Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
THƯ MỤC TÁC GIẢ

Chương 1

13 Tháng Bảy 201610:11 CH(Xem: 2817)
Chương 1

Phần 1

 

 Hán Minh Đế đêm mộng thần nhân
Lưỡng Hồ Tăng ngày dong ngựa trắng

 

Đây là một phần truyền thuyết Phật giáo du nhập vào Trung Quốc. Năm 76 sau công nguyên đúng vào thời kỳ trị vì của Đông Hán Minh Đế. Một đêm, Hán Minh Đế mơ thấy một vị thần cao hai trượng, toàn thân phủ một lớp vàng lóng lánh, trên đầu đội một vòng vàng lấp lánh, người mềm mại yểu điệu thướt tha. Ngài bay đến trước đại diện trong Vương Cung. Thấy vị thần này, Hán Minh Đế vô cùng vui vể. Lập tức ngài tỉnh dậy, ngài cảm thấy ngơ ngác và tiếc rẻ mãi. Ngày hôm sau ngài lại mơ thấy vị thần này, lập tức ngài đi hỏi quần thần:” vị thần này sống ở phương trời nào?”lúc đó có một vị tên là Sát Âm, là một người học sâu hiểu biết rộng, ông ta liền trả lời rằng :” con nghe nói ở nước Thiên Trúc phương Tây (Tức Ấn Độ cổ đại) có một vị đắc đạo, được mọi người tôn xưng là Phật, ngài có thể bay một cách nhẹ nhàng. Người mà bệ hạ mơ thấy chính là vị thần này”. Sau khi nghe nói vậy, Hán Minh Đế liền như mở cờ trong bụng, trí tuệ như được mở mang thêm. Lập tức ngài sai một sứ giả tên là Trương Khiên cùng quan Vũ Lâm trung lang tướng đem 12 người gồm Tần Cảnh cùng tiến sĩ đệ tử Vương Tôn đến ngay Tây Phương cầu Phật pháp. Tuyên truyền rằng trên chặng đường đi Tây Phương, đoàn người này đã đi qua 36 nước đến được Đại Nguyệt Thị (ngày nay nằm trong vùng lưu vực sông A –Ma ở vùng Trung Á) và gặp hai vị Tăng sĩ người Tây phương ở đó, một người tên là Ca Diếp Ma Đằng, một người tên là Trúc Pháp Lan. Sứ giả Trương Khiên cùng những người cùng đi mời hai vị Tăng sĩ này ở lại cùng với họ chép một số kinh  Phật, sau đó con ngựa trắng thồ họ cùng nhau trở về đất Hán.

Sau khi cùng sử giả Trương Khiên và những người cùng đi trở về nước Hán, hai tăng sĩ người Hồ (ý chỉ những người sống ở phía Tây Trung Quốc) được Hán Minh Đế đón tiếp rất nồng hậu. Theo sự chỉ dẫn của hai tăng sĩ người Hồ, Hán Minh Đế ra lệnh cho các Hoạ sĩ trong cung vẽ ngay bức hoạ của Thích Ca Mâu Ni. Bức tranh tượng vẽ giống hệt vị thần mà Hán Minh Đế đã mơ thấy, không khác một chút nào. Thế là Hán Minh Đế đã gia lệnh cho các hoạ sĩ trong cung vẽ thêm nhiều bức tranh tượng đó nữa, treo ở khắp các cung điện để thuận tiện cho việc thờ cúng. Sau đó Hán Minh Đế lại yêu cầu hai Tăng sĩ người Hồ tên là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dịch những cuốn kinh mà họ đã mang về ra tiếng Hán. Để tạo thuận lợi cho việc dịch kinh, Hán Minh Đế cho cất lên một ngôi chùa thờ Phật ở ngoại thành Tây Ung Môn ở vùng Lạc Dương, mời hai tăng sĩ người Hồ về đó tu hành, chuyên môn dịch kinh. Do bộ kinh đó được con ngựa trắng chuyên trở về, do đó người ta đặt tên ngôi chùa hai vị tăng tu hành người Hồ tu hành là Bạch Mã.

Ngài Ca Diếp Ma Đằng và ngài Trúc Pháp Lan đều là người miền trung Ấn Độ, trước khi hai vị đến Trung Quốc, Phật giáo ở Ấn Độ đã chia thành hai môn phái đại thừa và tiểu thừa. Cái gọi là “ thừa: ở đây có nghĩa là “ cỗ xe chuyên trở”. Phật giáo cho rằng con người đang sống trong biển khổ nên cần có một công cụ chuyên chở mới vượt qua được biển khổ này, tìm đến sự giải thoát. Đại thừa hay tiểu thừa chỉ là cách nói mang tính chất hình tượng, Đại thừa có ý nghĩa là cỗ xe chuyên chở lớn, Tiểu thừa có ý nghĩa là chuyến xe chuyên chở nhỏ. Phật giáo đại thừa là một môn phái mà Phật giáo ở Ấn Độ đã phát triển tới mức nào đó rồi nó mới xuất hiện. Để phân biệt Phật giáo phát triển với Phật giáo nguyên thuỷ, họ gọi Phật giáo phát triển là Đại Thừa, gọi Phật giáo truyền thống ( nguyên thuỷ) là Tiểu Thừa. Ngoài sự bất đồng giữa cách đánh giá về Thích Ca Mâu Ni và một số lý giải về các giáo nghĩa cơ bản của Phật giáo ra thì sự khác biệt chủ yếu của Phật giáo Đại thừa và Phật giáo tiểu thừa là sự khác nhau về phương pháp tu hành truyền thống của tôn giáo cổ điển ở Ấn Độ, tức là coi trọng sự tu hành của chính bản thân mình, còn Phật giáo Đại thừa về mặt tu hành thì lại coi trọng trí tuệ phát ra của người tu hành ( Phật giáo gọi trí tuệ là Bát Nhã), chủ chương đồng thời coi việc tu hành của cá nhân con người và sự toả sáng của trí tuệ. Tiểu thừa cho rằng, con người chỉ có thể tự hoại thân, tự diệt trí tuệ để tự mình vượt qua biển khổ. Còn đại thừa lại yêu cầu phải dùng đại từ đại bi để phổ độ chúng sinh. Tiểu thừa cho rằng kết quả tu hành cao nhất của cá nhân con người không thể đạt được bậc mà đức Thích Ca Mâu Ni lúc đầu tu hành đã đạt được, tức là kết quả tu hành của con người không thể trở thành Phật, mà chỉ có thể tu hành để trở thành chân tâm của La Hán, tức là thấp hơn Phật hai bậc; nhưng Đại Thừa thì cho rằng, sự tu hành của cá nhân con người không chỉ trở thành La Hán, mà có thể trở thành một vị Bồ Tát tức là ở một bậc cao hơn La Hán, hoặc có thể tu lên một bậc cao hơn thế nữa, tức là tu thành Phật. Tương Truyền rằng ngài Ca Diếp Ma Đằng và ngài Trúc Pháp Lan đều thông hiểu kinh của Phật giáo tiểu thừa và Đại thừa, sau khi hai ngài đến Trung Hoa không được bao lâu, các ngài liền lập tức tụng kinh Phật đã dịch ra tiếng Hán, Ngài Ca Diếp Ma Đằng đã dịch ra” Tứ Thập Nhị Trương Kinh” ( bộ kinh 42 chương). Ngài Trúc Pháp Lan dịch ra 5 bộ kinh điển như “ Thập Địa Đoạn Kết”, “ Phật Bản Sinh”,” Pháp Hải Tạng”, “ Tứ Thập Nhị Chương”.

Trên lịch sử, không ít người, kể cả các Phật tử đều cho rằng vào một đêm nọ vua Minh Đế mơ thấy vị thần và sai người đến đó để cầu pháp, đó chính là điểm mở đầu của Phật giáo truyền vào Trung Quốc, Ngôi chùa Bạch Mã ở Lạc Dương là ngôi chùa thờ Phật đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan là hai vị tăng sĩ Tây phương đầu tiên đến Trung Hoa truyền pháp, Kinh Tứ Thập Nhị Chương là bộ kinh Phật bằng chữ Hán đầu tiên của Trung Quốc.

Trên thực tế vấn đề Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào thời gian nào thì trong lịch sử có rất nhiều truyền thuyết. Đời đường có một vị Hoà thượng tên là Đạo Tuyên đã xây dựng nên một truyền thuyết là: Hiên Viên Hoàng Đế đã từng đến nước Tư Hoa ở  Tây Phương, nước Hoa Tư chính là Thiên Trúc, khi được gặp Hoàng Đế thì lúc đó Phật giáo đã được du nhập vào Trung Quốc rồi. Thời Tây Tấn có một vị đạo sĩ tên là Vương Phù đã viết ra quyển “ Kinh Lão Tử hoá hồ”, nói rằng Lão Tử vào thời Chu Vương đã từng vượt qua sa mạc phía Tây vào đến Ấn Độ rồi hoá phép ra Thích Ca Mâu Ni, Thích Ca Mâu Ni chính là đệ tử của Lão Tử, chính nhờ Lão Tử hoá phép do đó Thích Ca Mâu Ni mới lập nên Đạo Phật. Đây chính là chuyện bịa đặt của Đạo giáo nhằm bôi nhọ Phật giáo; nhưng về sau mtj số Phật tử lại lấy đó làm tiền đề. Họ nêu rõ vì Lão Tử đã di chuyển sang phiá Tây vào thời Chu Vương, do đó thấy rõ Phật giáo ra đời vào thời nhà Chu , đồng thời trong thời gian đó Phật giáo cũng du nhập vào Trung Quốc. Về sau đó một số Phật Tử truy tìm tài liệu và chỉ rõ, thời khổng tử đã có Phật giáo, thời Tần Thuỷ Hoàng trị vì đã có những vị Tăng từ phương Tây đến Trung Hoa. Thời Lương Vũ Đế trị vì, Phật giáo cũng được truyền vào Trung Quốc...các truyền thuyết này đều không có căn cứ hoặc rất thiếu căn cứ. Do đó sự xuất hiện những chuyện ly kỳ cổ quái  của những chuyện hoàn toàn bịa đặt là do sự đấu tranh gay gắt của Đạo giáo và Phật giáo. Sau thời Nguỵ Tấn, cả hai bên đều đề cao chính mình, họ tìm cách làm nhục hoặc hạ thấp đối phương. Cả hai bên đã dựng lên những truyền thuyết nói rằng tôn giáo của mình ra đời trước. Trong đó Phật giáo  cũng muốn chứng tỏ mình du nhập vào Trung Quốc trước khi các đạo kia ra đời, nên tất cả đều muốn nói rằng đạo của mình từ sớm đã được sự tôn sùng của các Đế Vương.

“ Hán Minh Đế đêm mộng thần nhân” sau đó cử người đi cầu Pháp, từ đó Đạo Phật truyền vào Trung Quốc, điều này là một sự thật lịch sử nhưng chắc chắn cũng có một phần là hư cấu. Sau sự kiện “Hán Minh Đế đêm mộng thần nhân”, cử người đi cầu pháp, có một số tài liệu văn chương nói rằng , vị sứ giả tên là Trương Khiên, nhưng có một số tài liệu văn chương cũng nói rằng, vị sứ giả tên là Sát Âm; còn về hai vị Tăng sĩ người Tây Phương tên là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, có những tài liệu văn chương chỉ ghi có một tên ngài Ca Diếp Ma Đằng ( hoặc là Nhiếp Ma Đằng), có những tài liệu văn chương ghi cả hai người. Có tài liệu văn chương thì nói rằng ngài Ca Diếp Ma Đằng đến Trung Hoa trước, Ngài Trúc Pháp Lan đến sau, nhưng cũng có tài liệu văn chương nói rằng cả hai tăng sĩ người Tây phương này cùng quay trở về Hán triều với sứ giả...nếu như cắt bỏ thành phần hư cấu, chỉ xét chi tiết cơ bản nhất là “ Hán Minh Đế đêm mộng thần nhân”, thì đó là chi tiết có thể tin được, nó cho ta thấy Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào thời gian này ( tức vào thời kỳ Lưỡng Hán).

Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào thời kỳ Lưỡng Hán, có mối liên hệ mật thiết với Tây Hán Vũ Đế, mở ra con đường tơ lụa với Tây Vực. Vào thời kỳ đầu Tây hán, để hợp sức với lực lượng dân Đại Nguyệt Thị vốn đã có mối thù lâu đời với Hung Nô để chống Hung nô thì vào năm Kiện Nguyên thứ ba ( năm 138 trước Công Nguyên), Hán Vũ Đế liền cử Trương Khiên và một số người khác sang làm đại sứ ở Đại Nguyệt Thị. Trải qua hơn mười năm sống ở Đại Nguyệt Thị, sau khi trở về Hán Triều, Trương Khiên và những người đi cùng lại báo lại với Hán Vũ Đế tất cả những gì tai nghe mắt thấy ở các địa phương phía Tây, từ đó mở mang tầm mắt cho Hoàng Đế Hán thêm rất nhiều. Sau này trong quá trình đấu tranh với Hung Nô, Hán Vũ Đế lại một lần nữa cử Trương Khiên  và những người đi đến làm đại sứ tại miền Tây, từ đó đã thiết lập con đường giao lưu giữa Trung Quốc và miền Tây, sau này chính là con đường tơ lụa nổi tiếng thế giới. Con đường tơ lụa được mở ra, đúng lúc Ca Nhị Sắc Vương của đế quốc Quý Sương ở vùng Tây Bắc Ấn Độ đang cho hoằng pháp Phát triển Phật giáo. con đường tơ lụa được mở ra cũng là lúc mở ra mối giao lưu kinh tế và văn hoá giữa Trung Quốc và nước ngoài. Đúng trong quá trình giao lưu kinh tế giữa văn hoá Trung Quốc với nước ngoài, Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ vào các nước khác từ Tây Bắc; đồng thời dần dần vượt qua Tây Lĩnh ( Pa-mia ngày nay) rồi được du nhập vào vùng Tây Bắc Trung Quốc, sau đó dần dần được truyền bá khắp nội địa Trung Quốc.

Do con đường tơ lụa đã nối liền miền Tây với nội địa Trung Quốc và do có mối giao lưu qua lại giữa các tăng sĩ người miền Tây và người Hán trong nội địa của Trung Quốc được kéo dài liên tục cho đến thời kỳ Lưỡng Hán, nên trong các sách sử có liên quan, tức là vào thời kỳ Lưỡng Hán ở trong nội địa Trung Quốc cũng có những ghi chép về Phật giáo. Năm đầu thời Nguyên Thọ Ái Đế thời Tây Hán ( Năm thứ hai trước Công nguyên) hồi đó có đệ tử tiến sỹ Cảnh Lô trong quá trình giao lưu với người Hồ ở miền Tây, trong số những vị sứ giả của Đại Nguyệt Thị Vương đã có người dạy truyền miệng cho ông ta “ kinh Phù Đồ” ( phù đồ tức là phiên âm của Phật Đà. Phật Đà chính là Thích Ca Mâu Ni). Những năm đầu thời kỳ Đông Hán, trong số những người nắm quyền cao chức trọng của tập đoàn thống trị cũng có người đã biết đến Phật giáo, một số vị quý tộc của Hoàng Thất, cũng đã bắt đầu tin và tôn thờ Phật. Em cùng cha khác mẹ với Đông Hán Minh Đế là Sở Vương Lưu Anh đã song song thờ Phật với Hoàng Lão, đồng thời trong hoàng cung xây một ngôi chùa thờ Phật riêng. Thấy vậy Hán Minh Đế liền quở trách:” Sở Vương Lưu Anh đọc xong Từ của Hoàng Lão lại tôn sùng Phật giáo, thề cùng ăn chay với các vị thần trong ba tháng, cách làm này cần phải kiểm thảo, không nên tiếp tục như vậy nữa!” Điều này đã chứng tỏ là Đông Hán Minh Đế đêm mộng thần nhân, điều đó không phải là sự nhận thức về tâm lý một cách ngẫu nhiên, mà là sự phản ánh của hiện thực lịch sử rằng hồi đó Phật giáo đã bắt đầu lưu hành trong nội địa Trung Quốc.

Vào thời Đông Minh Hán Đế có một số danh từ được phiên âm chuyên môn theo Phật giáo đã được ghi vào trong sách sử. Ngoài từ “ Phù đồ” đã nêu ở trên ra, còn có các từ “ Y Bồ Tắc” ( tức Ưu Bà Tắc, chỉ các nam giới học Phật không xuất gia, tức các nam cư sĩ),” Tang môn” ( tức là Sa môn, chỉ nam giới xuất gia tu theo Phật, thông thường được gọi là các vị sư),” Tỳ kheo”( ý chỉ các sa môn)...Hồi đó các vị như Y Bồ Tắc, Tang Môn, Tỳ kheo, ngoài hai vị Tang sĩ người Hồ phía Tây như Ca Diếp Ma Đăng và Trúc Pháp Lan đã từng đến Trung Hoa thì số còn lại không ai là người Hán trong nội địa Trung Quốc, điều này cần phải xem xét lại. Hoặc ít nhất cũng phải nói rằng, họ hoàn toàn không phải là những người Hồ ở miền Tây.

“ Hán Minh Đế đêm mộng thần nhân” rồi cử người đi cầu pháp, về việc này sau được rất nhiều tư liệu lịch sử ghi chép lại. Càng những ghi chép về sau thì các tình tiết càng rõ ràng, và những người ghi chép về sau đưa ra những nhận định chủ quan của mình vào trong đó, việc đó khiến cho sự kiện lịch sử “ Hán Minh Đế Vĩnh Bình cầu pháp” càng ngày càng trở lên ly kì. Quãng giữa thời Bắc Nguỵ, một số Phật tử còn bịa đặt và viết lên quyển sách mang tên” Hán Pháp Bản Nội Truyền”. Bộ sách này có năm quyển, trong đó viết rất tỉ mỉ, chi tiết như: giấc mơ của Hán Minh Đế; cho người đi cầu pháp; tăng người Hồ đến Trung Hoa; sự va chạm giữa Thích Ca Giáo và Đạo Giáo, xây chùa để Hoằng pháp...trong đó họ đã ghi lại chi tiết sự kiện vào năm Vĩnh Bình thứ 14 ( năm công nguyên thứ 71) có năm vị Đạo sĩ tên tuổi lừng lẫy xin vào bái kiến Hán Minh Đế, xin được thi pháp thuật với các Sa môn Phật giáo. Sau khi được Minh Đế phê chuẩn, hai bên liền tiến hành một cuộc thi pháp thuật vô cùng tinh vi và huyền ảo. Trong cuộc thi đó, Đạo sỹ muốn lấy Kinh Đạo giáo để diệt lửa, nhưng mà không diệt được, nhưng khi lấy lửa đốt kinh, kinh Đạo giáo liền biến thành tro bụi, điều đó làm cho Đạo sĩ ở vùng núi phía Nam( Nam nhạc)  bị cụt hứng liền chết ngất ngay tại chỗ; Còn Sa Môn Nhiếp Ma Đằng ( Ca Diếp Ma Đằng) đại diện cho Phật giáo, lập tức nhảy vọt lên trên cao nằm trên không trung, hoá phép làm cho hoa báu ở trên trời toả ra như một chiếc ô Thái dương rơi lên đầu các Tăng sĩ Phật giáo, đồng thời lại làm cho từ trên trời phát ra những tiếng nhạc rất vui tai. Một vị Sa môn khác là Trúc Pháp Lan thì cố gắng giảng công đức của Phật giáo khiến  cho rất nhiều phàm phu tục tử đều muốn xuất gia qui y Phật. Một số Đạo sĩ của Đạo giáo lập tức cùng nhau tỏ ý muốn từ bỏ đạo giáo để qui y Phật, Kết quả cuộc thi này là: Phật giáo đã thu được thắng lợi. Câu chuyện trên đây có vẻ như là hoang đường, nhưng ta không vội bàn đến các chi tiết thần bí của nó mà chỉ bàn đến sự kiện thi đấu giữa Đạo Phật và Đạo Giáo. ta thấy rằng vào đầu thời kỳ Đông Hán, Đạo giáo về căn bản vẫn chưa hình thành, vì vậy lấy đâu ra Đạo sĩ? Càng khó mà khẳng định có chuyện các đạo sĩ của Đạo giáo từ bỏ Đạo giáo để qui y Phật.

Song cho dù thế nào đi chăng nữa, chùa Bạch Mã ở Lạc Dương quả thực cũng đã khẳng định rằng: nó là ngôi chùa đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Nó nằm dưới chân núi Bắc Manh, phía bên Lạc Thuỷ, nhìn xuống vùng trung nguyên rộng lớn, chuông sớm trống chiều đã đuổi đi hàng nghìn cái nóng cái lạnh. Còn về nguồn gốc cái tên ngôi chùa Bạch Mã, một tài liệu văn chương khác nói rằng: có một vị Quốc Vương nước ngoài, ông ta đã nhiều lần phá hại chùa thờ Phật. Hồi đó có một ngôi chùa thờ Phật tên là Chiêu Đề, đang ở trong tình trạng sắp bị phá bỏ thì một đêm bỗng có một con ngựa trắng chạy vòng xung quanh ngôi chùa đó và hí vang lên. Quốc vương đó sau khi nghe thấy vậy phát tâm từ bi, ra lệnh chấm dứt phá hại ngôi chùa, đồng thời đổi tên ngôi chùa đó thành chùa Bạch Mã. Từ đó trở đi, mỗi khi ông ta cho xây dựng chùa thờ Phật, Quốc Vương đó đều đặt tên chùa là Bạch Mã.

Lại có truyền thuyết nói rằng, sau khi cử người đi cầu pháp lấy kinh. Hán Minh Đế liền cho xây dựng một ngôi chùa thờ Phật, lúc đầu ngôi chùa đó lấy tên là Chiêu đế. Về sau có một Đế Vương muốn phá hoại ngôi chùa đó nhưng một hôm vị đế vương đó mơ thấy một con ngựa trắng bay xung quanh chùa đó hí vang, ông ta liền từ bỏ ý định phá ngôi chùa đó, đồng thời đổi tên ngôi chùa Chiêu Đề thành Bạch Mã. Lại có một truyền thuyết khác nói rằng, khi xây dựng ngôi chùa này, một hôm Minh Đế mơ thấy con ngựa trắng hí vang liền đặt tên cho ngôi chùa mới xây dựng là Bạch Mã. trong những truyền thuyết trên đây mỗi truyền thuyết đều có một căn cứ, bởi vì ở Trung Quốc cổ đại và Ấn Độ cổ đại đều có rất nhiều ngôi chùa thờ Phật có tên là Bạch Mã. Chùa Bạch Mã sau khi xây dựng vào thời kỳ Lưỡng Hán, trong thời kỳ Đông Hán Tam Quốc, thời kỳ Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều nó là trung tâm dịch kinh chính của Phật giáo miền Bắc Trung Quốc, rất nhiều tăng sĩ người Hồ( tăng sĩ miền Tây) sau khi đến Trung Hoa thường đến đây dịch kinh. Vào thời kỳ Tuỳ Đường, qui mô ngôi chùa Bạch Mã được mở rộng hơn trước rất nhiều; Võ Tắc Thiên cũng được coi ngôi chùa này là một trong những ngôi chùa của cung đình. Trải qua hơn một nghìn năm sau, sau nhiều lần chiến tranh bạo loạn, ngôi chùa Bạch Mã tuy đã trải qua nhiều lần thịnh suy, nhưng nó vẫn được bảo tồn đến bây giờ. Vì vậy bộ kinh “ Tứ Thập Nhị Chương” mà Thích Ca Ma Đằng đã từng dịch cũng có thể coi là bộ kinh Phật bằng chữ Hán đầu tiên của Trung Quốc. Bản đầu tiên của bộ kinh này( bản gốc) cũng đã bị thất lạc với bộ kinh Phật gồm năm bộ mà ngài Trúc Pháp Lan đã dịch ra.Bộ kinh “ Tứ Thập Nhị Chương” còn lưu lại đến tận bây giờ là bộ kinh do các tăng sĩ người Hồ chép lại bản từ hồi Tam Quốc, chắc chắn nó cũng sẽ có một phần khác so với bản gốc, nhưng về cơ bản nó cũng là nguyên bản. Quyển kinh này có khoảng hơn hai nghìn chữ, nội dung chủ yếu nói rõ giáo lý cơ bản của Phật giáo, nó vừa có nội dung tư tưởng của Phật giáo Tiểu thừa, vừa có nội dung tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. Tuy nội dung của nó đã được rút gọn, nhưng lý lẽ của nó rất rõ ràng, có hệ thống, có thể coi đó là nguyên bản của bộ kinh từ Ấn Độ cổ đại.

Nói tóm lại, xét từ những chi tiết sự thực của lịch sử, có thể nói rằng Hán Minh Đế là một vị Đế Vương phong kiến đầu tiên của Trung Quốc tiếp xúc với Phật giáo. Ngài cử người đi cầu pháp cố gắng mau chóng mang Phật giáo truyền vào Trung Quốc. Đồng thời hành động cầu pháp của ngài, về mặt lịch sử coi như thừa nhận một tôn giáo khác - Phật giáo - được du nhập và lưu truyền vào Trung Quốc. Hồi đó đây là một hành động “ long trời lở đất” chưa từng có. Khảo sát  lịch sử phát triển của Phật giáo ở trung Quốc cổ đại, thảo luận và xem xét kỹ mối quan hệ giữa các Đế Vương thời phong kiến với Phật giáo thì việc” Hán Minh Đế đêm mộng thần nhân” rồi cử người đi cầu pháp quả thật là điểm mở đầu rất đúng đắn, rất đáng tin cậy.

 

 

Hán Hoàn Đế thờ Phật và Lão
Tấn Thành Đế chiêu nạp Sa môn.

 

Sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào giữa thời Lưỡng Hán, ngoài Ngài Cảnh Lô là học trò của tiến sĩ thời Tây Hán Ai Đế  được lệnh của Vương Đại Nguyệt thị truyền khẩu cho” kinh Phù Đồ” và ngài Ca Diếp Ma Đằng thời Đông Hán Minh Đế dịch kinh “ Tứ Thập Nhị Chương” trong suốt thời kỳ Đông Hán hầu như không có bộ kinh Phật nào được dịch ra, hơn thế nữa tình hình cụ thể của Phật giáo được bắt đầu lưu truyền trong Trung Quốc như thế nào, cũng khó tìm thấy những sử liệu nói chi tiết. Nhưng vào cuối thời kỳ Đông Hán, tức là Hán Hoàn Đế và Hán Linh Đế còn đang cầm quyền, việc dịch các bộ kinh điển của Phật giáo và tình hình cụ thể của Phật giáo được bắt đầu lưu truyền trong Trung Quốc như thế nào, cũng khó tìm thấy sử liệu nói chi tiết. Nhưng vào cuối thời kỳ Đông Hán, tức là Hán Hoàn Đế và Hán Linh Đế còn đang cầm quyền, việc dịch các bộ kinh điển của Phật giáo và tình hình cụ thể của việc lưu truyền Phật giáo đã được ghi chép rất nhiều ở trong sử sách. Theo ghi chép, hồi đó một số vị tăng, sĩ người Hồ nổi tiếng đã đến Trung Hoa như ngài An Thế Cao ( người vùng An Tức, bây giờ thuộc cao nguyên iran), ngài Chi Sấm ( người dân Đại Nguyệt Thị)...dịch ra một số lượng lớn kinh Phật, khiến cho ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng được mở rộng. trong suốt thời kỳ Đông Hán, pháp luật của nhà nước cấm người Hán xuất gia ( tức đi tu). Vào cuối thời Đông Hán, việc cấm người Hán xuất gia mới được bãi bỏ. Người Trung Quốc xuất gia đầu tiên làm tăng sĩ tên là Nghiêm Phù Điêu ( cũng còn gọi là Nghiêm Phật Điêu). Ngài quê gốc ở một vùng ven sông Hoài thuộc tỉnh An Huy. Truyền thuyết nói rằng, thuở niên thiếu ngài rất thông minh, thật thà chất phác, nhanh nhẹn, hiếu học. Sau khi xuất gia, ngài đã cùng từng với ngài An Huyền ( người An Tức, một tăng sĩ người Miền Tây) xây dựng những nơi kinh dịch Phật, giúp đỡ các hoạt động dịch kinh, và phiên dịch được rất nhiều kinh Phật, hồi đó ngài đã khá nổi tiếng và có uy tín.

Do các bộ kinh điển của Phật giáo được phiên dịch khối lượng lớn và dần dần được lưu hành đã làm tăng lên đáng kể sự hiểu biết của người dân Hán đối với Phật giáo. Nhưng Phật giáo lại là một tôn giáo ngoại lai, muốn cắm sâu, bám chắc vào mảnh đất Trung Quốc này quả là một việc không dễ dàng. Do đó thời kỳ đầu dịch kinh sách Phật giáo, các vị phải nhờ đến tư tưởng của các nhà nho giáo và tư tưởng của Đạo giáo để giải thích rõ giáo nghĩa của đạo Phật. Cuối thời Đông Hán đã từng có quyển sách “ Mâu Tử Lý Học Luận”, do các phần tử tri thức người Hán viết, quyển sách đó tập trung phản ánh sự hiểu biết của những phần tử tri thức đối với Phật giáo. Như trong cuốn sách đó, khi giải thích thế nào là Phật đã nói rằng, Phật là một dạng Thuỵ Hiệu( cách gọi của vua quan sau khi qua đời), nó cũng giống như cách gọi Tam Hoàng Ngũ Đế của truyền thống Trung Quốc. Cách giải thích như vậy trên thực tế là dùng những tư tưởng của Nho giáo để giải thích Phật giáo. trong quyển sách đó, khi giải thích những đặc tính của Phật cũng nói rằng: Phật cũng chính là tổ tiên của đạo đức, ngài có thể biến hoá hư ảo, có thể chia ra làm nhiều phần, hoặc nó sống, hoặc nó chết, có thể to hoặc nhỏ, có thể vuông, hoặc tròn, có thể già hoặc trẻ, có thể mờ hoặc rõ; hoặc có thể vứt vào lửa mà không bị cháy, bị dao chém mà không bị thương, sống ở nơi bùn tanh hôi mà không bị nhiễm, ở chỗ hoạn nạn mà không bị hoạn nạn; Phật đi lại bằng cách bay, khi tĩnh toạ toàn thân phát ra sáng loà... ở đây cái gọi là tổ tiên của đạo đức  là ý nói lên đạo giáo tôn phụng Lão Tử; cái gọi là nhẫn nại và bền bỉ của Phật, tức là nó giống như sự nhẫn nại và bền bỉ của các vị thần tiên mà từ thời chiến quốc trở lại đây các nhà âm dương thường miêu tả. Trên thực tế, suốt thời kỳ Đông Hán, thậm chí đến cuối thời kỳ Đông Hán, trong lòng nhân dân Trung Quốc, Phật giáo chỉ là một đạo mà nhân dân sùng bái Lão Tử. Sự nhận thức này được phản ánh tập trung bằng các hoạt động tôn giáo mà cụ thể là Đông Hán Hoàn Đế cùng thờ Phật và Lão Tử.

Đông Hán Hoàn Đế Lưu Chí lên ngôi vào năm 147 sau công nguyên, lúc ấy ông mới 15 tuổi. Hồi đó mọi việc trong Triều đều do Lương Thái Hậu và người anh trai tên là Lương Kỳ cai quản và giải quyết. Hán Hoàn Đế chẳng qua chỉ là một con rối bù nhìn. Năm Diên Hi thứ 2 (159 sau Công nguyên), được sự giúp đỡ của một số hoạn quan, Hán Hoàn Đế đã ám sát Lương Kỳ, đồng thời cũng cho mưu sát quãng hơn chục người thân cận của Lương Kỳ. Do đó các hoạn quan đóng một vai trò rất quan trọng. Hán Hoàn Đế liền bổ nhiệm  các hoạn quan giữ nhiều trọng trách trong Triều và giữ một số trọng trách ở một số địa phương. Do đó đã hình thành nên một tình thế chuyên quyền của các ông hoạn quan. Một số phần tử trí thức đã tỏ ra bất mãn trước sự lạm quyền của các ông hoạn quan, họ đã công khai đả kích tập đoàn hoạn quan liền nhân đó xúi dục Hoàn Đế ra tay trừng phạt các phần tử trí thức này với tội danh” đồng đảng”. Điều đó khiến cho triều đình và  tình hình trính trị trong nước càng trở nên hỗn loạn. Trước tình hình như vậy, Hán Hoàn Đế vẫn thản nhiên sống với cuộc sống cực kỳ hoang dâm và đồi truỵ. Theo sử sách ghi chép để lại, Hán Hoàn Đế có ba Hoàng Hậu, hàng ngàn cung nữ suốt ngày say sưa hưởng lạc. Để cầu cho mình sống lâu trăm tuổi, trong cuộc sống tinh thần Hán Hoàn Đế tỏ ra là một con người cực kỳ mê tín, ông mong muốn bằng các nghi lễ cúng bái tôn giáo, mình sẽ được các thần linh che chở. Trong lòng ông ta tôn thờ cả Hoàng Đế và Lão Tử. Hoàng Đế và Lão Tử lúc này được các chiến binh từ thời chiến quốc trở lại suy tôn như là thần tiên, lúc đó có một đạo gọi là đạo Hoàng Lão được lưu hành. Theo truyền thuyết vào năm Diên Hy thứ 8 ( năm 166 sau Công nguyên) Hán Hoàn Đế mơ thấy mình và Lão Tử đang ở bên nhau, do đó Hán Hoàn Đế đã 2 lần cử người đến huyện Khổ ( theo truyền thuyết đó là cố hương của Lão tử, nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam) để cúng tế Lão Tử, đồng thời hạ lệnh xây ngay một miếu thờ Lão Tử ở huyện Khổ, cùng thời gian này, Hán Hoàn Đế còn cử người đến huyện Mông ( ngày nay ở gần Thượng Khâu thuộc tỉnh Hà Nam) làm lễ cúng tế mộ Vương Tử Kiều tiên nhân cổ đại để mong bớt bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và được lên cõi thần tiên. Ngoài ra, ở trong cung điện ông còn tổ chức nhiều lần tế lễ Hoàng Lão theo như nghi lễ tế trời đất. Ở đất Trung Hoa ông đã xây dựng được 8 điện tế lễ, trong các điện đó toàn là ngọc ngà châu báu, tìm đủ ba loại súc sinh để làm đồ tế lễ để mong được phúc thọ cát tường.

Cùng với việc tế lễ Hoàng Lão, Hán Hoàn Đế còn cho xây dựng các chùa thờ Phật ở trong cung điện để mong được Phật phù hộ, che chở. Hồi đó có một vị đại thần tên là Nhượng Khải. Ông ta với Hán Hoàn Đế như hình với bóng. Ông dâng thư lên Hoàng Đế khuyên rằng:” Chúng thần nghe nói hiện giờ bệ hạ đang cùng thờ Phật và Hoàng Lão ở trong cung điện thành tâm tế lễ. Thần nghe nói Hoàng Đế và Phật giáo đều chủ trương dùng” thanh tịnh vô vi” để giữ tĩnh tâm đồng thời thương chúng sinh, không ủng hộ tàn sát, mọi người phải giảm bớt ăn chơi xa xỉ. Bây giờ bệ hạ lại thèm khát đủ điều, chém giết một cách vô cớ và tàn nhẫn, đi ngược lại với những gì mà đạo Phật và Hoàng Đế đã đề xướng. Giờ đây bệ hạ vừa thờ cả Phật và Hoàng Lão, vậy thì làm sao có thể nhận được sự che chở của cả hai bên”. Lời khuyên răn của ông Nhượng Khải cho thấy rõ, hồi đó trong lòng mọi người, bao gồm cả trong tâm thức của Hán Hoàn Đế, Phật Đà và Hoàng Lão đều là thần dân ( có ý là mê tín), họ đều chủ trương “thanh tịnh vô vi” ( tức là hết sạch mọi vọng niệm, mọi ảo tưởng). Do đó Phật giáo và Hoàng Lão tương đối giống nhau. Xét từ mục đích của việc Hán Hoàng Đế cùng thờ Hoàng Lão, Phật ta có thể thấy rõ mục đích chính là ông muốn được nhiều điều tố lành, sống lâu trăm tuổi hoặc là cao hơn một bước nữa là muốn cầu thành tiên, sống trên cõi trời. Trên thực tế, hồi đó các nhà thần tiên của Hoàng Lão, không ít người đã được gọi là thầy phù thuỷ, thần tiên, hơn thế nữa một số nội dung của kinh Phật và truyền thuyết Phật giáo lúc bấy giờ cũng được lý giải bắng những phép thuật thần tiên. Như trong kinh:” Khi nào tu đắc quả La Hán, thì có thể biến hoá muôn hình vạn dạng và kéo dàu tuổi thọ, làm được những việc kinh thiên động địa”. Trong thời gian này, việc tu tập của Phật giáo cũng có ý nghĩa là mong được trường sinh bất lão và biến thành tiên. Do đó Hán Hoàng Đế mới cho rằng, Phật và thần tiên Hoàng Lão không khác nhau là mấy. Việc thờ cúng Phật và Hoàng Lão đều là muốn được phù hộ che chở, đem lại điều tốt lành, kéo dài tuổi thọ và thành thần tiên.

Còn về thái độ nhận thức của các Đế Vương của giai cấp phong kiến cùng đông đảo nhân dân thời cuối Đông Hán đối với Phật giáo, thì tăng đoàn Phật giáo một mặt nhờ sự giúp đỡ của việc bói toán âm dương và các phép thuật thần tiên đã vốn có trong xã hội Trung Quốc thời phong kiến mở rộng ảnh hưởng của mình, một mặt khác tăng đoàn Phật giáo cũng đẩy nhanh công tác phiên dịch các bộ kinh Phật. Cuối thời Đông Hán, công tác dịch kinh Phật tất nhiên đều trông cậy phần lớn vào các Tăng sĩ nước ngoài, chỉ có một số ít tăng sĩ và cư sĩ người Hán cùng tham dự vào đó, nhưng họ chỉ có làm các công việc mang tính chất phụ giúp; hồi đó các tăng sĩ nước ngoài bộ kinh gì đến thì họ liền dịch bộ kinh đó. Hơn thế nữa Phật giáo chưa phân thành Đại thừa và Tiểu thừa, mọi người đều coi những bộ kinh đó là những lời thuyết giáo của Phật Thích Ca Mâu Ni; công tác phiên dịch kinh sách chủ yếu tiến hành trong dân gian, không hề được ủng hộ trực tiếp của giai cấp cầm quyền. Cùng với công tác phiên dịch kinh sách liên tục phát triển, ảnh hưởng của Phật giáo cũng nhờ đó mà tăng thêm, phạm vi lưu hành cũng nhờ đó mà càng ngày càng mở rộng. Thời Tào Nguỵ đã có lúc Phật giáo và các thần tiên Hoàng Lão bị cấm chỉ, nhưng đến thời Nguỵ Minh Đế trị vì( 227-240 sau công nguyên), lệnh cấm đã được bãi bỏ. Tương truyền rằng, Nguỵ Minh Đế đã từng muốn phá ngôi chùa thờ Phật mới được xây dựng xong không bao lâu ở phía Tây cung điện. Lúc đó có một vị tăng sĩ người Hồ lập tức mang đến một cái chậu bằng vàng đựng đầy nước đặt trước cung điện, đồng thời thả một viên Xá Lợi phật vào trong đó ( Xá lợi là dịch từ chữ Phạn” Thiết Lợi La” có nghĩa là cơ thể hoặc là xương cốt, tức là thi thể của Thích Ca Mâu Ni Phật sau khi hoả thiêu còn lại những viên lóng lánh như ngọc; về sau cũng có ý chỉ những bộ xương của những vị hoà thượng tu hành đã khá cao khi hoả thiêu cũng còn lại những viên ngọc lóng lánh), lập tức nước trong chậu toả ra một màu sáng lóng lánh. Thấy vậy, Nguỵ Minh Đế không những từ bỏ ý đồ ban đầu là muốn phá bỏ mấy tháp thờ Phật, hơn thế nữa ngài lại vô cùng ca ngợi Phật giáo. Thời kỳ chiến tranh hoạn lạc cuối Hán, một vị tăng sĩ tên là Chi Khiêm ( hậu duệ của Đại Nguyệt Thị) vì muốn tránh hoạn nạn của chiến tranh mà đã chuyển sang sinh sống ở đất Ngô, Chúa Ngô lúc bấy giờ là Tôn Quyền nghe nói Chi Khiêm thông minh tài giỏi, lập tức cho gọi vào bái kiến, đồng thời yêu cầu Chi Khiêm giảng giải một số đạo lý của Đạo Phật. Trong lúc trả lời Tôn Quyền, Chi Khiêm đã dẫn chứng thêm nhiều luận cứ và tài liệu khác để giải thích những giáo nghĩa của Phật giáo, điều đó đã thức tỉnh mạnh mẽ Tôn Quyền; do đó Tôn Quyền lập tức suy tôn Chi Khiêm là tiến sĩ, đồng thời yêu cầu Chi Khiêm dạy dỗ cho Thái Tử đang ở Đông Cung tên là Tôn Đăng học tập và nghiên cứu Phật pháp. Đến thời kỳ Tây Tấn, trung tâm của các hoạt động Phật giáo là Lạc Dương và Trường An, đặc biệt là Lạc Dương. Theo ghi chép trong cuốn” Lạc Dương Già Lam Ký”(“ Già Lam” là dịch âm của từ “ Chùa Phật” tiếng Phạn) của Dương Huyễn Chi thời bắc Nguỵ, hồi đó trong nội thành Lạc Dương có rất nhiều chùa thờ Phật, tất cả có hơn 42 ngôi. Đến thời kỳ của giai cấp thống trị Sĩ Tộc Môn Phiệt thời Tây Tấn, những người này gửi gắm tâm linh của mình vào trong các chùa thờ Phật, có một số người trong Hoàng tộc bắt đầu tôn sùng Phật giáo. Tư Mã Toại ( con tri Tư Mã Tuần, cháu gọi Tư Mã Ý là bác ruột) lúc đầu phong làm Tế Nam Vương sau đổi lại thành Trung Sơn Vương, từng là thí chủ lớn nhất cho việc chép kinh và dịch kinh. Vào thời kỳ Tân Huệ Đế, Hà Gian Vương Tư Mã Ngung  trong lúc làm nhiệm vụ trấn ải đã từng quan hệ khá thân với một số cao tăng, đồng thời đối xử theo lễ nghĩa, làm cho mối quan hệ chuyện trò bạn bè của ngài ngày càng nồng thắm hơn. ( Hà Gian Vương tức Hà Gian Hiến Vương, tức Lưu Đức, Vương đế cuối cùng của Tây Hán, mất quãng năm 130). Nghĩa cử này của ngài đã tác động đến thành viên khác trong nội bộ tập đoàn thống trị khiến cho họ rất tôn sùng Phật giáo, từ đó Phật giáo được lưu hành và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

  Sau khi nhà Tấn chuyển xuống phía nam, có một số các Đế Vương nhà Đông Tấn bắt đầu tin tưởng và tôn thờ Phật giáo. trong sử có ghi lại, ngài Tấn Nguyên Đế Tư Mã Duệ ( trị vì vào năm 317 đến năm 323 sau Công nguyên) rất giỏi thư hoạ, đặc biệt là về vẽ hình tượng Phật. Ngày nào ngài cũng mải mê với nghiên bút mực son, ngài vẽ các hình tượng Phật để tự mình và quan thần thờ trong CUng, hoặc phân pháp cho các hạ thần đem về thờ cúng. Một thời trong Triều mọi người đã coi mình được Tấn Nguyên Đế thưởng cho một bức tranh Phật là một điều rất vinh dự. Có một số hạ thần rất thán phục tài năng của Tấn Nguyên Đế, họ hi vọng Tán Nguyên Đế có thể lấy danh nghĩa Triều đình hoặc danh nghĩa là Hoàng Đế viết lên mỗi bức tranh Phật một bài ca tụng Phật pháp. Nhưng cũng có một số hạ thần ra sức khuyên can rằng, đó là một tôn giáo ngoại lai, không hề có trong các hệ thống tôn giáo truyền thống Trung Hoa, do đó không thể lấy danh nghĩa Triều Đình hoặc là danh nghĩa Hoàng Đế để ca tụng Phật giáo. Sự thật lịch sử này cho thấy rằng, trong quá trình phát triển của mình, Phật giáo bắt đầu có những xung đột gay gắt không thể tránh khỏi đối với nền văn hoá truyền thống ở Trung Quốc, mà sự xung đột này càng ngày càng diễn biến một cách gay gắt và mở rộng.

Năm thứ sáu của Hàm Khang Tấn Thành Đế( năm 340 sau Công nguyên) một vị trung Thư giám tên là Dữ Băng ông ta nhận thấy một điều rõ ràng là Sa môn Phật giáo khi vào yết kiến các Đế Vương chỉ chào hỏi bình thường mà không chịu quì bái. Điều này trái với luân lí Nho giáo của Trung Quốc, do đó họ đã dâng thư lên Tấn Thành Đế bắt các Sa môn quì bái cung kính các bậc Đế Vương quí tộc. Vị Thượng Thư bèn ra lệnh cho ông Hà Xung và những người khác lập tức dâng thư lên Thành Đế, cho rằng các Sa môn không cần phải quì bái tôn kính các bậc Vương giả, do đó Thành Đế liền mệnh lệnh cho vị quan phụ trách nghi lễ chủ trì một cuộc họp của quần thần bàn kỹ về vấn đề này. Trong cuộc họp đó hai bên bàn cãi gay gắt, ai nấy đều đem ra những chứng cớ, lý lẽ của mình, Ông Hà Xung và những người phản đối đều là những tín đồ tin sâu Phật giáo, họ đưa ra lý lẽ rằng, sau khi Phật giáo truyền vào trung Quốc, trải qua rất nhiều đời đều không có một vị Sa môn nào phải quì bái các vương giả. Hơn thế nữa, họ còn chủ chương các Vương giả cần phải tôn trọng và tuân theo giới luật của Phật giáo, không được bắt các Sa môn phải khom lưng quì gối. Nhưng ông Dữ Băng và một số người theo ông đều coi rằng “ trung với vua hiếu với cha mẹ” là tam cương ngũ thường luân lý truyền thống của Trung Quốc. Bất cứ ai đều phải tôn kính pháp gia hộ cho các đế Vương. Sự thành kính và tình cảm của họ thì khó mà dùng lời lẽ để miêu tả hết được.

Trước sự đấu tranh gay gắt của cả hai phía Tấn Thành Đế tuy vẫn ra lệnh bắt các Sa môn quì bái trước mặt các vương giả, nhưng cuối cùng ngài cũng không biết mình phải làm gì, bởi vì ngài cảm thấy hai bên đều có lý, nền trính trị phong kiến truyền thống vừa không thể tách rời giáo nghĩa tam cương ngũ thường của Nho giáo, nhưng Phật giáo cũng thực sự có lợi cho” Vương Hoá”. Do đó các vấn đề Sa môn phải quì bái các Vương giả. cuối cùng Tấn Thành Đế không đưa ra quyết định. Điều này chứng tỏ rằng, trong quá trình “Trung Quốc hóa” ở Trung Quốc, giữa Phật giáo và nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc đã nảy sinh sự xung đột này cuối cùng đã dẫn đến sự tranh luận mang tính chất thực chất. Sau thời kỳ Đông Tấn Thành Đế thì Tân Ái Đế ( trị vì năm 362 đến năm 366 sau Công nguyên) lại rất coi trọng Phật pháp, ngài đã nhiều lần mời các vị cao tăng vào trong Cung điện giảng Phật pháp, giảng kinh Phật. Tấn Giản Văn Đế ( trị vì năm 371 đến năm 373 sau Công nguyên) cũng lại rất tôn sùng Phật giáo, ngài cũng đã nhiều lần đích thân đến chùa Ngoã quan để nghe các vị cao tăng giảng kinh. Tấn Hiếu Thành Đế ( trị vì năm 373 đến năm 396 sau Công nguyên) đã cho xây một tịnh xá ( tức chùa thờ Phật) ngay trong cung điện rồi đón các Sa môn vào đó, cùng các Sa môn thắp nến trao đổi kinh pháp thâu đêm. Vị Hoàng Đế cuối cùng của thời Đông Tấn là Cung Đế cũng là người tin sâu vào Phật giáo, ngài đã là người bỏ ra hàng vạn đồng tiền đồng đúc một tượng Phật cao một trượng sáu xích ( 5m) đồng thời ngài tự mình đi bộ xa hàng chục lý ( 5km) đem bức tượng đồng đó đến cúng dàng tại chùa Ngoã Quan. Những ví dụ trên đây cho ta thấy rõ, mối quan hệ giữa các Đế Vương với Phật giáo ngày càng sâu sắc khiến cho Phật giáo dần dần trở thành một trong những tín ngưỡng phổ biến trong xã hội cổ đại Trung Quốc.

 

 

Ngũ hồ chư Vương sùng Phật giáo

Đại đức cao tăng phụng pháp Vương

 

Từ thời Đông Hán, rất nhiều dân tộc thiểu số  ở vùng biên thuỳ phía Tây Bắc đã bắt đầu chuyển vào sống trong nội địa, họ cùng sinh sống với người Hán tại vùng lưu vực sông Hoàng Hà rộng lớn phía Bắc. Trong các dân tộc thiểu số này, chiếm nhiều nhất là các dân tộc như Hung Nô, Tiên Ti, Kiệt, Đê, Khương, sử sách gọi đây là “ Ngũ Hồ”. Dưới thời Tây Tấn sự tranh dành quyền lục trong nội bộ tập đoàn thống trị ngày càng diễn ra gay gắt , do đó làm nổ ra các cuộc chiến tranh gây mang tính chất nội chiến nhà Tây Tấn thì “ danh tồn thực vong”. Năm đầu tiên của Vĩnh Hưng - Tấn Huệ Đế ( năm 304 sau công nguyên) một vị quí tộc Hung Nô  tên là Lưu Uyên khởi binh, tự xưng mình là Vương, sau đó lại tự xưng là Đế, thành lập nên chính quyền Hậu Hán; sau khi con của ông ta tên là Lưu Thông lên ngôi; cậu ta liền lập tức tấn công Lạc Dương rồi tràn về Trường An , diệt hết Tây Tấn. Những người còn sót lại trong dòng tộc liền trôi dạt về phía nam theo sông Trường Giang, lập nên Vương Triều Tấn tại vùng Giang Nam, theo sử sách gọi là Đông Tấn . Từ đó trở đi, cả một vùng rộng lớn phía Bắc sông Trường Giang,” Ngũ Hồ” liên tục cát cứ ( chia cắt rồi chiếm đóng) các vùng để lập nên các chính quyền , về sau sử sách gọi là “ Ngũ Hồ thập lục quốc” ( 16 nước của Ngũ Hồ) Đạo An số là những người tôn sùng Phật giáo , trong đó các Đế Vương như người Kiệt lập nên nhà Hậu Triệu, nhà đế lập nên nhà Tiền Tần, người Hung Nô lập nên Bắc Lương và người khương lập nên nhà Hậu Tần. Tất cả các Đế Vương này đều rất tôn sùng Phật giáo , điều này đã thúc đẩy Phật giáo tiếp tục được truyền bá và phát triển mạnh mẽ ở một vùng rộng lớn phía bắc Trung Quốc .

Vào năm Vĩnh Gia thứ năm ( năm 311 sau Công nguyên) vào thời Tây Tấn Hoài Đế, bộ tướng Hậu Hán ra lệnh cho Thạch lặc tấn công vào các quận của Dự Châu, khi đội quân tiến đến gần sông Trường Giang thì được lệnh quay trở lại đóng đồn ở Cát Bi,( ngày nay thuộc phía bắc Tân Sát tỉnh Hà Nam) sát hại mọi người một cách tàn bạo vô tội vạ các Sa môn Phật giáo cũng bị vạ lây, những người bị sát hại rất nhiều. Lúc này có một vị Hoà thượng tên là Phật Đồ Trừng người miền Tây ngài đã bất chấp cả sinh mệnh của mình thuyết phục Thạch Lặc từ bỏ chém giết các sinh linh một cách vô tội vạ. Vị hoà thượng này đến chỗ ở Thạch Lặc, trước tiên ngài đến cư trú tại nhà một vị Đại tướng thuộc hạ của Thạch Lặc tên là Quách Hắc Lược, Quách Hắc Lược là một người cũng tôn thờ Phật giáo. Lúc đó vị đại tướng này đã được Phật Đồ Trừng truyền cho Ngũ Giới (2) , lập tức vị tướng này làm lễ kết nghĩa anh em với Phật Hồ trừng. Từ đó trở đi, cứ mỗi trận trinh chiến bên cạnh Thạch Lặc, đại tướng Quách Hắc Lược thường thường đoán trước được khả năng thắng thua, từ đó trở đi khiến cho Thạch Lặc vô cùng kì lạ, cuối cùng Thạch Lặc đã đến hỏi vị tướng Quách Hắc Lược nguyên nhân ở đâu, Quách Hắc Lược liền đáp:” Có một vị hoà thượng ở miền tây tên là Phật Hồ Trừng, đạo thuật của ngài vô cùng là thần thông quảng đại, vị hoà thượng này thường nói rằng vị tướng quân đây có mối bất đồng với những người ở Hoa Hạ (3), có điều ngoảnh mặt về phía Nam. Giờ đây thuộc hạ đã làm lễ tôn hoà thượng ấy làm thầy, những lời tiên đoán  thắng thua trước đây đều do vị hoà thượng ấy dạy cho thuộc hạ”. Sau khi nghe kể vậy, Thạch Lặc vô cùng sung sướng, ông Trường An cho rằng tiên trời đã ban thưởng cho mình, lập tức cho gọi Phật Đồ Trừng đến và hỏi:” Phật pháp có những phép mầu linh nghiệm gì?” Phật Đồ Trừng liền đáp:” Phật Pháp thần thông quảng đại mà Phật giáo chúng con tôn thờ có thể kiểm nghiệm bất cứ lúc nào”. Nói xong hoà thượng lập tức lấy ra một cái chậu rồi đổ đầy nước vào trong chậu đó, sau đó thắp một nén hương và cầu khấn. Một lúc sau trong chậu mọc lên một bông hoa sen màu xanh, rồi nó từ từ lớn lên, toả sáng long lanh loá mắt. Chứng kiến cảnh tượng kì lạ này Thạch Lặc liền tỏ ra kính phục Phật Đồ Trừng ở ngay bên cạnh mình.

Thạch Lặc tự là Thệ long, người dân tộc Kiệt thuộc quận Thượng Đảng ( ngày nay thuộc huyện Trường trị Tỉnh Sơn tây), ông đã từng nói với Lưu Uyên khởi binh chống lại nhà Tấn. Ông đã thu nạp thêm nhiều lực lượng lớn cho mình trong cuộc chiến tranh với quân Tấn và các dân tộc thiểu số khác đã cát cứ các vùng. Sau khi chính quyền Hậu hán của Lưu Thông bị chính quyền Tiền Triệu của Lưu Diệu thu hồi, Thạch Lặc  nguyên là Hậu Hán Bộ tướng đã cắt dứt quan hệ với Lưu Diệu, đồng thời tự xưng mình là đại tướng quân, Đại Đơn Vu, Vương triệu, lập nên chính quyền Hậu triệu, lấy thủ đô là Tương Quốc ( ngày nay là huyện Hình Đài thuộc tỉnh Hà Bắc). Năm 329 sau công nguyên, Thạch Lặc dẫn quân đi tiêu diệt Lưu Diệu nhà tiên triều chiếm hết cả vùng rộng lớn phía Bắc, năm sau lập tức lên ngôi Hoàng Đế. Sau khi được Thạch Lặc tôn sùng, Phật Đồ Trừng được phong làm “Đại hoà thượng”, ngoài làm các hoạt động tôn giáo như trì giới, thuyết pháp…Thạch Lặc còn sử dụng ma thuật biến ảo của Phật Đồ Trừng để tham dự vào những việc cơ yếu trong việc quân sự của mình, đoán trước được cát – hung ( lành- dữ), hoạch định mưu lược. Khi Thạch Lặc lên ngôi Hoàng Đế, ông lại càng tỏ ra tôn kính Phật Đồ Trừng, mọi việc to nhỏ đều hỏi ý kiến của Phật Đồ Trừng. Thạch Lặc xuất thân từ một dân tộc thiểu số người Kiệt vùng phía Tây, ông Trường An rất thiếu lòng tin đối với cuộc trinh chiến ở vùng Trung nguyên cùng tài năng thống trị của mình. Học thuyết nho gia của người hán chính thống thì luôn luôn chủ trương” bên trong là người Trung Hoa bên ngoài là người mọi rợ”. Cái nhìn lệch lạc mang tính dân tộc hẹp hòi này lại có ảnh hưởng rất sâu sắc. Do đó các dân tộc thiểu số cát cứ ở vùng, mà đặc biệt các bậc Đế Vương của họ, rất mong muốn có được chỗ dựa về mặt tinh thần.

Do đó khi được tham dự vào những việc cơ mật về chính trị hoặc quân sự của Thạch Lặc, Phật Đồ Trừng thường bịa thêm một số tiên đoán để làm tăng lên lòng tự tin của Thạch Lặc. Ngay từ năm thứ ba của Hàm Hoà(năm 328 sau Công nguyên , Tiền Triệu Lưu Diệu đã từng dẫn quân đi đến bao vây và tấn công Lạc Dương. Thạch Lặc đã định đích thân dẫn quân đi phá vây cứu cho Lạc Dương , nhưng các thuộc hà tuỳ tùng đều khuyên căn Thạch Lặc, họ cho vậy thì dữ nhiều lành ít. Nhưng ngược lại Phật Đồ Trừng thì cho rằng, Thạch Lặc phải đích thân dẫn quân đi giải vây thì Lạc Dương mới thoát khỏi cảnh nguy hiểm và tàn phá. Ông ta nói rằng:” tối hôm qua chiếc chuông treo ở tháp thờ Phật dung đưa theo gió con đã cố gắng nghe tiếng động và đã nghe được chiếc chuông đó nói được một câu như thế này” Tú Chi Thế Lê Cương Phốc Cốc Cà Thốc Đương”, đây là một câu tiếng của người Hồ, câu đó có nghĩa là:” nếu xuất thân đi đánh thì có thể bắt sống được lưu Diệu”. Sau khi nghe nói vậy, Thạch Lặc vô cùng sung sướng, hạ lệnh cho các binh lính tham mưu không được phép khuyên can bàn lùi lập tức chém ngay không tha. Điều này lại càng củng cố thêm niềm tin thắng chắc chắn. Thạch Lặc liền dẫn quân đi cứu Lạc Dương đang bị bao vây, sau khi đánh thắng rồi quả nhiên Phật Đồ Trừng nhiều lúc còn đoán trước được hiểm hoạ để nhắc Thạch Lặc phòng tránh hoặc chuẩn bị đối phó. Có một lần, khi dẫn quân đi chinh phạt Thạch Lặc cho quân đồn trú ở mọi nơi. Quân địch dự định tối đến lập tức cho đem quân đến đánh úp cướp trại. Sau khi phân tích tình hình, Phật Đồ Trừng biết rằng nhất định quân địch sẽ đến đánh úp để cướp trại, kết quả chúng đã bị đánh bại và tháo lui. Trong thời kỳ thập lục quốc, Thạch Lặc là một con người tàn bạo, nổi tiếng về sự chém giết bừa bãi nhân dân, thậm chí nhiều Sa môn cũng cùng chung cảnh ngộ, Phật Đồ Trừng quyết định phải cảm hoá bằng được Thạch Lặc là một con người tàn bạo nổi tiếng về tội chém giết bừa bãi nhân dân, thậm chí nhiều Sa môn cũng cùng chung cảnh ngộ, Phật Đồ Trừng quyết định phải cảm hoá bằng được Thạch Lặc, khiến Thạch Lặc phải biết kiềm chế và biết giữ mình. Sau khi chiếm được lòng tin của Thạch Lặc Phật Đồ Trừng thường xuyên khuyên can Thạch Lặc như thế này :” Vua một nước nếu như cai quản đất nước bằng lòng nhân từ và đức cao cả, thương yêu nhân dân thì ngày nào điềm lành cũng đến với mình, nếu không thì điềm xấu và tai hại vạ từ trên trời sẽ ập xuống trời và người cũng có mối liên hệ với nhau, ngài cần phải tu nhân tích đức, làm nhiều việc thiện”. Sau khi nghe Phật Đồ Trừng nói vậy, Thạch Lặc tuy tỏ ra không vui, nhưng từ đó trở đi ông ta đã có những kìm chế và giữ mình.

Sau khi Thạch Lặc qua đời , Thạch Hổ là con nuôi của Thạch Lặc đã phế truất con đẻ của Thạch Lặc là Thạch Hoàng để lên ngôi, chuyển đô về Nghiệp ( ngày nay thuộc huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam), Thạch Hổ tự là Quý Long người dân tộc Kiệt miền Tây, một thời gian dài Thạch Hổ theo Thạch Lặc đi chinh phạt tàn sát, công lao rất lớn. Sau khi lên ngôi Hoàng Đế và chuyển đô, ông ta càng tỏ ra cung kính Phật Đồ Trừng như sau: “Đại Hoà thượng là đại báu của quốc gia tự tâm thanh tịnh, không nhiễm tước vị, không thích quan to lộc nhiều nhưng công đức cao vời vợi thật không hổ thẹn là một tấm gương cho nhà Hậu Triệu chúng Trường An”. Thạch Hổ còn đặc biệt ưu đãi để Phật Đồ Trừng được ngồi xe kiệu lên triều. Mỗi buổi lên triều, các thần dân đều tranh nhau được kiệu xe cho Phật Đồ Trừng ; con trai của Thạch Hổ còn đích thân ra đưa đón Phật Đồ Trừng lên xe kiệu hoặc xuống xe kiệu. Thạch Hổ còn ra chiếu lệnh yêu cầu các vị đại thần mỗi ngày hai lần đến tham vấn Phật Đồ Trừng vào buổi sáng và buổi tối, các thái tử mỗi ngày cũng đến tham vấn Phật Đồ Trừng một lần.

Năm thứ năm của Đông Tấn Kiến Nguyên ( năm 343 sau Công nguyên ), Đông Tấn Hoàn Ôn dẫn quân bắc phạt, tạo nên sự uy hiếp nghiêm trọng về bên nhà Hậu Triệu; lúc này gặp phải đạo quân của Thạch Hổ đang thất bại thảm hại. Trước tình hình đó, dân của triều đại Hậu Triệu lòng nóng như lửa đốt, sắp đến ngày tàn, Thạch Hổ liền quát ầm lên rằng:  “ Ta thờ Phật phụng Tăng, vậy mà không những không được thiện báo mà ngược lại bị quân xâm lược nước ngoài đánh cho tan tác, Phật giáo chẳng hề linh nghiệm chút nào”. Ngày hôm sau nhân cớ đó, Thạch Hổ quở trách Phật Đồ Trừng như vậy, Phật Đồ Trừng liền nói:” Kiếp trước bệ hạ đã từng là một đại thương gia của một quốc gia miền Tây, Bệ hạ đã từng tổ chức các cuộc lễ phụng dưỡng A La Hán, tích luỹ được công đức vô lượng. Trải qua nhiều kiếp luôn hồi, Bệ hạ trở thành Quốc Vương của nước Tấn. Được làm Quốc Vương, đó là một phúc đức vô lượng rồi. Hiện giờ ngoài vùng biên cương có quân địch, đối với quốc gia đó là một chuyện bình thường, cớ sao Bệ hạ lại lấy đó mà quở trách Phật Pháp , đồng thời nảy ra những ý nghĩ độc ác?” Câu trả lời và lời chất vấn trên đây của Phật Đồ Trừng có thể thấy rằng, ngài đã hết lòng hết dạ đối với Thạch Hổ . Lời nói của Phật Đồ Trừng  không những khiến cho Thạch Hổ lắng nghe, mà còn được Thạch Hổ vô cùng hoan nghênh, hơn thế nữa Phật Đồ Trừng lại dùng lý luận về nhân quả báo ứng và kiếp luân hồi sinh tử của Phật giáo để củng cố thêm cho lòng tin và sự tin tưởng ở ngôi Hoàng Đế của Thạch Hổ tuy là người Hồ ( người miền Tây) nhưng vì kiếp trước đã tu nhân tích đức nên kiếp này mới được làm Hoàng Đế. Cách giải thích này đã tạo nên một sự đối chiếu, một sự so sánh quá rõ ràng đối với những thành kiến hẹp hòi mang tính dân tộc” Bên trong là người Trung Hoa bên ngoài là người mọi rợ” của truyền thống Trung Quốc. Điều này tự nhiên được Thạch Hổ chấp nhận.

Cũng giống như Thạch Lặc, Thạch Hổ cũng nổi tiếng trên thế gian bởi những hành động tàn bạo và chém giết bừa bãi, thậm chí còn hơn cả Thạch Lặc. Phật Đồ Trừng luôn luôn tìm đủ mọi cách khuyên can. Sau khi lên nắm quyền, Thạch Hổ thường hỏi Phật Đồ Trừng :” Thế nào là Phật Pháp  ?” Phật Đồ Trừng liền đáp:” Phật Pháp  tức là không sát sinh”. Thạch Hổ lo lắng hỏi lại:” Ta là chúa tể của thiên hạ, không cho sử dụng hình thức chém giết, không thể nào chấn an và cai quản được thiên hạ, giờ đây ta sát sinh là vi phạm giới luật của Phật giáo , nhưng ta lại tôn kính thờ phụng Phật, việc làm đó của ta có thu lại được phúc đức hay không?” Phật Đồ Trừng liền đáp:” Bệ hạ cần phải tâm phục khẩu phục những lời chỉ đạo của Đức Phật , phải dùng Tam Bảo soi lại mình( Phật giáo gọi Tam Bảo là: Phật, Pháp, Tăng), không được có những hành động bạo ngược, chém giết bừa bãi, không được bức hại kẻ vô tội. Còn đối với những kẻ hung bạo nhưng ngoan cố vô lại, những kẻ không thể giáo hoá được, nếu tội của chúng nặng bắt buộc phải chém, nếu đó là những hành động tàn ác thì đáng phải chịu hình phạt. Do đó. chém người tức là chém những kẻ đáng chém, hình phạt cũng nên áp dụng đối với những kẻ đáng bị trừng phạt. Nếu như có hành động bạo ngược một cách bừa bãi, trừng phạt, chém giết những người dân lương thiện vô tội thì cho dù có thờ phụng Đức Phật cũng không tránh khỏi tai hoạ. Cầu mong bệ hạ hãy từ bỏ những ham muốn cuồng loạn, khơi dậy lòng từ biết, làm nhiều điều thiện đức. Như vậy Phật giáo mới được hưng thịnh lâu bền, phúc của bệ hạ cũng sẽ được mênh mông như trời biển”. Lúc này Phật Đồ Trừng đã khéo léo kết hợp giáo lý cấm sát sinh của Phật giáo và việc chém giết bừa bãi, tàn bạo người dân vô tội của Đế Vương mục đích là khuyên răn Thạch Hổ . Tương truyền rằng, sau khi được Phật Đồ Trừng khuyên bảo Thạch Hổ lập tức “ từ bỏ gươm đao, lên ngôi thành Phật”.

Hồi đó Phật Đồ Trừng  là một người đóng vai trò lãnh tụ Phật giáo của khắp vùng phương Bắc. Sau khi được sự tôn trọng và sùng bái của Thạch Nhị Đế Vương thời Hậu Triệu, ông ta tranh thủ cơ hội này, tích cực dùng các đệ tử mau chóng truyền bá Phật Pháp  cho mọi người, điều đó giúp cho Phật giáo phát triển tương đối mạnh ở vùng phía Bắc Trung Quốc. Các vùng rộng lớn thuộc quyền cai quản của nhà Hậu Triệu thì đại đa số người Hán và người Hồ đều bắt đầu tôn thờ Phật giáo. Những người xuất gia làm tăng sĩ cũng mau chóng tăng lên. Trong đó cũng không ít người vì muốn trốn tránh binh dịch mà hạ tóc đi tu. Do đó Thạch Hổ liền ra chiếu thư cho các hạ thần bắt đầu thảo luận việc dân trăm họ đều được phép thờ phụng Phật giáo hoặc xuất gia, tu hành. Hồi đó có một số thần liêu lại chủ chương cấm chỉ toàn bộ việc thờ cúng Phật, càng không cho phép tuỳ ý việc xuống tóc đi tu, lý do họ nêu lên là, Phật giáo là một môn thần học ngoại nhập, người dân Trung Hoa và vua chúa của họ không nên thờ phụng Phật. Nhưng Thạch Hổ thì ý thức được rằng: mình là người Hồ, chính mình là kẻ đứng ngoài truyền thống của Nho gia, mình cần phải tìm một cái gì đó để làm trụ cột cho lý luận của một Hoàng Đế, thế là ngài liền ra chiếu thư nói rõ:” Các ngươi nói rằng, Phật giáo là một thứ thần học ngoại lai, thiên tử Trung Quốc và thần dân của họ không nên thờ phụng, nhưng bản thân Trường An lại sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này, giờ thì lại làm vua của người Trung Hoa, ta cần phải củng cố phong tục của Trường An, cho dù Phật giáo là một thứ thần học ngoại lai, nhưng Phật giáo là một tôn giáo mà ta cần thờ phụng. Từ nay trở đi, tất cả dân chúng nhà Hậu triệu đều có thể thờ phụng Phật, đều có thể tự nguyện xuất gia tu hành”. Bức chiếu thư này của Thạch Hổ đã mở ra mệnh lệnh của triều đình cho phép dân chúng có thể xuất gia tu hành.

Mối quan hệ mật thiết giữa Phật Đồ Trừng và anh em dòng tộc nhà Hậu Triệu đã giúp cho Phật giáo lần đầu tiên khi du nhập vào Trung Quốc nhận được sự che chở , bảo vệ của các Đế Vương phong kiến. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là: Phật Đồ Trừng đã lợi dụng đặc điểm xuất thân của Thạch Thị Hậu Triệu không phải là người Hán để khích lệ họ tạo điều kiện cho Phật giáo - một tôn giáo không phải là của người Hán - nhận được sự trọng thị mà xưa nay chưa từng có. Phật giáo đã cung cấp những luận chứng về lý luận cho Thạch Thị nhà Hậu Triệu sau khi xưng Đế, điều đó cũng giúp cho Phật giáo được tự thân phát triển một cách mạnh mẽ ở một vùng đất bao la rộng lớn. Dưới quyền cai quản của chính quyền nhà Hậu Triệu, chùa chiền được xây dựng ở khắp nơi, các tăng sĩ đông đúc, điều này đã xây dựng nền móng vững chắc và tốt đẹp cho việc Phật giáo tiếp tục phát triển ở phía bắc Trung Quốc. Phật Đồ Trừng viên tịch vào năm 348 sau Công nguyên tại chùa Nghiệp Cung, thọ 117 tuổi. Vào năm sau, Thạch Hổ cũng qua đời, để chanh chấp ngôi, con cháu của ông ta đánh chém lẫn nhau. Vào năm sau một người con nuôi của Thạch Hổ  là người Hán tên là Nhiễm Mẫn đã nhân cơ hội  này mà cướp quyền lập nên nước Nguỵ, chính quyền nhà Hậu triệu bị diệt vong.

Cũng vào quãng thời gian này, chính quyền nhà Tiền Tần do người Chi lập nên ở Quang Trung( bên vực sông vịnh tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc ) càng ngày càng lớn mạnh. Năm 357 sau Công nguyên , Phù Kiên lên ngôi, ông ta cũng rất trọng dụng các nhân sĩ người Hán làm phụ tá công việc chính trị, do đó thế và lực của ông ta được mau chóng mở rộng . Vào quãng năm 375 sau Công nguyên Phù Kiên nhà Tiền Tần về cơ bản đã thống nhất toàn bộ phía Bắc. Kế tục Thạch Lặc và Thạch Hổ; Phù Kiên Vương nhà Tiền Tần cũng rất sùng bái và tin Phật giáo. Em trai của Phù Kiên là Phù Dung cũng là một phật tử, hai anh em họ thường xuyên bàn luận Phật Pháp , đặc biệt là Phù Dung. Ông ta là một con người nghe nhiều nhớ tốt, vừa nghe được kinh Phật xong là ông ta có thể đọc tụng lại; hoặc kinh Phật mà ông ta đọc một lần thì khó mà quên. Ông ta còn sáng tác một bài “ Phù Đồ Phú”, văn chương của ông thì nhẹ nhàng, rõ ràng và dễ hiểu, mọi người thời bấy giờ tranh nhau tìm kiếm để đọc và cất giữ. Hai anh em Phù Kiên và Phù Dung nhà Tiền Tần cùng nhau tôn sùng Phật Pháp ; hai anh em lại có mối quan hệ thân thiết với một Tăng sĩ khá nổi tiếng thời bấy giờ tên là Đạo An; đồng thời họ coi Đạo An là một cố vẫn quân sự cao cấp, khiến cho Đạo An phát huy tác dụng vô cùng to lớn trong việc thống trị chính trị nhà Tiền Tần.

Đạo An hồi ở thế tục người họ Vệ, người Thường Sơn( ngày nay thuộc huyện Chính Định tỉnh Hà Bắc) xuất thân trong một gia đình gia giáo, nhưng mồ côi cha mẹ từ nhỏ được anh trai nuôi, bảy tuổi đã đọc kinh về toàn bộ câu văn chữ nghĩa của “ Ngũ Kinh”, ông đã hiểu thông thạo tất cả. Năm mười hai tuổi xuất gia tu hành. Sau khi xuất gia, Đạo An xuống học ở nghiệp thành và gặp Phật Đồ Trừng ở đó. Nhận thấy mình cần phải học hỏi người trước nhiều điều, do đó Đạo An xin Phật Đồ Trừng nhận mình làm học trò. Sau ít ngày học hỏi Phật Đồ Trừng , Đạo An liền xin tạm biệt thầy ra đi tìm kinh luật. Sau khi Phật Đồ Trừng qua đời, nhà Tiền Triệu diệt vong, Đạo An lập tức định cư ở vùng Tương Dương( ngày nay thuộc huyện Tương Phán tỉnh Hồ Bắc) làm công việc truyền giáo và dịch kinh sách. Đạo An sống ở Tương Dương tất cả là 15 năm, trong thời gian này ông mở rộng quan hệ với các tầng lớp trong xã hội, hoằng dương Phật Pháp , ông còn thu nhận rất nhiều đệ tử , đồng thời cùng các đệ tử dịch rất nhiều kinh sách Phật giáo rất lớn. Đặc biệt là ông căn cứ vào các nội dung có liên quan trong điển tịch ( sách cổ) Phật giáo Ấn Độ tự chế định ra” Qui phạm đối với tăng ni “,đó là cẩm nang cho các nhà tu hành trong lịch sử Trung Quốc . Các hoạt động tôn giáo trên đây của Đạo An  đã mở rộng ảnh hưởng của ông ta trong xã hội với Phật giáo ở phương Bắc. Sau khi được nghe tên tuổi của Đạo An , Tiền Tần Vương là Phù Kiên thường kể với các thần Liêu của mình như sau: “ Ngài Đạo An ở Tương Dương là một vị cao tăng có phép thần, nếu như có điều kiện, nhất định ta sẽ mời ngài về giúp ta việc chính sự”.

Mùa xuân năm 378 sau Công nguyên . một vị đại tướng nhà Tiền Tần tên là Phù Phi nhận lệnh đi đánh Tương Dương sau đó Đạo An bị tướng nhà Đông Tấn tên là Chu Tự( lúc này cũng đang làm nhiệm vụ chấn giữ thành Tương Dương ) giữ ngay lại, không cho phép Đạo An tự tiện đi lại. Trước tình hình này, Đạo An chỉ còn cách cho các đệ tử phân tán đi khắp nơi. Vào tháng hai năm sau, Phù Phi tấn công và chiếm được Tương Dương , bắt sống được Chu Tự, đồng thời cho dẫn giải Đạo An về thủ đô Trường An của nhà Tiền Tần( ngày nay thuộc huyện Tây An tỉnh Thiểm Tây). Khi Đạo An về đến Trường An, Phù Kiên vô cùng sung sướng, ban thưởng cho Đạo An rất nhiều thứ. Sau khi đến Trường An, Đạo An tu ở chùa Ngũ Trọng là một ngôi chùa to nhất trong thành Trường An, có khoảng một nghìn tăng sĩ tu hành ở đó. Từ đó trở đi trên thực tế Đạo An  là một người đứng ở một vị trí cao nhất trong hàng ngũ Phật giáo của thời Tiền Tần. Từ thời Nguỵ Tấn đến nay, các Sa môn Phật giáo lấy tên nước để đặt cho tên họ của mình hoặc lấy tên của Thầy mình đặt cho tên họ của mình, do đó các Sa môn rất khác nhau. Đạo An thì cho rằng, trong số các thầy của các vị Sa môn đây không có ai cao quý hơn Thích Ca Mâu Ni , do đó Đạo An chủ trương tất cả các Sa môn đều phải lấy họ Thích để làm họ của mình. Chủ chương này của Đạo An được tăng chúng chấp nhận. Từ đó trở đi, những người xuất gia tu hành theo Phật giáo đều lấy họ  Thích, họ tự xưng mình là con Phật.

Điều này đã đóng một vai trò rất tích cực trong việc tăng cường ý thức tôn giáo trong Tăng lữ của Phật giáo, củng cố đoàn kết trong nội bộ của Phật giáo .

Thích Đạo An đọc rất nhiều sách, ngài lại giỏi về văn chương. Hồi đó mọi người chức cao quyền trọng học rộng biết nhiều cùng các đệ tử của họ và những người làm thơ làm phú đều hỏi và bàn luận Phật giáo với Thích Đạo An , cầu mong ngài chỉ bảo. Theo sử sách để lại, hồi đó có một người phát hiện ra một cái nồi đồng rất to ở Lam Điền ( ngày nay thuộc huyện Lam Điền tỉnh Thiểm Tây) liền mang đến cúng dâng cho Phù Kiên. Sau khi được dâng hiến chiếc nồi này Phù Kiên vô cùng sung sướng, bởi vì chiếc nồi đó có thần khí, đây là một điềm rất tốt lành. Nhưng ở bên diềm cái nồi có một con dấu triện, nhưng trong triều không một ai biết đó là cái gì, thế là Phù Kiên cho mời ngài Thích Đạo An  đến để xem xét. Sau khi xem xong, Đạo An liền nói với Phù Kiên : đây là một con triện cổ, mấy cái chữ này là “ Lỗ Tương Công Sở Đúc”( người đúc cái này tên là Lỗ Tương Công). Nói rồi ngài liền tiện tay viết mấy chữ trong Triện đó ra thành kiểu chữ Lệ, do đó Phù Kiên càng thêm tôn kính Đạo An, mà cũng nhờ đó mà tên tuổi cùng với tiếng tăm của Đạo An ngày càng bay xa. Sau sự kiện này, Phù Kiên lại ra chiếu thư yêu cầu tất cả các học sĩ đều có nghi vấn, thắc mắc đều có thể đến hỏi ý kiến của Đạo An. Do đó tất cả các học sĩ trong thành Trường An đều suy tôn Đạo An làm thầy.

Trong cuộc đời tu hành theo Phật giáo của mình. Đạo An đã ghi xương khắc cốt một điều rằng: Phật giáo được cắm rễ và phát triển ở Trung Quốc là nhờ vào các thế lực của các đế vương phong kiến. Do đó Thích Đạo An đã khẳng định “ không nhờ Quốc Vương thì Phật Pháp khó mà tồn tại và phát triển”. Đối với Phù Kiên thì Thích Đạo An không chỉ là người thầy tôn giáo mà còn là một cố vấn chính trị tối cao của mình. Sau khi đã cơ bản bình định xong phần phía Bắc của Trung Quốc, Phù Kiên lại muốn tràn xuống phía Nam để diệt nhà Tấn, thống nhất toàn bộ Trung Quốc. Tháng 10 năm 328 sau Công nguyên , Phù Kiên ra chiếu chỉ họp quần thần bàn việc chinh phạt Đông Tấn, nhưng được rất ít người ủng hộ. Em trai của Phù Kiên là Phù Dung tuy tôn sùng Phật giáo  như anh, nhưng lúc này ông ta cũng phản đối việc tiến xuống phía nam tiêu diệt nhà Tấn. Thái tử Phù Hồng cùng chư thần đã khuyên can khẩn thiết, nhưng đều không được Phù Kiên chấp nhận.

Trước tình hình này, quần thần đành phải mời Thích Đạo An xuất đầu lộ diện ra khuyên can, bởi vì bình thường không có một lời nói nào của ngài Thích Đạo An là Phù Kiên không nghe. Lúc này Thích Đạo An  cũng không đồng ý cho Phù Kiên tràn xuống phí nam tiêu diệt nhà Tấn. Ngài cố đợi đến một cơ hội nào đó tìm cách thuyết phục Phù Kiên . Một hôm Phù Kiên đem việc tràn xuống phía nam tiêu diệt nhà Tấn đến bàn với Đạo An, nhân cơ hội này Đạo An khuyên can:” Bệ hạ phải trị vì thiên hạ thuận với đạo trời, sống trong đất này nhưng bệ hạ đã khống chế được tứ phía, bảo vệ được bốn bề bờ cõi, đức tính của ngài có thể so sánh với Nghiêu thuấn (4); do đó Bệ Hạ không cần phải lao tâm khổ tứ chạy đây chạy đó, phải rong ruổi nơi chiến trường ngoài biên cương mà Bệ hạ cần phải dùng tài năng và đức độ của mình để cảm hoá hoặc là thu hút tình cảm của những kẻ chưa được thu phục kia”. Thích Đạo An còn nhấn mạnh, khí hậu vùng Giang Nam rất ôn dịch ( nhiều dịch bệnh), xưa kia Nghiêu Thuấn đến đó mà không trở về, Đại Vũ đi đến đó mà không quay lại(Đại Vũ là Vua đầu tiên thời Hạ ở Trung Quốc, truyền thuyết là ông ta đã từng chống lụt thành công), mong Phù Kiên có thể chú ý đến tình hình cụ thể ở đó như thế. Sau khi nghe lời khuyên can của Đạo An, Phù Kiên trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu, dáng chừng không muốn nghe lời khuyên đó. Đạo An thấy lòng quyết tâm đánh xuống phía Nam của Phù Kiên đã định rồi, thế là ngài phải dùng kế hoãn binh, Đạo An nói với Phù Kiên rằng:” Nếu như bệ hạ tiến quân xuống phía nam, ngài sẽ phải lao tâm khổ tứ, chịu đựng khó khăn vất vả. Vậy trước tiên bệ hạ hãy tiến đánh Lạc Dương, ở đó nhất định ta sẽ thu được thắng lợi, sau đó cho sứ giả chuyển chiếu thư đến Đông Tấn, bắt họ phải qui thuận bệ hạ; nếu như họ còn mê muội, cố chấp không chịu hiểu ý của ta, lập tức bệ hạ cho quân ra nghênh chiến”. Kiến nghị này của ngài Thích Đạo An vẫn không được chấp nhận. Tháng tám năm 383 sau Công nguyên, Phù Kiên đích thân dẫn 80 vạn quân, nhưng tự xưng là 150 vạn quân tiến xuống phía Nam đánh Tấn. Lúc đó lực lượng giữa Tiền Tần vầ Đông Tấn chênh lệch quá lớn, Phù Kiên tự kiêu tự đắc ỷ vào quân đông thế mạnh, tưởng rằng đánh một trận thắng ngay, quân cả hai bên có một trận quyết chiến tại Phì Thuỷ có thể cho đó là kết quả của việc ông ta đã quá tự tin vào bản thân mình và quá kiêu ngạo ngang tàn. Nếu như Phù Kiên nghe lời khuyên của quần thần và Đạo An, kết quả có lẽ sẽ không như vậy. Tuy nhiên, nhận định này cũng chỉ là một giả thiết.

Sau trận Phì Thuỷ, chính quyền Tiền Tần càng ngày càng suy yếu, các nhà quí tộc người Hồ gấp rút chiêu binh mộ lính kéo quân đi đánh nhau với Phù Kiên. Năm thứ 20 của Phù Kiên Kiến Nguyên ( năm 384 sau Công nguyên ), dòng họ Mộ Dung dân tộc Tiên Tỵ hung hăng tập hợp quân sĩ kéo đến tấn công A Thành và tiến sát đến Trường An. Trong tình hình nguy kịch như thế, Phù Kiên lại càng tỏ vẻ mê tín, càng đảo điên đối với sự linh nghiệm của Thần Phật. Hồi đó có một phương sỹ ( người cầu tiên luyện đạo) là Dương Giá, ông ta là một con người có thần thông vi diệu, được Phù Kiên nghênh đón về Trường An, ở trong nội điện cùng với Đạo An, bất cứ một việc gì Phù Kiên cũng hỏi ý kiến hai người này. Vào tháng hai năm sau Thích Đạo An viên tịch; đến tháng năm Phù Kiên bị thất bại trước sự tấn công của dòng họ Mộ Dung, rồi lại thất bại trước sự tấn công của dòng họ Diêu Trường của người Khương, sau đó lại bị dòng họ Diêu Trường bắt giữ, rồi thắt cổ tự tử chết ở chùa Tần Bình, nhà Tiền Tần diệt vong.

Ở một nghĩa nhất định, mối quan hệ giữa Tiền Tần Vương Phù Kiên và Thích Đạo An đã thúc đẩy sự phát triển mau chóng của Phật giáo ở phía Bắc Trung Quốc. Đặc biệt là ngài Thích Đạo An đã sử dụng sự ủng hộ của Phù Kiên , tập hợp và xây dựng rất nhiều chùa để xây dựng kinh sách, đồng thời ngài Thích Đạo An cũng đã chủ trì việc dịch một số lượng lớn kinh Phật. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, số lượng kinh Phật mà ngài Thích Đạo An đã tự tay dịch là 20 bộ, 28 quyển, ngài còn biên soạn 15 chương kinh sách. Đây là những tiền đề cơ bản không thể thiếu được để Phật giáo tiếp tục phát triển ở Trung Quốc. Trong quá trình tổ chức và chủ trì biên dịch kinh sách, Thích Đạo An đã nêu lên nguyên tắc “ Ngũ thất bản, Tam bất dị”. Cái gọi là “ Ngũ thất bản” tức là chỉ trong quá trình biên dịch kinh sách cần phải chú ý đến năm nguyên nhân ?( hoặc là năm tình trạng) có thể làm mất đi, hay làm thay đổi nội dung của nguyên bản kinh. “ Tam bất dị” là chỉ ba mục tiêu rất khó đạt được trong quá trình dịch kinh sách là : Cần phải để cho lời văn của bản kinh dịch phù hợp với thời đại,  phù hợp với khả năng tiếp thu của các tín đồ Phật tử thời đại, cần phải giữ nguyên ý của bản kinh gốc.” Ngũ thất bản, tam bất dị” đã trở thành phương thức chỉ đạo của việc biên dịch kinh sách  lúc bấy giờ, đồng thời nó nâng cao được phương pháp luận nhất định cho những người biên dịch kinh sách thế hệ sau.

Quãng vào năm Kiến Nguyên lần thứ 17 ( năm 381 sau Công nguyên ) của Phù Kiên đời Tiền Tần, 62 Quốc Vương của các nước vùng miền Tây như Quốc Vương của nước Thiện Thiện ( ngày nay thuộc vùng Nhượng Khương của Tân Cương) và Quốc Vương của nước Vu Điền ( ngày nay là vùng Hoà Điền của Tân Cương) cùng nhau đến Trường An, triều cống cho Phù Kiên nên đi chinh phạt nước Khấu Từ ở miền Tây ( ngày nay là vùng Khố Xá ở Tân Cương) đồng thời họ còn nói rằng, họ sẵn sàng cử người đi dẫn đường. Lập tức Phù Kiên  cử ngay bộ tướng người Hung Nô tên là Lã Quang dẫn bảy vạn quân tiến về phía Tây. Trước khi lên đường, Phù Kiên dặn Lã Quang rằng:” Ta nghe nói ở nước Khấu Từ có một vị cao tăng tên là Cưu Ma La Thập, ông ta là người hiểu tướng Pháp một cách uyên thâm, giỏi về âm dương, để giúp ích cho con cháu và các học sĩ đời sau, nếu như chiếm được nước Khấu Từ, nhà ngươi nhất định phải đem ông ta về Trường An “. Sau khi nhận lệnh Quốc Vương cho xuất quân, vào năm thứ 20 Kiến Nguyên ( quãng năm 384 sau Công nguyên) Lã Quang đã đánh bại nước Khấu Từ và viện binh của các nước chư hầu đến cứu, Vua nước Khấu Từ bị giết, Lã Quang lập em trai của Vua lên làm Vua mới, và cho bắt ngay ngài Cưu Ma La Thập. Vào năm sau đó, Phù Kiên bị một trận đại bại sau trân Phì Thuỷ, cảnh tan hoang khổ nát diễn ra trên khắp đất nhà Tiến Tần. Do đó mà Lã Quang không chịu đưa quân về cứu viện mà cho quân nằm án binh bất động tại Tây Thành nghe ngóng tình hình, Lã Quang cũng không đưa ngài Cưu Ma La Thập về Trường An, mà giữ ngài Cưu Ma La Thập ngay bên mình.

Ngài Cưu Ma La Thập là người gốc Thiện Trúc, gia thế Tướng Quốc, phụ thân là Cưu Ma Viên sau khi đã lập tướng quốc lên thay mình, ông liền từ quan và cũng xuất gia, đồng thời ông cũng tiến về phía đông đến vùng Song Lĩnh. Lúc đó, ông được Quốc Vương của nước Khấu Từ đón về làm Quốc sự, sau được Quốc Vương nước Khấu Từ chọn làm em rể. Hồi đó nước Khấu Từ , Phật giáo được thịnh hành. Vương Muội sau khi sinh hạ được Cưu Ma La Thập không bao lâu cũng liền xuất gia làm ni sư, bản thân Cưu Ma La Thập từ năm bảy tuổi cũng đã xuất gia tìm thầy học kinh Phật . Tương truyền rằng, sau khi xuất gia ngài Cưu Ma La Thập đọc thuộc trôi trảy nhiều loại kinh, mỗi ngày có thể đọc được hàng nghìn câu. Năm lên chín tuổi, ngài Cưu Ma La Thập theo bố mẹ rời khỏi Khấu Từ , chuyển đến vùng Kế Định ( ngày nay là vùng Khắc Thập Mễ Nhĩ). Trong thời gian ở vùng Kế Định,, ngài Cưu Ma La Thập đã đọc một số lượng lớn kinh điển của Phật giáo Tiểu thừa, trình độ Phật học ngày càng được nâng cao, đồng thời ngài cũng có một số ảnh hưởng tương đối rộng lớn. Lúc đó ngài mới chỉ là một cậu bé quãng mười tuổi. Quốc Vương nước Kế Định đã từng mời cậu vào trong Cung để cậu ta biện luận cùng với những người ngoại đạo. Cậu ta hùng biện trôi chảy mạch lạc, cuối cùng thu được thắng lợi, do đó đã được Quốc Vương nước Kế Định đặc biệt khen thưởng. Vào năm 12 tuổi, ngài theo cha mẹ trở về nước Khấu Từ, trên đường trở về qua vùng núi phía Bắc núi Nguyệt Chi ( Ngày nay là vùng Pa-sa-oa của Pakistan) ngài đến nước Sa Lặc ( ngày nay là vùng Ca Thập tỉnh Tân Cương). Ở đó một năm, ngài đọc rất nhiều kinh điển của Phật giáo Đại thừa, do đó trình độ học vấn Phật Pháp của ngài ngày càng được nâng cao, từ đó trở đi ngài Cưu Ma La Thập lại theo cha mẹ về nước Ôn Túc ( ngày nay là vùng Ôn Túc của tỉnh Tân Cương) phía Tây nước Khấu Từ . Và trong một cuộc biện luận cùng với các người ngoại đạo, một lần nữa ngài lại thu được thắng lợi, tiếng tăm ngài do đó được truyền đi xa hơn, rộng hơn. Thế là Quốc Vương nước Khấu Từ lại cho người đi đón hai mẹ con ngài trở về sống trong nước.

Sau khi trở lại nước Khấu Từ, ngài Cưu Ma La Thập thường xuyên giảng kinh thuyết pháp, tuyên truyền những giáo nghĩa của Phật giáo  Đại thừa, điều đó khiến cho nền Phật giáo Tiểu thừa đang thịnh hành ở vùng Khấu Từ này được thay thế bằng nền Phật giáo Đại thừa. Vào quãng năm 20 tuổi, ngài Cưu Ma La Thập đã chính thức thụ giới xuất gia. Chẳng bao lâu sau, cha mẹ của ngài từ biệt nước Khấu Từ trở về nước Thiên Trúc. Trước khi chia tay, họ dặn ngài Cưu Ma La Thập cần phải tiếp tục hoằng dương( phát triển ) Phật Pháp, đặc biệt là cần phải truyền giáo sang phương đông. Do tiếng tăm của ngài đã nổi trong giới Phật giáo trong nước Khấu Từ và do trình độ Phật học của ngài thuộc dạng cao siêu, nên Khấu Từ Vương đã chế tác cho ngài một chiếu ghế hình sư tử bằng vàng phủ gấm vóc của nhà Đại Tần để mời ngài ngồi thuyết pháp ở chỗ đó. Khi đó tất cả chư tăng ở miền tây đến quay trở về nước Khấu Từ để nghe ngài Cưu Ma La Thập giảng  giải Phật Pháp, tiếng tăm của ngài Cưu Ma La Thập từ đó mà bay đi xa, truyền khắp miền Tây và cũng đã truyền vào miền Trung nguyên.

Trong thời gian nước Khấu Từ hoằng dương Phật Pháp, Ngài Cưu Ma La Thập luôn ghi nhớ lời dặn của cha mẹ trước lúc chia tay, luôn luôn mong đợi cơ hội để mình tiếp tục truyền bá Phật giáo ở phương đông. Lã Quang sau khi đánh chiếm được nước Khấu Từ và ở lại luôn nơi này, ngài Cưu Ma La Thập dần dần đã chiếm được tín nhiệm của Lã Quang, trở thành cố vấn quân sự của Lã Quang. Hồi đó Lã Quang muốn ở lại Tây Thành và xưng Vương ở vùng phía Tây này, căn cứ vào tình hình thực tế lúc đó, ngài Cưu Ma La Thập liền khuyên can ông ta rằng:” Vùng Khấu Từ này đất rất dữ, ở lại lâu không tốt, ở vùng giữa Hà Tây có vùng đất tốt có nhiều phúc lộc sao ngài lại không tiến về phía đông để tránh hạn và cầu phúc?” Thế là Lã Quang cùng ngài Cưu Ma La Thập dẫn đại quân tiến về phía đông. Năm 385 sau Công nguyên, trong lúc tiến quân về phía đông, Lã Quang đã đánh bại được đạo quân của quan Thích Sử Lương Châu nhà Tiền Tần tên là Lương Hi, sau đó tiến vào vùng Cô Tạng ( ngày nay thuộc vùng Vũ Uy tỉnh Cam Túc), tự phong là Lương Châu Mục; vào năm sau, khi nghe tin Phù Kiên chết, ông ta lại một lần nữa tự xưng là đại tướng quân Đô Lũng Hữu Hà Tây, Trung Lang tướng đứng đầu và bảo vệ Hung Nô, Lương Châu Mục, tước là Tửu tuyền đồng thời lên ngôi lấy niên hiệu là Thái An; sau đó ông ta lại sửa thành Tam Hà Vương, chẳng bao lâu lại tự lên ngôi thành Đại Lương Thiên Vương, lập nên chính quyền Hậu Lương.

Lã Quang nhà Hậu Lương và người kế tục ông ta đều là những người không thành tâm tôn thờ Phật, và cũng không ủng hộ ngài Cưu Ma La Thập làm công việc biên dịch kinh sách, mà chỉ coi ngài Cưu Ma La Thập là một phương sĩ có thể xem bói toán để đoán trước được điều hung điều lành hoặc phúc đức, tai hoạ. Năm thứ hai của Long Phi nhà Hậu Lương( năm 397 sau Công nguyên ), một vị quan tên là Từ Cứ Nam Thành trấn giữ vùng Trương Dịch đã khởi binh chống lại nhà Hậu Lương, đồng thời cử quan Thái Thú Đoạn Nghiệp thời Kiến Khang, Hậu Lương giữ được chức Lương Sơn mục, tước là Kiến Khang. Sau khi nghe tin này, Lã Quang liền cử con thứ tên là Lã Soạn dẫn năm vạn quân đến dẹp loạn. Lúc này các quan văn võ trong triều đều cho rằng: mối quan hệ giữa Từ Cứ Nam Thành và Đoạn Nghiệp cùng những kẻ dưới quyền khác đang ở dạng ô hợp, hỗn quân hỗn quan, cuộc chinh phạt lần này của Lã Soạn chắc chắn sẽ chiến thắng. trước khi cử con đi dẹp loạn, Lã Quang đến hỏi ngài Cưu Ma La Thập, ngài Cưu Ma La Thập liền nói rằng:” Theo nhận định của ta, chuyến đi này Lã Soạn nhất định dành thắng lợi”. Chẳng bao lâu sau, Lã Soạn trở về với niềm vui chiến thắng. Từ đó trở đi, Lã Quang liền coi ngài Cưu Ma La Thập là một người có tài năng thần kỳ. Khi Lã Quang còn đang trị vì, ngài rất coi trọng quan Trung thư giám là Trương Tư, sau khi Trương Tư đổ bệnh, Lã Quang cử rất nhiều người đi khắp nơi tìm thầy thuốc giỏi tìm phương cứu chữa, vô cùng quan tâm, chăm sóc. Khi đó đạo sĩ người nước ngoài tên là Laxoa, ông ta tự xưng là mình có thể chữa khỏi bệnh cho ngài Trương Tư, Lã Quang hậu đãi ông ta, sau đó yêu cầu ông ta chữa bệnh cho Trương Tư. Nhưng ngài Cưu Ma La Thập đã nói trước cho Lã Quang biết rằng, Laxoa chỉ là một kẻ ăn nói linh tinh, lừa bịp; ông ta không biết cách chữa bệnh. Nói xong ngài Cưu Ma La Thập liền lấy ra một đoạn dây thừng chặt ra làm năm mầu. Ngài nói với Lã Quang rằng, sau khi đốt đoạn dây này, rồi đem tro của nó để vào chậu nước, đoạn dây đó có thể phục hồi nguyên vẹn hình dạng ban đầu thì bệnh của Trương Tư không thể cứu chữa khỏi, Trương Tư chắc chắn sẽ chết. Nếu như đoạn dây năm mầu đó không thể phục hồi lại nguyên dạng thì bệnh của Trương Tư có thể chữa khỏi. Trước mặt Lã Quang  ngài Cưu Ma La Thập liền đốt đoạn dây năm mầu đồng thời đem tro của nó thả vào trong chậu, lập tức dây năm mầu phục hồi lại nguyên vẹn. Vài ngày sau, quả nhiên Trương Tư bệnh nặng qua đời.

Lã Quang tịch ( từ trần) vào năm 399 sau Công nguyên, con trai trưởng tên là Lã Thiệu lên ngôi, nhưng con trai thứ là Lã Soạn đã giết chết anh để tự lên ngôi. Chẳng bao lâu sau, trong nhân gian tương truyền rằng có một con lợn sinh bởi chú lợn ba đầu, đồng thời lại có truyền thuyết rằng chú rồng được sinh ra ở trong Đông Sương Tỉnh ( giếng Đông Sương) đồng thời nằm bẹp tại điện trước. Sau khi nghe được hai truyền thuyết này, Lã Soạn cho rằng đó là một điềm báo trước vô cùng tốt lành, nhân đó đổi tên điện trước thành điện Long Tường ( có nghĩa là điện mà có rồng hay vòng xung quanh). Về việc này ngài Cưu Ma La Thập đã cố gắng khuyên giải Lã Soạn như sau: “ Nghe nói Bệ hạ cho rằng, một con rồng đang nấp mình ở ẩn mà bay ra thì đó là một điều tốt lành, e rằng sự thật không đơn giản như vậy đâu. Con rồng là một loài vật thuộc về âm thế, nó bay ra khỏi tổ hay ẩn lấp theo mùa, gần đây nhiều lần thấy con rồng ở ẩn hay lượn ra ngoài, thực ra đó là một điềm báo trước cho tai hại sắp đến. Bầy tôi xin khẳng định rằng, hiện nay có những kẻ dưới quyền đang âm mưu chiếm ngôi của bệ hạ. Do đó bệ hạ hãy tự kìm chế mình và tu nhân tích đức, giữ giới để kiếp sau còn được lên sống ở trên trời”. Chẳng bao lâu sau, quả nhiên Lã Soạn bị anh và em ruột là Lã Chiêu và Lã Long mưu sát, và Lã Long đã lên ngôi. Vào thời kỳ Ngũ Đại thập Lục Quốc, để đảm bảo cho nhu cầu tiếp tục được truyền giáo, các tăng sĩ Phật giáo cũng thường xuyên phải học thêm các phương pháp xem bói âm dương. Tài năng thể hiện trên đây của ngài Cưu Ma La Thập, đó chính là ngài đã sử dụng tài năng và những học vấn của mình trong vấn đề đó, tức là trong khi hiểu rõ và lợi dụng sự mâu thuẫn trong nội bộ tập đoàn cầm quyền của giai cấp phong kiến, ngài đã tuỳ cơ mà đưa ra những lời khuyên giải, vào năm 384 sau Công nguyên, tức là một năm sau trận Phì Thuỷ, một vị tướng lĩnh cũ của nhà Tiền Tần người dân tộc Khương tên là Diêu Trường đã dấy binh khởi nghĩa, lập nên chính quyền nhà Hậu Tần ở phía Bắc Vị Thuỷ ( sông vị), hai năm sau đó ông ta liền đem quân tiến vào Trường An, lên ngôi Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Tần. Ở đó Diêu Trường cũng được nghe đến tên tuổi của ngài Cưu Ma La Thập. Diệu Trường cũng cử người đến nhà Hậu Lương thành tâm thành kính mời ngài Cưu Ma La Thập, nhưng dòng họ Lã nhà Hậu Lương thì cho rằng, ngài Cưu Ma La Thập thông minh, đa mưu túc kế, sợ rằng ngài sẽ nghĩ ra nhiều mưu mẹo cho Diêu Trường. Do đó dòng họ Lã nhà hậu Lương đã cương quyết từ chối lời thỉnh cầu của  nhà Hậu Tần. Sau khi Diệu Trường mất, con trai tên là Diệu Hưng lên ngôi. Diệu Hưng lại sai người đi mời bằng được ngài Cưu Ma La Thập về nhưng cũng không kết quả gì. Diêu Hưng vô cùng tức giận, lập tức cử Diêu Thạc Đức tước là Lũng Tây của nhà Hậu Tần tiến về phía Tây trừng phạt nhà Hậu Lương, dùng vũ lực mời bằng được ngài Cưu Ma La Thập về. Nhà Hậu Lương bại trận, chẳng bao lâu sau liền dâng thư xin hàng, đến lúc này ngài Cưu Ma La Thập mới được đón về nội đô Trường An, ngài đã 58 tuổi.

Chúa nhà Hậu Tần tên là Diêu Hưng là người ít tôn sùng Tam Bảo và ca tụng Phật giáo. Sau khi cho người đón ngài Cưu Ma La Thập về nội đô trường An , làm lễ đón tiếp ngài Cưu Ma La Thập như đón tiếp một quốc sư, đưa ngài Cưu Ma La Thập về sống tại vườn Tiêu Dao để ngài dịch kinh thuyết pháp ở đó. Có lúc Diêu Hưng cũng đến nghe ngài Cưu Ma La Thập giảng kinh Phật, thậm chí có lúc Diêu Hưng cũng đích thân tham gia dịch kinh.Vườn Tiêu Dao nằm ở phía Bắc Vị Thuỷ của Trường An. Trong vườn có lầu Tây Minh là nơi ngài Cưu Ma La Thập chuyên dùng để dịch kinh, trong vườn Tiêu Dao còn có Trừng Huyền Đường, là nơi để ngài Cưu Ma La Thập giảng kinh thuyết pháp. Diêu Hưng còn xây dựng cho ngài Cưu Ma La Thập một nơi để dịch kinh nữa đặt tên là Trường An Đại Tự, tức là Thảo Đường Tự, dưới chân núi Trung Nam.

Diêu Hưng cho rằng, giáo nghĩa của Phật giáo rất thâm sâu, Phật giáo luôn niệm điều lành, làm việc thiện để cứu vớt chúng sinh, cứu vớt mọi người ra khỏi bể khổ, các phép tắc, các giới luật của Phật giáo có thể ban hành rộng rãi để trị nước yên dân. Do đó cùng với việc Diêu Hưng ra sức ủng hộ ngài Cưu Ma La Thập dịch kinh thuyết pháp. Diêu Hưng còn lo lắng nghe những lời dạy bảo của ngài Cưu Ma La Thập làm thêm các công việc như đọc kinh, tu thiền và biên soạn thêm sách. Theo những ghi chép trong sách sử có liên quan, dưới sự chỉ đạo hướng dẫn của ngài Cưu Ma La Thập, Diêu Hưng đã viết tác phẩm thư luận như “ Luận Thông Tam Thế”, “Thông Bất trú Pháp Trú Bát Nhã”,” Thông Thánh Nhân Phóng Đại Quang Minh, Phổ chiếu Thập Phương”, “ Thông Nhất Thiết Chư Pháp Không”. Xét từ mọi góc độ các Đế Vương trong phong kiến Trung Quốc, các quyển sách đó đã nói rõ thêm và giúp mọi người hiểu sâu thêm về giáo nghĩa cơ bản của Phật giáo. Như trong tác phẩm “ Luận Thông Tam Thể” ngài đã giảng giải rõ sự tồn tại chân thật của Tam Thế, đó là: quá khứ thế ( kiếp trước), hiện tại thế (kiếp này), vị lai thế ( kiếp sau) để nói rõ giáo lý cơ bản của nhân quả báo ứng tam thế luân hồi trong Phật giáo. Sự lý giải này của Diêu Hưng chủ yếu là nhằm thẳng vào giáo nghĩa Phật giáo Đại thừa vừa mới hưng khởi, đó là một giáo nghĩa cho rằng tất cả các sự vật và hiện tượng đều là hư ảo không thật, tức là Diêu Hưng đã nêu lên cái gọi là” Chư Pháp Giai Không” ( tất cả các pháp đều là không). Theo thuyết của Phật giáo Đại thừa, tất cả các pháp đều không, vậy thì tam thế cũng không tồn tại. Diêu Hưng thì cho rằng, nếu như phủ định sự có thật của tam thế, vậy thì cũng coi như phủ định giáo nghĩa luân hồi tam thế. Do đó tam thế là sự tồn tại có thật, trong đó hai thế là quá khứ vị lai tuy rằng mắt ta không nhìn thấy thật, nhưng thực sự là có. Như mắt ta không thể nào nhìn thấy sự tồn tại của lửa trong thanh gỗ nhưng mà lửa đã có sẵn ở trong thanh gỗ rồi, khi có đầy đủ các điều kiện, gỗ lập tức sẽ bắt lửa. Ngài Cưu Ma La Thập không dễ dàng gì phản bác lại quan điểm của Diêu Hưng, mà chỉ nói cho Diêu Hưng biết rằng, nếu xét từ nghĩa đế thứ nhất của Phật giáo ( Nghĩa Đế còn gọi là chân Đế, chân lý tối cao), thì trong tất cả các pháp đều có tính không, nhưng xét từ một góc độ khác, tức là xét từ một góc độ mà Phật giáo  thường gọi là “ tục đế” thì tất cả các sự vật hiện tượng đều có, đều tồn tại; không thể đem hai thứ đó so sánh tuyệt đối mà ta chỉ đem hai thứ đó gộp lại để tiến hành xem xét, và đánh giá( tức là Phật giáo thường gọi là trung quán hoặc trung đạo) làm như vậy mới phù hợp với lí luận của bản thân Phật giáo.

Do ảnh hưởng của Diêu Hưng, con cháu nhà Hậu Tần và các quan lại triều thần đều rất sùng bái Phật giáo. Họ cũng biên soạn một số sách về đề tài giáo nghĩa của Phật giáo, sau đó nhờ ngài Cưu Ma La Thập sửa và chỉnh lý. Điều này đã giúp cho Phật giáo càng được lưu truyền rộng rãi và phát triển ở vùng phía bắc rộng lớn của Trung Quốc. Lúc đó ngay trong thành phố Trường An đã có khoảng hơn một nghìn tăng ni. Để tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với Phật giáo, theo kiến nghị của ngài Cưu Ma La Thập, Diêu Hưng đã thành lập một hệ thống hành chính nhà nước để quản lí các tăng ni, bổ nhiệm một đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập tên là Tăng Thế vào chức tăng quan cao cấp nhất để quản lý hệ thống tăng ni này, tức là Tăng Chính; lại cử một đệ tử khác của ngài Cưu Ma La Thập tên là Tăng Thiên làm chức Duy Na Bộ ( tiếp đón Tăng chúng và giải quyết các chính sách phục vụ cho tăng chúng). Điều đó đã giúp cho việc quản lý các tăng chúng được thống nhất theo kỷ cương, Tăng thiên làm phó cho ngài Tăng Thế; cho thiết lập hệ thống sổ sách ghi chép các công việc, các chi phí của Tăng đoàn, quản lý và nắm chắc sổ sách chi tiêu và các công việc của Tăng Ni trong toàn quốc, các công việc đó đều do hai đệ tử của ngài Huệ Bân cùng nhau phụ trách. Bộ máy quản lý của tăng đoàn này cũng là một trong những bộ máy quản lý hành chính của nhà nước, do đó Diêu Hưng cũng dành nhiều công sức chú ý, quan tâm, điều đó khiến cho bộ máy hành chính đó càng phát huy tác dụng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo ở Trung Quốc nhà nước đã thiết lập bộ máy quản lý các tăng đoàn mang tính chất hành chính nhà nước.

Cho đến lúc trước khi qua đời, tất cả hoạt động của ngài Cưu Ma La Thập đều đạt dưới sự quản lý của chính quyền nhà Hậu Tần. Quãng thời gian đó kéo dài tất cả là 11 năm. Trong thời gian này, ngài Cưu Ma La Thập đã dịch tất cả được 35 bộ kinh Phật tổng cộng là 290 quyển, đồng thời đã đào tạo được rất nhiều đệ tử trong đó có rất nhiều người nổi tiếng như Đạo Sinh, Tăng Triệu v.v… Trong quá trình phát triển Phật giáo sau này ở Trung Quốc, các đệ tử này đã phát huy tác dụng nhất định. Trong thời gian làm việc dưới quyền nhà Hậu Tần, ngài Cưu Ma La Thập đã xây dựng và tổ chức một tăng đoàn lúc bấy giờ chỉ là dịch kinh, thuyết pháp và truyền giáo, nhưng việc tuyển chọn nhân tài là để tuyên truyền Phật giáo, Phật Pháp cho thế hệ sau v.v…ở một ý nghĩa nhất định nào đó, nó cũng đã ảnh hưởng đến sự cai quản của giai cấp cầm quyền đối với thế tục, trong đó ẩn chứa sự mâu thuẫn giữa quyền lực của Vua chúa với giáo hội của Phật giáo, và đợi đến cơ hội chín muồi, sự mâu thuẫn này sẽ bùng lên và diễn ra một cách gay gắt. Sự đấu tranh gay gắt giữa các mâu thuẫn đó được hình thành và phát triển trong bối cảnh xung đột gay gắt giữa tư tưởng và truyền thống của Trung Quốc và tư tưởng văn hoá Phật giáo.

 

Phật và Lão cùng tranh dành sùng ái
Thác bạt thọ cứu Phật Pháp lúc nguy nan

 

Sau trận Phì Thuỷ, chính quyền Tiền Tần ở phương Bắc bị sụp đổ hoàn toàn. Các dân tộc sống dưới chế độ thống trị của nhà Tiền Tần nhân cơ hội này tranh nhau nổi lên dành độc lập, trong đó có một thủ lĩnh người dân tộc Tiên Ti tên là Thác Bạt Khuê đã họp hội nghị toàn thể dân tộc Tiên Ti vào năm 386 sau Công nguyên ở vùng Ngưu Xuyên ( ngày nay ở vùng phụ cận của Hô Hoà Hạo Đặc vùng Nội Mông) xưng làm Đại Vương, thành lập đại chính quyền riêng: sau đó không lâu, Thác Bạt Khuê lại rời đô về Thịnh Lạc ( ngày nay là vùng Hoà Lâm Cách Nhĩ của Nội Mông) đổi tên thành Nguỵ Vương. Về mặt lịch sử, chính quyền này được gọi là Bắc Nguỵ. Qua hơn chục năm sau khi lập nước Bắc Nguỵ, Thác Bạt Khuê dần dần tiêu diệt hết chính quyền của các dân tộc vùng lân cận, do đó mà biên giới lãnh thổ càng ngày càng được mở rộng. Vào năm 389 sau Công nguyên, Thác Bạt Khuê lại dời đô về Bình Thành ( ngày nay là thành phố Đại Đồng của tỉnh Sơn Tây), huỷ bỏ hiệu Vương Nguỵ, lập tức lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Bắc Nguỵ Đào Vũ Đế. Chính quyền Bắc Nguỵ dần dần phát triển thành vương Triều phong kiến thống trị phương Bắc thời Nam Bắc Triều.

Do Phật giáo được lưu hành rộng rãi trong xã hội ở phương Bắc ở Trung Quốc vào thời kỳ Ngũ Hồ Thập lục quốc ( 16 nước Ngũ Hồ), đồng thời Phật giáo cũng đã tạo được một uy thế nhất định, do đó trong thời kỳ đầu lập nước Bắc Nguỵ, Đạo Vũ Thế Thác Bạt Khuê về cơ bản cũng không dám coi thường Phật giáo. Theo sử sách có liên quan, Thác Bạt Khuê rất giỏi về các pháp thuật của Hoàng Lão, nhưng cũng rất muốn truyền bá kinh Phật; do thời kỳ này bước đầu xã hội ổn định, phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước, do đó mà ông ta cũng chưa có điều kiện nghĩ đến việc xây dựng chùa chiền, phát triển tăng chúng; Nhưng ngay cả trong thời kỳ chiến tranh khẩn cấp, ông ta cũng đặc biệt coi trọng các tăng sĩ. Hồi đó có một vị Hoà Thượng tên là Tăng Lãng, Phật Pháp uyên thâm, hoà thượng này cùng với đồ đệ của mình ở ẩn trong động Kim Dư của núi Thái Sơn. Sau khi biết tin này, Đạo Vũ Đế lập tức hạ chiếu thư gửi đến Tăng Lãng, đồng thời gửi cho Tăng Lãng vải lụa trắng muốt như bạc, hơn thế nữa Đạo Vũ Đế còn tán dương công đức của Tăng Lãng  như núi như biển, khen Tăng Lãng là một con người tính toán tài tình, nhìn xa trông rộng, do đó Đạo Vũ Đế đã tha thiết mời ngài Tăng Lãng xuống núi hoặch định chính sách cho mình, giúp mình cai quản thiên hạ. Còn có một số tăng sĩ nữa tên là Pháp Quả, là một con người am hiểu sâu sắc về yếu chỉ hoằng dương Phật Pháp, sau khi Bắc Nguỵ Đạo Vũ Đế lên ngôi Hoàng Đế, ngài Pháp Quả liền ca ngợi Đạo Vũ Đế như là một bậc Như Lai(5) của đương đại, rồi yêu cầu các Sa môn phải kính trọng lễ lạy Đạo Vũ Đế. Đạo Vũ Đế đối xử với ngài Pháp Quả càng nồng hâu hơn, phong ngài Pháp Quả làm tổng quản( chức này cũng giống như chức tăng chính của thời Hậu Tần, sau đổi thành tổng quản của các Sa môn, tức chức vụ cao nhất để quản lý các tăng sĩ). Chuyện các Sa môn Phật giáo phải cung kính lễ lạy các Vương giả, đó chính là một biểu hiện của xung đột gay gắt của Phật giáo sau khi du nhập vào Trung Quốc và các tôn giáo truyền thống của Trung Quốc, bấy giờ tại Pháp Quả lại với tư cách là một tu sĩ yêu cầu các Sa môn phải cung kính các Vương giả, điều này ở một ý nghĩa nhất định nào đó cũng coi như vứt bỏ sự kiên định, bất di bất dịch của Phật giáo. Nhưng sự nhượng bộ này của ngài Pháp Quả kể ra cũng có lý, tức là như ngài đã từng nói, Đạo Vũ Hoàng Đế là một vị Như Lai của đương đại, các Sa môn cung kính lễ bái ngài thì điều đó cũng giống như cung kính lễ bái Như Lai. Đây là một sự nhượng bộ vừa giữ vững được những nguyên tắc cơ bản nhưng lại có tính linh hoạt, nó đã mở đường cho Phật giáo được tiếp tục phát triển ở xã hội Bắc Triều.

Nhờ có sự qua lại liên tục của các vị đại đức cao tăng, Bắc Nguỵ Đạo Vũ Đế càng ra sức tôn thờ Phật giáo. Khi mà nền hoà bình vừa mới đến với phương Bắc, ngài lập tức hạ chiếu cho xây dựng và tu bổ các chùa, các tháp thờ Phật ở ngay trong kinh thành, điều đó đã giúp cho các tăng sĩ xuất gia và những tín đồ Phật giáo có nơi ở để tu hành và nơi đến làm lễ cúng bái. Điều này đã giúp cho Phật giáo chiếm được vị trí nhất định trong xã hội Bắc Nguỵ thời kỳ đầu lập quốc.

Sau khi Bắc Nguỵ Đạo Vũ Đế qua đời, con trai của ông tên là Thác Bạt Tự lên kế vị, xưng là Bắc Nguỵ Minh Nguyên Đế. Minh Nguyên Đế cũng kế tục chí, hướng của Cha, vừa tôn sùng Hoàng Lão vừa rất giỏi Phật Pháp, ông ta cũng cho xây dựng chùa chiền, miếu thờ Phật khắp mọi nơi, ông ta còn yêu cầu các Sa môn giúp mình việc giáo hoá các thế tục, coi tín ngưỡng Phật giáo là biện pháp để Vương hoá. Còn đối với vị hoà thượng Pháp Quả, Minh Nguyên Đế đã nhiều lần hạ chiếu phong cho ngài Pháp Quả các tước hiệu như: Phó Quốc Nhị Thành Tử, Trung Tín Hầu, An Thành Công v.về việc đó đã mở ra một việc là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc  các hoàng đế phong tước hiệu cho các tăng sĩ. Nhưng bản thân ngài Pháp Quả đã cương quyết từ chối không nhân các tước hiệu phong trên. Do cổng ra vào ngôi chùa mà ngài Pháp Quả đang ở tương đối nhỏ, xe kiệu của hoàng để không thể vào được. Minh Nguyên Đế lập tức cử thợ đến sang sửa lại cửa đó, để thuận tiện cho việc mình đích thân đến thăm viếng ngài Pháp Quả. Điều đó cho thấy thái độ trân trọng, tôn kính của ngài Minh Nguyên Đế  đối với Phật giáo và những con người đại diện cho Phật giáo. Sau đó không lâu, ngài Pháp Quả viên tịch, lúc đó hơn 80 tuổi. Nhân lúc linh cữu chưa mai táng. Với lòng thương kính và trước mặt mọi người, Minh Nguyên Đế liền truy phong tặng ngài Pháp Quả các tước vị như: Lão Thọ Tướng Quân, Triệu Hồ Linh Công…Do ngài Pháp Quả lúc hơn 40 tuổi mới xuất gia, lúc ở thể tục đã cưới vợ và sinh con, Minh Nguyên Đế lập tức cho gọi con trai ở thế tục của ngài Pháp Quả đến nhận tất cả các tước hiệu này thay ngài Pháp Quả. Sự thật lịch sử này có vẻ như buồn cười, phong tước hiệu cho một vị hoà thượng, nhưng lại để cho con của ông ta đến nhận, điều đó trong lịch sử Trung Quốc chưa hề có.

Sự tôn kính Phật giáo của hai vị Đế Vương Đạo Vũ và Minh Nguyên Đế đã khiến cho Phật giáo ở phương Bắc ngày càng lớn mạnh, đồng thời dần dần Phật giáo đã trở thành một thành phần xã hội không thể xem nhẹ. Hiện thực lịch sử này tất nhiên sẽ làm cho mâu thuẫn giữa Phật giáo và văn hoá tư tưởng truyền thống của Trung Quốc cùng với nề nếp thống trị nhân dân của giai cấp cầm quyền trở nên gay gắt hơn.

Năm 424 sau Công nguyên, Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế Thác Bạt Đạo lên ngôi. Theo ghi chép của lịch sách sử có liên quan, thời kỳ sau khi lên ngôi, Thác Bạt Đạo tiếp tục kế nghiệp của hai vị Đế Vương là Đạo Vũ và Nguyên Minh, thường xuyên bàn luận Phật giáo cùng với các vị đại đức cao tăng. Vào ngày Phật đản(08-04) Âm lịch hàng năm, Thác Bạt Đạo còn cho rước tượng Phật lên xe kiệu đi diễu hành khắp các phố phường, bản thân mình cũng đích thân lên đứng ở cửa lầu rắc hoa lên trên đường phố để tỏ lòng thành kính. Sau khi Thác Bạt Đạo lên ngôi được ít lâu, ông ta liền cho tiến binh theo hành lang Hà Tây,trừng phạt và dẹp Lương Châu, sau đó đón rất nhiều tín đồ Phật tử trở về Bình Thành; ông còn bắt trả lại và khôi phục rất nhiều đất đai, danh lam thắng cảnh của các ngôi chùa cũ, đồng thời dùng danh nghĩa cá nhân xây chùa Tống Chánh ở Nghiệp Thành. Những điều trên cho thấy rõ, thời kỳ đầu lên ngôi, Thác Bạt Đạo rất coi trọng Phật giáo , hay có thể nói rằng, thời kỳ đầu lên ngôi ông ta đã Quy Y Tam Bảo (6). Theo lời ghi chép trong sử tịch có liên quan, ông ta sức khoẻ dồi dào, giỏi việc binh đao, thường xuyên đặt việc dẹp loạn lên hàng đầu; Tuy rằng ông ta có những hành động quy y Phật và tôn kính các Sa môn, nhưng ông ta chưa hề đọc qua một quyển kinh Phật nào, do đó chưa được tờ chỉ duyên báo của Phật giáo…điều này cho thấy rõ, tuy rằng Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế Thác Bạt Đạo rất tôn kính Phật giáo, nhưng ông ta cũng không mấy am hiểu Phật giáo .

Thời kỳ đầu lập chính quyền nhà Bắc Nguỵ, cần phải mở mang bờ cõi, cần phải củng cố hệ thống chính trị và thống trị nên cần phải thực hiện quản lý tốt các công việc như lao dịch, binh dịch và thuế khoá của nhân dân. Thông thường…các Sa môn Phật giáo thì được miễn các công việc lao dịch, binh dịch và thuế khoá, tất nhiên điều này đã ảnh hưởng đến nguồn binh lực và nguồn tài chính của nhà nước phong kiến. Do đó vào năm Thái Diên thứ tư ( năm 483 sau Công nguyên ) Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế đã ra chiếu lệnh, các Sa môn chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục để bổ sung nguồn binh dịch và lao dịch cho quốc gia. Đồng thời Thái Vũ Đế rất coi trọng Nho học, ông ta định dùng nền văn hoá truyền thống tiên tiến ở vùng Trung Nguyên và chế độ chính trính trị để củng cố chính quyền của mình, ông ta làm như vậy là để tranh thủ sự hợp tác của các nhân sĩ và các địa chủ người Hán, mong dành được sự ủng hộ của họ. Dưới tiền đề như vậy, Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế đã dễ dàng chịu sự ảnh hưởng của Đạo giáo mà một trong những nội dung của nó là truyền thống văn hoá vùng Trung Nguyên, đồng thời chú trọng các nhân sĩ người Hán. Các tín đồ Đạo giáo đã nhiều lần gọi giáo chủ Lão Tử là Quốc Sư, và coi Phật giáo chỉ là một trong những pháp thuật Tây Nhung(7) du nhập vào, Đức Phật là thần tượng của người Hồ, đồng thời tuyên truyền cho pháp thuật trường sinh bất lão. Những điều đó đã có ảnh hưởng trực tiếp đến Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế. Hồi đó trong triều có một học sinh của ngài Thôi Hạo xuất thân trong một gia đình sĩ tộc, học rộng hiểu biết nhiều, rất giỏi về âm dương Ngũ Hành cùng với số thuật, bói toán, thường xuyên được tham dự các việc cơ yếu của quân chính. Nhưng người này rất sùng tín Thiên Sư của Đạo giáo tên là Khẩu Khiêm Chi ( Thiên sư tức Trương Thiên Sư hay Trương Đạo Lão, người cuối cùng thời Đông Hán Trung Quốc), mà không hề tin vào Phật Pháp. Trong lúc chuyện trò với Thái Vũ Đế, ông ta thường xuyên phỉ báng Phật giáo, cho rằng Phật giáo là một thứ hoang đường giả dối, là một thứ tai hoạ của thế gian. Do chịu hưởng trực tiếp của Thôi Hạo, Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế dần dần tôn sùng thiên sư đạo do Khấu Khiêm Chi khởi xướng.

Khấu Khiêm Chi tự là Phụ Trần, thời nhỏ đã theo các vị tiên học đạo, đã từng tu hành theo đạo Ngũ Đấu Mễ ( năm đấu gạo) do các vị Trương Linh, Trương Hoành, Trương Lỗ thời cuối Hán sáng lập và truyền thụ, sau đó theo Đạo sĩ vào trong núi Hoa Sơn học đạo và tu luyện. Theo ghi chép, từ khi ông ta nhận chức Thái Sư cùng với 20 quyển của Bộ” Vân Trung Ân Tụng Tân Khoa Chi Giới” từ Thái Thượng Lão Quân. Thái Thượng Lão Quân yêu cầu ông ta  phải chỉnh đốn Đạo giáo, từ bỏ các pháp vớ vẩn của ba vị họ Trương kia. Đồng thời truyền thụ cho ông ta pháp thuật hợp khí nam nữ; còn yêu cầu ông ta đến nhận một bộ” Lục Đồ Chân Kinh” của Đạo giáo; gồm hơn 60 quyển do chút năm đời của Lão Tử là Lý Phả Văn trao cho, Lý Phả Văn Yêu cầu ông ta phải phò vua giúp nước để Vua sáng dân yên, đồng thời yêu cầu ông ta phải quảng bá đạo Phật, xây dựng nhiều Quán Vũ ( tức Đạo Quán)…vào những năm cuối của Minh Nguyên Đế, từ trên núi cao, Khấu Khiêm Chi trở về Bình Thành, kết bạn với Thôi Hạo, cùng với ông ta bàn những chuyện binh chiến, những chuyện lạc loạn các thời đại…đến thâu đêm suốt sáng, đồng thời ông ta cũng thường than thở rằng:” Ta ở ẩn tu hành, không ham những việc của thế gian, nhưng được sự uỷ thác của các vị thần yêu cầu ta phải học thêm Nho Thuật, để phò vua giúp nước, điều đó sẽ được mãi lưu truyền, nghìn năm không ai sánh kịp”. Thôi Hạo cũng đã viết được hai chục quyển sách, cùng nổi tiếng với Khấu Khiêm Chi.

Quãng năm đầu tiên đăng quang của Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế ( năm 424 sau Công nguyên ) thông qua ông Thôi Hạo, ông Khấu Khiêm Chi đã dâng lên triều đình những kinh sách về Đạo giáo. Ông Thôi Hạo giới thiệu rằng:” Xưa nay trước khi các Đế Vương thọ mạng nhất quyết phải có điềm báo trước. Ngày nay có vị tu nhân tích đức ở núi cao không mời mà đến, vậy bệ hạ cần phải cảnh giác với điềm báo trước. Ngày nay có vị tu nhân tích đức ở trong núi cao không mời mà đến, vậy bệ hạ cần phải cảnh giác với điềm báo trước này, làm lễ tế trời, chớ có hoàn toàn tin vào những lời bàn tán ở ngoài thế tục mà coi thường mạng sống của mình”. Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế nhận lấy quyển kinh sách của Đạo giáo do Khấu Khiêm Chi dâng lên, từ đó ngài hết sức tin Đạo giáo. Không những ông ta chỉ kính cẩn tin tưởng coi Khấu Khiêm Chi như bậc thầy mà đồng ý cho cả hơn 40 đệ tử của ông Khấu Khiêm Chi trở về Bình Thành, để cho họ có chỗ tế lễ. Ông ta còn cử người đem ngọc ngà châu báu cùng các gia súc vào tế lễ các vị thần trong núi cao, từ đó trở đi Khấu Khiêm Chi luôn luôn được tham dự bàn tán những việc cơ mật của chính quyền nhà Bắc Nguỵ. Vào năm 441 sau Công nguyên, Khấu Khiêm Chi dâng tấu rằng:” Ngày nay Bệ hạ là một vị Vua chân chính anh minh ngự trị trên đời xưa nay chưa hề có; do đó bệ hạ cần phải lập đàn tế trời xin bùa chú, để mọi người thấy rõ công đức của các vị thánh nhân toả sáng cho thiên hạ.” Nghe lời tấu của Khấu Khiêm Chi, Thái Vũ Đế liền đổi thành “ Thái Bình Chân Quân”, đồng thời cho người xây dựng đàn Đạo giáo để tế trời. Vào năm sau. Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế lập tức lên Đạo đàn, xin bùa chú, để tuyên chiếu trong thiên hạ.

Từ đó trở đi, được tin dùng của Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế, Đạo giáo gặp cơ duyên phát triển mạnh mẽ, thế và lực của nó ngày càng lớn mạnh. Khấu Khiêm Chi và những người đồng đảng ngày càng không ngừng kích động, nịnh hót Thái Vũ Đế, điều đó tất nhiên là làm cho Thái Vũ Đế bắt đầu bài xích Phật giáo. Năm thứ năm của Thái Bình Chân Quân( năm 444 sau Công nguyên ) vào tháng giêng, Thái Vũ Đế hạ chiếu nói rõ:” Kẻ ngu si dốt nát mà mê muội tin theo tà, lén lút phụng dưỡng thầy mo, dấu giếm tàng trữ các loại sách bói toán tiếng sấm, bói toán âm dương, chiêm tinh và vĩ thư…trong đó còn có cả các Sa môn Phật giáo, giả làm tây Nhung mọi rợ rồi từ đó tạo nên ác nghiệp, yêu nghiệt. Do đó từ nay trở đi từ Vương công quan đến dân thường không được giấu giếm các Sa môn làm công việc như một thầy mo và những người đồng đảng ở trong nhà mình, những kẻ nào đến kỳ hạn mà không chịu ra đầu thú, chém ngay không tha.” Trong chiếu thư này, Thái Vũ Đế chỉ không cho phép giấu diếm nuôi dưỡng các thầy mo Phật giáo, không cho phép giấu diếm tàng trữ những loại sách chiêm tinh bói toán âm dương, chủ yếu là ông ta sợ thần dân làm phản, bởi vì năm ngoái đã xảy ra một sự kiện là một vị Hữu thừa tướng( quan văn) tên là Trương Tung Cầu mưu toan làm phản. Nhưng trong chiếu thư này ta cũng có thể thấy rõ Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế đã tăng cường bài xích Phật giáo như là một thứ tôn giáo của những kẻ mọi rợ. Ông ta cũng không hề đụng chạm gì đến Đạo giáo, điều đó có thể cho thấy rõ sự ban bố chiếu thư này cũng có liên quan đến sự sùng ái Thái Vũ Đế của Đạo giáo đồng thời Đạo giáo cũng có sự khuyên nhủ đối với Thái Vũ Đế. Nhưng trong chiếu thư này không hề có ý định diệt tận gốc rễ Phật giáo.

Vào năm thứ sáu của Thái Bình Chân Quân( năm 455 sau Công nguyên) , một người Hồ vùng Lô Thuỷ tên là Cái Ngô đã tập hợp nhân dân khởi nghĩa ở vùng Hạnh Thành( ngày nay là vùng Hoàng Linh của tỉnh Thiểm Tây) dựng lên ngọn cờ đấu tranh vũ trang chống lại sự thống trị của chính quyền Bắc Nguỵ , lập tức cuộc khởi nghĩa này được sự ủng hộ của người Hán, người Hồ vùng Thiểm Tây và Cam Túc. Lực lượng của nó ngày càng lớn mạnh. Vào năm sau Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế  đã dẫn quân về đồn trú tại Trường An, sau đó đích thân chỉ huy quân đội trấn áp cuộc khởi nghĩa của Cái Ngô. Trong thời gian cho cho quân đồn trú tại Trường An, sau đó đích thân chỉ huy quân đội trấn áp cuộc khởi nghĩa Cái Ngô. Trong thời gian cho quân đồn trú ở Trường An, một lần ngẫu nhiên Thái Vũ Đế phát hiện ra ở trong một ngôi chùa cất giấu vũ khí, đồng thời trong ngôi chùa ấy ông ta cũng phát hiện ra một số lượng rất lớn các dụng cụ chưng cất rượu và rất nhiều vàng bạc châu báu của những người giàu có gửi lại đó, trong hầm kín của ngôi chùa đó cũng cất giấu nhiều phụ nữ xinh đẹp. Sự phát hiện ngẫu nhiên này trở thành nguyên nhân trực tiếp khiến Thái Vũ Đế quyết định huỷ diệt Phật giáo. Ông ta cho rằng, các Sa môn không được phép có vũ khí, vì vậy số vũ khí mà các Sa môn ở Trường An này có nhất định là có liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Cái Ngô, hơn thế nữa trong ngôi chùa đó lại có dụng cụ nấu rượu và giấu giếm phụ nữ, các điều đó hoàn toàn trái ngược với giới luật của Phật giáo. Do đó cùng với kiến nghị của ông Thôi Hạo, Thái Vũ Đế lập tức hạ lệnh cho chém giết các Sa môn, đập phá, tiêu huỷ tượng Phật; cùng thời gian này, ông ta lại ra sắc lệnh cho Thái Tử đang trấn thủ Bình Thành tên là Thác Bạt Hoà cho quân tuần Trường An kiểm soát chặt chẽ khắp Trường An, xúi dục nhân dân cùng tham gia huỷ diệt toàn bộ Phật Pháp. Nhưng thái tử Thác Bạt Hoà vốn là một người rất mến mộ Phật giáo, sau khi nhận được chỉ dụ của Thái Vũ Đế, Thái Tử đã nhiều lần dâng biểu xin đừng huỷ diệt Phật giáo, nhưng Thái Vũ Đế cương quyết không chấp nhận, đồng thời lại hạ chiếu nói rõ:” Phật giáo chỉ là một thứ tôn giáo ngoại lai, không gần gũi với tình cảm con người ; Vì Phật giáo được phát triển và thịnh hành đã lấn át sự lưu hành của chính giáo, khiến cho lễ nghĩa bị huỷ hoại, gây nên đau thương loạn lạc cho nhân dân, do đó các tướng quân trấn giữ các miền, các quan thích sử, nhất định phải đem các bức ảnh, các bức tượng, cùng với các bộ kinh của lũ người Hồ kia đem xé và thiêu huỷ hết, các Sa môn Phật giáo bất luận là già trẻ đều đem chém hết, không thương sót bất cứ một ai”. Bức chiếu thư này của Thái Vũ Đế đã chứng tỏ ông ta kiên quyết diệt trừ Phật giáo tận gốc rễ.

Nhưng vị giám quan trấn giữ Bình Thành, tức Thái Tử Thác Bạt Hoà đã chần chừ không cho công bố bức thư này, khiến cho các Sa môn ở khắp nơi sau khi biết tin đó vội vã chạy trốn, đồng thời họ cũng cho cất giấu hết tượng Phật bằng vàng, bằng bạc cùng với kinh sách Phật giáo. Cuối cùng chỉ có một vài chùa và tháp thờ Phật bằng thổ mộc, nhà tranh vách đất bị tàn phá. Nhưng một số Sa môn bị bắt đi lính rồi đi tiến hành bắt bớ. Những Sa môn bị bắt, đều được chấm dứt tu hành theo Phật giáo;nếu ai trốn, khi bắt được, lập tức cho chém giết hoặc cho bêu đầu ngay. Do đó trong khắp đất nước không thấy bóng dáng Sa môn. Lần huỷ diệt Phật Pháp này của Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế là lần đầu tiên Phật giáo bị tấn công và huỷ diệt mang tính đồng loạt kể từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc. Việc này cũng có nguyên nhân lịch sử về mặt xã hội một cách sâu sắc. Trước tiên, việc huỷ diệt Phật Pháp lần này là kết quả tất yếu của mối mâu thuẫn gay gắt giữa Phật giáo và nền thống trị truyền thống của Trung Quốc. Sau khi du nhập vào Trung Quốc vào thời kỳ Lưỡng Hán, trải qua mấy trăm năm lưu hành và phát triển,Phật giáo đã dần dần trở thành một bộ phận rất có địa vị trong xã hội Trung Quốc. Việc tăng chúng càng ngày càng đông đúc đã ảnh hưởng đến việc binh dịch, việc tô thuế và thu nhập của nhà nước phong kiến. Việc mở mang xây dựng các chùa chiền cùng với diện tích đất đai nằm trong khuân viên chùa chiền, đất đai để cho tăng chúng làm ruộng, đã hình thành một hệ thống kinh tế của nhà chùa có quy mô nhất định, điều này đã nảy sinh ra mâu thuẫn với nền kinh tế của chế độ phong kiến lúc bấy giờ, ngoài ra, có một số tăng sĩ của Phật giáo được trực tiếp tham dự những việc cơ mật của quốc gia đại sự, ở một mức độ nào đó, việc này cũng có ảnh hưởng đến những quyết định trong chính sách thống trị của nhà nước phong kiến đối với thế tụcnhững điều này nếu như không được điều hoà một cách hợp lý thì sẽ được biểu hiện bằng một sự xung đột gay gắt. Thứ hai, việc tiêu diệt Phật Pháp lần này cũng là kết quả tất nhiên của mối xung đột gay gắt giữa Phật giáo và Đạo giáo. Kể từ thời Lưỡng Tấn, sự mâu thuẫn giữa Phật giáo và Đạo giáo cùng sự đấu tranh giữa hai tôn giáo đó kéo dài liên miên. Đến thời kỳ Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế, Thôi Hạo cùng đồng đảng đã lợi dụng thế lực của triều đình tấn công Phật giáo, khiến cho sự mâu thuẫn giữa Phật giáo và Đạo giáo càng trở nên gay gắt, cuối cùng việc tạm thời tiêu diệt Phật Pháp lúc bấy giờ đã chấm dứt được mối mâu thuẫn này. Nhưng lần huỷ diệt Phật Pháp này của Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế vừa mang tính chất của chế độ chính trị phong kiến ( thế tục) chống lại lực lượng Phật giáo, vừa mang tính chất Đạo giáo tấn công lại lực lượng của Phật giáo.

Vào năm Thái Bình Chân Quân thứ 9 ( năm 448 sau Công nguyên), Khấu Khiêm Chi mất, và vào năm 450 sau Công nguyên, học trò của ông ta là Thôi Hạo cũng bị giết. Hai năm sau đó Thái Vũ Đế Thác Bạt Đạo cũng bị Thái giám Tống Ái giết. Văn Thành Đế Thác Bạt Tuấn ( cháu Thác Bạt Khuê) lên ngôi ( năm đó mới 13 tuổi), hạ chiếu chỉ phục hưng Phật giáo. Trong chiếu thư, ông ta đã ca ngợi Phật Pháp rằng:” Phật Pháp có thể giúp vua cai quản việc nước, mở mang trí tuệ cho nhân dân và bài trừ những đam mê tà bậy, mở mang chánh giác”. Trong chiếu thư đó ông ta kết luận: hành động huỷ diệt Phật Pháp của Thái Vũ Đế là hậu quả của việc quan lại và các cấp hiểu nhầm Thánh chỉ của Hoàng Đế. Văn Thành Đế còn ra sắc lệnh yêu cầu các châu, các quận, các huyện phải khôi phục và xây dựng thêm nhiều chùa thờ Phật, cho phép mọi người được xuất gia, nhưng cũng quy định cho những châu lớn đông người là 50 người được phép xuất gia, những châu nhỏ dân số ít là 40 người xuất gia. Sau đó khắp vùng phương Bắc, Sa môn đông đúc, các chùa thờ Phật được mau chóng trùng tu, sửa chữa và xây dựng thêm, Phật kinh, tượng Phật và các bức tranh vẽ Phật cũng được lưu hành trở lại.

Cùng với việc khôi phục Phật Pháp, Bắc Nguỵ Văn Thành Đế còn cung cấp một nguồn kinh tế tương đối ổn định để tạo điều kiện thuận lợi cho Phật giáo phát triển. Vào những năm đầu tiên của nền hoà bình( năm 460-465 sau Công nguyên ) ông ta cử một tăng sĩ tên là Đàm Diệu giữ chức tổng quản Sa môn, giống như tổng quản của các tu sĩ Đạo giáo, làm nhiệm vụ quản lý toàn bộ các công việc của tăng ni Phật giáo. Tăng sĩ Đàm Diệu còn tấu thỉnh với Văn Thành Đế  rằng:” Hãy cho phép những hộ dân bị cướp bóc, phải đến để làm ruộng thuê kia mỗi năm nộp cho Tào Tăng ( Tào Tăng là một hệ thống do nhà nước tạo nên để quản lý các Tăng- Ni và chùa chiền) 60 hộc thóc ( có thời mỗi hộc thóc là 10 đấu, có thời mỗi hộc thóc là 5 đấu) để Tăng Tào chi dùng”. Văn Thành Đế còn chuẩn một tấu bài khác là, cho phép các gia đình phật tử được đặt tên theo kiểu chữ Tăng Thị cộng thêm tên họ, ví dụ như họ Túc thì đặt tên thành Tăng Thị Túc. Ông đàm diệu còn thỉnh rằng, nên biến các gia đình phạm tội trong các quan nô( kẻ ở của quan lại) thành gia đình phật tử, cho họ có điều kiện được vào chùa chiền làm công việc quét tước lao dịch,Văn Thành Đế lập tức chuẩn tấu. Như vậy sự phục hồi và phát triển  nền Phật giáo Bắc Nguỵ đã có một cơ sở tương đối vững chắc.

Trong thời kỳ nhận chức tổng quản Sa môn. Ông Đàm Diệu còn tổ chức khai quật năm nơi trước kia là nơi tạc tượng đá ở vùng biên giới Võ Châu, Bình Thành, cho tổ chức điêu khắc các bức tượng Phật, lúc đầu thường là cao đến 70 xích (khoảng 25m), về sau thấp xuống khoảng 60 xích ( khoảng 22m). Đó là việc mở đầu cho việc khai quật và kiến tạo Phật giáo ở vùng miền núi mênh mông này.

Sau thời kỳ Văn Thành Đế Bắc Nguỵ, đến các thời kỳ như Hiến Văn Đế, Hiếu Văn Đế, Tuyên Vũ Đế, Hiếu Minh Đế v.v…Tất cả đều rất tôn sùng và rất giỏi Phật Pháp. Hoặc là họ ra các chiếu lệnh xây dựng chùa chiền, hoặc là ra các chiếu lệnh cho mở đạo tràng giảng Phật Pháp, hoặc là cho tạc tượng Phật, điều đó đã giúp cho nền Phật giáo Bắc Nguỵ  được hồi phục một cách mau chóng. Theo sách sử có liên quan, vào cuối thời Bắc Nguỵ, ở trong nội địa có khoảng 2 triệu tăng ni, khoảng hơn 3 vạn ngôi chùa. Suốt thời kỳ Bắc Nguỵ, Phật giáo tuy có sự cản trở và phá hoại của Thái Vũ Đế, nhưng sự phục hồi và phát triển trở lại của Phật giáo là tương đối nhanh chóng tuy lúc thăng trầm này hầu như đã vượt qua sức tưởng tượng của mọi người. Điều đó chứng tỏ, nền Phật giáo lúc bấy giờ đã có được một cơ sở trong xã hội tương đối vững chắc và bền chặt.

 

Văn Đế Lưu Tống giảng Phật Pháp

Tăng nhân tục sĩ luận trắng đen

 

Vào năm 420 sau Công nguyên, tức là vào năm thứ 2 của Nguyên Hi Đông Tấn Hậu Đế, Vương triều nhà Đông Tấn ( lúc bấy giờ đã chuyển về sống yên ổn ở vùng Giang Nam), cuối cùng đã bị một vị đại tướng của nhà Họ Lưu Dụ cướp ngôi. Vào tháng 6 năm đó, Lưu Dụ đã phế Tấn Hậu Đế để tự lên ngôi, đổi tên nước thành Tống, tức là Tống Nam Triều. Từ đó trở đi, trong vòng chưa đầy 200 năm, chính quyền phong kiến Nam Triều đã thay đổi đến mấy thời đại, Tống-Tề-Lương-Trần bốn triều đại này cái trước đổ cái sau lập tức lên ngôi thay thế, đến năm 589 sau Công nguyên, nhà Tuỳ thống nhất toàn bộ đất nước. Xã hội Nam Triều lúc bấy giờ luôn luôn không được ổn định, chiến tranh loạn lạc liên miên, hoặc là các cuộc đấu tranh để cướp ngôi cướp quyền, thay ngôi đổi chủ, hoặc là các nội chiến do các tướng soái và những người trong Hoàng tộc gây ra. Trong bối cảnh xã hội như vậy, nền Phật giáo ở Nam Triều vẫn được phát triển một cách tương đối mạnh mẽ. Đặc điểm cơ bản của sự phát triển Phật giáo Nam Triều là coi trọng phát huy lí luận. Khi nhà Tấn chuyển xuống phía nam, những người còn sót lại của các môn phái Huyền học Nguỵ Tấn cũng chuyển xuống học ở Giang Nam, lúc bấy giờ họ đều bàn luận về Huyền Học. Trong bối cảnh tư tưởng văn hoá như vậy, sự phát triển của nền Phật giáo Nam Triều đã tỏ rõ những đặc trưng về coi trọng nghĩa lý. Phật giáo Nam Triều coi trọng sự phát huy về lý luận, và tất nhiên điều này sẽ nảy sinh sự xung khắc với tư tưởng văn hoá truyền thống của Trung Quốc về các vấn đề xoay quanh lịch sử Trung Quốc như Hoa-Di ( người Trung Quốc và người ngoại lai), Nhân Quả, Hình Thần v.v…đều nảy sinh ở Nam Triều, hơn nữa các cuộc tranh luận đó đều đặt dưới sự điều khiển của các Đế Vương phong kiến.

Sau khi Lưu Dụ lật nhà Tấn, ông ta đã thành lập nên chính quyền Tống ở Nam Triều, năm đầu tiên của Kiến Nguyên Vĩnh, ông ta xưng là Tống Vũ Đế. Tương truyền rằng, trước khi ông khởi binh đánh nhà Tấn, ông ta đã ôm ấp ý đồ đó từ lâu rồi, ông ta thường xuyên qua lại với các tăng sĩ, hồi đó có một tăng sĩ tên là Hoà Thượng Pháp Xưng. Hoà Thượng đã từng mạnh dạn tuyên bố rằng” Các vị thần núi bảo ta nói với mọi người rằng, Lưu tướng quân của Giang Đông là dòng dõi nhà Hán, hiện giờ đã thụ mệnh trời, về sau nhất định sẽ được làm Thiên Tử và giáng xuống làm Vua thiên hạ”. Sự thật này chẳng qua chỉ là Lưu Dụ đã mượn cái miệng của Hoà Thượng để tạo cho dư luận giải thích cho hành động cướp ngôi của mình. Do có dư luận như vậy, Lưu Dụ con nhà nông dân mà là Thiên Tử, ông ta sẽ lập tức biệt đãi các tăng sĩ, sẽ vô cùng coi trọng Phật Pháp.

Trong các vị đế của dòng Lưu Tống, mối quan hệ giữa Văn Đế Lưu Nghĩa Long và Phật giáo là một mối quan hệ nổi bật. Sau khi Lưu Nghĩa Long lên ngôi, ông ta rất coi trọng văn hoá và giáo dục, muốn hoằng dương(phát triển) Nho Thuật. Ông ta đã thay mặt triều đình lập lên bốn môn học là: Nho học do ông Lôi Thứ Tông chủ trì, Huyền học do ông Hà Thượng Chi chủ trì; sử học do ông Hà Thừa Thiên chủ trì; Văn học do ông Tạ Nguyên chủ trì. Trong bốn môn học đó, không hề có tên Phật giáo, nhưng môn học nào cũng chứa đựng Phật học. Do Phật giáo nghĩa học hồi đó rất gần với Huyền học, hơn nữa Phật giáo lại nói đến nhân quả, hình thần, đốn tiệm…Đó chính là những bộ môn lý luận chính của Huyền học. Ngoài ra trong số các vị chủ trì bốn môn học trên có ngài Lôi Thứ Tông là em trai của Tăng sĩ Tuệ Viễn; Ông Hà Thượng Chi là một người rất sùng bái Phật giáo. Do đó, tuy Lưu Tống Văn Đế cho lập bốn môn học, nhưng trong thực tế ông ta đã đưa nghĩa học của Phật giáo vào trong bốn môn đó. Điều này về mặt khách quan đã giúp cho việc học tập nghĩa lý của Phật giáo có được một địa vị nhất định, điều đó đã giúp cho lý luận của Phật học được phổ cập và phát triển tương đối mạnh.

Hồi đó, có một số  văn nhân nho sĩ rất thích mạn đàm về Huyền học và Phật giáo Lưu Tống Văn Đế cho rằng đó là thành tựu về văn hoá giáo dục của mình. Do đó ông ta đích thân nhiều lần đề nghị các văn nhân nho sĩ tăng cường tuyên truyền về đàm thoại về Huyền học và giáo lý Phật giáo. Môi trường văn hoá tư tưởng tương đối tự do này đã khiến cho Tống Văn Đế vô cùng đắc ý. Ông ta đã từng nói với các quần thần của mình như sau:” Thời tuổi trẻ căn bản ta chưa hề đọc qua cuốn kinh Phật giáo nào, khi đã lên ngôi Hoàng Đế, ta lại càng chẳng có thời gian rỗi để đọc kinh Phật; do đó Phật giáo tuyên truyền các vấn đề như nhân quả ba đời ( kiếp)(8), ta cũng chẳng có thời gian để ý. Nhưng ta cũng chẳng bảo mọi người chống lại Phật giáo, bởi vì một số người có đức có tài đều rất cung kính Phật giáo, văn chương và một số giáo nghĩa của họ có liên quan đến Phật giáo đã cho ta thấy rõ Phật giáo rất có lợi cho việc Vương hoá. Nếu như giúp cho tất cả mọi người của đất nước Tấn này đều được giáo hoá một cách đúng đắn như vậy, vậy thì ta có thể ngồi hưởng thái bình”. Từ đó có thể thấy, mặc dù Tống Văn Đế khiêm tốn nói rằng mình không hiểu biết Phật giáo, nhưng cũng dễ dàng thấy rằng, ông ta đã hiểu rất rõ tác dụng hỗ trợ của Phật giáo đối với nền thống trị của mình. Trên thực tế, Tống Văn Đế không có thời gian rỗi để ngồi đọc kinh Phật, nhưng ông ta cũng rất coi trọng kinh Phật, ông ta thường xuyên qua lại với một số tăng sĩ như ngài Tuệ Nghiêm, đồng thời thường xuyên tán Phật luận đạo với một số tăng sĩ. Ông ta còn yêu cầu một số tăng sĩ đã cao đạo đem những kiến thức Phật học của mình viết thành sách, để ông ta nếu có thời gian rỗi thì dở ra đọc.

Dưới sự dẫn dắt của Lưu Tống Văn Đế, có ông Phạm Thái viết quyển “ Luận Sa Môn Cứ Thực Biểu”, ca ngợi Văn Đế hiểu rõ giáo lý nhà Phật, hơn thế nữa còn nghiên cứu và am hiểu tường tận, còn chính mình thì ít tin tưởng vào đại pháp, hi vọng đến kiếp sau vua tôi sẽ cùng nhau dùng Phật giáo để cai quản thiên hạ. Ngoài ra còn có ông Tạ Linh Vận, lấy danh nghĩa là một danh sĩ của Tấn Tống, ông ta viết các tác phẩm như “ Phật Cảnh Minh”,” Tán Phật”,” Biện Tông Luận”v.v…Ông ta đã nói rõ những hiểu biết của mình về Phật giáo . Đồng thời ca ngợi Phật Pháp rất thâm sâu, đặc biệt là trong quyển” Biện Tông Luận”, ông ta đã chỉ rõ những đánh giá, những hiểu biết sai lệch của nhân dân lúc bấy giờ đối với Phật giáo, đồng thời ông ta hết sức ca ngợi học thuyết “Đốn Ngộ” của Phật giáo. Sau khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc ở thời kỳ Lưỡng Tống, về cơ bản Phật giáo chủ trương trải qua một thời kỳ tu tập rất dài mới có thể giác ngộ. Nhưng khi phát triển đến thời kỳ Nam Bắc Triều, có một tăng sĩ tên là Trúc Đạo Sinh, ngài nói rõ, con người không cần phải trải qua một thời kỳ dài tu tập, mà một khi đã nắm rõ chân đế của Phật giáo thì có thể đột nhiên giác ngộ. Thuyết giáo này được gọi là “Đốn Ngộ”. Vào thời kỳ Lưu Tống Văn Đế, Thuyết Đốn Ngộ của Trúc Đạo Sinh mới ra đời không được bao lâu nó liền bị rất nhiều nhân sĩ trong giới Phật Học phản đối. Với tư cách là một cư sĩ ở thế tục, ông Tạ Linh Vân nhân cơ hội Văn Đế cho tự do phát ngôn và tăng cường tuyên truyền thuyết Đốn Ngộ  của mình. Trên thực tế là ông ta yêu cầu Phật giáo phải xây dựng thêm một pháp môn thuận tiện hơn nữa cho việc thế tục hoá. Nếu như cứ theo thuyết Tiệm Ngộ, tức là phải trải qua một thời kỳ dài tu tập mới có thể giác ngộ được, thì đó là điều mà các nhân sĩ ở thế tục không dễ dàng chấp nhận; Nếu như không cần phải trải qua một thời kỳ dài tu tập liền có thể nắm vững được Chân Đế, tức là đã giác ngộ, thì đó là điều mà các nhân sĩ ở thế tục đang mong đợi. Việc ông Tạ Linh Vận cho tuyên truyền thuyết Đốn Ngộ, đó là ông ta đã nêu lên một nền móng tư tưởng cho việc tăng cường Trung Quốc hoá Phật giáo trong bối cảnh Phật giáo phải phù hợp với văn hóa, tư tưởng truyền thống của Trung Quốc. Đương nhiên xét từ bản thân của Phật giáo, thì việc đấu tranh giữa tiệm ngộ và Đốn Ngộ vẫn chưa dừng lại ở đó, giữa các tông phái của Phật giáo thời kỳ Tuỳ Đường đã nổ ra một cuộc tranh luận mới.

Ông Hà Thừa Thiên, người Đông Hải, từ nhỏ ông ta đã được dạy dỗ tư tưởng Nho Gia, và từ đó ông ta đã tích luỹ được rất nhiều kiến thức Nho Giáo, ông ta không một chút sao nhãng chuyện học hành, do đó vào thời kỳ đầu của Lưu Tống ông ta đã được Văn Đế giao cho quản lí Sử Học, một trong 4 phái học vấn của Nho gia. Hồi đó ông ta có viết quyển “Đạt Tính Luận”, mục đích chính ông ta muốn nói rõ tư tưởng của Nho gia để chống lại luật quần sinh cùng với thuyết luân hồi của Phật giáo. Ông ta cho rằng, Phật giáo nói rằng tất cả mọi vật đều có tình cảm và linh hồn, trong đó có cả động vật và thực vật, gọi đó là chúng sinh, đó là một quan niệm sai lầm và rất hoang đường; trời đất là do lưỡng nghi (âm dương) tạo thành, sau đó Vua chúa mới tham gia vào quản lý trời đất, vì thế mới có được âm dương, cương nhu. Nhưng giữa trời và đất thì con ngươi là duy nhất, con người và thần đã quá hiểu nhau, tình đó xuyên suốt cổ kim, khí lẫm liệt vừa trong vừa dịu, trí bao quát được vạn vật, do đó tại sao lại không thể trao đổi tình cảm với các động vật và các thực vật. Ngoài ra Phật giáo lấy các nghiệp báo nhân quả để nói rõ thuyết luân hồi trong lục đạo ( 6 đường). Phật giáo cho rằng, con người tạo nghiệp thiện hay nghiệp ác thì sẽ quyết định kiếp sau mình sẽ đoạ vào một trong sáu đường của luân hồi là: Cõi trời, cõi người, Atula(thần ác), địa ngục, ngạ quỷ( quỷ đói), súc sinh; đó là những điều hết sức hoang đường; làm người thì tất nhiên phải có sinh có diệt, tình người và thần xác có liên quan đến nhau, người chết thì thần tan, nó giống như phong cảnh của tự nhiên là mùa xuân thì tươi tốt mà mùa thu thì héo tàn, đổi thay theo bốn mùa, làm gì có chuyện con người ta phải chịu cảnh luân hồi trong lục đạo ( 6 đường). Quan điểm này của ông Hà Thừa Thiên lúc đó được coi như là một ánh lửa mới, nó đã từng ít nhiều gây nên từng chấn động. Nhất là tăng chúng và những cư sĩ quy kính Phật giáo, họ cho rằng quan điểm này của ông Hà Thừa Thiên là bài xích và tiêu diệt Phật giáo. Chống lại quan điểm này của ông Hà Thừa Thiên có ông Nhan Chiên Di viết cuốn “ Thích Đạt Tính Luận”, ông ta đã tiến hành phản bác quan điểm của ông Hà Thừa Thiên. Ông ta nêu rõ, cái mà Phật giáo gọi là chúng sinh thì thực ra là cách gọi chung cho tất cả những sinh vật, những sinh linh, do đó ngoài loài người ra, tất nhiên phải có chúng sinh. Ngoài ra, trong người ta có khí và số, hai cái đó không phải là không có cảm ứng với nhau, con đường nhân quả thế báo không có liên quan với nhau; Do đó ngoài kiếp này đang sống ra, nhất định phải có kiếp sau, nhất định lại có thọ hình, nhất định phải có luân hồi.

Cuộc tranh luận giữa ông Hà và ông Nhan cuối cùng phải nhờ đến sự định đoạt của Lưu Tống Văn Đế. Tống Văn Đế cho rằng,” Đạt Tính Luận” đã nói rõ giáo nghĩa của Nho gia, không thể không cho rằng đó là một tác phẩm rất có giá trị; Nhưng quyền” Thích Đạt Tính Luận” thì lại nói rõ trí tuệ mênh mông của Phật giáo, đặc biệt là giáo lý. Điều đó có thể thấy rằng, Tống Văn Đế đã giữ thái độ trung lập đối với cả Nho giáo và Phật giáo. Nhưng trên thực tế Tống Văn Đế đã tán đồng quan điểm của Nhan Diên Chi trong cuốn” Thích Đạt Tính Luận”. Cho dù ông ta có ủng hộ quan điểm của ai đi chăng nữa, thì xét từ bản thân của ông ta có thể thấy rằng, là một vị Đế Vương của nhà nước phong kiến, Tống Văn Đế đã cho tự do phát ngôn, tăng cường tuyên truyền, khiến cho giới tư tưởng hoạt động vô cùng sôi nổi, điều đó là vô cùng quí báu.

Ngoài điểm quí báu của việc Lưu Tống Văn Đế cho phép tự do phát ngôn, tăng cường tuyên truyền thì bối cảnh văn hoá tư tưởng được tự do, được mở mang thì còn có cả truyện các Sa môn Phật giáo giám dám công khai phỉ báng và muốn huỷ diệt Phật giáo. Hồi đó có một tăng sĩ tên là Tuệ Lâm, là người huyện Tần, quận Tần ( ngày nay là vùng Lục Hợp ở Giang Tô), hồi đó ở thế tục họ là Lưu, sau khi xuất gia tu hành ở chùa Giã Thành, đã từng là học trò của một số tăng sĩ nổi tiếng hồi bấy giờ; ông ta cũng rất giỏi các kinh thuyết của Nho gia và các học thuyết của Lão-Trang. Thời kỳ đầu của Lưu Tống, ông Tuệ Lâm cùng với một số người như Tạ Linh Vận, Nhan Diên Chi v.v…quan hệ qua lại khá thân thiết với Lô Lăng Vương Lưu Nghĩa Chân. Trong quá trình qua lại với các tăng sĩ và các cư sĩ thế tục này. Lưu Nghĩa Chân đã từng bày tỏ ý định rằng, nếu như ông ta được lên Hoàng Đế, nhất định ông ta sẽ cho ông tạ và ông Nhan làm tể tướng, sẽ phong ông Tuệ Lâm làm Đô đốc Tây Dự Châu. Từ đó có thể thấy rằng, tài năng của hoà thượng Tuệ Lâm làm đô đốc Tây Dự Châu. Từ đó có thể thấy rằng, tài năng của hòa thượng Tuệ Lâm hơn hẳn với mọi người. Tuệ Lâm là một Sa môn, nhưng ông ta đã viết cuốn “ Bạch Hắc Luận” ( tức là bàn về trắng đen, sau ông ta lại đặt tên là “ Quân Thiện Luận”). Ông ta cho rằng Phật giáo hay Nho Giáo tuy đường đi có khác nhau nhưng, điều đó có chung một mục đích. Chữ” luận” bị giới Phật giáo lúc bấy giờ cho là một trò chê bai Thích Ca giáo. Đồng thời họ đòi đuổi ông Tuệ Lâm ra khỏi Tăng đoàn. Lưu Tống Văn Đế sau khi nhìn thấy chữ “ Luận”, ông ta vô cùng sung sướng, đồng thời cho mời ông Tuệ Lâm tham dự những công việc cơ mật của chính sự; Thế là ông Tuệ Lâm lấy danh nghĩa là một Sa môn đã viết chữ “Luận” không có Phật, hơn thế  nữa ông ta lại trở thành một tể tướng áo đen của Lưu Tống Văn Đế. Trong lịch sử Trung Quốc, việc này không phải là độc nhất vô nhị. Sau khi ông Tuệ Lâm được tham dự vào chính triều, nơi ông ta ở khách khứa đông ngịt, ngày nào phía trước cửa cũng có hàng chục chiếc xa liên tục ra ra vào vào. Tương truyền rằng, hồi đó ông Tuệ Lâm gặp dịp được thời nên cậy thế. Theo sử liệu có liên quan, hồi đó ông Tuệ Lâm còn chú thích các tác phẩm như” Hiếu Kinh”,” Trang Tử - Tiêu Giao Biên” v.v…

Trong tác phẩm “ Bạch Hắc Luận” ( hay còn gọi là Quân Thiện Luận), về mặt đề tài ông Tuệ Lâm đã hư cấu nên một hình thức hỏi đáp giữa một vị theo môn phái Bách học và một vị theo môn phái Hắc học. Vị theo Bạch học tức là chỉ vị theo Nho học, đạo sĩ theo hắc học tức là chỉ tăng sĩ Phật giáo đều mặc quần áo màu đen. Về mặt nội dung, ông Tuệ Lâm thì cho rằng, hai môn phái Nho học và Thích ca đều có những điểm mạnh của mình, đều là tuyên truyền những gì mà các vị thánh nhân đã từng nói, từng gây dựng lên và dạy mọi người làm theo, hai môn phái Nho Giáo và Thích Ca giáo đều như hai con sông đổ chung ra biển, chúng song song cùng tồn tại. Có thể thấy rằng, luận điểm này chỉ nhằm hoà giải mối quan hệ giữa Nho Giáo và Thích Ca giáo, nó đã thể hiện yêu cầu khách quan của Phật giáo trong khi lưu hành tại Trung Quốc, tức là Phật giáo phải phù hợp với bối cảnh văn hóa tư tưởng truyền thống của Trung Quốc. Quan điểm này không thể không coi là sự hiểu biết thấu triệt, sâu rộng. Nhưng ông Tuệ Lâm vốn là một Sa môn Phật giáo, trong quyển “ Luận” này ông đã từng tuyên bố rằng: các học thuyết của Phật giáo như nhân quả báo ứng, luân hồi sinh tử v.v…đều là những học thuyết thuộc diện xằng bậy, hoang đường không đúng sự thật. Điều này tất nhiên đã gây sự bất bình trong giới Phật giáo, do đó nó cũng bị giới Phật giáo lúc bấy giờ chê trách là dị đoan, nhưng được sự che chở của Tống Văn Đế, do đó mà ông Tuệ Lâm không hề bị một hình thức xử phạt nào của giới Phật giáo lúc bấy giờ.

Sau khi có được quyển “ Bạch Hắc Luận” của ông Tuệ Lâm, ông Hà Thừa Thiên lập tức gửi một quyển sách này cho một tăng sĩ khác lúc bấy giờ tên là Tống Bỉnh, đồng thời yêu cầu ông Tống Bỉnh kết luận những điểm tốt và những điểm sấu của hai học sĩ theo Nho Giáo ( Bạch) và vị đạo sĩ theo Thích Ca giáo (Đen). Ông Tông Bỉnh vốn là một hoạn quan, hồi đó cũng là một cư sĩ Phật giáo khá nổi tiếng. Ông đã dùng những hiểu biết, những kiến thức của mình tiến hành phê phán một cách rõ ràng và cụ thể đối với quyển “ Bạch Hắc Luận”. Ông cho rằng trong ba tôn giáo , Nho Giáo,Thích Ca giáo và Đạo giáo, thì Phật giáo là tinh tế nhất và uyên thâm nhất, trong Phật giáo đã chứa đựng luân cả đức năm điểm của Nho Giáo, đã có cả khoảng không tự nhiên của Lão Trang. Do đó Phật giáo là một tôn giáo của các bậc thánh, bao cả những nội dung chính của Nho Giáo và Đạo giáo; đồng thời Phật giáo lại ở một bậc cao siêu hơn cả Nho Giáo và Đạo giáo. Tuy cả ba tôn giáo này đều được hưng khởi vào những thời vận không thích ứng và những thời điểm khác nhau, nhưng ở mỗi tôn giáo đều có sự bất đồng, sự khác nhau về trọng điểm giáo hoá. Nho Giáo thì nói rõ con đường trị quốc an bang, Đạo giáo là một đạo khuyên con người ta bớt đi những ham muốn, những chuyện lăng nhăng như bậy bạ. Cả hai tôn giáo đều không giúp người ta thoát ra khỏi kiếp này, thoát ra khỏi thế tục. Nhưng Phật giáo thì nói rõ sự bất diệt về mặt tinh thần, con người ta có thể tu thành phật, con người ta có thể làm được nhiều điều, có ham muốn nhiều thứ, nhưng tất cả các pháp đều là không, đó chính là điều mà Nho Giáo  và Đạo giáo không thể so sánh được. Ở ba tôn giáo là Nho Giáo,Đạo giáo, Thích Ca giáo  đều có điểm chung đó là khuyến thiện. Cả ba tôn giáo này đều giúp ích cho giai cấp thống trị phong kiến. Ví dụ như một Hoàng Đế có thể trị quốc bằng Nho Giáo, tu dưỡng tinh thần theo Phật giáo, chắc chắn ông ta là một minh quân, sau khi tịch diệt, linh hồn ông ta có được siêu thăng, trải qua luân hồi ông ta có thể quay lại làm Đế Vương của thế gian. Để phê phán, bài xích một cách có hệ thống quyển” Bạch Hắc Luận”, ông Tông Bỉnh đã viết cuốn “ Minh Phật Luận”, ông ta đã mạnh dạn nêu rõ sự bất diệt về mặt tinh thần. Xoay quanh vấn đề bất diệt về mặt tinh thần, người thế hệ sau đã phát triển thành một đề tài sôi nổi hơn.

Nhìn chung trong 13 năm trị vì của Lưu Tống Văn Đế, do có sự khởi xướng và khích lệ của ông ta, nền văn hoá tư tưởng đã được tương đối thoải mái và sôi nổi hơn, các quan điểm và thái độ đối với Phật giáo đều được nêu lên một cách thoải mái, tự do. Đánh giá một cách kỹ càng, thì cũng khó mà kết luận rằng Lưu Tống Văn Đế là một người tôn sùng Phật giáo hay là bài Phật, nhưng nhìn chung ông ta vẫn muốn cho Phật giáo tự do hoạt động. Chỉ cần các hoạt động của Phật giáo không được ảnh hưởng đến công việc thống trị của ông ta, thì nói chung ông ta rất thoải mái với Phật giáo. Theo ghi chép lịch sử có liên quan vào năm Vĩnh Gia thứ 15 ( năm 435 sau Công nguyên) Đan Dương Doãn Tiêu Mô Chi dâng chiếu thư thưa rằng:” Phật giáo sau khi du nhập vào Trung Quốc đến nay đã trải qua bốn thời đại, chùa chiền thờ Phật hiện nay đã có đến hàng ngàn ngôi. Hiện nay một số người coi việc thờ cúng không còn là thành tâm nữa, mà họ rất coi trọng việc thờ cúng xa hoa, do đó mà hao tiền tốn của, mất thời gian và mệt mỏi. Do đó từ nay về sau, mong Bệ hạ hãy ban chiếu quy định rằng, mọi công việc như đúc tượng Phật, xây chùa đều phải trình báo và được phép của quan phủ, không được làm một cách tuỳ tiện”. Sau khi xem bức biểu này, Văn Đế thấy rằng việc xây dựng chùa chiền thờ Phật, đúc tượng Phật, đã hao tốn rất nhiều tiền của và công sức của nhân dân, việc đó là lãng phí vô cùng. Do đó ông đã hạ chiếu chỉnh đốn tăng đoàn, điều đó đã khiến cho hàng trăm tăng ni trong cả nước phải hoàn tục( trở lại làm thường dân). Vào thời kỳ Tống Nam triều, ở vùng Giang Nam có hơn 1900 ngôi chùa, có khoảng hơn 3 vạn 3 ngàn tăng ni. Đợt chỉnh đốn tăng đoàn này của Văn Đế đã cho thấy rõ một tử tưởng cương quyết mới của Hoàng Đế phong kiến,tức là sự tồn tại và phát triển của Phật giáo không được làm ảnh hưởng đến nền thống trị của thế tục.

Việc Lưu Tống Văn Đế khuyến khích tuyên truyền cho sự tự do ngôn luận đã tạo dựng lên một thời kỳ vô cùng tốt đẹp cho Nam Triều. Ở các triều đại như Tề, Lương, Trần giới tư tưởng đều hoạt động rất sôi nổi và thoải mái; các cuộc tranh luận xoay quanh đề tài Phật giáo đều được tiến hành dưới sự chủ trì của các Đế Vương phong kiến. Vào cuối đời Tống đầu đời Tề, có ông Cố Hoan viết cuốn” Di Học Luận”, cuốn sách đó đã bình luận mối quan hệ giữa Phật giáo và Đạo giáo. Ông ta cho rằng Phật giáo và Đạo giáo cùng có chung một gốc rễ. Ông ta lấy dẫn chứng ở một số đạo kinh ( chủ yếu là ở trong cuốn “ Huyền Diệu Nội Thiên”) nói rằng: Lão Tử sau khi nhập quan, liền giáng sinh xuống Thiên Trúc thành Phật, do đó Phật giáo cũng là Đạo giáo, Đạo giáo cũng là Phật giáo; tuy hai tôn giáo đó có chung gốc rễ, nhưng có điểm khác nhau và ưu khuyết điểm cũng khác nhau. Đạo giáo là một tôn giáo phù hợp nhất với tín ngưỡng dân tộc Hoa Hạ, còn Phật giáo là một tôn giáo của người Tây Nhung ( miền tây mọi rợ), do đó cần phải phân biệt rõ người Trung Hoa hay là người Miền Tây để mà chọn tôn giáo. Nhưng trong tác phẩm “ Di Hạ Luận”, ông cố Hoan có một mặt đã dùng những ưu điểm của Đạo giáo so với Phật giáo để nói rõ: về việc duy trì và giữ gìn tam cương ngũ thường phong kiến thì việc cho quảng bá Đạo giáo sẽ có lợi hơn việc bảo vệ và phát triển Phật giáo. Mặt khác, ông ta cũng lập luận rằng, hai tôn giáo đó cùng một gốc dễ nên không chủ trương phủ định triệt để hoặc bài xích hoàn toàn Phật giáo. Ở thời kỳ cuối Tống đầu Tề, cuốn “ Di Hạ Luận” đã từng gây nên những ảnh hưởng to lớn, điều đó cũng gây nên sự phản đối gay gắt của các tín đồ Phật giáo. Theo sử tịch có liên quan, hồi đó có rất nhiều sách được ấn hành; họ đều phản đối quan điểm của ông Cố Hoan; họ cho rằng Phật giáo có nhiều ưu điểm hơn Đạo giáo.

Đến cuối đời Tề Nam triều, có một đạo sĩ mượn danh của ông Trương Dung đã viết cuốn “ Tam Phá Luận”. Ông ta đã phê bình Phật giáo du nhập vào quốc gia nào thì phá hại quốc gia đó, đến nhà ai thì phá hại nhà đó. Cuốn sách đó chỉ rõ, Phật giáo chỉ ăn nói lung tung xằng bậy, chỉ làm khổ dân, hao tiền tốn của của dân, làm cho nước kiệt dân cùng, chẳng có lợi ích gì. Đối với nước với dân, không những chẳng có lợi mà chỉ có hại, do đó Phật giáo du nhập vào nước nào thì phá hoại nước đó; Phật giáo yêu cầu người ta phải xuất gia cạo đầu làm tăng sĩ, từ bỏ cha mẹ, đoạn tuyệt với sự hiếu thuận, làm náo động truyền thống của đất nước. Đối với tam cương ngũ thường truyền thống lâu nay, nó cũng chẳng lợi lộc mà chỉ có hại, do đó Phật giáo đến nhà ai thì chỉ phá hoại nhà đó. Hình ảnh của Phật giáo là các tăng sĩ xuất gia: Thứ nhất điều đó là có hại cho thân thể mình; thứ hai là nỗi khổ phải cạo tóc; thứ ba là làm trái với những điều hiếu thuận; thứ tư là có tội đoạn tuyệt vợ con; thứ năm là có niềm tin mù quáng về việc từ bỏ thân này để giữ giới luật v.v…Do đó mà Phật giáo đến với ai thì phá hoại thân thể người đó. Cuốn” Tam Phá Luận” hồi đó cũng từng có những ảnh hưởng to lớn. Một nhà văn và nhà lý luận nổi tiếng là Lưu Hiệp (ông đã nổi tiếng trong thiên hạ vì viết cuốn “ Văn Tâm Điêu Long” gồm có 50 chương). Vào những năm cuối đời ông đã xuất gia, pháp danh là Tuệ Địa, ông đã viết cuốn “ Diệt Hoặc Luận” để chống lại cuốn “ Tam Phá Luận”. Ông đã tiến hành phê phán và phản bác một số quan điểm chủ yếu trong cuốn “ Tam Phá Luận”.

Suốt thời kỳ Nam Triều, không lúc nào ngừng các cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề Phật giáo. Ông Phạm Chân sống ở cuối thời kỳ Tề đầu thời kỳ Lương đã viết cuốn “ Thần Diệt Luận”. Ông đã tiến hành phê bình các lí luận Phật giáo như tinh thần bất diệt, báo ứng nhân quả, luân hồi sinh tử. Các cuộc tranh luận như vậy cũng đã ảnh hưởng đến cả ở Bắc triều. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì đó cũng là kết quả tất nhiên của mối xung đột gay gắt giữa Phật giáo và truyền thống văn hoá tư tưởng bản địa sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, Kết quả của cuộc sung đột này là Phật giáo đã được Trung Quốc hoá một cách triệt để.

 

---o0o---