Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
THƯ MỤC TÁC GIẢ

Chương 6: Tôn Giáo Thiểu Số

13 Tháng Bảy 201611:15 CH(Xem: 2704)
Chương 6: Tôn Giáo Thiểu Số

Chương 6: Tôn Giáo Thiểu Số

Ý nghĩa “thiểu số” mà chương này nói tới tương đồng với “dân tộc thiểu số” mà các quốc gia thường gọi. Tôn giáo mang tính thế giới gọi là đại tôn giáo, ví dụ như Phật giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo. Những tôn giáo tuy không mang tính thế giới nhưng có rất nhiều tín đồ gọi là tôn giáo đa số, ví dụ Ấn Độ giáo và Đạo giáo. Những tôn giáo mà số người tín ngưỡng không nhiều nhưng vẫn không bị diệt vong chính là tôn giáo thiểu số mà chương này nói tới. Có rất nhiều tôn giáo thiểu số, ví dụ: Thần Đạo giáo của Nhật Bản, Thái Ất giáo của Hàn Quốc, Cao Đài giáo của Việt Nam, Hiên Viên giáo mới thành lập ở Trung Quốc, thậm chí Do Thái giáo cũng thuộc về loại tôn giáo này. Quyển sách này, ngoài việc giới thiệu Do Thái giáo ở một chương khác, chỉ chọn ra Kỳ-na giáo và Tích-khắc giáo của Ấn Độ, Tiên giáo của Ba Tư và Lý giáo của Trung Quốc làm đại biểu cho những tôn giáo thiểu số, vì những tôn giáo này tương đối quan trọng.

 

TIẾT 1: KỲ - NA GIÁO

1. Sự xuất hiện của Kỳ-na giáo

Tư tưởng tôn giáo của Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI và thứ VII trước Công nguyên nhờ sự bảo hộ của giai cấp vua chúa trong những dân tộc mới nổi ở lưu vực sông Hằng mà tự do phát triển khắp mọi nơi. Sự xuất hiện của bầu không khí tôn giáo thịnh vượng này là một cuộc cách mạng đối với tôn giáo Veda của Bà-la-môn. Thế là, Bà-la-môn giáo vốn lấy cúng tế làm chính, chẳng mấy chốc đã mất đi niềm tin của dân chúng. Thay vào đó, nhiều tôn giáo mới nổi lên và phân thành 2 trào lưu lớn: một là, về mặt nguyên tắc tư tưởng, có 6 phái triết học vẫn tôn sùng Thánh điển Veda dần dần phát triển; hai là, về tín ngưỡng tôn giáo, có sự hưng khởi của 6 thầy ngoại đạo hoàn toàn phản đối thần học Veda của Bà-la-môn giáo, họ còn được gọi là đoàn thể Sa-môn phản đối Veda. Đứng trên lập trường của Phật giáo thì Kỳ-na giáo chính là 1 trong 6 thầy ngoại đạo nói trên; đứng trên lập trường của toàn bộ văn hóa Ấn Độ thì Phật giáo lại là một thành phần trong đoàn thể Sa-môn phản đối Veda.

Giáo chủ của Kỳ-na giáo được công nhận ngày nay là Mahāvīra. Nhưng sự thực thì, theo những kinh điển còn truyền lại của Kỳ-na giáo, Mahāvīra là tổ thứ 24 của tôn giáo này. Sơ tổ Kỳ-na giáo là Rishabhadeva, nhưng từ sơ tổ đến tổ thứ 22 đều là những nhân vật viễn cổ trước khi lịch sử được ghi chép, nên khó xác định rõ niên đại. Tổ thứ 23 tên là Pārsva-nātha, một nhân vật sống vào khoảng thế kỷ thứ VIII, thứ IX trước Công nguyên, thuộc giai cấp Kshatriya, từng bỏ nhà vào rừng ở Vārānasī tu hành. Ông nhập định 84 ngày, sau khi thành đạo, vân du truyền dạy, giáo hóa bá tánh trong 70 năm. Tất cả đệ tử của ông đều phải tuân thủ: không sát sinh, không nói dối, không trộm cắp và không tích lũy tài sản. Tín đồ có thể kết hôn.

Tổ thứ 24 Mahāvīra (dịch nghĩa là Đại hùng), tên thật là Vardhamāna, cha ông là Siddharthartha, là một vương giả thuộc giai cấp võ sĩ. Vardhamāna sinh ra ở Kundagrama (nay thuộc bang Bihar), lớn lên kết hôn cùng công chúa Yashoda. Đến năm 30 tuổi, xuất gia tu hành. Ăn gió nằm sương, thức khuya dậy sớm, khổ hạnh tu thiền, trải qua 13 năm, đạt được giác ngộ, trở thành Kỳ-na (Jina), tức một bậc thánh giả toàn tri, toàn năng và toàn phước. Từ “jina” về mặt ngữ nguyên học có nghĩa là “người chiến thắng” hoặc “người chinh phục”. Kỳ-na giáo là một tôn giáo cương nghị và dũng cảm, cũng là một tôn giáo tự lực cánh sinh. Họ chú trọng ở thánh triết đến từ mặc niệm để tự thanh tịnh tâm ý mình, chân thành tin tưởng vào nhân quả của luật đạo đức, và không tin rằng Thượng đế có thể tha tội cho mình. Tín đồ mới vào đạo được gọi là “người giải thoát”, sau được gọi là Jaina. Thời đại của Mahāvīra gần như đồng thời với thời đại của giáo chủ Phật giáo Sākya Muni (Thích-ca Mâu-ni) nhưng sớm hơn một chút. Mahāvīra tuyên dương giáo lý Kỳ-na giáo trong 30 năm, qua đời lúc 72 tuổi ở Pāvā gần thành Rājagrha (Vương Xá). Ngoại đạo Nigantha (Ni-kiền-tử) mà trong kinh Phật nói đến chính là vị Mahāvīra này.

2. Giáo lý của Kỳ-na giáo

Về mặt bản thể luận của triết học, Kỳ-na giáo rất khác với Phật giáo. Phật giáo chủ trương “các hành vô thường”, cho rằng tất cả sự vật trong thế gian không thứ gì là chân thực, thường còn, đều là tướng biến đổi, hoại diệt sinh khởi theo thời gian. Kỳ-na giáo thì đem bản thể phân thành 2 loại đặc tính là “đặc tính bản chất”[1] và “đặc tính phụ thêm”[2]. Đặc tính phụ thêm phát sinh tác dụng thì thời gian vô định, vạn vật biến đổi; ngược lại, đặc tính bản chất là sự tồn tại liên tục của bản thể, là pháp thường còn vĩnh hằng bất diệt. Phật giáo không cho rằng có một linh hồn vĩnh hằng bất diệt tồn tại, còn Kỳ-na giáo thì có niềm tin sắt đá vào sự vĩnh hằng của linh hồn. Vì vậy, theo kiến giải của Phật giáo thì triết học Kỳ-na giáo thuộc về “thuyết thường kiến”.

Kỳ-na giáo chia sự biểu hiện của bản thể thành 2 loại hiện tượng, cũng chính là nói bản thể biểu hiện ra ngoài bằng sự mở rộng của 2 loại hiện tượng, đó là jīva (sinh mạng) và ajīva (phi sinh mạng), tức tinh thần và vật chất. Jīva là thể sinh mạng, cũng chính là tên gọi khác của linh hồn. Linh hồn được chia làm 2 loại là giải thoát và phi giải thoát. Linh hồn phi giải thoát lại chia làm 2 loại là bất động và hoạt động.

Thể sinh mạng hoạt động được chia thành 4 loại là:

a. Những loại có 2 căn thức xúc và vị như: giáp xác, ốc sên...

b. Những loại có 3 căn thức xúc, vị và hương như: kiến, đỉa...

c. Những loại có 4 căn thức xúc, hương, vị và sắc như: muỗi, ong...

d. Những loại có 5 căn thức xúc, sắc, thanh, hương và vị như: người và các động vật cấp cao.

Còn nhục thân của thể sinh mạng bất động rất đơn giản, chỉ có căn thức về xúc chạm mà thôi.

Cái gọi là “phi sinh mạng” chính là những sự vật chiếm chỗ trong không gian như: pháp, phi pháp và vật chất. Vật chất lại chia thành 2 loại: vật chất hỗn hợp của đất, nước, gió, lửa; và nguyên tử của đất, nước, gió, lửa.

Khái niệm về linh hồn của Kỳ-na giáo cho rằng linh hồn ở trong những cơ thể khác nhau là do khuynh hướng và ảnh hưởng của các nghiệp đã tạo trong quá khứ. Linh hồn không có một hình trạng nhất định mà cơ thể thế nào thì hình trạng linh hồn thế ấy. Linh hồn vô hình nhưng không vô hạn, co dãn tùy theo cơ thể mà nó nương gá vào. Tuy linh hồn chiếm chỗ không gian nhưng chỉ xuất hiện ở những phần khác nhau của không gian, không hề chiếm hữu vị trí giống như vật chất. Thế nên, linh hồn đầy khắp không gian, một linh hồn hoàn toàn không làm trở ngại một linh hồn khác đồng thời xuất hiện ở cùng một vị trí trong không gian.

Kỳ-na giáo cho rằng linh hồn vốn toàn thiện và có năng lực vô hạn, vì thế nó có khả năng đạt được trí thức vô hạn, năng lực vô hạn, tin hiểu vô hạn và niềm vui vô hạn. Đạt được những điều kiện vô hạn này chính là làm cho bản thân linh hồn trừ diệt được tất cả chướng ngại. Cái gọi là chướng ngại ở đây chỉ cho sự trói buộc mà nhục thể vật chất hiện đời phải nhận lãnh do những nghiệp đã gây tạo trong đời trước. Vì vậy, Kỳ-na giáo tin tưởng sâu sắc rằng: thân thể của ta, tuy do cha sinh mẹ đẻ, nhưng hoàn cảnh, thể chất, màu da, dung mạo, thể hình, thọ yểu... sau khi ta sinh ra lại là cảm ứng của nghiệp nhân đời trước. Do đó, Kỳ-na giáo đem sự trói buộc linh hồn chia làm 2 loại: một là linh hồn bị nghiệp lực dẫn dắt, gọi là “trói buộc nội tại”; hai là linh hồn phát sinh quan hệ với sự vật, gọi là “trói buộc vật chất”.

Làm thế nào có thể giúp linh hồn bị trói buộc và chướng ngại đạt được giải thoát? Có 2 bước: một là chế ngự (samvara), tức là không làm cho sự vật mới tiếp tục rót vào trong linh hồn nữa; hai là tĩnh lặng (nirjara), tức là tống hết những sự vật đã trộn lẫn vào linh hồn ra ngoài. Phương pháp thực tiễn là chánh tín, chánh tri và chánh hạnh, gọi chung là Tam bảo (Tri-ratna).

3. Luật đạo đức của Kỳ-na giáo

Luật đạo đức nói ở đây chính là Tam bảo chánh tín, chánh tri và chánh hạnh, nhờ Tam bảo này một người có thể trở thành một Kỳ-na.

3.1 Chánh tín[3]: đây là thái độ tôn kính đối với chân lý mà chúng ta hành trì. Nhưng, Kỳ-na giáo không hề yêu cầu tín đồ của mình tin vào lời di huấn của các thánh nhân trong tôn giáo họ một cách mù quáng. Vì vậy, thánh nhân Manibhadra từng nói: “Tôi hoàn toàn không tin một phía vào Mahāvīra, cũng không phản đối Kapila và những học giả khác. Dù là giáo lý của bất cứ người nào, chỉ cần nó hợp lý tính, tôi đều tiếp thu cả”. Đây có thể nói là tương đồng với chủ trương “nương tựa giáo pháp, không nương tựa người nói pháp” của Phật giáo.

3.2 Chánh tri[4]: Khởi lòng tín ngưỡng chân chánh đối với đấng đại giác đại ngộ, rồi nghiên cứu giáo lý của đấng đại giác đại ngộ, chính là đạt được chánh tri. Nhưng, chánh tri tự chứng từ bên trong của kẻ học đạo vẫn là ở chỗ nhận biết được “tự ngã” một cách chân thật. Muốn vậy cần phải thực hành chánh hạnh mới có thể làm cho “tự ngã” giải phóng ra khỏi “phi tự ngã”.

3.3 Chánh hạnh[5]: Con người nếu muốn không làm phát sinh những nghiệp mới và làm tuyệt diệt những nghiệp cũ thì nên căn cứ theo giáo lý Kỳ-na giáo, thực hành 7 điều thiện hạnh:

a. Tuân thủ 5 lời thề.

b. Thận trọng lời nói và hành động, thực hành bố thí và cúng dường, không sát sinh và bảo vệ sự sống.

c. Phải tự kiềm chế được tư tưởng, lời nói và hành động.

d. Làm 10 việc thiện: khoan dung, thẳng thắn, chân thực, khiêm tốn, khắc kỷ, hy sinh, thanh tịnh, vô dục, khổ hạnh và độc thân.

e. Tu thiền.

f. Khắc phục những khổ não do đói, khát, nóng, lạnh gây nên.

g. Đạt đến hành vi ôn hòa nhã nhặn, chân thành thuần khiết, vô dục và chí thiện.

Người theo đó mà thực hành sẽ có thể đạt được 4 điều toàn thiện: tri thức vô bờ, tín ngưỡng vô hạn, năng lực vô lượng và niềm vui vô tận.

4. Nội dung của 5 lời thề

Kỳ-na giáo tuy có 7 điều thiện hạnh nhưng không hoàn toàn chủ trương mọi người đều phải thực hành đủ 7 điều này. Một số học giả Kỳ-na giáo cho rằng nếu có thể thực hành được 5 lời thề thì cũng đã tốt rồi. Xin giới thiệu qua 5 lời thề của Kỳ-na giáo như sau:

a. Không sát sinh: Quan điểm của Mahāvīra cho rằng không chỉ chúng sinh hữu tình có linh hồn, dù là thực vật, khoáng vật, gió lửa... cũng có linh hồn; đồng thời còn cho rằng tất cả chúng sinh đều có năng lực giống nhau, sự tồn tại của chúng sinh đặt nền tảng trên nguyên tắc cùng giúp đỡ, cùng làm lợi ích cho nhau, nên nghiêm cấm sát sinh và không được làm tổn thương vạn vật. Tín đồ Kỳ-na giáo ở Ấn Độ ngày nay đeo một tấm vải vuông trắng trên lỗ mũi để tránh vì hô hấp mà làm hại đến những con trùng nhỏ trong không khí. Với những người mới tin vào đạo thì luôn được khuyên rằng trước tiên phải bắt đầu từ việc không làm tổn thương những thể sinh mạng có từ 2 loại căn thức trở lên.

b. Không vọng ngữ: Lời nói phải chân thật và có thể làm cho người nghe vui vẻ mà sinh ra thiện niệm. Nên chế phục 3 độc tham, sân, si; không nên nói những lời đùa cợt, pha trò.

c. Không trộm cắp: Tài sản của người khác cũng giống như sinh mạng của họ, cướp đoạt tài sản mà người khác dựa vào đó để duy trì sự sống không khác gì cướp đoạt đi sinh mạng của họ.

d. Không tà dâm: Lời thề này có thể giải thích là sống độc thân. Các học giả Kỳ-na giáo còn cho rằng không chỉ nên tiết chế đối với tính dục mà ngay cả niệm dâm dục cũng phải ngừng dứt, thậm chí bất cứ lời nói, hành vi nào làm cho người khác sinh khởi tà dâm đều thuộc về những thứ bị cấm chỉ.

e. Không chấp trước: Nên xả bỏ tâm quyến luyến đối với bất cứ sự vật ngoại cảnh nào. Đây chính là công phu để cầu đạt sự giải thoát cho linh hồn bị trói buộc.

5. Tôn giáo quan vô thần

Tôn giáo theo thuyết vô thần chỉ có hai tôn giáo xuất hiện ở Ấn Độ là Phật giáo và Kỳ-na giáo. Thật không dễ dàng gì khi một tôn giáo lại đứng trên lập trường vô thần. Thuyết vô thần của Kỳ-na giáo có 2 lý do như sau:

a. Chúng ta không thể nào nhận biết được thần hoặc Thượng đế: Con người nói có Thượng đế tồn tại là do từ suy luận mà ra. Ví dụ, mỗi một sự vật chính là một loại sản phẩm, sản phẩm là do người sản xuất chế tạo, vậy nếu xem thế giới là một loại sản phẩm, thì thế giới cũng phải do một vị thần hoặc Thượng đế nào đó chế tạo ra. Trên thực tế, chúng ta không thể chứng minh được thế giới là một loại sản phẩm, thế giới tuy có nguyên lý tổ hợp giống như sản phẩm, nhưng những nguyên tố tổ hợp nên thế giới lại có sự tồn tại vĩnh hằng, hoàn toàn không phải là sản phẩm. Đồng thời, việc chế tạo ra bất kỳ sản phẩm nào, đều phải qua bàn tay lao động của con người, thần hoặc Thượng đế thuộc về thế giới vô hình, một vị thần vô hình sao có thể làm cho vật chất tạo thành thế giới được?

b. Thần sáng tạo vũ trụ về căn bản không tồn tại: Giả như thần là vạn năng, thế thì, tất cả vật thể đều là sáng tạo của thần. Tuy nhiên, những sự vật mà chúng ta thấy hàng ngày đều là nhân tạo chứ không phải thần tạo. Những người theo nhất thần giáo cho rằng chỉ được phép có một vị thần duy nhất, nếu có nhiều vị thần thì mỗi vị có một kế hoạch sáng tạo vũ trụ riêng và vũ trụ sẽ không thể hài hòa. Thuyết này cũng phi chân lý, ví dụ, kiến trúc hài hòa của tổ kiến và tổ ong chính là thành quả sáng tạo của một quần thể động vật. Ngoài ra, quan niệm thần là vĩnh hằng và hoàn thiện của nhất thần giáo cũng có chỗ mâu thuẫn. Để được hoàn thiện phải trừ bỏ đi những thứ không hoàn thiện, nếu thần từ xưa đến nay chưa từng lúc nào không hoàn thiện, mà lại nói thần hoàn thiện, thì gần như là lời hý luận vô lý, vô nghĩa.

Vì vậy, Kỳ-na giáo phủ nhận sự tồn tại của một vị thần sáng tạo thế giới, họ lấy một nhân cách toàn thiện, đại giác, đại ngộ thay thế cho Thượng đế của thần giáo và cầu nguyện với nhân cách đó để xin chỉ cho họ lối thoát khỏi đường mê mà thôi. Trên thực tế, trong những thần giáo của thế giới, từ tín ngưỡng của loài người nguyên thủy cho đến tín ngưỡng nhất thần, các vị thần mà họ tin thờ, không vị nào không phải là sản phẩm của sự tưởng tượng và nhân cách hóa. Đồng thời, tín ngưỡng này cũng có quan hệ với chế độ xã hội, xã hội không thống nhất thì sẽ có rất nhiều vị thần không thống nhất, còn xã hội mà quyền lực của hoàng đế là trên hết thì sẽ sản sinh ra tín ngưỡng nhất thần kiểu thống trị. Những tôn giáo lý tính như Phật giáo và Kỳ-na giáo hưng khởi, đã tiến hành khảo sát một cách logic đối với sự tồn tại của thần linh và phủ định tín ngưỡng nhất thần mang tính độc đoán.

6. Sự chia phái của Kỳ-na giáo và mối quan hệ với Phật giáo

Kỳ-na giáo vào thời kỳ Nirgrantha-jnātaputra, tức thời kỳ Mahāvīra, đã thành lập giáo đoàn với 14.000 Sa-môn và 36.000 Tỳ-kheo-ni. Mahāvīra có 11 đại đệ tử, 2 người trong số đó đã tiếp tục hoằng dương và phát triển thanh thế giáo phái sau khi Mahāvīra từ trần. 200 năm sau ngày Mahāvīra mất, vào thời vua Chandragupta, tín đồ tại Magadha ở phương bắc nảy sinh tranh cãi về mặt tư tưởng với tín đồ tại Karnataka ở phương nam. Phái phương nam thuộc về phái bảo thủ, tuân hành theo di giáo của Mahāvīra, chủ trương khổ hạnh cực đoan, gọi là phái Lõa thể (Digambaras). Họ cho rằng những người yoga khổ hạnh nên xả bỏ tất cả, dù là quần áo cũng phải xả bỏ. Đối với sự giải thoát của người nữ, phái này cho rằng người nữ phải chuyển thành thân nam rồi mới bắt đầu được giải thoát. Phái phương bắc thì tương đối tiến bộ, tuy cũng tiếp thu giáo lý của tổ thứ 24, nhưng lấy kiến giải của tổ thứ 23 là Pārsva-nātha làm tiêu chuẩn. Họ khá khoan dung và có thể chịu tiếp nhận ý kiến của quần chúng. Vì họ mặc đồ trắng nên được gọi là phái Bạch y (Svetambaras). Phái này cho rằng người nữ cũng có thể giải thoát ngay hiện đời mà không cần phải chuyển thành thân nam.

Tín đồ Kỳ-na phái Svetambaras thực ra là chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Phật giáo không chủ trương khổ hạnh cực đoan, Phật giáo cho rằng người nam, người nữ xuất gia đều có khả năng chứng đắc quả A-la-hán ly dục như nhau, những cư sĩ nam nữ học Phật tại gia cũng đều có khả năng chứng đắc quả thứ 3 (dưới quả A-la-hán một bậc) bằng ngay nhục thể hiện tại. Vì vậy, tín đồ phái Svetambaras của Kỳ-na giáo vô tình đã tiếp nhận giáo lý của Phật giáo, họ sùng bái đức Phật và các vị Thánh đệ tử của Phật, giống như sùng bái Kỳ-na và các vị Thánh đệ tử của Kỳ-na vậy. Họ sùng bái những thánh địa của Kỳ-na và cũng sùng bái cả những di tích của Phật-đà. Thậm chí, họ đem truyện ký về cuộc đời giáo chủ của mình gắng công viết cho giống với truyện ký về đức Phật. Ấn Độ giáo sau này sùng bái cả nữ thần, Kỳ-na giáo chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, cũng dựng nên một vị nữ thần mệnh lệnh tên là Sāsanadevi để sùng bái.

Điểm tương đồng giữa Kỳ-na giáo và Phật giáo rất nhiều, ví dụ: cùng theo thuyết vô thần, cùng tin luật nhân quả và nghiệp lực, cùng truy cầu giải thoát, cùng cho rằng cuộc sống đạo đức là nấc thang của giải thoát, cùng phủ định tính thần thánh của Veda, cùng không tin vào cúng tế. Điểm khác nhau của hai tôn giáo cũng rất nhiều, ví dụ: Phật giáo chủ trương các hành vô thường, còn Kỳ-na giáo chủ trương bản thể của vũ trụ là vĩnh hằng; Phật giáo chủ trương các pháp vô ngã, còn Kỳ-na giáo chủ trương linh hồn là một thường ngã vĩnh hằng; Phật giáo chủ trương trong các chúng sinh chỉ loài hữu tình có thần thức, còn Kỳ-na giáo chủ trương tất cả các loài hữu tình và vô tình đều có linh hồn; Phật giáo chủ trương thần thức của loài hữu tình là tên gọi giả tạm của chủng tử do nghiệp huân tập thành, hoàn toàn không có bản thể bất biến, còn Kỳ-na giáo chủ trương linh hồn là bản thể vĩnh hằng, sự tạo tác các nghiệp phụ thuộc vào linh hồn mà đưa đến việc thọ báo.

Kỳ-na giáo lan tỏa khắp miền bắc Ấn Độ ngày nay, số người tín ngưỡng vẫn còn đến vài triệu người, phần lớn là những nhân sĩ thuộc giới công thương rất giàu có, nhiều chùa miếu, trường học, bệnh viện mà họ lập nên trông rất trang nghiêm và hùng vĩ.

TIẾT 2: TÍCH-KHẮC GIÁO 

1. Giáo chủ của Tích-khắc giáo

Tích-khắc giáo là một tôn giáo nhỏ xuất hiện muộn ở Ấn Độ nhưng đến nay (1968) tín đồ vẫn còn hơn 6 triệu người, so với số tín đồ của Kỳ-na giáo có phần chiếm ưu thế hơn. Tôn giáo này phân bố rải rác ở bang Punjab phía tây bắc Ấn Độ. Những lính tuần người Ấn Độ cư trú ở Thượng Hải xưa kia phần lớn là tín đồ Tích-khắc giáo, họ cũng đã xây dựng ở Thượng Hải hai ngôi tự viện.

Giáo chủ của Tích-khắc giáo tên là Nānak, sinh vào năm 1469 ở Talvandī, Lahore, Punjab, Ấn Độ. Cha ông là người thuộc giai cấp Kshatriya. Hiện giờ nơi ông sinh ra đã được đổi tên thành Nānak. Ông qua đời vào năm 1538. Vì mẹ ông là một tín đồ tôn giáo thuần thành, nên ngay thời kỳ niên thiếu, ông đã được tiếp nhận sự giáo dục tôn giáo rất sâu rộng. Nghe nói, Nānak 7 tuổi bắt đầu tín ngưỡng tôn giáo, 9 tuổi đã đọc thông kinh điển tiếng Ba Tư và giảng đạo cho các tín đồ Bà-la-môn. Kinh điển của Tích-khắc giáo sau này đa phần là thoát thai từ kinh điển Ba Tư, nhưng rất nhiều lời giáo huấn trong đó là kinh nghiệm của riêng bản thân Nānak.

Cha của Nānak, người rất có địa vị trên chính trường, đã giúp ông có được một chức vụ rất tốt, làm văn án trong phủ tỉnh đốc tại Lahore. Nhưng lòng Nānak rất lạnh nhạt với danh lợi, điều ông quan tâm là tôn giáo, vì thế ông đã bỏ nhà đi tu. Vì không cảm thấy thỏa mãn với tất cả tôn giáo đương thời, nên ông lập chí cải cách tôn giáo. Vào thời kỳ đầu tu tập, ông nghiêm trì lối tu khổ hạnh của Kỳ-na giáo. Ông xuất thân từ một gia đình Ấn Độ giáo, lại thường xuyên tiếp xúc với người bên Hồi giáo, hai tôn giáo này hay có xung đột với nhau, ông đề ra chủ trương không phân biệt giữa Ấn Độ giáo và Hồi giáo trên lĩnh vực tôn giáo nữa. Ông có niềm tin sâu sắc vào nhất thần giáo, nêu cao tín ngưỡng nội tại chân thành thuần khiết, phản đối sùng bái ngẫu tượng. Vì vậy, ông có làm một bài kệ rằng:

“Thượng đế chỉ có một

Tên Ngài là Chân lý

Hoặc tên Thần sáng tạo

Hoặc Kết tinh tinh thần

Không dọa cũng không hại

Không giới hạn thời không

Đã là phẩm vô sinh

Nên tồn tại vĩnh cửu.”[1]

Nānak vân du các nơi, đi khắp các thành phố ở Ấn Độ, đến Sri Lanka và núi Himalaya, thậm chí đến cả Thánh địa Mecca của Hồi giáo. Với niềm tin kiên định nhất như, ông nhẫn chịu mọi sự thống khổ, ân cần khẩn thiết khuyên dạy mọi người, nên có rất nhiều tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo đã trở thành tín đồ của ông. Điều ông chú trọng nhất chính là thừa nhận Thượng đế là thần vạn năng, là đấng quyền uy vô thượng.

Sau khi Nānak từ trần, tín đồ của ông liền thành lập Tích-khắc giáo. Từ “tích-khắc” (sikha) có nghĩa là “đệ tử”. Như vậy, tôn giáo này do các đệ tử của Nānak thành lập và tôn Nānak là giáo chủ. Về sau, Tích-khắc giáo phân chia thành 2 phái chính: một phái xem Nānak như thần linh và sùng bái ông, một phái tuy không xem Nānak là thần nhưng cũng đối với ông vô cùng tôn trọng; phái trước gần giống với tín ngưỡng của Ấn Độ giáo, phái sau gần giống với cách nhìn của tín đồ Hồi giáo đối với nhà tiên tri Mohammed của họ.

2. Quá trình phát triển của Tích-khắc giáo

Lúc Nānak lâm chung đã đề cử một đệ tử của ông là Angad làm người kế thừa, trở thành tổ thứ 2 của Tích-khắc giáo. Tín đồ của Nānak dưới sự lãnh đạo của Angad đã thành lập nên một đoàn thể Tích-khắc giáo độc lập, lấy danh từ “guru” để tôn xưng các vị tổ sư - những người lãnh đạo giáo đoàn.

Những tác phẩm mà Nānak để lại chính là giáo lý của Tích-khắc giáo. Đến cuối thế kỷ XVI, vị guru thứ 5 là Arjan đã biên tập chúng thành bộ kinh điển gốc của Tích-khắc giáo, gọi là Adi Granth. Đến vị guru thứ 10 lại biên tập kinh điển lần thứ hai, bộ kinh lần này được gọi là Dasam Granth. Kinh điển của Tích-khắc giáo thuộc thể thi ca, đại ý trong kinh miêu tả sự mặc thị của Thượng đế và sự khuyên răn đối với con người, tính chất của nó giống như các bài thơ trongCựu Ước. Tín đồ Tích-khắc giáo cực kỳ kính trọng kinh điển của họ, nhưng chí ít có tới 90% tín đồ chỉ biết đem kinh đặt lên bàn thờ để sùng bái chứ không nghiên cứu nội dung của kinh, loại tinh thần này cũng tương tự như thái độ của tín đồ Hồi giáo đối với kinh Koran, tuy là không sùng bái ngẫu tượng nhưng lại đem kinh ra thay thế cho tượng để sùng bái.

Tổ thứ 3 là Amar Das (1479 - 1574). Ông giúp Tích-khắc giáo chính thức trở thành một đoàn thể có tư tưởng và tập tục của riêng mình.

Tổ thứ 4 là Ram Das (1574 - 1581). Ông đã thành lập nên trung tâm của Tích-khắc giáo ở Amritsar, Punjab.

Tổ thứ 5 là Arjan Dev (1581 - 1606), con trai út của Ram Das. Vì Ram Das rất có hứng thú đối với quân sự, nên vào thời của ông, trung tâm của Tích-khắc giáo nghiễm nhiên trở thành một tổ chức quân đoàn, và ông cũng đã đổi chế độ guru thành chế độ thế tập, cha truyền con nối. Đến thời tổ thứ 5, giáo khu của Tích-khắc giáo, về mặt chính trị, quân sự và kinh tế, đã hình thành nên diện mạo của một vương quốc độc lập. Chính vì lẽ đó, vị hoàng đế Ấn Độ theo đạo Hồi thời bấy giờ là Jahangir đã nảy sinh nghi ngờ và xử tử ông một cách vô duyên vô cớ.

3. Kết quả của việc quân sự hóa

Tinh thần Tích-khắc giáo về cơ bản là học từ Hồi giáo, nên tín đồ của đạo này cũng có sự tín ngưỡng cuồng nhiệt và những hành động liều lĩnh, huống hồ họ vốn đã được tổ chức chặt chẽ với vũ lực hùng mạnh. Vì vậy, việc tổ thứ 5 bị giết đã gây nên cuộc phản kháng quyết tử của toàn thể tín đồ. Tín ngưỡng tôn giáo đã biến thành chiến tranh quân sự. Đến vị guru thứ 10 là Gobind, để báo mối thù giết cha, đã lập lời thề phải tiêu diệt đế quốc Hồi giáo, chỉ có điều so sánh thực lực hai bên thì đây là điều bất khả. Do vậy, ông đã vào núi tu luyện, chờ ngày đắc được thần thông, đồng thời thờ nữ thần Durgā, cầu nữ thần giúp sức. Về phía tín đồ thì ông ra sức huấn luyện quân sự, gọi toàn thể tín đồ là “sư tử” (singh). Họ đều để tóc dài và luôn đeo kiếm bên mình, chiến đấu trường kỳ với tín đồ của Hồi giáo. Ông còn biên tập lại kinh điển, làm cho kinh điển gốc vốn mang sắc thái ôn hòa biến thành các loại quy tắc, luật lệ cổ vũ cho lòng bi phẫn sục sôi, quy định sinh hoạt thường ngày của tín đồ và nuôi dưỡng nếp sống cuồng nhiệt, dũng mãnh. Vốn là tôn giáo tín ngưỡng vào Thượng đế vạn năng, giờ đây Tích-khắc giáo đã trở thành một tôn giáo với những tín đồ cuồng tín vào ý chí của các tổ sư guru. Tình hình này làm cho vương triều Hồi giáo rất đau đầu, rất nhiều máu tín đồ đã đổ xuống, nhưng Tích-khắc giáo vẫn như cỏ mùa xuân đốt hoài không hết. Chờ đến khi vương triều Hồi giáo ở Ấn Độ diệt vong, quân đội Tích-khắc giáo đã nhân cơ hội diễu võ dương oai khắp đất nước. Sau này, công ty Đông Ấn Độ của Anh quốc làm được “cái việc mà chủ nghĩa đế quốc đã làm” ở Ấn Độ, thì Tích-khắc giáo mới buông bỏ vũ khí, trở lại thành một đoàn thể tôn giáo. Bởi thế, có người cho rằng, thái độ và hành vi của Tích-khắc giáo thực chất không khác gì một loại Hồi giáo thổ sản của Ấn Độ. Bản chất của nó đích thực là từ tinh thần “phụng thờ Koran, không thì đao kiếm” của Hồi giáo mà ra, chả trách nó lại bước lên con đường quân sự điên cuồng như vậy!

TIẾT 3: TIÊN GIÁO 

1. Tôn giáo của Ba Tư

Tiên giáo nói tới trong tiết này chính là tôn giáo của nước Ba Tư cổ đại (Iran ngày nay). Như phần trước đã trình bày, người Iran ở Ba Tư vốn cùng một huyết thống với người Āryan ở Ấn Độ. Người Āryan tiến vào Ấn Độ, phát triển nên Bà-la-môn giáo dựa trên nền tảng kinh điểnVeda, người Iran lưu lại Ba Tư thì thành lập nên Tiên giáo. Nhưng do Bà-la-môn giáo và Tiên giáo xuất xứ từ hai phân nhánh của cùng một dân tộc nên những tín ngưỡng tôn giáo và các thần linh được tin thờ trong hai tôn giáo này cũng có rất nhiều điểm tương đồng về nguồn gốc.

Tuy vậy, hoàn cảnh tự nhiên của Ba Tư đã khiến cho tôn giáo Ba Tư hình thành nên nét đặc sắc riêng của một tôn giáo theo thuyết nhị nguyên thiện ác, cũng chính là nhị thần giáo mà chúng ta đã nói đến ở chương II. Dân tộc Ba Tư có khí chất vui vẻ và nhân sinh quan lành mạnh. Họ sinh sống trên miền cao nguyên, việc canh tác nông nghiệp rất khó khăn, lại phải đối chọi với sức mạnh của tự nhiên, khắc phục thời tiết nóng lạnh... tất cả những điều đó đã trở thành cuộc sống thường nhật của họ. Vì thế, họ xem những “kẻ địch” đến từ tự nhiên này là “lực lượng ác”. Họ cho rằng, tuy có những kẻ địch độc ác nhìn thấy được và không nhìn thấy được mà con người phải đối đầu, nhưng con người không nên thất vọng về thế giới này, vì ngoài lực lượng ác ra, chắc chắn vẫn có lực lượng thiện bảo hộ cho con người. Suy cho cùng, tà không thể địch nổi chánh, lực lượng thiện nhất định sẽ chinh phục được lực lượng ác. Cho nên, với niềm tin như thế, người Ba Tư một mặt chiến đấu với lực lượng ác không chút nản lòng, một mặt cầu nguyện sự bảo hộ của lực lượng thiện. Thế giới quan của họ là một chiến trường giữa thiện và ác, cũng chính là chiến trường giữa quang minh và hắc ám. Nền tảng tín ngưỡng này đưa đến việc văn hóa, chính trị và tôn giáo của Ba Tư chú trọng ở cuộc sống hiện đời và thái độ đấu tranh kiên trì.

Bởi thế, về mặt chính trị, khoảng năm 550 trước Công nguyên, ở Ba Tư xuất hiện một vị quốc vương tài trí kiệt xuất, mưu lược hơn người tên là Cyrus. Đến năm 539 trước Công nguyên, ông thu phục Babylon làm nước chư hầu của Ba Tư, và còn trở thành người kế thừa bá nghiệp của Babylon, chinh phục toàn bộ Tiểu Á. Về mặt tôn giáo, đất nước Ba Tư đã sản sinh ra Tiên giáo theo thuyết nhị nguyên thiện ác.

2. Bái Hỏa giáo và Tiên giáo

Tín ngưỡng thờ lửa của các dân tộc Ấn-Âu gần như giống nhau, chỉ khác là việc thờ lửa của Hy Lạp và La Mã là sự sùng bái thần tổ tông, còn việc thờ lửa của người Āryan Ấn Độ là sự sùng bái thần lửa Agni. Thần lửa Agni của Ấn Độ có chức năng là thi ân cho người, trừ khổ ban vui; trong khi đó, thần lửa Ātur của Ba Tư có chức năng là dẹp vọng tâm, trừ cấu uế.

Trung Quốc gọi Bái Hỏa giáo là Tiên giáo. Ví dụ, trong Tây Vực Truyện của Đường Thư viết: “Người thờ lửa ở Tây Vực là người theo Tiên giáo”. Sách Dậu Dương Tạp Trở cũng viết: “Bên sông Ô Hử ở nước Đức Kiến có đền thờ lửa”. Ở đây, dường như nói Bái Hỏa giáo chính là Tiên giáo, nhưng kỳ thực hai tôn giáo này có sự khác biệt.

Trước khi Tiên giáo ra đời, người Ba Tư cổ xem thần lửa Ātur là con trai của chủ thần Ahura Mazda. Thần lửa Ātur thường xuyên chiến đấu với bộ hạ của ác thần Ahriman là rắn độc Azhi Dahaka, và cuối cùng Ātur đã dùng ánh lửa của mình giết chết rắn độc. Từ đó, người ta lấy rắn độc đại biểu cho tội lỗi và hắc ám, và lấy lửa tượng trưng cho trong sạch và quang minh. Vì người Do Thái là nô lệ của người Babylon, cũng là nô lệ của người Ba Tư; hơn nữa, đến thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, người Do Thái từng bị người Babylon lưu đày tập thể đến Mesopotamia, tại đó họ đã tiếp xúc được với tôn giáo Ba Tư, rồi lại được vị vua giàu lòng nhân ái của Ba Tư là Cyrus phóng thích; nên khi trở về lại Palestine, họ đã tiếp thu những yếu tố tín ngưỡng nhị thần của tôn giáo Ba Tư, đem mặt tàn ác trong thuộc tính ban đầu của Thiên Chúa Yahweh tách riêng ra thành ma thần Satan; ngoài ra, thủ hạ của ác thần Ahriman trong tôn giáo Ba Tư là rắn độc, và bộ kinh Cựu Ước của người Do Thái cũng đã học theo, tả Satan thành một con rắn. Về điểm này, đến chương VII chúng ta sẽ bàn rõ thêm.

Còn về việc người ta cho rằng Tiên giáo chính là Bái Hỏa giáo cũng không phải vô cớ vì Tiên giáo ra đời ở Ba Tư nên vẫn giữ tín ngưỡng thờ lửa. Chỉ có điều, việc thờ lửa của Tiên giáo chỉ là nghi thức phụ, không còn là giáo lý chủ yếu nữa.

3. Giáo chủ của Tiên giáo

Giáo chủ của Tiên giáo là Zoroaster. Vì vậy, tôn giáo này ngoài tên gọi là Mazdeism, còn gọi là Zoroastrianism. Zoroaster sinh vào khoảng năm 660 trước Công nguyên. Theo truyền thuyết, mẹ ông là một cô gái đồng trinh 15 tuổi[1]. Ngay từ thời niên thiếu, ông đã vô cùng thông minh tài trí, có lòng nhân từ, yêu thương tất cả động vật và không làm tổn thương chúng. Năm 30 tuổi, ông bắt đầu truyền đạo, tín ngưỡng chủ thần Ahura Mazda tối cao. Cái tên Mazdeism có nguồn gốc từ tên của vị thần này mà ra. Đây là một vị thiện thần chính nghĩa, thánh khiết và cao thượng. Zoroaster sùng tín vị thần này, ông tự tin rằng bản thân ông cũng có thể đạt đến mức độ thánh khiết. Ông tự xưng mình là sứ giả của Ahura Mazda, thần phái ông đến để truyền đạo cho thế nhân, khuyên người đời hối cải. Ông nguyện hy sinh hạnh phúc bản thân mình, dốc sức thực hiện sứ mạng mà thần Ahura Mazda giao phó. Ông khuyên mọi người không uống rượu, không tà hạnh, không lừa gạt và lấy chân lý thuần khiết làm ý chỉ của mình.

Zoroaster là người thành thật và cương trực, dám nói thẳng, không sợ quyền thế, đến nỗi mọi người đều giữ thái độ “kính trọng mà xa lánh” đối với ông. Nghe nói, ông nỗ lực truyền đạo 10 năm mà chỉ thu được có 1 tín đồ. Nhưng, ông không hề nản chí, cuối cùng ông đã có được sự tín ngưỡng của quốc vương và các đại thần quý tộc Ba Tư. Ông lấy con gái của một vị đại thần trong triều làm vợ, và con gái của ông sau này cũng lại gả cho thừa tướng của Ba Tư. Tôn giáo của ông, sau đó, đã trở thành quốc giáo của Ba Tư. Vì ông cưới 2 vợ nên Tiên giáo đã tạo thành chủ nghĩa đa thê ở Ba Tư giống như Hồi giáo ở bán đảo Arab sau này. Lại vì vị chủ thần mà ông tín ngưỡng tán thành việc dùng vũ lực để đánh đổ ác thần nên Tiên giáo cũng đã cổ vũ cho sự phát triển của đế quốc Ba Tư.

4. Thần của Tiên giáo

Chủ thần Ahura Mazda, theo cách giải nghĩa trong kinh Avesta của Tiên giáo thì “ahura” nghĩa là “chủ”, “mazda” nghĩa là “trí tuệ” hoặc “hiền đức”. Người Ba Tư trước thời Zoroaster đã sùng bái Ahura Mazda với tư cách là một vị thiện thần, nhưng ngoài việc sùng bái vị thần này, họ còn sùng bái cả thần mặt trời, thần mặt trăng, các vì sao, bò đực... nên tôn giáo của họ vẫn mang tính chất của đa thần giáo.

Đến Zoroaster thì tín ngưỡng tôn giáo theo thuyết nhị nguyên đã ra đời. Ông đứng trên lập trường thiện, phụng thờ chủ thần Ahura Mazda, lại dựa vào sự khải thị của Ahura Mazda để đấu tranh với ác thần Ahriman. Ahriman thường hay xúi giục ác ma mê hoặc nhân gian, khiến con người phạm vào tội ác, đem đến sự khổ não cho loài người. Vì thế, chủ thần Ahura Mazda ra lệnh cho thuộc hạ của mình chinh phạt bọn ác ma, chiến tranh cứ thế nổ ra liên miên. Hai bên đánh nhau, bên nào cũng có thắng có bại, cho nên mùa màng ở nhân gian cũng có sự sai khác, khi được khi mất. Song, cuối cùng thì, chắc chắn ác thần sẽ bại trận. Vì vậy, người đời nên tích đức tu thiện, thành tâm lễ kính Ahura Mazda, xin Ngài ban phước để tránh ác thần Ahriman.

Có thể thấy, Tiên giáo tuy bị liệt vào nhị thần giáo, nhưng vị thần mà họ phụng thờ, lễ kính vẫn chỉ có một mình chủ thần Ahura Mazda.

5. Sự phân chia thời kỳ và giáo phái

Theo quan điểm của Tiên giáo thì toàn bộ lịch sử thế giới này được quy định là 12.000 năm, chia làm 4 thời kỳ, mỗi thời kỳ 3000 năm:

a. Thời kỳ 3000 năm thứ nhất là thời kỳ sáng tạo tinh thần của chủ thần Ahura Mazda. Những sinh vật do Ngài sáng tạo ra vào thời kỳ này tuy có tri giác cảm xúc nhưng sống trong trạng thái bất động.

b. Thời kỳ 3000 năm thứ hai là thời kỳ sáng tạo vật chất của chủ thần Ahura Mazda. Trong thời kỳ này cũng bắt đầu xuất hiện sự quấy rối của ác thần Ahriman.

c. Thời kỳ 3000 năm thứ ba là thời kỳ xảy ra xung đột trên thế giới này giữa ý chí của hai vị thần thiện và ác. Zoroaster sinh vào cuối thời kỳ này, phụng mệnh thiện thần sáng lập nên tôn giáo chân chính là Tiên giáo.

d. Thời kỳ 3000 năm thứ tư là thời kỳ Tiên giáo chi phối thế giới. Cuối cùng, hai thần thiện và ác mở cuộc đại chiến, ác thần và quyến thuộc của hắn đều bị tiêu diệt.

Cũng giống như các tôn giáo khác, đây là cách phân chia thời kỳ theo tín ngưỡng, đương nhiên không phải là sự thật lịch sử.

Ba Tư nằm trên vùng cao nguyên, nước rất khan hiếm, gần như việc gì cũng dựa vào lửa. Có lẽ là giống như ở Tây Tạng, vì quá thiếu nước, nên đến việc tắm cũng dùng lửa hơ thay cho lấy nước rửa, bởi thế lửa còn có tác dụng làm sạch và trừ bẩn. Chủ thần Ahura Mazda thường sai thần lửa đi chinh phạt ác ma, từ tín ngưỡng đó hình thành nên Bái Hỏa giáo; chủ thần còn có một thuộc hạ là thần mặt trời Mithra, vì mặt trời và lửa đều tượng trưng cho quang minh và thanh khiết, nên đã xuất hiện Thái Dương giáo[2]; thiện thần đại biểu cho quang minh, ác thần đại biểu cho hắc ám, vì thế lại có thêm Minh Ám giáo[3]. Chủ thần cư trú trên trời, cúng chủ thần phải hướng lên trời mà cúng, vì vậy Tiên giáo được người Trung Quốc gọi là tôn giáo “cúng trời”. Trước thời đại vương triều Sassanid (226 - 651) của Ba Tư một chút, Thái Dương giáo từng được truyền bá ở đế quốc La Mã, có một dạo đã trở thành kình địch nguy hiểm nhất của Cơ Đốc giáo. Minh Ám giáo thành lập vào đầu thời kỳ triều Sassanid, sau đó truyền vào La Mã; đến thế kỷ XII, Minh Ám giáo trỗi dậy ở châu Âu thời Trung cổ và trở thành một dị giáo đối với Cơ Đốc giáo.

Về việc Tiên giáo truyền vào Trung Quốc, theo ghi chép trong quyển Tây Khê Tùng Ngữ của Diêu Khoan thì: “Năm Trinh Quán thứ 5 đời Đường (năm 631), có một nhà truyền giáo tên là Hà Lộc đem Tiên giáo về cung trình tấu lên vua. Vua ra sắc lệnh lập chùa ở Sùng Hóa, Trường An, tên là Đại Tần Tự, còn gọi là Ba Tư Tự”. Trong Phật Tổ Thống Kỷ của pháp sư Chí Bàn đời Tống cũng nói: “Vào thời Thái Tông có nhà truyền giáo người Ba Tư trình Tiên giáo lên vua, vua lệnh cho xây đại tự”. Nhưng đến năm Hội Xương thứ 5 thời Đường (năm 845), khi vua Vũ Tông diệt trừ Phật pháp, Tiên giáo cũng bị vạ lây, từ đó biến mất tại Trung Quốc.

6. Tôn giáo nhỏ nhất

Tuy hưng khởi ở Ba Tư từ trước, nhưng Tiên giáo của Ba Tư gần như đã bị Hồi giáo đến sau tiêu diệt, tín đồ hiện tại có lẽ chỉ còn không quá 100.000 người, có thể xem là tôn giáo nhỏ nhất trong số các tôn giáo nổi tiếng trên thế giới ngày nay. Khi Hồi giáo tiêu diệt Tiên giáo, một bộ phận tín đồ Tiên giáo trốn sang Ấn Độ, cuối cùng cũng may mắn thoát nạn, bảo tồn được “tiêu bản sống” của Tiên giáo. Hiện giờ, hơn một nửa trong số đó cư trú rải rác ở Mumbai, được gọi là người Parsee. Dân số của họ tuy ít nhưng phần lớn đều có tín ngưỡng cực kỳ nhiệt thành, họ chú trọng lễ bái cầu nguyện, rất biết cần kiệm chịu khó, tôn sùng ý chí tự do, có chí lạc quan tiến thủ. Vì vậy, trong các dân tộc của Ấn Độ, họ có thể được xem là những người giàu có, nhân từ, có giáo dục, và đối xử tốt với phụ nữ.

Tiên giáo ra đời ở phương Đông nên cũng có những đặc tính của tôn giáo phương Đông, đó chính là không dùng vũ lực hoặc sức mạnh chính trị làm công cụ truyền giáo. Khi vua Cyrus chinh phục xong Babylon, ông không những không đem tín ngưỡng Tiên giáo mà Ba Tư lấy làm quốc giáo cùng bành trướng ra bên ngoài với sự mở rộng của chính quyền, ngược lại còn phóng thích những người Do Thái bị Babylon lưu đày tại Mesopotamia và tài trợ cho họ tái thiết Thánh địa Jerusalem.

TIẾT 4: LÝ GIÁO CỦA TRUNG QUỐC

 

1. Tôn giáo hội kín

Trước khi nói về Lý giáo phải nói qua về tôn giáo hội kín, vì đây là xu thế chung của tôn giáo Trung Quốc cuối triều Minh đầu triều Thanh. Những năm cuối triều Minh, người Mãn Thanh tiến vào làm chủ Trung Hoa, con dân nhà Minh ai ai cũng căm phẫn, nhưng về mặt chính trị và vũ lực thì họ không có cách gì đạt được nguyện vọng “phản Thanh phục Minh” của mình. Họ bèn lột bỏ lớp áo “chí sĩ yêu nước”, chuyển vào hoạt động bí mật, tổ chức nên các hội kín, nuôi dưỡng lòng trung thành, chờ đợi thời cơ đến.

Nhưng hoàn cảnh khi đó không cho phép thực hiện bất kỳ hoạt động mang màu sắc chính trị nào, họ bèn mượn danh nghĩa tôn giáo để bảo tồn và phát triển thực lực, thế là các hội kín đội lốt tôn giáo ra đời. Hội có lịch sử lâu đời nhất là Bạch Liên hội. Tương truyền, hội này do Hàn Sơn Đồng thành lập vào đời Nguyên, sau còn được gọi là Bạch Liên giáo. Hàn Sơn Đồng có mưu đồ phản Nguyên phục Tống. Đến những năm Càn Long đời vua Cao Tông triều Thanh (1736 - 1795), lại có thủ lĩnh giáo phái này là Lưu Tùng cùng với môn đồ của mình mưu phản triều đình nhà Thanh. Bạch Liên hội có các chi phái như: Thuận Đao hội, Hổ Vĩ Tiên, Nghĩa Hòa Quyền, Bát Quái giáo... Trong Bát Quái giáo lại chia thành Đại Thừa giáo, Kim Đan Bát Quái giáo, Nghĩa Hòa môn, Như Ý môn, Ly Quái giáo, Khảm Quái giáo... Ngoài ra, Nghĩa Hòa Đoàn (cũng gọi là Đại Đao hội), Tiểu Đao hội, Lý giáo... đều là chi phái của Bạch Liên hội.

Bạch Liên hội lấy danh nghĩa tu niệm Phật để che giấu mục đích của mình; trên thực tế, họ giảng dạy về trung, về hiếu, mưu đồ lật đổ nền thống trị của dị tộc Mãn Thanh. Các chi phái của Bạch Liên hội đều lấy kiến giải “tam giáo đồng nguyên”[1] làm tín ngưỡng tôn giáo. Ban đầu, tất cả đều là vì mưu đồ chính trị, đến Lý giáo mới dần biến đổi thành một loại hình tôn giáo. Lý giáo vốn xuất xứ từ Đạo giáo, nhưng theo một bản tấu chương của quan Ngự sử Lý Toại vào năm Quang Tự thứ 9 đời vua Thanh Đức Tông (1883) thì: “Lý giáo lấy danh nghĩa răn người đời không hút thuốc và uống rượu, người này truyền người kia, số người theo rất đông, nghe nói là biến tướng của Bạch Liên giáo, giáo đầu đang ở Thiên Tân, xin ra lệnh mật nã hắn”. Từ đây có thể thấy, phong trào của Lý giáo và Bạch Liên giáo cũng có cùng nguồn gốc.

Ngoài các chi phái chính của Bạch Liên hội kể trên, có một chi phái nữa là Thiên Địa hội hay còn gọi là Tam Hợp hội, Tam Điểm hội hoặc Hồng Môn hội. Thiên Địa hội lại phân thành Thanh Thủy hội, Chủy Thủ hội, Song Đao hội. Ngoài Thiên Địa hội, lại có một chi phái nữa là Ca Lão hội hay còn gọi là Ca Đệ hội, Ca Lão hội lại phân thành Thanh bang, Hồng bang, và Hắc bang, Bạch bang.

Các hội kín này, đến cuối triều Thanh đầu thời Dân quốc, một bộ phận gia nhập vào Hưng Trung hội của tiên sinh Tôn Trung Sơn; một bộ phận lưu lạc đến những nơi như Thượng Hải... và trở thành những người có danh vọng ở các nơi đó; một bộ phận lại trở thành lưu manh, du đãng; một bộ phận thì tịnh hóa thành hình thái tôn giáo thuần túy, và Lý giáo là một trong số này.

2. Giáo chủ của Lý giáo

Lý giáo gọi giáo chủ của họ là “giáo tông” hoặc “tổ sư”. Vị giáo chủ đó chính là Dương Lai Như, tên là Tể, tự là Diên Hiền, gọi tắt là Dương Tổ. Ông sinh vào ngày 13 tháng giêng năm Thiên Khải Nguyên Niên đời vua Hy Tông cuối triều Minh (1621), là người ở Tức Mặc, Sơn Đông, đỗ Tiến sĩ vào năm Sùng Trinh thứ 16 triều Minh đời vua Tư Tông (1643). Năm Sùng Trinh thứ 17 triều Minh, Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh tiến vào cửa ải lật đổ nhà Minh, vua Thanh là Thuận Trị lên ngôi, ra chiếu chỉ khắp thiên hạ rằng, phàm những ẩn sĩ từng làm quan dưới triều Minh, về cung để gia phong tước vị. Dương Tổ tuy cũng được triệu về, nhưng ông cương quyết không thờ hai vua, cự tuyệt không ra làm quan. Lấy việc tận hiếu mẹ già, cứu thế độ nhân làm chí nguyện. Có thể thấy, Dương Tổ là một vị quan cuối triều Minh, giống nhiều người khác trong các hội kín như Bạch Liên hội.

Đứng trên lập trường tôn giáo, Dương Lai Như xuất thân từ phái Toàn Chân của Đạo giáo, là nhân vật truyền thừa của Khưu Trường Xuân trong chi phái Long Môn. Vì vậy, mục đích của Lý giáo là cầu “dứt bỏ phàm tục” và sinh vào “trời Đại La” mà Đạo giáo nói tới. Chúng ta còn biết rằng, tổ sáng lập phái Toàn Chân là Vương Trùng Dương đã vay mượn giáo lý của Nho giáo và Phật giáo trên lập trường của Đạo giáo. Cho nên, Dương Tổ của Lý giáo đã mượn cớ nói là vào ngày 3 tháng 3 năm Thuận Trị thứ 3 đời vua Thanh Thế Tổ (1646), vì thủ hiếu bên mộ mẹ, cảm được Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân thành một ông lão đến hóa độ, trao cho quyển Chân Lý Pháp Kinh, và lệnh cho ông độ khắp thế nhân. Bởi thế, Lý giáo lấy Bồ-tát Quán Thế Âm làm trung tâm tín ngưỡng của mình, gọi Ngài là Thánh Tông Cổ Phật. Nhưng sau khi mãn 3 năm phục tang mẹ, Dương Tổ vẫn chưa lập tức truyền giáo, mà đến động Lan Thủy ở núi Kỳ Sơn, tỉnh Hà Bắc, ẩn cư mật tu. Đến năm Khang Hy thứ 40 đời vua Thanh Thái Tổ (1701), khi đã 81 tuổi, ông mới bắt đầu xuống núi vân du, rộng kết thiện duyên. Ông khuyên khắp mọi người không uống rượu, không hút thuốc, lấy những dược liệu mà ông tìm được chế thành “cao trà” dùng làm thuốc trị cho những người cai rượu, cai thuốc lá. Ngày 8 tháng 2 năm Càn Long thứ 18 đời Thanh Cao Tông, ông tạ thế ở Kỳ Sơn, Hà Bắc, hưởng thọ tới 133 tuổi.

Người kế thừa Dương Tổ là Doãn Tổ, được xưng là Doãn Lão Tiên Sư, tên là Nham Sinh, tự là Trọng Sơn, hiệu là Lai Phụng, sinh vào năm Càn Long thứ nhất ở thôn Khoa Ngưu, Thiên Tân. Ngày 1 tháng 2 năm Càn Long thứ 28, ông tiếp nhận Pháp Bảo Văn Điệp do Dương Tổ ở Kỳ Sơn sai sứ giả Mao Lai Trì đem đến. Ngày 8 tháng 4 năm Càn Long thứ 30, ông sáng lập công sở đầu tiên của Lý giáo ở Vĩnh Phong Đồn, Thiên Tân. Doãn Tổ tự soạn một câu đối:

“Công bày nghĩa Đạo tầm Phật lý

Sở nhiếp vượn tâm tẩy phàm trần.”

Câu đối này nói rõ tín ngưỡng tôn giáo của ông là sự pha trộn giữa Đạo giáo và Phật giáo. Đặc biệt là, vào ngày 1 tháng 12 năm Gia Khánh thứ 11 đời vua Thanh Nhân Tông (1806), lúc sắp lâm chung, ông nói với các đệ tử của mình rằng: “Này các đệ tử, mùng 8 tháng này, số ta đã đến lúc mãn, phải trở về trời Đại La, phụng dưỡng Phật Tổ”. Như vậy, chúng ta càng thấy rõ là Lý giáo đã lấy Đạo giáo làm nền tảng, vay mượn thêm đức Quán Âm của Phật giáo, đưa Phật Tổ Quán Âm lên ngự trên trời Đại La của Đạo giáo! Tuy nhiên, nếu không hiểu rõ nội tình của Lý giáo, vừa bước vào công sở (cách gọi nơi tế tự) của Lý giáo, bạn sẽ cho rằng đó là đạo tràng Phật giáo, vì Thánh Tông Cổ Phật (Quá Khứ Chánh Pháp Minh Như Lai), còn gọi là Kim Thân Lão Phật Gia, mà Lý giáo thờ trong chánh điện của công sở chính là tượng Quán Âm; phía trước điện thì thờ tượng Di Lặc và tượng Vi Đà, rất giống với cửa chùa Phật giáo; còn tượng của Dương Tổ và Doãn Tổ thì được đặt ở trên lầu của công sở.

3. Giáo lý và nghi lễ của Lý giáo

Về mặt nghĩa lý, Lý giáo chẳng có phát huy gì mới. Vì Lý giáo hành pháp tiện lợi, đạo lý đơn thuần nên phát triển rất nhanh trong dân gian. Chủ yếu là dạy trung, dạy hiếu, dạy làm người thật thà, tôn sùng Ngũ luân, thực hành Bát đức, và phải tuân thủ nghiêm ngặt Ngũ giới. Ngũ luân là năm mối quan hệ của đạo đức phong kiến gồm: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn. Bát đức là hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Ngũ giới là không tà dâm, không trộm cắp, không hút thuốc, không lừa dối, không uống rượu. Trong 5 giới, đặc biệt chú trọng giới không hút thuốc và không uống rượu, còn sáng tác cả 2 bài hát Giới Yên Ca và Giới Tửu Ca nói rõ đạo lý rượu và thuốc lá gây hại cho con người như thế nào. Vì vậy, về tác dụng xây dựng niềm an lạc nơi nhân gian, Lý giáo đáng được phổ biến rộng rãi. Cho nên, đến sau thời Dân quốc, từ một hội kín hoạt động bí mật, Lý giáo đã trở thành một trong những đoàn thể tôn giáo được pháp luật nhà nước bảo hộ, thậm chí từ Trung Quốc đã phát triển đến các nước Đông Nam Á. Sau khi chính quyền Quốc dân đến Đài Loan, Lý giáo cũng bắt đầu truyền bá ở đây từ năm 1951. Công sở Lý giáo ở Đài Bắc vốn cũng là một ngôi chùa Phật.

Nếu muốn tìm hiểu về giáo lý của Lý giáo thì xin hãy xem kinh điển của tôn giáo này, gồm: Vô Tự Chân KinhTại Lý Chân KinhTrung KinhHiếu KinhHoàng Đình KinhĐạo Đức KinhQuán Âm KinhTâm Kinh, Kim Cang Kinh... Đúng thực là một hỗn hợp thu gom cả Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo, không khác mấy kinh điển mà Toàn Chân giáo đã sử dụng trong thời kỳ đầu.

Chúng ta có thể thấy được nội dung của Lý giáo thông qua Tại Lý Chân Kinh do Dương Lai Như soạn. Nguyên văn kinh này như sau:

“Lặng giữ trì niệm, quán tự thân,

Tai mắt tùy tâm, nghe triều âm.

Bốn biển trong veo quang minh hiện,

Khi người an trú trong ngũ hành.

Trên mặt đài sen trì chân ngữ,

Pháp luân thường chuyển vận càn khôn.

Chiếu khắp thế gian tùy tâm biến,

Lấp đầy Côn Lôn ba cõi minh.

Hết thảy vạn vật đều có tánh,

Khí là gốc của tánh diệu huyền.

Âm dương bên trong ai hiểu thấu,

Người biết dưỡng tánh mới hiểu thôi.

Đại đạo ở ngay trong tâm ta,

Tìm bên ngoài uổng tổn tinh thần.

Người ngộ được lý sư phụ dạy,

Ngày đêm chuyên cần niệm nơi tâm.”

Bởi vậy, về công phu tu trì, Lý giáo cũng có những hạnh tu hỗn tạp vay mượn từ Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Họ theo quy phạm nhập thế của Nho gia, giữ Ngũ luân, hành Bát đức, đạt đến trình độ hoàn mỹ nhất; đồng thời, họ nghiên cứu Phật pháp, tu luyện Đạo thuật, lấy đó làm hành trình xuất thế của mình. Hạnh tu này được gọi là “tính - mệnh song tu”.

Từ trai kỳ và pháp hội của Lý giáo cũng có thể thấy tín ngưỡng của Đạo giáo và Phật giáo lẫn lộn trong đó. Trai kỳ của Lý giáo chia làm 2 loại:

a. Sáu đại trai kỳ:

- Ngày 13 tháng 1: ngày sinh Dương Tổ.

- Ngày 19 tháng 2: ngày hóa thân Bồ-tát của Thánh Tông Cổ Phật đản sinh nơi trần thế.

- Ngày 8 tháng 4: ngày kỷ niệm Doãn Tổ sáng lập công sở Lý giáo đầu tiên.

- Ngày 19 tháng 6: ngày kỷ niệm hóa thân Bồ-tát của Thánh Tông Cổ Phật được thọ ký.

- Ngày 19 tháng 9: ngày kỷ niệm hóa thân Bồ-tát của Thánh Tông Cổ Phật đắc đạo.

- Ngày 8 tháng 12: ngày tạ thế thoát tục thành tiên của Doãn Lão Tiên Sư.

b. Ba tiểu trai kỳ:

- Ngày 1 tháng 1: hướng về Phật, về Tổ lễ lạy, chúc tết.

- Ngày 3 tháng 3: ngày kỷ niệm Thánh Tông Cổ Phật lần đầu độ cho Dương Tổ thọ lý.

- Ngày 15 tháng 8: ngày kỷ niệm thầy Bang bồi giám hộ thăng tòa độ sinh.

Lý giáo mỗi năm có 3 lần pháp hội, đây chính là sản vật của Đạo giáo, bao gồm:

- Ngày 15 tháng 1: Pháp hội Thượng Nguyên, đốt đèn cầu nguyện.

- Ngày 15 tháng 7: Pháp hội Trung Nguyên, thả đèn hoa đăng trên sông, truy độ những vong linh không người thờ cúng.

- Ngày 15 tháng 10: Pháp hội Hạ Nguyên, cúng tế tổ tiên.

4. Chế độ của Lý giáo

Theo truyền thuyết, lúc còn sống, Dương Lai Như đã xây dựng chế độ nhân sự của Lý giáo. Tại động Lan Thủy, núi Kỳ Sơn, ông tự nhậm chức Tổng lãnh chính, làm Đề điểm đại pháp sư, điểm phóng cho các đệ tử như Mao Lai Trì... trở thành các vị pháp sư:

a. Lãnh chính: làm Truyền giáo đại pháp sư.

b. Bang chính pháp sư: làm trợ lý cho Lãnh chính trong việc truyền giáo.

c. Bang bồi giám hộ: làm Pháp sư thượng tọa.

d. Hộ pháp: làm Thủ đàn

e. Ngoài ra còn có các chức vị khác như: Khán sơn, Quản lý giáo sản, Tổng thừa biện, Thừa biện, Đảng chúng, Thôi chúng, Biện đạo...

Tên gọi các chức vị này vẫn được giữ nguyên cho đến khi Lý giáo chạy sang Đài Loan. Tổng lãnh chính hiện nay (1968) là Triệu Lý Minh. Tổng lãnh chính có quyền đề cử người kế thừa mình và điểm phóng chức vị các cấp của Lý giáo, nên được gọi là Đề điểm đại pháp sư.

Vì thế, giáo đoàn của Lý giáo có hai loại phần tử: một loại là tín đồ phổ thông, một loại là giáo sĩ thọ chức. Lý giáo gọi tín đồ là “tín sĩ”. Các giáo sĩ thọ chức thì được xưng hô theo hai cách: Tổng lãnh chính, Lãnh chính, Bang chính, Bang bồi đều gọi là “pháp sư”; còn Hộ pháp, Khán sơn... đều gọi là “lý sĩ”. Cách gọi “lý sĩ” cũng có thể dùng thay cho cả “pháp sư”.

Những tín sĩ mới gia nhập Lý giáo, được gọi là “tại lý”, phải trải qua các thủ tục như: giới thiệu gặp mặt, cung kính thỉnh cầu và cam đoan theo đạo; trong thời gian “tùy lý” kéo dài vài tháng sau đó, mỗi lần đến ngày 1, ngày 15 và các ngày trai kỳ đều phải tới công sở của Lý giáo; sau khi thuần thục giáo quy, mới cho phép “thọ lý”. Tín sĩ thọ lý rồi, ngoài giới không hút thuốc, không uống rượu và mùng một, ngày rằm, trai kỳ đến công sở lễ Phật cầu nguyện ra, cuộc sống thường nhật của họ không bị giáo quy bó buộc. Sinh hoạt hằng ngày của các lý sĩ cũng có thể tùy duyên theo thế tục.

Thuyết Nho, Phật, Đạo tam giáo đồng nguyên được thấy sớm nhất trong tác phẩm Lý Hoặc Luậncủa Mâu Tử cuối đời Hán. Đến đời Nam Tống, ở Hà Bắc xuất hiện một Đạo giáo mới là phái Toàn Chân, phái này chính là sự cụ thể hóa thuyết tam giáo đồng nguyên. Đến Lý giáo, tuy thoát thai từ phái Toàn Chân của Đạo giáo nhưng không tự cho mình là Đạo giáo. Nhìn từ bên ngoài, nó có sắc thái mang khuynh hướng Phật giáo, đây là sự độc lập hóa của thuyết tam giáo đồng nguyên. Xu thế này nói rõ tính bao dung và sức hòa tan của tinh thần văn hóa Trung Quốc. Thật giống như trong kinh Phật nói: “Biển lớn không khước từ trăm sông mới có thể thành tựu sự rộng lớn của mình”. Điều đáng quý nhất là, ở “biển lớn Trung Quốc” này, cho dù bạn là loại “cá văn hóa” nào, khi vào trong biển văn hóa Trung Quốc, tuy sẽ bị dung nạp nhưng cũng không lo người ta tiêu diệt bạn. Ví dụ như trường hợp của Lý giáo, người có kiến thức nhìn qua liền biết điều đó.

Tóm lại, hình thái tôn giáo “râu ông nọ cắm cằm bà kia” của Lý giáo, tuy chưa phải là lý tưởng, nhưng những nỗ lực độ đời dạy người của họ vẫn đáng được chúng ta khích lệ.

 


 

 

193. Essential substance.

194. Accidental substance.

195. Samyag-darsana.

196. Samyag-jnana.

197. Samyag-caritra.

198. Theo bản dịch ở trang 181, sách Ấn Độ Thông Sử của Chu Tường Quang.

199. Đây là tiền lệ cho việc Cơ Đốc giáo nói Jesus là do thánh nữ đồng trinh sinh ra sau này.

200. Mithraism.

201. Manicheism.

202. Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo cùng một nguồn gốc.