không tồn tại lâu dài vì thế các nhóm Phật giáo rải rác còn cần phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa.
Phật giáo tân tiến ngày nay
Như chúng ta thấy trên đây có một sự liên hệ chặt chẽ nào đó giữa sự hồi sinh của Phật giáo Đông phương và các đợt du nhập của Phật giáo vào Tây phương. Sự liên hệ đó không phải chỉ mang tính cách tổ chức mà đúng hơn tượng trưng cho một khuynh hướng diễn đạt mới của Phật giáo dưới hình thức một hệ thống tư tưởng có thể gọi là "Phật giáo canh tân" ("Modernisme Boudhisme"). Phật giáo Á châu vào đầu thế kỷ XIX cho thấy vô số hình thức khác nhau cả về tư tưởng lẫn phương pháp tu tập, qua những hình thức đó Phật giáo pha lẫn với các truyền thống lâu đời và các ảnh hưởng văn hóa địa phương. Dựa vào các kết quả khảo cứu thực hiện trong suốt thế kỷ XIX căn cứ vào các tư liệu xưa nhất, các học giả đã biên soạn lại phần giáo lý có thể xem là chính thống nhất của Đức Phật. Các học giả và các người Phật tử tân tiến phát hiện lại Phật giáo "chính thống" dưới thể dạng của một hệ thống tư tưởng triết học, hệ thống đó hướng vào một mục đích duy nhất là giúp loại bỏ khổ đau và giải thoát con người ra khỏi chu kỳ tái sinh. Các truyền thống lâu đời, các phép mầu và tất cả các chuyện khác mà các tư tưởng gia hiện đại không thể chấp nhận được đều phải xem là các thứ thêm thắt hoặc là các khía cạnh thoái hóa của Phật giáo trên suốt dòng lịch sử tiến hoá.
Phật giáo nhờ thế mà đã trở thành một phương thức suy tư mang tính cách duy lý. Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập và thiền định để kiểm chứng hiện thực. Do đó các người Phật giáo tân tiến định nghĩa Phật giáo như "tôn giáo của lý trí" với hậu ý chống lại các tôn giáo khác chủ trương sự tin tưởng mù quáng vào các giáo điều (religions de la croyance aveugle en des dogmes) như Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Do thái giáo. Các người Phật giáo tân tiến chỉ trích các khái niệm về Trời và linh hồn do các tôn giáo Tây phương quảng bá và cho rằng đấy là những gì không phù hợp với lý trí và cách nhìn thực tế về thế giới chung quanh.
Tôi chỉ xin kể ra đây ba trong số rất nhiều tác giả viết về chủ đề Phật giáo tân tiến : Anagarika Dharmapala một tác giả rất nổi tiếng đã viết nhiều tiểu luận sau đó được gom lại và xuất bản vào năm 1965 dưới tựa đề "Return to Righteousness" ("Quay về với Đạo đức") ; học giả Nhật bản Hajime Nakamura trong quyển "The ways of Thinking of Eastern Peoples" ("Cách suy nghĩ của người Đông phương") (Honolulu, 1964) giải thích thật cao siêu các tư tưởng Phật giáo, cách giải thích của ông rất phù hợp với thời đại ngày nay và đã chinh phục được uy tín trên toàn thế giới ; và triết gia K.M. Jayatilleke (1920-1970) của đại học Paradeniya của Tích-lan là một trong những người giải thích triết học Phật giáo xưa mạch lạc nhất dựa vào cách tiếp cận của triết học hiện đại.
Sự canh tân Phật giáo dù sao cũng không phải là một phong trào thuần nhất. Không có gì hoàn toàn, một số yếu tố cổ truyền vẫn còn tồn tại trong một vài đường hướng canh tân của Phật giáo. Hơn nữa sự canh tân Phật giáo tại một số quốc gia Nam Á châu như Tích-lan và nhất là Miến điện ngay từ giai đoạn khởi đầu đã gắn liền với các vấn đề chính trị và xã hội. Cải cách xã hội do đó cũng là một trong các mục tiêu của Phật giáo canh tân tại các nước trên đây. Anagarika Dharmapala qua các bài viết đầu tiên của ông và một số các nhà lãnh đạo Phật giáo khác tại Á châu đã thổi phồng quá đáng trong mục đích khẳng định Phật giáo như là một tôn giáo dân tộc với hậu ý giúp Phật giáo tìm lại "vị trí của nó" trong cộng đồng quốc gia và xã hội. Họ chứng minh cho thấy để cai trị thuộc địa thực dân tìm đủ mọi cách hủy diệt Phật giáo, và nổ lực phục hưng tôn giáo của họ là một cách tham gia tích cực vào công cuộc tranh đấu dành lại nền độc lập cho xứ sở.
Tại Tích-lan "Phật giáo dân tộc" cho thấy một lịch sử lâu dài. Sự liên hệ chặt chẽ giữa Phật giáo và người Cingalais [dân tộc chính tại Tích-lan] từng được báo chí ca ngợi, nhất là tờ "Mahavamsa" nêu lên câu chuyện lịch sử nổi tiếng về người "anh hùng Dutthagamani", ông là vị vua đã giải phóng hòn đảo Tích-lan khỏi sự đô hộ ngoại bang (của người tamil) vào thế kỷ thứ II sau Tây lịch. Tờ báo nêu lên vai trò bảo vệ Phật giáo của người Cingalais và nhắc lại bổn phận của Tăng đoàn phải bảo toàn "tôn giáo dân tộc" vì đó là gia tài văn hóa của người dân Cingalais.
Tại Miến điện, người dân cũng tự đồng hóa mình với Phật giáo, sức đồng hóa đó cũng mạnh mẽ không kém người Tích-lan. Tuy nhiên trong cả hai quốc gia này vẫn có một số khác biệt giữa hai nhóm Phật giáo canh tân và Phật giáo bảo thủ, các khác biệt này có thể nhận thấy qua các cuộc tranh luận chính trị thúc đẩy bởi các xu hướng cải cách Tăng đoàn bằng phương tiện lập pháp.
Dầu sao đi nữa Tăng đoàn Phật giáo cũng giữ một vai trò chủ yếu trong việc bảo vệ sự vẹn toàn quốc gia tại Tích-lan và Đông nam Á. Qua nhiều thế kỷ các vị tỳ kheo giữ vai trò trung gian trong sự giao tiếp giữa các tập thể dân chúng, nhất là trong các làng mạc. Mối liên hệ giữa tập thể người xuất gia và dân chúng trong các làng mạc vẫn còn nắm vai trò chủ yếu trong đời sống thôn quê tại các nước Phật giáo. Đối với dân chúng thành thị hay bán-thành- thị xuất hiện vào thời kỳ thuộc địa hay sau thuộc địa, Phật giáo là biểu tượng của tinh thần dân tộc đương đầu với sự thống trị và sự xâm nhập của văn hóa ngoại bang. Các tác giả viết về Phật giáo canh tân ca tụng hình ảnh lý tưởng của cuộc sống trước kia trong các vương quốc tiền thuộc địa, giai cấp trung lưu mới trong xã hội rất thích các loại bài viết này. Sự vững tin trong lòng họ phát lộ ra ngoài bằng những biểu hiện dưới những hình thức mới mẻ, chẳng hạn như những pho tượng Phật khổng lồ được dựng lên khắp nơi, từ các ngã tư đường đến các đỉnh đồi hoặc các nơi quan trọng. Gananath Obeyesekere có nói đến các biểu tượng đặc biệt này và gọi đấy là "Đức Phật ở các nơi họp chợ".
"Canh tân " về Thiền định
Trong số các khía cạnh đổi mới của Phật giáo canh tân có thể nêu lên việc cải tiến và truyền bá các kỹ thuật thiền định. Cách tu tập thiền định được lưu truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác không gián đoạn. Thế nhưng theo truyền thống, việc tu tập thiền định không hề được đem ra quảng bá rộng rãi trong dân chúng, người thầy chỉ trực tiếp truyền dạy thiền định cho một số đệ tử được chọn lựa cẩn thận. Các tu viện giảng dạy thiền khá giới hạn trong quá khứ và ngay cả tại Tích-lan truyền thống tu tập thiền định cổ truyền đã biến mất vào giữa thế kỷ XIX.
Vào khoảng 1890, Anagarika Dharmapala đã tìm thấy trong một ngôi chùa ở Bambaragala [một vùng thôn quê thuộc miền đông của đảo Tích-lan] một bản chép tay từ một quyển sách giáo khoa trước tác bằng ngôn ngữ Cingalais chỉ dạy về thiền ; bản chép tay này về sau được hội "Pali Text Society" ấn hành dưới tựa đề "The Yogavachara's Manual" ("Tập sách dẫn giải về Thiền định"), tập sách được dịch sang tiếng Anh với tựa đề "The Manual of a Mystic". Sau khi nghiên cứu tập sách này Dharmapala quyết định quảng bá phương pháp tu tập này. Tại Miến điện cũng vào cùng thời kỳ trên đây một vị thera [người tỳ kheo lão thành và uyên bác nhất trong Tăng đoàn] là Narada sau khi nghiên cứu các kinh sách xưa quyết định làm sống lại truyền thống tu tập satipatthara [sự chú tâm]. Ông sáng lập ra học phái thiền chú tâm satipatthara của Miến điện, học phái này vẫn tồn tại cho đến nay. Nhà sư danh tiếng Mahasi Sayadaw [một vị đại sư lừng danh của Miến điện, 1904-1982] cũng tu tập theo phép thiền định này. Trên đây là các phương pháp tu tập thiền định không mấy chính thống lắm đã được các người Phật giáo canh tân thiết lập. Tu tập thiền định cũng được quảng bá bằng nhiều phương tiện trước đây chưa hề có, chẳng hạn như các trung tâm thiền định được thành lập dành cho những người thế tục, tại các nơi này họ có thể theo học các khóa thực hành thiền định mà trước đây chỉ dành riêng cho người xuất gia đã thụ phong và đã được chọn lựa cẩn thận.
Bên cạnh tỳ-kheo Mahasi Sayadaw (bên trái) là cư sĩ U Ba Khin (bên phải),
người rất tích cực trong việc quảng bá thiền "vipassana" tại Miến điện
và trên toàn thế giới (nhờ vào người đệ tử của ông là Goenka)
Hình thức tu tập thiền định dành cho người thế tục không phải là chủ trương riêng của các trung tâm hành thiền mới được thành lập, vì các vị thầy được huấn luyện theo các phương pháp cổ truyền cũng đứng ra giảng dạy cho người thế tục. Trong giai đoạn đầu phong trào canh tân Phật giáo còn mang nặng khía cạnh tâm linh và triết học, thế nhưng càng về sau phong trào này càng nghiêng nhiều hơn vào việc tu tập thiền định.
Nếu không có sự góp phần trên phương diện tâm linh và triết học của Phật giáo canh tân nhất định là sự hồi sinh của Phật giáo Á đông và cả sự truyền bá Phật giáo vào thế giới Tây phương cũng không thể xảy ra được. Sự bành trướng và cải tiến của giới xuất gia nơi chùa chiền thúc đẩy bởi sự canh tân của Phật giáo đã động viên hàng loạt tăng đoàn trong công tác quảng bá các lý tưởng Phật giáo trong quảng đại quần chúng trong khắp các nước Phật giáo Á châu.
Vài lời góp y của người dịch
Người dịch xin được góp một vài thiển ý như sau :
1- Bài viết mang tựa đề là Phật giáo trong thế giới tân tiến ngày nay, nhưng thật ra nội dung lại hướng nhiều hơn về lịch sử. Xin nêu lên một thí dụ, hiện nay số người theo Phật giáo trên đất Pháp là một triệu người, đây là con số chính thức đã được Bộ Nội Vụ của chính phủ Pháp công nhận. Theo các hội đoàn Phật giáo thì con số này ít nhất cũng phải là hai triệu. Trong số đó khoảng 2/3 theo Phật giáo Tây tạng, số còn lại hầu hết tu tập theo Thiền học, số người theo Phật giáo Nguyên thủy tương đối ít. Thế nhưng Heinz Bechert không đề cập gì nhiều đến Phật giáo Đại thừa và chỉ nói đến Phật giáo Nguyên thủy, vì thế bài viết của ông không "cập nhật hóa" lắm với thế giới tân tiến ngày nay theo như tựa của bài viết.
2- Bài viết nêu lên sự "đổi mới" trong Phật giáo từ Đông sang Tây, theo Heinz Bechert đó là một hình thức "Phật giáo canh tân". Đây là một cách nhìn hoàn toàn Tây phương. Dưới con mắt của một người Phật giáo không có gì đổi mới hay tân tiến, không có gì thụt lùi hay bảo thủ, tất cả các hiện tượng lôi kéo nhau mà biến động, tùy thuộc vào cơ duyên và sự vận hành của hiện tượng tương liên, thuận theo quy luật của nhân quả.
Thời gian đối với Phật giáo không phải là một đường thẳng "đơn chiều" mà lại mang tính cách "chu kỳ". Vì thế khi nói đến canh tân, đổi mới, hiện đại, tân tiến..., theo Phật giáo đấy chỉ là các cách diễn đạt quy ước và nhị nguyên. Thí dụ sự tái sinh đối với Phật giáo không phải là một hình thức "đổi mới" hay "canh tân" mà đấy chỉ là một cách "quay về" với các hành động mà chính mình thực thi trước đây.
3- Bài viết nêu lên vai trò của Phật giáo trong bối cảnh lịch sử khá đặc biệt của thế kỷ XIX tại Á châu, đó là cao trào đánh chiếm thuộc địa của các nước Tây phương Thiên chúa giáo. Sự bùng dậy của Phật giáo là một hình thức phản ứng hay tự vệ, không hẳn là một sự canh tân theo cách nhìn của Heinz Bechert. Trong khi đó trên quê hương của những người đánh chiếm thuộc địa, người dân khám phá ra Phật giáo như là một thứ gì bổ khuyết cho những đòi hỏi của họ trên phương diện tâm linh, lý do là một số người Tây phương không thể chấp nhận được những sự phi lý trong các tín ngưỡng lâu đời của họ.
Trong thế kỷ XIX hai sự kiện sau đây xảy ra gần như cùng lúc với nhau : sự "cải tiến" của Phật giáo Á châu và sự "thâm nhập" của Phật giáo vào thế giới Tây phương. Heinz Bechert liên kết hai sự kiện đó với nhau và đánh giá Phật giáo như một thứ "dụng cụ" hay "khí giới" chống lại ngoại xâm dưới cả hai hình thức vũ lực và tôn giáo, và người Tây phương cũng sử dụng "khí giới" đó hay "dụng cụ" đó để chống lại những giáo điều trong các tín ngưỡng lâu đời của họ. Thật ra đấy cũng chỉ là một cách nhìn hay một cách diễn đạt mà thôi, không phải là một cách mô tả hiện thực, ít nhất là theo tinh thần Phật giáo. Phật giáo hướng vào sự biến cải bên trong của mỗi con người, không chống lại bất cứ một sức mạnh nào bên ngoài. Tóm lại cách nhìn hay cách giải thích các hiện tượng như trên đây của Heinz Bechert mang tính cách Tây phương nhiều hơn là Phật giáo.
Dầu sao cũng phải công nhận Heinz Bechert đã nhấn mạnh đến vai trò và sức mạnh của Phật giáo trong bối cảnh đánh chiếm thuộc địa trong thế kỷ XIX. Sức mạnh đó đã giúp cho một số quốc gia Á châu nhanh chóng dành lại được nền độc lập và bảo tồn được tín ngưỡng và văn hóa của mình, không cần đến vũ lực và những thứ chủ thuyết ngoại lai không tưởng khác.
4- Dầu sao tầm nhìn của Heinz Bechert cũng vô cùng bao quát, xuyên qua thời gian và không gian, chính xác từng chi tiết, đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và nhìn vào đấy như một đề tài suy tư về Phật giáo nói chung và về bối cảnh cũng như quá trình lịch sử của quê hương chúng ta trong thời kỳ cận đại.
Bures-Sur-Yvette, 08.12.10
Hoang Phong chuyển ngữ