ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC NHÀ SỬ HỌC VỀ TRẦN THÁI TÔNG
Thích Nữ Như Tâm
PHẦN DẪN NHẬP
1. Lý Do Chọn Đề Tài Và Mục Đích Nghiên Cứu
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta tự hào với 4000 năm văn hiến, với truyền thống hào hùng cha truyền con nối, chống giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi. Ngược dòng thời gian, từ đêm mờ quá khứ, ông cha ta đã đổ bao xương máu dựng xây đất nước, bằng vào khả năng trí tuệ của chính mình với một nền văn hóa dân tộc đầy tính tự chủ. Song song đó, Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III, trải qua bao biến thiên của lịch sử với nhiều triều đại khác nhau, lúc thịnh cũng như lúc suy, lúc thăng trầm lúc vinh nhục, nhưng Phật giáo Việt Nam vẫn luôn sát cánh cùng dân tộc. Trong khoảng thời gian đó Phật giáo ở giai đoạn thời Lý – Trần đã phát triển rực rỡ và đóng vai trò chủ đạo trong mọi sinh hoạt của Đại Việt lúc bấy giờ.
Từ những quan điểm nêu trên trong phạm vi bài viết này, người viết muốn đặt trọng tâm vào Phật giáo đời Trần. Đó là thời đại vàng son nhất, oanh liệt nhất và tồn tại sâu sắc nhất trong lòng dân tộc. Ảnh hưởng đó cho đến bây giờ vẫn còn lưu danh sử sách. Đặc biệt hơn cả, người viết muốn đề cập về nhân vật Trần Thái Tông – người đã khai sáng ra triều đại nhà Trần.
Ngày nay, lật lại những trang sử đầy uy danh hiển hách của thời Trần, chúng ta sẽ tìm thấy những ông vua kiêm Thiền Sư, những ông vua vô ngã vị tha xem ngai vàng như đôi giày rách. Những vị vua mà đạo đời dung hợp, điển hình như vua Trần Thái Tông. Vì quê hương, Ngài tốn bao công sức làm cho đất nước, dân tộc thịnh vượng hùng cường, chống cự với kẻ thù “khổng lồ” từ phương Bắc xâm lược. Vì muốn giải thoát nỗi buồn tử sanh cho bản thân, Ngài phải chân tu thực ngộ rồi từ đó dẫn dắt mọi người vào con đường viên dung siêu thế. Với phong cách của một bậc minh quân, với bản lĩnh của một thiền sư tiêu giao vạn vật, “ có cái nhìn thấu cả 6 cõi, tấm lòng thấu suốt cả nghìn đời”. Trần Thái Tông đã vạch ra phương châm: “ đạo đời dung hợp, biến đau thương thành hành động”, hoàn thành xuất sắc đời đạo lưỡng toàn ngay giữa trần gian đau khổ này, như câu thơ của một bậc tôn túc:
“Vai mình mang nặng quê hương,
Còn mang nặng cả nỗi buồn tử sanh”
(Thích Phước Sơn)
Điều gì đã làm nên một Trần Thái Tông hoàn thành một sự nghiệp vĩ đại siêu xuất như thế? Đó là tư tưởng E.Hubbart nói: “ tư tưởng đẹp thì hành vi đẹp”. Huyền Trân trong đặc san văn hóa Phật giáo Việt Nam viết: “Đó là một người vừa có quyền lực vừa có đạo đức và kiến thức, là mẫu người trị nước lý tưởng theo quan niệm của Socrate và Platon là hai triết gia cổ đại Hy Lạp. Hai ông này mơ tưởng cho nước họ cũng như các nước khác một ông vua kiêm triết gia như thế, nhưng đâu có được”.
Chính những đặc điểm trên mà không ít các nhà sử học từ thời phong kiến đến thời hiện đại đã đánh giá về thân thế cuộc đời và sự nghiệp của vua Trần Thái Tông. Vấn đề chủ yếu ở đây, người viết chỉ muốn nghiên cứu và dẫn chuyển những ý kiến chung cũng như riêng của các sử gia nói về Trần Thái Tông. Nhằm mục đích khơi lại trong lòng người hồi ức về hoàn cảnh lịch sử của Phật giáo đời Trần nói chung và sự đóng góp lớn lao của nhân vật lịch sử Trần Thái Tông nói riêng.
2. Cơ Sở Tư Liệu
Nói đến thời Trần không thể không trân trọng nhắc đến công lao to lớn của người khai sáng ra triều Trần. Vua Trần Thái Tông – một mẫu người tuyệt vời mà con người thời đại nào cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện cho dân tộc mình, tổ quốc mình đã sản sanh ra một con người như vậy.
Để tự khích lệ mình, và cũng để minh chứng giá trị thiết thực của giáo lý Phật giáo, đồng thời nêu lên công lao của chư tiền bối đã quên mình vì dân vì nước, nên tôi không ngần ngại chọn ngay đề tài này cho luận văn tốt nghiệp của mình. Trong luận văn này gồm 3 phần: Phần dẫn nhập – Phần nội dung – Phần kết luận.
Phần dẫn nhập: Lý do và mục đích chọn đề tài nghiên cứu.
Phần nội dung: gồm 2 chương
- Chương I: Giới thiệu khái quát về triều Trần.
- Chương II: Đánh giá của các nhà sử học.
Phần kết: nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề trong bài viết, đồng thời nêu lên ý nghĩa thực tiễn trong xã hội hiện nay.
Để hoàn thành luận văn này, người viết đã tham khảo những đánh giá của các nhà sử gia từ thời phong kiến đến hiện đại, đồng thời dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học lịch sử kết hợp với phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu v.v. . .
Qua khảo sát cho thấy, những tác phẩm sử học điều ít nhiều có đề cập đến thân thế, cuộc đời, công hạnh hành đạo, phụng sự dân tộc và sáng tác thơ văn của Trần Thái Tông.
Ngày nay, đàn hậu học chúng ta liệu có đủ trí tuệ để tiếp nối những trang sử oai hùng đó và thẩm định tư tưởng thấu triệt của một bậc vĩ nhân như Trần Thái Tông không? Dù thế nào đi nữa chúng ta phải cố gắng hết sức mình để báo đáp phần nào thâm ân chư vị tiền bối xa xưa trong muôn một.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIỀU TRẦN
1.1. Vài Nét Về Các Tác Phẩm Sử Học Viết Về Thời Trần
Như chúng ta đã biết, thời Trần là một trong những điểm son nổi bật nhất trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của lịch sử Đại Việt. Trong đó, Phật giáo là một yếu tố tích cực góp phần tạo dựng cho xã hội đời Trần thành tựu rực rỡ.
Xã hội đời Trần là một xã hội lý tưởng, thấm đượm tinh thần từ bi, bình đẳng, một xã hội được giáo dục bằng giáo lý Phật giáo mà các vua Trần xem đó là khuôn mẫu, là một chuẩn mực sống cho toàn dân. Điều này đã được minh chứng thực tế qua các tác phẩm sử học viết về thời Trần, đại khái như: Đại Việt Sử Lược (khuyết danh), trong đó từ trang 297à303; An Nam Chí Lược của Lê Tắc, từ trang 243à250; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, trang 7à235; Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thì Sĩ, trang 192à334 … đều trình bày trọn vẹn một cách sinh động về triều đại nhà Trần. Ngày nay, nối tiếp những tác phẩm của các bậc tiền bối, những tác phẩm Việt ngữ gần đây như: Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần … cũng minh chứng hùng hồn về thời Trần. Ngoài ra còn rất nhiều tác phẩm khác của những nhà văn, nhà thơ những nhà nghiên cứu Phật học Việt Nam như: GS Minh Chỉ, Lê Mạnh Thát đã có sự luận giải rộng thêm về những nhân vật đời Trần, điển hình như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông v.v. . .
Thời gian cứ trôi qua mãi, nhưng lịch sử thì vẫn tồn tại bất hủ với thời gian. Trong bản tiểu luận này, người viết xin được góp nhặt những nhận định, chú thích và giảng giải của các bậc tiền bối trong quá khứ và hiện tại. Thư mục chính là sử liệu của thời nhà Trần, liên quan đến nhân vật lịch sử Trần Thái Tông, một vị vua sáng lập triều Trần. Trong đó, tư liệu bao gồm các sử gia từ phong kiến, cận đại cho đến hiện đại như đã kể trên. và những tư liệu liên quan đến Phật giáo như:
Toàn Tập Trần Thái Tông
Thiền Học Trần Thái Tông
Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh
Lịch sử Phật Giáo Việt Nam
Việt Nam Phật Giáo Sử Lược
Đặc San Văn Hóa Trung Ương Và Một Số Tham Luận
Góp nhặt những tinh hoa quí giá ấy, người viết muốn xuyên suốt kết thành một chuổi dài lịch sử tư tưởng nho nhỏ cho tri thức thiển cận của chính mình. Biết rằng hành trang kiến thức thì mênh mông, vô tận, song cần phải được nghiên cứu, tập hợp những cái cho riêng mình. Mục đích góp phần nêu cao công hạnh của những bậc tiền nhân, đồng thời giúp cho những tiềm năng, tiềm lực của thế hệ mai sau học hỏi và tự hào với trang sử vàng son của dân tộc Việt Nam anh hùng mà chủ yếu thông qua triều đại nhà Trần. Đây chính là bổn phận, trách nhiệm của những người nghiên cứu Phật giáo Việt Nam và lịch sử dân tộc.
1.2. Sơ Lược Về Lịch Sử Phật Giáo Thời Trần
Pascal nói: “ Con người là 1 cây sậy nhưng là cây sậy có tư duy”. Chính tư duy đúng đắn giúp cho con người trở nên thăng hoa và bất tử.
Văn học là cội nguồn của dân tộc. Dân tộc Việt Nam tự hào với lịch sử có bề dày 4000 năm văn hiến và khi nói đến văn hóa Việt Nam thì không ai không biết đến văn hóa thời Lý – Trần, hai triều đại huy hoàng của lịch sử Việt Nam được độc lập tự do sau hơn 1000 năm đô hộ của phương Bắc. Điều đáng ghi nhớ là tư tưởng chủ đạo cho nền văn hóa văn minh thời ấy chính là Phật giáo – nổi bật hơn hết trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước là công lao to lớn của Phật giáo đời Trần.
Đạo Phật sau 10 thế kỷ du nhập đã ăn sâu và bám rễ trong lòng dân tộc Việt Nam từ vua quan cho đến nhân dân. Đạo Phật đã tìm được chỗ đứng và điểm tựa vững chắc của mình. Sau một thời gian dài bản địa hóa, đất nước Việt Nam đã bắt đầu chuyển mình, tùy duyên và bất biến vươn lên hòa nhập với luồng tư tưởng văn hóa dân tộc đã kết tinh và cho ra đời những con người đặc sắc đời Trần. Đó chính là nhờ ảnh hưởng của đạo Phật.
Trong buổi đầu lập quốc, thời kỳ các vua Lý rất cần đến các thiền sư, không những họ cần đến các vị này để liên kết nhân tâm, mà còn cần đến học thức, công tác giáo dục, công tác ngoại giao và kế hoạch của những nhà sư nữa. Đến đời Trần, tình trạng này khác hẳn, các vua Trần chẳng những học rộng hiểu nhiều mà còn rất giỏi về đạo Phật, nên liên hệ giữa vua và các thiền sư không phải là để nhờ cậy về phương diện kế hoạch và công tác nữa. Các vị vua như: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông đều có căn bản vững chắc về phật học. Mỗi cá nhân ở Phật giáo đời Trần đã thực sự bước vào con đường thể nghiệm, dấn thân nhập thế. Bối cảnh lịch sử Việt Nam lúc ấy là một quốc gia độc lập, tự chủ sau ngàn năm đô hộ. Dân tộc ta cần phải có những bước ngoặc lịch sử nhất định để xác dịnh nền tự chủ, tự cường của một đất nước. Vì thế, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ sức mạnh nào muốn phá hoại nền hòa bình hạnh phúc của mình, và Phật giáo đời Trần đã thật sự tương ứng với nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Chiến công còn ghi lại trong sử sách là 3 lần chiến thắng Nguyên Mông – một đạo quân được xem là mạnh nhất thời bấy giờ. Phật giáo đời Trần và nhân dân đã xây dựng một quốc gia an bình thịnh vượng, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam.
Thế cho nên, Phật giáo đời Trần là tập hợp toàn bộ tinh hoa của Phật giáo Việt Nam. Là người Việt Nam đồng thời là một tu sĩ Phật giáo, thật khó nói hết cảm xúc của mình khi đọc và viết lại những trang sử oai hùng của dân tộc, những thời đại hoàng kim của Phật giáo, khó mà tái tạo một cách hoàn toàn khuôn mặt của các vị vua đời Trần bởi tính chất kỳ diệu nơi đó … vừa là vua vừa là thiền sư, và lại càng không thể nói hết được những trí tuệ siêu phàm, tuyệt vời nhưng thật gần gũi. Điển hình như vua Trần Thái Tông dù không đi tu mà xem “ngai vàng như chiếc giày rách bỏ đi lúc nào cũng được”. Trần Nhân Tông – ông vua đi tu trở thành sơ tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một thiền phái hoàn toàn mới và đích thực xuất phát từ Việt Nam. Tất cả những hình ảnh, khuôn mặt và bối cảnh ấy đối với tôi dù trải qua hàng ngàn năm mà dường như vẫn sống động, vẫn linh hoạt và âm vang ngay trong hiện tại, làm thế nào với sở học còn kém cõi, một ngòi bút thô thiển và mấy mươi trang giấy nhỏ mà nói hết được những đặc sắc của Phật giáo đời Trần. Đối diện với tư tưởng chủ đạo cho dòng sinh mệnh của dân tộc ở thế kỷ XII, XIII vĩ đại, tôi bỗng thấy mình thật nhỏ nhoi và tan biến. Nhưng như một hạt bụi, tôi xin được bay trong hư không để góp phần tạo thành vật chất, thế giới, như một hạt cát bé tí tôi xin nằm một góc cạnh nào đó để tạo ra sa mạc hùng vĩ, xin được hòa mình vào hai chữ “tùy duyên” của đạo Phật để nhắc nhở đôi nét về những điểm vàng son thật sự đã trở thành “bất biến” của Phật giáo đời Trần.
1.3. Vài Nét Về Trần Thái Tông
Trần Thái Tông tên húy là Trần Cảnh, con Trần Thừa, người ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Tổ tiên vốn là người tỉnh Phúc Kiến nước Trung Quốc. Đến đời ông tổ là Trần Kinh sang, ở nước ta. Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Thừa sinh ra Trần Thái Tông. Vua là con thứ của Trần Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 (1218).
Năm lên 8 tuổi, Trần cảnh được Lý Chiêu Thánh Hoàng Đế nhường ngôi đó là Trần Thái Tông, trở thành vị khai nguyên đời trần. Vì còn nhỏ tuổi nên mọi việc đều do thái sư Trần Thủ Độâ đảm trách.
Năm 1237, khi Trần Thái Tông 20 tuổi, Hoàng hậu Chiêu Thánh cũng đồng tuổi với ông, cả hai chưa có con để kịp bảo đảm cho gia đình thống trị, nên Trần Thái Tông bị chú họ là Trần Thủ Độ ép bỏ Chiêu Thánh để cưới Thuận Thiên, vợ của người anh ruột là Trần Liễu, Thuận Thiên cũng là chị ruột của Chiêu Thánh lúc ấy đang mang thai. Trần Thủ Độ bất chấp luân thường đạo lý cùng tình cảm riêng tư. Vì uy thế của Trần Thủ Độ quá mạnh, dù Trần Thái Tông không chấp nhận, phản đối nhưng vẫn vô hiệu quả. Trần Thái Tông đành giáng chiếu cho Chiêu Thánh xuống làm công chúa, lập Thuận Thiên lên làm Hoàng hậu. Vì quá bất mãn nên vào tháng giêng năm Bính Thân (1236) Trần Liễn dấy binh nổi loạn. Cuối cùng Trần Liễu thua cuộc, lòng tràn đầy uất hận. Tâm hồn cùa Trần Thái Tông thật buồn và chán nản, sự khổ đau tột cùng vì mất người mình yêu thương, lại nghịch lý lấy chị dâu làm vợ, sự buồn khổ này nhen nhúm mãi trong lòng, ông biết tỏ cùng ai. Không chịu đựng được nỗi oan khiên, nên vào lúc 10 giờ đêm mồng 3 tháng 4 năm 1236 (Bính Thân). Vua trốn lên núi Yên Tử, định bỏ ngai vàng xuất gia tìm đường giải thoát.
Khi đến chùa Hoa Yên, Ngài vào bái yết Đại Sa Môn Trúc Lâm. Theo Thiền Tông Chỉ Nam, với vẻ ung dung, mừng rỡ, Đại Sa Môn nói với Trần Thái Tông:
- “Lão tăng ở chốn núi rừng đã lâu ngày, xương khô, mặt gầy, chỉ có ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, quen vui với cảnh núi rừng, lòng nhẹ như đám mây nổi theo gió mà đến đây. Nay Bệ Hạ bỏ địa vị thân chủ, nghĩ đến cảnh quê mùa, núi rừng, hẳn là muốn tìm cầu gì mới khổ công đến đây!”
Lời thăm hỏi của Phù Vân Quốc Sư như khơi dậy trong lòng nhà vua nỗi buồn, nước mắt trào dâng, nghẹn ngào Trần Thái Tông thưa:
- “Trẫm còn thơ ấu đã sớm mất mẹ cùng cha, chơ vơ đứng giữa sĩ dân, không nơi nương tựa. Trẫm thấy sự nghiệp Đế Vương đời trước phế hưng không thường. Vì thế Trẫm vượt suối băng ngàn, đến đây chẳng cầu gì khác, chỉ muốn cầu thành Phật.”
Đại Sa Môn Phù Vân đáp:
- “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta, nếu tâm vắng lặng, trí tuệ xuất hiện. Chính đó là Phật. Nếu Bệ Hạ giác ngộ được tâm tức khắc thành Phật.”
Hay tin vua Thái Tông đã lên núi Yên Tử, Trần Thủ Độ đích thân dẫn các quan và xa giá đi đón Vua về kinh đô. Vua nói:
- “Trẫm hãy còn thơ ấu, chưa đảm đang được việc trọng đại, Vua cha (Trần Thừa) lại vội từ trần, thành ra Trẫm sớm mất nơi nương tựa, không dám để nhơ nhuốc đến xã tắc.”
Thủ Độ nhiều lần cố mời và năn nỉ nhà Vua không được. Trần Thủ Độ ra lệnh các quan:
- “Xa giá Vua ở đâu tức là triều đình ở đấy.”
Nói rồi, liền cắm cột giăng dây chia thành hàng ngũ ở trong núi, dựa theo kích thước cung vua ở kinh đô, bắt thợ xây dựng. Thấy tình thế không ổn, Đại Sa Môn Trúc Lâm tâu với vua:
- “Xin Bệ Hạ sớm quay loan giá về kinh đô, không nên để họ làm hại đến núi rừng của đệ tử này.”
Ngài Trúc Lâm thân mật nắm lấy tay Vua năn nỉ tiếp:
- “Tâu Bệ Hạ, Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay ai ai cũng muốn Bệ Hạ trở về, Bệ Hạ không về coi sao được? Tuy nhiên, ngoài lo việc nước, việc dân, việc chính trị, Bệ Hạ chớ quên nghiên cứu giáo lý tham thiền.”
Qua lời khuyên của Đại Sa Môn Trúc Lâm, nhà Vua bất đắc dĩ phải trở về, trước tình cảnh này phải tính sao khi nước đang cần.
“Thời Trần, Đại Việt là một trong những quốc gia hùng cường, có uy danh lừng lẫy, ngoại xâm phải kinh sợ, lân bang phải kính nể. Thời Trần là thời của hàng loạt những nhân vật lịch sử sáng chói. Về chính trị thì có các vị vua sáng giá như: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông . . .” [21, 54]
Trần Thái Tông lên ngôi vua trong thời gian đầu, vì tuổi còn nhỏ không đủ sức quản lý triều đình. Thực quyền lúc bấy giờ trong tay Trần Thủ Độ và một số nhân vật khác của quý tộc họ Trần.
Năm 1230, nhà Trần đã cho biên soạn bộ Quốc Triều Thông Chế và coi đó là cơ sở khảo xét để xây dựng cơ chế hành chính cho triều đại mình. Cũng năm đó bộ Quốc Triều Thường Lễ ra đời.
Năm 1242, Trần Thái Tông tiến hành phân chia lại khu vực hành chính địa phương trong cả nước. Vào cuối thời Lý, nước ta có tất cả 24 lộ, nay nhà Trần cho hợp nhất các lộ nhỏ lại nên cả nước chỉ còn 12 lộ. Các đơn vị hành chánh chính thống thuộc lộ như: châu, huyện, cả xã cũng từng bước được củng cố. Trên hình thức, bộ máy hành chính của nhà Trần không khác bao nhiêu so với bộ máy hành chính thời Lý. Nhưng trong thực tế, trình độ tổ chức quy củ và chặt chẽ hơn nhiều. Nhà Vua nắm quyền lực tối cao, quyết định tất cả. Nhưng để tránh tình trạng vua còn nhỏ tuổi, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng: Các vị vua thường truyền ngôi sớm cho con nhưng vẫn trông coi chính sự. Khác với thời Lý, tất cả các chức vụ cao cấp trong triều đình nhà Trần đều nằm trong tay các quý tộc tôn thất.
Về phương thức tuyển dụng quan lại, bên cạnh chế độ nhiệm tử vốn đã thịnh hành từ trước, nhà Trần cũng mở rộng chế độ khoa cử. Khoa cử thời Trần vì thế mà phát triển hơn thời Lý rất nhiều. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi dần về thành phần xuất thân của quan lại. Chế độ khoa cử cho phép những người không phải quý tộc nếu đỗ đạt vẫn tham gia guồng máy chính quyền. Tất nhiên là ở buổi đầu, phần lớn sĩ tử tham dự các kỳ thi cũng đều là con em các gia đình quyền quý.
Để thăng thưởng quan lại, nhà Trần đã cho áp dụng phép khảo công; nghĩa là xét thành tích để thăng hoặc giáng chức.
Năm 1246, Trần Thái Tông định lệ cứ 15 năm khảo công 1 lần. Trong khoảng 15 năm đó, nếu có chức nào bị khiếm khuyết thì cho người ở chức trên kiêm nhiệm hoặc cho người ở cấp dưới gần nhất được quyền đảm nhiệm. Về tổ chức quân đội, chủ yếu bao gồm cấm quân và quân các lộ. Ngoài 2 bộ phận chính nói trên còn có lực lượng vũ trang tư nhân, do quý tộc tự ý tuyển lựa, huấn luyện và chỉ huy gọi đó là quân Vương Hầu. Đồng thời, ở các làng xã, nhân dân cũng có lực lượng bán vũ trang do họ tổ chức, đó là các đội dân binh. Chính các đội dân binh này cũng đã từng có nhiều đóng góp lớn lao cho sự nghiệp giữ nước.
Vậy là sau sự kiện đêm mùng 3 tháng 4 năm Bính Thân (1236) vua Trần Thái Tông đã chính thức đứng ra nắm quyền điều hành đất nước. Nhà vua ban hành một loạt các biện pháp chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao và văn hóa xã hội, nhằm nâng cao tiềm lực chiến đấu và sẳn sàng chiến đấu của dân tộc, chuẩn bị đối phó với những biến động long trời lở đất đang xảy ra ở bên kia biên giới phía Bắc của Đại Việt do một đế quốc hùng mạnh đang ào ạt tiến về phương Nam, tiêu diệt những tàn dư cuối cùng của triều đại Tống. Và chúng ta không phải chờ đợi lâu để thấy đế quốc hùng mạnh này xuất hiện ở biên giới phía Bắc và ngang nhiên tiến quân vào đất nước Đại Việt, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ. Ấy là ngày 12 tháng 12 năm Đinh Tỵ, Nguyên Phong thứ 7, tức ngày 17 tháng giêng năm 1258 cuộc đọ sức giữa đế quốc Nguyên – Mông và quân dân Đại Việt chính thức bắt đầu. Cuối cùng thắng lợi đã thuộc về nhân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo thiên tài của vua Trần Thái Tông.
Chủ trương chung của nhà Trần trong việc xây dựng lực lượng vũ trang là: “Quân quý hồ tinh quý hồ đa” (nghĩa là quân cốt ở tinh nhuệ chứ không phải ở số lượng). Do đó những người không đỗ đạt nhưng có tài vẫn có thể cân nhắc trọng dụng.
Năm 1283, chuẩn bị chống ngoại xâm, vua Trần Thái Tông giao cho Trần Quốc Tuấn đốc suất hầu chiêu mộ binh lính, sắm sửa vũ khí tham gia kháng chiến. Trong cuộc duyệt binh lớn năm 1284 ở Vạn Kiếp chuẩn bị chống quân Nguyên, riêng quân địa phương của các hầu đã lên tới 20 vạn.
Trước khi xâm lược biên giới nước ta, tướng Mông Cổ (Ngột Lương Hợp Thai) nhiều lần cho sứ sang dụ hàng, vừa hù dọa vừa dụ dỗ triều đình nhà Trần. Nhưng Trần Thái Tông chẳng những không một chút hoang mang mà còn ra lệnh bắt sứ giả tống giam vào ngục tối, đồng thời đặt người dân cả nước trong tình trạng sẳn sàng chiến đấu.
Tháng 12 năm 1258, 3 vạn kỵ binh Mông Cổ đã men theo sông Hồng để tiến sâu vào nước ta. Ngay lập tức, chúng bị chặn đánh quyết liệt. Ngày 17 tháng 1 năm 1258, một trận ác chiến đã diễn ra tại Bình Lệ Nguyên, Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy quân đội Đại Việt trong trận đọ sức đầu tiên này.
“Tháng 12 ngày12, tướng Nguyên Ngột Lương Hợp Đải (có sách phiên âm là Ngột Lương Hợp Thai) xâm phạm Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc)
Vua thân hành đốc chiến xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng, vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ có Lê Phụ Trần (tức Lê Tần) một mình một ngựa ra vào trận giặc,sắc mặt bình thản như không.” [8, 22]
Trước thế tấn công ào ạt của giặc, vua Trần đã kịp thời nhận được một ý kiến kiệt xuất của Lê Tần : “Nếu bây giờ bệ hạ làm như vậy thì chỉ như người dốt hết túi tiền cho một canh bạc mà thôi. Tôi tưởng hãy quên tạm lánh đi, không nên coi thường quân Mông Co.ă” [8, 22]
Ý kiến đó được Trần Thái Tông chấp thuận và cho quân tạm rút lui, thuyền về Phù Lỗ. “Kế hoạch vườn không nhà trống” cũng được thực hiện, việc rút lui tạm thời của quân ta và để ngỏ kinh thành làm cho một vài tướng lĩnh dao động. Trần Nhật Hiệu khuyên vua nên hàng Tống, nhưng ý chí quyết chiến vẫn thắng, tiêu biểu là câu nói của thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo.”
Giặc hùng hổ tràn vào Thăng Long, nhưng không tiêu diệt được đối phương lại đóng binh ở nơi vườn không nhà trống, chổ yếu hiểm nhất của quân xâm lăng bộc lộ rõ rệt và ngày một sâu sắc: Chúng thiếu lương thực.
Đúng vào lúc khốn quẫn nhất, giặc bị ta ồ ạt phản công. Trận đánh quyết liệt đã diễn ra tại khu vực Đông Bộ Đầu vào ngày 29 tháng1 năm 1258, quân ta đánh bật chúng ra khỏi thành Thăng Long, giặc buộc phải quay ngựa chạy tháo thân về Vân Nam. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ không còn hồn vía, để nghĩ đến việc cướp bóc, đốt phá. Người dân địa phương đã mỉa mai gọi chúng là “Giặc Phật”
Vua Trần Thái Tông đã lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ I. Đó là những năm Nguyên Phong oanh liệt của đời ông (1251 – 1258) được đánh dấu bằng những thành tựu vĩ đại trong xây dựng đất nước cũng như những chiến công hiển hách chống ngoại xâm.
Đánh đuổi quân giặc ra khỏi đất nước, trăm họ yên vui, thái bình như cũ. Tháng 2 ngày 24, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Hoàng Thái Tử Hoảng – tức vua Trần Thánh Tông, rồi lên làm Thái Thượng Hoàng cùng trông coi chính sự. Sau đó ông trở về với đạo, quyết tâm từ bỏ ngai vàng như “trút bỏ một đôi giày rách”, từ bỏ mọi vinh hoa, phú quý của bậc vương giả để vào núi ăn chay niệm Phật.
Từ đó, ông để hết tâm lực vào nghiên cứu đạo thiền, viết nhiều sách để giúp mọi người hiểu đạo và thực hành đạo. Ông đã viết những tác phẩm Phật giáo như: Thiền Tông Chỉ Nam, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải, Bình Đẵng Lễ Sám Văn, Khóa Hư Lục v.v. . .
Ngày mồng 1, tháng 4 năm Đinh Sửu (1277), Thượng hoàng Trần Thái Tông băng hà, thọ 60 tuổi.
Trần Thái Tông đã để lại cho đời tấm gương sáng của một ông vua đã hết lòng làm tròn trách nhiệm đối với đời cũng như đối với đạo. Ngay giữa lòng xã hội phong kiến, ông hiện ra như một mẫu người hoàn mỹ mà muôn đời sau thế nhân còn ngưỡng mộ – hình thành và phát huy tối đa năng lực bản thân để cống hiến và tô điểm cho đời, cho đạo, cho dân và cho đất nước.
Chương 2: ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC NHÀ SỬ HỌC
2.1. Đánh Giá Của Các Sử Gia Phong Kiến
Trong bất cứ thời đại nào, quốc gia nào, con người bao giờ cũng là nhân tố cực kỳ quan trọng trên mọi lĩnh vực trong xã hội. Quan trọng hơn cả, cái được xem là tinh thần của thời đại chính là hình ảnh con người tự tin, hào hùng, phóng khoáng và trong sáng mà đời sau khó gặp lại, dù trình độ văn minh có ngày càng cao hơn. Ngay giữa lòng xã hội phong kiến, những mẫu người tuyệt vời mà muôn đời sau thế nhân vẫn ngưỡng mộ – đã hình thành và phát huy tối đa năng lực bản thân để cống hiến và tô điểm cho đời, cho dân và cho đất nước.
Trong cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước, những sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với những nhân vật lịch sử, nói đến thắng lợi cần phải nhắc tới những con người làm nên lịch sử đó. Những anh hùng muôn đời nằm xuống vì dân tộc, các nhà lãnh đạo kỳ tài xuất chúng, những ông vua trí tuệ siêu phàm xuất chúng nhưng giản dị như Trần Thái Tông – một ông vua thiền sư đời đạo lưỡng toàn – người đã khai sáng ra triều đại nhà Trần, một điểm son quá khứ mà dân tộc ta muôn đời còn hãnh diện.
Vì lẽ đó, mà các nhà sử học từ cổ chí kim đã không ngừng ca ngợi tôn vinh về con người này. Ở đây người viết chỉ nhằm mục đích nêu lên những đánh giá của các sử gia viết về Trần Thái Tông.
Trần Thái Tông là người đã khai sáng ra một triều đại oanh liệt của dân tộc, một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự tài ba của đất nước. Ông đã cùng với Trần Thủ Độ đặt nền móng cho sự ra đời của triều đại nhà Trần, mở đầu một giai đoạn lịch sử vẻ vang với những chiến công hiển hách của dân tộc. Điều này qua mấy trăm năm lịch sử đã được đánh giá và khẳng định.
Cuộc đời Trần Thái Tông được nhiều sử sách ghi lại, mà khởi đầu là bộ Đại Việt Sử Lược đã viết như sau:
“Thái Tông tên Trần Cảnh, con Trần Thừa, người ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Tổ tiên vốn là người tỉnh Phúc Kiến nước Trung Quốc. Đến đời ông tổ là Trần Kinh sang ở nước Nam ta. Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa và Trần Thừa sinh ra vua Thái Tông.
Thái Tông nhận ngôi vua của Chiêu vương ở ngôi vua 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng 19 năm, hưởng thọ 60 tuổi.” [31, 297]
Như chúng ta đã biết, Trần Thái Tông là con tinh thần của Trần Thủ Độ, do một tay Thủ độ gầy dựng, săn sóc. Từ thuở ấu thơ mới vừa lên bảy tám, Thủ Độ đã thận trọng lắm khi chọn lựa trong các con của Trần Thừa để lấy người con thứ là Trần Bồ tức Cảnh sau khi đã xem tướng kĩ càng biết có thể gánh vác được nghiệp lớn.
“Mỗi khi nghĩ đến tìm người hiền lương quân tử tính đi tính lại một mình, duy chỉ thấy được có Trần Cảnh, có văn có chất rực rỡ, thật có cái thể cách hiền lương, uy nghi đường hoàng tài kiêm văn lẫn võ.” [11, 185]
Sử gia Lê Tắc, cũng viết về Trần Cảnh rằng:
“Con giữa của Thái Tổ tính tình khoan dung, thông tuệ, văn võ toàn tài, lấy tư cách con rể nhà Lý kế vị Quốc Vương…”
Thế nên, việc lên ngôi của vua Trần Thái Tông, nhà sử học Ngô Sĩ Liên viết như sau:
“Thái Tông Hoàng đế họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý, được Chiêu Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm (1226-1258), nhường ngôi 19 năm thọ 60 tuổi (1218-1277) băng ở cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng. Vua khoan nhân đại độ có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy. Song quy họach việc nước đều do Trần Thủ Độ làm và chốn buồng the cũng có nhiều điều hổ thẹn.” [8,7]
Sử gia Ngô Thời Sĩ tuy nặng về luân lý Nho giáo, nhưng khi luận về lịch sử Trần Thái Tông cũng viết:
“Mấy năm đầu vua Thái Tông có tính dâm tà đều do Thủ Độ xui bảo cả, đến mấy năm sau để ý học vấn, tấn tới nhiều, lại càng nghiên cứu cái học nội tâm, có làm ra sách “Khóa Hư Lục” mến cảnh sơn lâm, coi sinh tử như nhau, tuy ý hơi giống đạo Phật không hư, nhưng mà chí thì khoáng đạt, sâu xa cho nên bỏ ngôi báu coi như trút giày rách thôi.” [11, 184]
Nói về dòng dõi và tuổi trẻ của vua Trần Thái Tông, các bộ sử của ta cụ thể như: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Đại Việt Sử Lược, Việt sử Tiêu Án, Khâm Định việt Sử Thông Giám Cương Mục… đều thống nhất chép lại, không có gì thêm bớt mới lạ.
Thế nên, có nhiều người cho rằng vua Trần Thái Tông lên ngôi nhằm để thỏa mãn ước vọng và yêu cầu của một tập đoàn đang đại diện cho quyền lợi đi lên của dân tộc, chứ bản thân vua Trần Thái Tông không trực tiếp tham gia vào quyết định ấy. Dẫu sao đi nữa, tình thế đưa đẩy đã tạo cơ hội cho sự xuất hiện một nhân vật sẽ trở thành một anh hùng dân tộc, một nhà lãnh đạo chính trị đa tài của một giai đọan lịch sử nước nhà.
Vai trò của vua Trần Thái Tông trong 10 năm đầu ở ngôi cho đến lúc 18 tuổi, đúng theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã ghi nhận, với mọi chính sách và chiến lược quốc gia phần lớn đều do Trần Thủ Độ quyết định hoàn toàn. Đặc biệt khi vua đã lớn, cụ thể là sự kiện đêm mùng 3 tháng 4 năm Bính Thân. Sự kiện này liên hệ đến việc vua Trần Thái Tông phải lấy chị dâu của mình là công chúa Thuận Thiên lúc ấy đang có thai với anh ruột mình là Trần Liễu. Thủ độ cùng Thiên Cực công chúa mưu riêng với nhà vua nên nhận liều lấy để có lợi về sau, vì thế mới đem Lý thị vào ở cung. Trần Liễu tức giận, tụ tập nhiều người ở sông Cái, nổi loạn. Sự việc này Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Quyển thứ VI - trang 457 ghi rất rõ.
Sử gia Phan Phu Tiên nói: “Tam cương ngũ thường là luân lý lớn của loài người. Thái Tông là ông vua khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép tắc để truyền lại cho đời sau, lại nghe mưu gian của Thủ Độ, cướp vợ của anh làm hoàng hậu, chẳng phải là bỏ cái luân thường, mở mối dâm loạn đó ư? Liễu từ đó sinh ra hiềm khích, cả gan làm loạn, là do Thái Tông nuôi nên tội ác cho Liễu vậy. Có người bảo Thái Tông không giết anh thế là nhân, nhưng tôi thì cho rằng cướp vợ của anh,tội ác đã rõ ràng, không giết anh là vì lẽ trời chưa mất mà thôi, sau gọi đó là nhân? Xét ra sau này Trần Dụ Tông dâm loạn làm càn chưa hẳn không do Thái Tông đầu têu vậy.” [32, 459]
Và sử thần Ngô Sĩ Liên cũng nói: “Thái Tông mạo con của anh là con mình. Sau này Dụ Tông và Hiến Từ đều cho Nhật Lễ làm con của Cung Túc Vương, đến nỗi cơ nghiệp nhà Trần suýt nữa bị sụp đổ, há chẳng phải là không có ngọn nguồn của nó sao?” [8,17]
Vì việc này nhà vua áy náy không yên, ban đêm âm thầm rời khỏi thành, lên núi Yên Tử vào chùa của Phù Vân Quốc Sư ẩn dật, nhưng sự việc không thành, cuối cùng phải quay trở về hoàng cung theo ý Trần Thủ Độ.
Tuy nhiên, bắt đầu từ thời điểm ấy, vua Trần Thái Tông tự mình làm chủ và ấn định mọi việc của bản thân cũng như của triều đình. Chàng thanh niên 20 tuổi đang ngồi trên ngai vàng lộng lẫy mà phải chịu sự dày vò, ray rứt thâu đêm, nhiều nỗi khổ tâm đã thúc đẩy ông đến với đạo Phật để tìm sự an lạc, giải thoát cho tự thân.
Lần đầu đến tham kiến với Thiền Sư Trúc Lâm, Thái Tông nói:
- “ Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất me cha,ỉ chơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nào để nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường cho nên mới vào đây chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm gì khác.”
Câu nói này chứng tỏ sự tìm cầu học đạo của Thái Tông xuất phát từ sự cảm nhận sâu xa cái lẽ biến dịch vô thường của trần thế, cái huyễn ảo của kiếp nhân sanh. Đây không phải là sự trốn chạy mang theo lòng phẫn uất, bất mãn với triều chính, mà sự ra đi đêm ấy của Thái Tông như là sự lìa cành của một quả chín, nổi uẩn khúc kia chỉ là một tăng thượng duyên làm đậm thêm xu hướng thoát trần của bậc thượng sĩ. Dĩ nhiên, không thể nào trong thoáng chốc hoa liền kết trái, mà hạt giống bồ đề đã nẩy mầm trong vườn thượng uyển từ rất lâu. Trong bài tựa quyển Thiềân Tông Chỉ Nam, Thái Tông viết: “ Thuở Trẫm còn niên thiếu, có chút ít hiểu biết, vừa nghe lời dạy của Thiềân Sư thì tâm bỗng dưng thanh tịnh, nên để tâm nơi nội giáo, tham cứu Thiền Tông, dốc lòng tìm thấy chí thành mộ đạo. Tuy ý hồi hương đã nảy mầm mà cơ cảm xúc chưa thấu suốt.”
Thái Tông vì thấu rõ chơn lý của Phật, ông có sáng tác nhiều tác phẩm văn học Phật giáo, hiện chỉ còn:
Tựa Kim Cang Tam Muội Chú Giải
Thiền Tông Chỉ Nam Tựa (1 bài tựa)
Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi
Bình Đẳng Lễ Sám Văn
Khóa Hư Lục
Thái Tông Thi Tập
Vấn đề là nó quý ở chỗ vua chúa mà chứa đựng đạo lý nên viết được những tác phẩm thấm nhuần giáo lý thâm uyên của Phật Đà, một giáo lý mà người bình thường khó có thể lãnh hội được.
Với thời gian trên 10 năm, vua Thái Tông ngự ở trên ngai vàng, vừa lo cho quốc gia, vừa lo nghiên cứu và tu tập thật xứng đáng cho người viết sử ghi chép lại đức hạnh của Ngài.
Trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên nói:
“ Năm Kiến Hưng thứ 7 (1231) Thái Tông sắc cho nhân gian phải vẽ hình Phật ở các nơi như công quán hay các chỗ hội họp.
Mặc dù nghiên cứu Phật học, thâm tình mang nặng giáo lý đạo Phật, những ông vẫn tôn trọng Khổng và Lão giáo. Năm thiên ứng Chính Bình thứ 16 (1247), vua cho mở khoa thi tam giáo. Năm Nguyên Phong thứ 6 (1256), vua sắc đúc 330 quả chuông.” [23, 87]
Suốt cả đời trọn 60 tuổi,vua Trần Thái Tông đã làm bao nhiêu điều mà nhân dân và đất nước cần, để rồi công hạnh của Ngài sử sách còn lưu lại cho đến ngày nay. Nối tiếp những sử gia phong kiến, sử gia cận đại cũng tiếp tục cuộc hành trình lịch sử, để tìm hiểu và đánh giá qua cuộc đời của các bậc tiền nhân nói chung và của Trần Thái Tông nói riêng.
2.2. Đánh Giá Của Các Sử Gia Cận Đại
Cuộc thay đổi triều đại, chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang họ Trần diễn ra trong hoàng cung và triều đình mà hầu như không có tác động gì xáo trộn xã hội, không một ảnh hưởng gì lan xa. Tập đoàn quí tộc họ Trần rất khôn khéo, dần dần từng bước vững chắc và cuối cùng nắm giữ chính quyền nhanh gọn. Cả họ Lý bị suy yếu, tê liệt, không một phản ứng gì đáng kể.
Nối tiếp đời Lý, ngay sau khi ra đời, nhà Trần đã nhanh chóng khắc phục những hậu quả do cuộc khủng hoảng cuối đời Lý gây ra, bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. Khuyến khích nông dân khai hoang, chăm lo việc trị thủy, theo đuổi tư tưởng “khoan thử sức dân”… Những chính sách đó đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển. Lại thêm biết chăm lo đến việc xây dựng pháp luật, giữ gìn trật tự an ninh xã hội, chăm lo đến việc học hành và thi cử, nên đất nước mau chóng đạt đến sự thịnh trị. Đặc biệt do biết đến đoàn kết toàn dân, phát huy đến cao độ lòng yêu nước, tinh thần kiên quyết chống giặc ngoại xâm của dân chúng và có sự tổ chức, chỉ đạo kháng chiến một cách khôn khéo, tài tình, đã dẫn đến những chiến công hiển hách: 3 lần chiến thắng quân Mông – Nguyên xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập của đất nước.
Công lao to lớn đó phải kể đến vua Trần Thái Tông, Người mở nghiệp nhà Trần. Tuy nhiên, trong những tháng năm vua còn nhỏ tuổi, Trần Thủ Độ quán xuyến mọi việc. Sử cũ ghi Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nước nhà phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua. Vì khi đặt Thái Tông lên làm vua chỉ mới được 8 tuổi, việc quân, quốc chánh tập quyền đều ở nơi tay Thái sư Trần Thủ Độ.
“Thủ Độ cho Trần Cảnh ngày đêm chơi đùa với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng mến lắm. Một hôm Thủ Độ đem hết gia thuộc thân thích vào cung cấm, bắt đóng hết cửa thành không cho các quan vào chầu, rồi cho biến báo cái tin Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh. Khi các quan vào triều bái tạ thì Thủ Độ thác chiếu của Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Bấy giờ là tháng 1 năm 1225. Thế là nhà Lý đã vì những cuộc nổi dậy của nông dân mà suy sụp, họ Trần đã lợi dụng cơ hội ấy mà cướp lấy ngôi vua, để khôi phục quyền lực và tiếp tục phát triển cơ nghiệp của nhà nước phong kiến tự chủ.” [1, 218]
Trần Thái Tông là vị vua đầu tiên của nhà Trần. Vua khoan dung, nhân từ, đại độ có lượng của bậc đế vương cho nên có thể khai sáng nghiệp lớn để lại thống truyền, lập ra kỷ cương phép tắc, hình thành một chế độ nhà Trần vĩ đại, nếu cuộc đời Trần Thái Tông hoàn toàn vừa lòng hạnh phúc với ngôi vị thì chắc chắn trong cuộc sống vương giả không thể nào đưa ông đến với đạo Phật. Tất cả những ngòi bút viết về lịch sử đời Trần đều nói đến nổi khổ đau, bất lực và dằn vặn nội tâm của tuổi trẻ Trần Thái Tông.
“Để đảm bảo dòng dõi nhà Trần, thấy Chiêu Hoàng đã 19 tuổi mà chưa có con, Thủ Độ bắt Trần Cảnh hạ Chiêu Hoàng làm công chúa và cướp lấy vợ của Trần Liễu là chị ruột của Chiêu Hoàng, tức Thuận Thiên công chúa, đã có mang sẳn. Muốn giữ cho đại quí tộc là rường cột của nhà nước phong kiến được thuần nhất và để ngăn ngừa nạn ngoại thích cướp ngôi, Thủ Độ đặt lệ phàm người tôn thất nhà Trần phải kết hôn lẫn nhau. Cơ sở tinh thần của chế độ phong kiến là nho giáo, nhưng giai cấp quí tộc chỉ dùng nho giáo để buộc chặt bọn thần hạ và nhân dân vào trật tự phong kiến, còn chính họ khi cần bảo vệ quyền vị thì dù những điều loạn luân bại lý, trái ngược nho giáo họ cũng làm bừa.” [1, 220]
Việc “Di hoa tiếp mộc” này thực sự cổ kim chưa hề có, vì thế đã gây nên nhiều sự bất mãn cho sĩ phu đương thời vốn nặng đầu óc với nền luân lý Khổng – Mạnh. Sự kiên này thực sự đã làm chấn động mãnh liệt đối với tâm lý của ông vua trẻ không ít. Một vị vua mà không có quyền hành, ngay cả quyền quyết định cho đời sống hạnh phúc cá nhân của mình, mặc dù đây là sự mong muốn của Trần Thủ Độ cần ông có con để bảo đảm cho sự liên tục của dòng dõi gia đình thống trị.
“Làm loạn luân như thế, thì tự thượng cổ mới có là một. Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn. Vua Thái Tông bị Thủ Độ hiếp chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến đêm trốn ra lên ở chùa Phù Vân, trên núi Yên Tử (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên). Trần Thủ Độ biết tin ấy, đem quần thần đi đón Thái Tông về. Thái Tông không chịu về, nói rằng: “Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc”. Thủ Độ nói mãi không nghe, ngoảnh lại bảo bách quan rằng: “Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy!”. Nói đoạn, truyền sắp sửa xây cung điện ở chùa Phù Vân. Quốc sư ở chùa ấy thấy thế, vào van lạy Thái Tông về triều; Thái Tông bất đắc dĩ truyền xa giá về kinh.” [5,126]
Không thể chịu đựng được sự ức chế của tâm lý, sự đau khổ dằn vặt của nội tâm, ông vua trẻ vào 10 giờ đêm ngày mùng 3 tháng 4 năm 1236, đã bỏ ngai vàng ra đi tìm đến núi Yên Tử để tham kiến Quốc sư Trúc Lâm. Điều đáng nói nhất là khi tìm về đạo Phật, thái độ nhìn về nhân tình thế thái của Trần Thái Tông rất bi quan nếu không nói rằng quá đau khổ, mẫu đối thoại đầu tiên của vua với Quốc sư đã nói lên điều đó. “.... Trẫm còn thơ ấu đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng trên sĩ dân không có nơi nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên Trẫm mới vào đây chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm cầu gì khác.”
Đứng trên lập trường nhân chủ của một nước, vua không thể từ bỏ sĩ dân khi nhiệm vụ chưa hoàn thành và Thủ Độ sẳn sàng lập kinh đô thành quách ở Yên Tử. Vì thế, ông phải quay về triều nhưng chắc chắn tư duy đã hoàn toàn đổi mới, khác hẳn tâm tư đau khổ lúc đăng sơn. Sự khai thị về trí tuệ phản tỉnh của Quốc sư đã ảnh hưởng đậm nét trong đời sống, hành động và trước tác của ông về sau.
“Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho thái tử là Trần Hoảng để dạy bảo mọi việc về cách trị nước, và để phòng ngày sau anh em không tranh nhau. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái thượng hoàng để cùng coi việc nước.
Thái tông trị vì được 33 năm, làm Thái thượng hoàng được 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.” [5, 133]
Nhìn chung, thật khó mà tìm được trong lịch sử các triều đại phong kiến một ông vua sống giữa cung vàng điện ngọc mà không hưởng lạc thú giữa các phi tần cung nữ, sắc tửu cầm ca, lại chí thú lo cho dân cho nước. Một ông vua mà an trụ pháp vô ngã giữa triều đình thì làm sao nước nhà không được thái bình và vững mạnh. Cho nên sức mạnh của đời Trần là sức mạnh của đạo đức hướng dẫn bằng trí tuệ do vị vua đầu tiên thực hiện.
2.3. Đánh Giá Của Các Sử Gia Hiện Đại
Lịch sử đã sang trang và thời gian đã trôi qua gần mười thế kỷ, con người hôm nay ở thế kỷ 21 bàn về con người quá khứ của đời Trần không phải chỉ để ca ngợi hay phê phán mà còn phải nhận được cái lõi hiện thực của con người đời Trần. Mặc dù thời gian vô thường đã bao lần thay đổi, nhưng giá trị hiện thực sinh động vẫn châu lưu trong không gian vô tận và thời gian vô cùng. Điều cần thiết là chúng ta phải nhận xét được cái gì là tinh hoa, là tư tưởng chủ đạo của mỗi con người trong thời đại đó để kế thừa và phát huy sự nghiệp của các bậc tiền bối hữu công đã làm thạnh hưng “Đạo pháp và dân tộc”. Đặc sắc tiêu biểu đó, người viết muốn tôn vinh ở đây là Trần Thái Tông – vị hoàng đế đầu tiên của triều Trần.
“Năm 1224, bệnh điên của Lý Huệ Tông trở nên trầm trọng. Do không có con trai, Lý Huệ Tông buộc phải truyền ngôi cho con gái thứ hai là Lý Phật Kim lúc ấy mới 6 tuổi, Lý Huệ Tông bỏ triều đình đi tu. Cơ hội họ Trần mong đợi từ lâu đã đến. Do sự bố trí của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (con vua Trần Thừa, lúc này mới 6 tuổi) đã được tuyển vào cung để phục dịch cho Lý Phật Kim (tức Lý Chiêu Hoàng). Cuối tháng chạp năm Ất Dậu (1225), cũng do sự bố trí của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết hôn cùng Trần Cảnh rồi nhường ngôi cho Trần Cảnh.
Trần Cảnh lên ngôi, đó chính là Trần Thái Tông (1226 – 1258), Hoàng đế đầu tiên của triều Trần. Địa vị lịch sử của họ Lý đượckhẳng định từ năm 1010, trải hơn hai thế kỷ, đến đây bị xóa bỏ bởi họ Trần. Họ Trần chiếm giữ vũ đài chính trị của nước nhà từ năm 1226 (tính theo dương lịch) và kéo dài đến năm 1400 mới bị lật đổ.” [19, 156-157]
Trần Thái Tông được vợ (Lý Chiêu Hoàng) nhường ngôi cho từ năm ông mới tám tuổi. Trong gần mười năm đầu làm vua, nhờ được cha là Trần Thừa làm Thượng hoàng nhiếp chính, ông có điều kiện trau dồi văn võ, học tập chính trị, quân sự, học cách cai trị nhân dân và bảo vệ đất nước. Đặc biệt ông để nhiều tâm trí nghiên cứu đạo Phật. Được nghe các Thiền sư thường lui tới trong triều thuyết giảng, ông càng thêm thấm thía nghĩa lý uyên thâm của đạo Phật và càng thấy mình có thể lúc nào cũng sẳn sàng thoát sang cửa thiền. Trong bài viết tựa cuốn Thiền Tông Chỉ Nam của ông, ông đã viết:
“Vả Trẫm lúc tuổi nhỏ mới biết, nghe thoáng thầy thiền dạy bảo thì ý lắng nghe hết lo, trong sạch chút ít, bèn để tâm vào nội giáo, tham cứu đạo Thiền, hạ mình tìm thầy, thành khẩn mộ đạo. Tuy lòng hướng vào đạo đã sinh, nhưng cơ cảm xúc chưa tới. Vừa mới 16 tuổi, Thái hậu đã chán cõi trần, Trẫm nằm rơm gối đất, huyết lệ nát lòng, ngoài nổi buồn đau, rảnh đâu việc khác.
Thế rồi mới mấy năm sau, Thái Tổ hoàng đế tiếp bỏ ngôi trời. Niềm nhớ mẹ chưa nguôi, tình thương cha càng nặng. Ngổn ngang đau xót, khó nổi khuây lòng. Nghĩ tới mẹ cha nuôi con vỗ về ôm ấp không thiếu cách gì, con dù thịt nát xương tan cũng không đủ báo đền trong muôn một. Huống chi đấng hoàng khảo Thái Tổ ta xây dựng cơ nghiệp rất mực gian nan, trị nước giúp đời lại càng khó nhọc. Người đem ngôi báu trao lại cho ta từ lúc ấu thơ, khiến ta đêm ngày lo sợ, không chút thảnh thơi.
Ta tự bảo mình! Trên đã không có cha mẹ để tựa nương, dưới lại e chẳng xứng với lòng dân trông đợi, biết làm thế nào? Suy đi tìm lại, không gì hơn lui về chốn núi rừng cầu học đạo Phật, để hiểu rõ nghĩa lớn của việc lớn tử sinh, cùng đền đáp ơn đức khó nhọc của cha mẹ, thế chẳng tốt hơn sao? Vậy là chí Trẫm đã quyết.” [17, 35-36]
Vậy sự kiện đêm mùng 3 tháng 4 năm Bính Thân, ít nhiều cũng liên quan đến lời tựa trên. Cho nên, nhà vua đã có ý muốn “ lui về chốn núi rừng cầu học đạo Phật” nói cách khác, nhà vua muốn bỏ ngôi, để vào rừng học đạo, vì sợ không làm nổi trách nhiệm lãnh đạo đất nước mà người dân trông chờ ở một nhà chính trị. Cụ thể hơn, nhà vua không có ý muốn làm vua. Nói như Thiền Tông Bản Hạnh:
“Lòng Trẫm thấy của màng chi
Thân người ảo hóa được thì bao lâu
Lại lo phụ mẫu trước sau
Đạo thâm đức hậu lấy gì báo ân
Nay Trẫm tìm vào sơn lâm
Vua cầu làm Bụt chẳng toan sự nào”
[29, 29]
Sự kiện mùng 3 tháng 4 năm Bính Thân cũng chính là nguyên do làm cho Trần Thái Tông chán ngán ngôi vua và muốn tìm lên núi Yên Tử để học đạo.
Đối với sự kiện này, Sử gia Lê Mạnh Thát có lời bàn như sau:
“Ngày nay, chúng ta có thuận lợi để nhìn về sự kiện này. Chúng ta không phủ nhận việc dùng luân thường đạo lý mà bất cứ xã hội loài người nào cũng phải có để đánh giá các hành vi xã hội của một con người. Tuy nhiên, trong trường hợp này, yêu cầu bảo vệ quyền lợi tập thể mà ở đây là quyền lợi của một quốc gia, một dân tộc, đòi hỏi phải có một cái nhìn luân thường mới, mà từ hiện đại thường dùng là đạo đức cách mạng. Tai sao? Bình thường, giết người thì phải đền. Một người đi giết người khác tất phải bị lên án, thậm chí bị tử hình. Song, nếu vì quyền lợi của một cộng đồng, của một dân tộc, thì việc giết được một người đôi khi còn được ca ngợi là anh hùng, khí phách. Nền luân thường này mà ngày nay gọi là đạo đức cách mạng, thực tế, không phải mới. Ngay từ thời Mạnh Tử, khi bàn về việc thay đổi chế độ từ nhà Hạ qua nhà Thương, từ nhà Thương qua nhà Chu, thì việc giết Hạ Kiệt, Thương Trụ đã được Mạnh Tử gọi đó là cách mạng, là giết một kẻ có tội với dân chứ không phải giết một vị vua, một nhà lãnh đạo. Hạ Kiệt và Thương Trụ là những kẻ tội đồ cần phải thanh toán.
Cho nên đặt biện pháp quyết liệt của Trần Thủ Độ trong bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ của đất nước ta và thế giới ta mới hiểu lý do vì sao. Bản thân vua Trần Thái Tông không phải không biết biện pháp này xét về mặt cá nhân là hoàn toàn sai lầm. Em không thể lấy vợ của anh ruột mình đang còn sống. Chính do nhìn sự kiện như thế, nên vua Trần Thái Tông đã nửa đêm bỏ ngai vàng tìm lên Yên Tử. Sự ra đi này biểu lộ một thái độ cương quyết không chấp nhận biện pháp ấy về mặt cá nhân. Nhà vua cũng cảm thấy bị bức xúc, ngột ngạt không muốn làm một việc mà bất cứ một người Đại Việt bình thường nào thời đó đều không muốn làm. Hơn nữa, nếu xét về tư cách một người Phật tử, biện pháp vừa nói càng không nên thực hiện. Ngay từ thời Trí Bảo (?, - 1190), yêu cầu :
“Bồ tát vợ mình biết đủ thôi
Sao còn tham muốn vợ con người .”
Đã trở thành một châm ngôn sống Đạo, đòi hỏi các Phật tử phải thể hiện cho được.Vì vậy, bảo rằng vua Trần Thái Tông đã “mở mối dâm loạn “mà những người như Phan Phu Tiên và Ngô Thì Sĩ đã nói tới. Thật sự, tỏ ra họ đã không thông cảm nổi với chính những bức xúc của vua Trần Thái Tông, xét về mặt cá nhân và tư cách Phật tử. Đây là điểm thứ nhất, mà họ đã không thấy, như chính lời bàn của họ đã biểu lộ.
Điểm thứ hai chính là vấn đề tại sao vua Trần Thái Tông đã làm một việc mà bản thân vua không thích và cảm thấy hết sức bức xúc về nó? Ta đã thấy triều đại nhà Trần ra đời qua việc vua Trần Thái Tông lên ngôi là thông qua cuộc hôn nhân với một nữ hoàng của triều đại nhà Lý là Chiêu Thánh. Tính chính thống của triều đại Trần phần lớn là nhờ cuộc hôn nhân chính trị này.
Hôn nhân chính trị là nhằm một mục tiêu chính trị. Trường hợp ở đây là nhằm đáp ứng nhu cầu chính thống hóa sự chuyển giao quyền hành từ nhà Lý sang nhà Trần, mà trên thực tế đã xảy ra và xảy ra trên mười năm. Tại sao lại có yêu cầu về sự chính thống hóa này? Đó là do tình hình quốc tế đang biến động thời bấy giờ đòi hỏi chính quyền Đại Việt phải có những sách lược để đối phó với tình hình biến động ấy. Nói cụ thể hơn, tình hình quốc tế thời bấy giờ đang có những biến động lớn.” [17, 47-50]
Qua lời bàn trên cho chúng ta một nhận định: Vì tiền đồ của một quốc gia, vì chủ quyền của một dân tộc mà trong mọi tình huống người có trách nhiệm phải hy sinh. Khi một dân tộc bị dìm xuống địa vị nô lệ, khi một quốc gia bị lệ thuộc ngoại bang, bị mất chủ quyền, thì nền văn hoá của dân tộc ấy, của một quốc gia ấy khó có thể sáng sủa được. Do đó, một đôi khi cũng có những trường hợp đặc biệt mà một dân tộc vì sự an nguy của quốc gia xã tắc bắt buộc phải làm những chuyện ngoài ý muốn hay có thể làm những việc kinh thiên động địa là khác.
Bất cứ người Việt Nam nào khi xem qua lịch sử dân tộc cũng đều thừa nhận triều đại nhà Trần là một trong những triều đại hưng thạnh và vẻ vang nhất trong lịch sử nước ta.
Tất cả đều được khởi đầu từ vua Trần Thái Tông. Qua những việc làm như: Lập Quốc Học Viện, cho người đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, Mạnh Tử, và vẽ tranh 72 người hiền để thờ, để chứng tỏ đức anh minh, nhân ái, yêu dân của Trần Thái Tông. Vua là người có tầm nhìn xa, thấy rộng, có tinh thần khoáng đạt, cởi mở. Với cương vị là một Phật tử, chẳng những ông không kỳ thị Nho giáo, mà trái lại ông còn nổ lực xiển dương Nho học, quý trọng nhân tài, tạo điều kiện cho quốc gia trở nên cường thịnh.
Đức anh minh, nhân ái của Thái Tông như thế, nên khi bàn về vua, sử gia Phan Huy Chú đã viết: “Thiên tính vua rất nhân hậu, tin dùng hiền tài, định ra các lễ nghi, hình luật, pháp độ điển chương, thật đáng khen ngợi”
Đức nhân hiếu là cái gốc của mọi người, đối với bậc Đế vương đức tính ấy lại càng cần thiết để thu phục nhân tâm, khiến cho mọi người tin yêu, kính trọng và tuân phục, nhờ đó mới xây dựng một triều đại hùng cường và thịnh trị.
Vua Thái Tông không những là vị vua anh minh nhân đức, mà còn là một vị vua anh hùng kiệt xuất, dũng cảm đương đầu với bọn giặc ngoại xâm.
“. . . tháng chạp năm Đinh Tỵ (tháng-1258) 3 vạn kỵ binh Mông Cổ đã men theo sông Hồng để tiến sâu vào nước ta. Ngay lập tức, chúng bị chặn đánh quyết liệt. Ngày 17 tháng 1 năm 1258, một trận ác chiến đã diễn ra tại Bình Lệ Nguyên, Trần Thái Tông trực tiếp, chỉ huy quân đội Đại Việt trong trận đọ sức đầu tiên này.” [19, 171]
Trận chiến này, vua đã cùng với Trần Thủ Độ và các tướng lĩnh trong đó có con trai – sau này là vua Trần Thánh Tông – ngược sông Hồng, đánh tan quân giặc ở Đông Bộ Đầu, giải phóng kinh đô Thăng Long.
Chiến thắng oanh liệt đó đã làm cho quân thù kinh hồn bạt vía. Nhiều sứ thần nhà Nguyên nhiều năm về sau có dịp sang nước ta còn sởn tóc gáy, như còn văng vẳng bên tai tiếng gươm khua và tiếng trống đồng thúc trận khiếp rợn của quân ta. Trong cuốn Sứ Giao Châu tập có ghi lại một bài thơ cảm sợ của sứ thần Trần Cương Trung nhà Nguyên sau khi qua nước ta về thời đó, trong bài có 2 câu:
“Tưởng chừng giáo sắt lòng kinh khiếp,
Nghe vẳng trống đồng tóc bạc phơi”
Đánh đuổi quân giặc ra khỏi đất nước, Trần Thái Tông trở về với đạo, ông đã truyền ngôi cho con trai – tức vua Trần Thánh Tông – quyết tâm từ bỏ ngôi vua như “trút bỏ một chiếc giày rách” từ bỏ mọi vinh hoa phú quí của bậc vương giả để vào núi ăn chay niệm Phật.
Từ đó, ông để hết tâm lực vào nghiên cứu đạo thiền, viết nhiều sách để giúp mọi người hiểu đạo và thực hành đạo, ông đã có những tác phẩm Phật giáo như: Thiền Tông Chỉ Nam, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, Khóa Hư Lục …
Trần Thái Tông sống cuộc đời Thiền sư, nghiên cứu và viết về đạo Phật được hơn 10 năm thì mất, để lại cho đời một tấm gương sáng của một ông vua đã hết lòng làm tròn trách nhiệm đối với đời cũng như đối với đạo.
2.4. Đánh Giá Của Các Nhà Nghiên Cứu Phật Giáo
Nói đến Phật giáo Việt Nam không thể không nói đến Phật giáo đời Trần, nói đến Phật giáo đời Trần không thể không đề cập đến nhân vật lịch sử Trần Thái Tông – một ông vua kiêm thiền sư – bởi lẽ, trong giai đoạn đầu của Phật giáo đời Trần, vua Trần Thái Tông đã góp phần không nhỏ trong kho tàng văn học Phật giáo Việt Nam. Những tác phẩm của Ngài không những có giá trị về mặt tâm linh Phật giáo mà còn có giá trị về mặt văn chương và lịch sử. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu Phật học xưa nay khẳng định, và có lẽ hậu bối chúng ta cũng dễ dàng đồng cảm và chia xẻ với sự đánh giá ấy.
Lật lại những trang sử cũ, ngày nay người ta chỉ biết nhắc nhở đến những chiến công oanh liệt của Đức Thánh Tông, ít ai tự hỏi vì đâu mà có những trang sử vàng son của triều đại nhà Trần. Chắc rằng không ai chối cãi những bậc vĩ nhân ấy nếu không có tinh thần đoàn kết của cả dân tộc, quân dân nhất trí đồng lòng thì liệu có thể thành công được chăng? Một anh hùng lưu danh thiên cổ đã đại diện cho biết bao nhiêu anh hùng vô danh mà đời sau không biết. Vả lại cái tinh thần quân dân như một, người kia đã lấy ở đâu cái khí phách quật cường, cái đức tính hy sinh hòa thuận? Đấy là quyền sống bắt buộc chăng? Nhưng làm thế nào cho quyền sống riêng tư có thể nhượng bộ cho quyền sống chung; ấy là bí quyết và cái bí quyết ấy không thể đừng nghĩ đến tinh thần Phật giáo lấy “sắc không” làm tôn chỉ đã hưng thịnh khắp tầng lớp xã hội Việt Nam ở thời đại nhà Trần. Phật giáo ở xứ này đã có những cội rễ sâu xa, nhưng được coi như Quốc Giáo thì ở triều đại nhà Trần mới thực sự thịnh vượng. Trong giai đoạn này, Phật giáo đúng là một thời đại hoàng kim ở Việt Nam.
Muốn chứng minh điều này chúng ta chỉ cần xem lịch sử Phật giáo Việt Nam và Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông cũng đủ minh chứng. Đọc đến bài tựa “Thiền Tông chỉ Nam” của Thái Tông bất giác chúng ta tưởng như đọc sự tích khi Đức Phật khi bỏ cung điện, vợ con, đang đêm vào núi vậy. Vấn đề này đứng trên bình diện ý thức Phật – Nho – Đạo thì Trần Thái Tông, ông vua khai sáng triều đại oanh liệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đã thực hiện vào cuộc đời nhập thế và xuất thế, tại gia và xuất gia của Ngài. Đây là câu chuyện lịch sử của một nhà vua đi tìm ý nghĩa của sự sống, giải thoát đau khổ, theo gương Thế Tôn và đã thành đạt theo một lối khác Thế Tôn, lối Việt Nam như hoàn cảnh địa lý lịch sử đã qui định.
“Đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình (1245) Trẫm bèn ăn mặc giả làm người thường, lẽn ra cửa cung và bảo kẻ tả hữu rằng: Ta muốn đi chơi ngoài cung điện để ngầm nghe dư luận của dân, do tìm nguyện vọng của dân để cảm thông sự khó nhọc của họ. Lúc ấy đi theo bên cạnh Trẫm chỉ độ bảy, tám người. Đêm ấy vào chừng giờ Hợi, Trẫm lấy một con ngựa cất lẽn ra đi. Khi đã sang sông (Nhị Hà) bèn hướng về phía Đông mà đi; Trẫm mới bảo thật cho bọn tả hữu đi theo. Bọn họ kinh ngạc ai nấy đều ứa nước mắt mà khóc (vì thấy Trẫm bỏ đi vào núi tầm Phật). Giờ Mão hôm sau, đi đến bến đò Phả Lại thuộc làng Đại Than, Trẫm sợ ban ngày có kẻ nhận ra, mới phải lấy vạt áo chùm mặt mà qua sông. Rồi theo con đường tắt lên thẳng núi. Đến tối vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh, đợi cho đến sáng mới lại đi. Chật vật trèo lên núi hiểm, lội suối sâu, sức ngựa đã mệt không thể lên núi được nữa, Trẫm phải bỏ ngựa lại vịn đá mà leo. Đến giờ Mùi tới chân núi Yên Tử, sáng bữa sau mới leo thẳng lên đỉnh núi, tìm ra mắt Quốc Sư Trúc Lâm, vị Đại Sa Môn chùa ấy (danh hiệu là Phù Vân)”
[23, 70]
Xem như thế đủ thấy lòng nhiệt tâm cầu Đạo của nhà vua, bỏ ngai vàng như trút giày rách, gian nan lặn lội từ kinh đô Thăng Long tìm lên núi Yên Tử đặng gặp thầy vấn đạo. Nhưng gặp Quốc Sư, nhà sư chưa tin có phải vì Đạo mà bỏ ngôi vua, cho nên Thái Tông phải ứa nước mắt mà bạch rằng:
“Trẫm còn thơ ấu, vội mất cha mẹ, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không biết nương tựa vào đâu. Vả lại Trẫm nghĩ sự nghiệp đế vương đời trước hưng vong bất thường, ở đời chẳng có chi vĩnh cữu. Nên Trẫm muốn vào núi chỉ cầu làm Phật không còn cầu gì khác nữa!” [23, 71]
Thấy chí của vua đã nhất quyết, Quốc Sư mới giảng giải thế nào là Phật chân chính:
“Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ có ở trong lòng người ta. Hễ tâm yên lặng trong suốt mà thấy biết ấy là Phật thật. Nay nếu nhà vua giác ngộ được tâm ấy tức thì thành Phật, không phải khốn khổ cầu tìm bên ngoài.” [23, 71]
Sau đó, vua thấy quần thần cùng người trong nước tìm đến tha thiết kêu nài nhà vua trở về, Quốc Sư mới ân cần cầm tay nhà vua khuyên nhủ:
“Hễ đã làm đấng nhân quân thì phải lấy ý muốn của nhân dân trong nước làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Bây giờ thiên hạ muốn nhà vua về cung, nhà vua không theo sao được? Nhưng có điều công việc nghiên cứu nội điển về tâm linh Phật giáo, dám xin nhà vua đừng phút nào xao lãng cả.” [23, 72]
Với lời chỉ giáo ấy của Quốc Sư, nhà vua quay trở về đời làm tròn trách nhiệm “lấy thân mình làm người đưa đường cho thiên hạ. Ròng rã 10 năm , nào tổ chức nội trị, nào chống đánh ngoại xâm, thừa cơ nhàn rỗi lại tìm hỏi đạo lý, suy nghĩ kinh Phật cũng như kinh Nho và Đạo, để một ngày kia bừng tỉnh mà sáng tỏ rằng tuy phân ra đạo này đạo khác, lối xuất gia hay lối tại gia, kỳ trung chỉ cốt sao đạt được cái tâm không chấp, không bị ngã nhân với tha nhân, mình với mình, Nam với Bắc.” [24, 26-28]
Qua đoạn trích trên, cụ Nguyễn Đăng Thục đã vẽ lên một bức tranh lịch sử sống động về vua Trần Thái Tông. Mặc dù ông ngồi trên cao chín bệ nhưng vẫn dung hòa cuộc sống, đem đạo vào đời, trong cuộc đời hành động phụng sự dân tộc mà tìm thấy Phật ở tại nơi tâm. Tuy ở hình thức thì Ngài có tam giáo mà về nội dung chỉ có một tâm là cái tâm đại đồng mầu nhiệm biến hóa tùy theo hoàn cảnh thực tế để tế độ chúnh sinh.
Đấy là nhà vua đã ảnh hưởng tinh thần Phật giáo mà đặc thù là Phật giáo Việt Nam mà Ngài đã thực hiện, hợp nhất cả phương tiện quốc tế đại đồng lẫn quốc gia riêng biệt, làm cơ bản cho một ý thức hệ quốc gia dân tộc của cả một triều đại nhà Trần. Thành quả như thế nào có lịch sử chứng minh về nhân sự cũng như về quốc thể đối với các nước chung quanh thời bấy giờ, tưởng như không cần dài dòng chi nữa.
Ngoài việc trị quốc an dân, suốt 10 năm trời, khi nhàn rỗi, vua thường tập hợp các bậc kỳ đức tham khảo thiền học. Với các kinh điển Phật giáo thuộc các hệ giáo lý chính nhà vua luôn luôn nghiên cứu. Các bậc kỳ đức, ngoài Quốc Sư Trúc Lâm, vài năm về kinh một lần, nhà vua còn tham học với thiền sư Tức Lự, Ứng Thuận, Đại Đăng và Thiên Phong. Thiên Phong người Trung Quốc, thuộc phái Thiền Lâm Tế. Nhà vua đã lập viện Tả Nhai và mời Thiên Phong đến đó để tham vấn đạo thiền. Vì thế, nhà vua chịu ảnh hưởng Thiền Lâm Tế rất sâu đậm. Trong các bậc kỳ đức, với vua Thái Tông, có vị là bậc thầy, có vị là bạn. Bậc thầy có Quốc Sư Trúc Lâm, Thiền sư Tức Lự. Là bạn có Ứng Thuận, Đại Đăng, Thiên Phong và thiền sư Đức Thành, người Trung Quốc. Như thế, vua Thái Tôngvừa học thầy vừa học bạn. Sách Trần triều Thiền Tông Bản Hạnh, đoạn viết về Thái Tông có câu:
“Hội thiện tri thức lại tham,
Ích minh tông chỉ càng thâm lòng thiền.
Sư trưởng là đại nhân duyên,
Thiện hữu hộ giáo hộ quyền nam mô.”
[29, 285-286]
Trong triều đại Trần Thái Tông, đạo Phật đã phụng sự triệt để không chỉ cho đời sống tâm linh mà còn cho đời sống xã hội. Như lời của Quốc Sư Trúc Lâm phát biểu về nguyên tắc hướng dẫn đời sống người dân của một nhà chính trị: Đã làm người phụng sự dân thì phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, lấy lòng dân làm lòng mình, nhưng đồng thời cũng không quên trau dồi việc tu học của bản thân.
Trong lĩnh vực tôn giáo, ưu điểm lớn nhất của Phật giáo là tinh thần khoan dung và tự do. Phật giáo không hề có ý cạnh tranh với các tôn giáo khác. Chính vị vua kiêm thiền sư như Trần Thái Tông đã mở rộng và dung hòa Phật – Nho – Đạo. Năm 1232, Thái Tông lập Quốc Học Viện, cho tạc tượng Chu Công, Khổng Tử, Minh Tử và 72 vị tiền hiền để thờ. Đồng thời, Ngài còn cho mở trường dạy Nho học và mở các khoa thi cho Nho sinh, chọn người tài để bổ nhiệm trong số những nho sinh có học thức vững vàng. Do sự đãi ngộ như thế, nên nhân tài xuất hiện rất nhiều, đồng thời việc học cũng được phát triển rộng rãi.
Do đó, trong Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quý Đôn có lời phát biểu: “các vị ấy phẩm hạnh và thánh giới cao khiết có tư cách người tri thức quân tử như đời Tây Hán, không phải kẻ tầm thường sánh được. Bởi vì nhà Trần đãi kẻ sĩ một cách khoan dung, không hẹp hòi hòa vị mà còn lễ phép, cho nên người sĩ thời ấy ai cũng biết tự lập, anh hùng tuấn vĩ vượt ra ngoài lưu tục, làm cho vinh quang cả sử sách, không thẹn với trời đất, há phải đời sau kịp được đâu”. Thế cho nên:
“Trần Thái Tông là một ông vua kiêm triết gia thật sự. Một triết gia Phật giáo cở lớn, không những học rộng biết nhiều, mà còn tu, có ngộ đạo.” [14, 41]
Vua đúng là mẫu người Ôn, Lương, Cung, Kiệm, Hiếu, Kính, Nhân, Từ đã hoàn thành xuất sắc cả hai trách nhiệm đời và đạo một cách viên dung ngay trong lòng nhân thế. Ông không những là cây đuốc sáng của Phật giáo Việt Nam, mà còn là một trong những vị vua khai sáng một triều đại có sự nghiệp chính trị và võ bị hiển hách nhất trong lịch sử nước ta.
2.5. Đánh Giá Chung
Vào cuối đời nhà Lý, cục diện triều đình quá ư rối ren và phức tạp, không còn cách nào cứu vãn được. Nhân cơ hội đó, Trần Thủ Độ đã khôn khéo chuẩn bị cả về dư luận và tổ chức, đưa họ Trần lên nắm giữ vũ đài chính trị lúc bấy giờ. Nhân vật mà Trần Thủ Độ tuyển chọn là Trần Cảnh, sau khi lên ngôi lấy hiệu là Trần Thái Tông.
Lịch sử thời đại nhà Trần và Phật giáo đời Trần được bắt đầu từ vua Trần Thái Tông (1218 – 1277).
Trần Thái Tông lên ngôi vua trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt là không phải do vua cha truyền ngôi (như những triều đại khác trong thời phong kiến) mà do vợ là Lý Chiêu Hoàng, vua cuối cùng triều Lý nhường ngôi. Do vậy bi kịch tất yếu phát sinh trong triều đình.
Năm Trần Thái Tông lên 20 tuổi, Hoàng hậu là Lý Chiêu Thánh cũng 20 tuổi. Trần Thủ Độ lúc bấy giờ vừa là chú vừa là thái sư trong triều buộc Trần Thái Tông phải phế hoàng hậu Chiêu Thánh – người vợ thân yêu, thân tình để cưới người chị của Chiêu Thánh là công chúa Thuận Thiên, bấy giờ là vợ của Trần Liễu – anh ruột của Trần Thái Tông. Do đó với lương tâm, tình cảm và đạo lý làm người, trước sức ép của triều đình và gia đình, Trần Thái Tông một thiên tử không còn con đường nào khác là phải lén trốn, vượt bỏ hoàng cung lên núi Yên Tử tầm sư tham vấn.
Câu chuyện đối đáp giữa Quốc Sư Trúc Lâm với nhà vua đã trình bày ở những phần trên, tại đây người viết không nhắc lại nữa.
Trong giáo lý nhà Phật tư tưởng vô ngã và ngã rất quan trọng. Muốn thành tựu chơn ngã, trước hết phải tụ tập vô ngã, xem mình như không có. Ngược lại, muốn thành tựu hạnh vô ngã hãy thực hành chơn ngã. Nói theo ngôn ngữ đời thường của chúng ta hôm nay “mình vì mọi người, mọi người vì mình; mình sống cho tất cả, tất cả sống cho mình”; Hay quen thuộc hơn trong dân gian, đó là “Thương người như thể thương thân”.
Vâng Lời Trúc Lâm Quốc Sư dạy, Trần Thái Tông trở về làm tròn phận sự một nhà vua hiền đối với sơn hà xã tắc trải qua 32 năm. Sau đó, vua nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông và lên làm Thái thượng hoàng, ngự ở cung Thiên Trường. Trong thời gian 20 năm làm Thái thượng hoàng, một mặt ông để tâm cố vấn cho con là Trần Thánh Tông trong việc chăn dân trị nước, mặt khác ông luôn nỗ lực tinh tấn tu học Phật pháp, rèn luyện tâm linh để trở thành một vị thiền sư đúng nghĩa trong việc hoằng dương chánh pháp. Những gì trước kia nhà vua làm một phần trong phận sự nhà vua, một phần trong phận sự thiền sư thì đến Trần Thái Tông, Ngài làm cả hai: vừa tài trí của một nhà vua, vừa công đức của một thiền sư. Quan điểm và hành động, lý tưởng và hiện thực… cả hai đều trở thành một thể thống nhất nơi Trần Thái Tông.
Đạo Phật du nhập vào nước ta được sử liệu ghi lại từ cuối thế kỉ thứ hai, đầu thế kỉ thứ ba. Nhưng cũng có một số dữ kiện cho rằng Đạo Phật có thể vào nước ta từ thế kỷ thứ nhất hoặc sớm hơn.
Điểm đặc biệt cho chúng ta lưu tâm là dù ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ hay Phật giáo Trung Hoa; dù có khuynh hướng bắt nguồn từ tư tưởng các kinh Bát Nhã - Hoa Nghiêm hay Viên Giác - Pháp Hoa, hoặc ảnh hưởng Mật tông hay Tịnh Độ tông … khi truyền vào Việt Nam, các thiền phái đều hội nhập và thể hiêỉn tính cách hài hòa của dân tộc bản xứ là vừa tu tập hoàn thiện tâm linh siêu việt của Phật giáo mà cũng vừa gần gũi gắn bó đời sống thực tế xã hội của quần chúng nghèo khổ trong nhân dân. Chính những vị thiền sư Vạn Hạnh, Pháp Thuận … đã hòa hợp sáng tạo và đặt nền móng vững chắc cho quan điểm trên gắn liền tinh thần phụng sự Đạo Pháp Dân tộc, khơi nguồn và trở thành chân lý bất tử, tồn tại tươi đẹp đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau của Phật giáo Việt Nam.
“Bước sang thời Trần, Phật giáo càng phát triển và thống nhất về một mối. “ Vào đầu thế kỷ XIII, ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường dần dần nhập lại thành một. Do ảnh hưởng lớn lao của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, sự sát nhập của 3 thiền phái trên đây vào nhau đã đưa tới sự phát triển lớn của thiền phái Yên Tử thành thiền phái Trúc Lâm, tức là thiền phái duy nhất thời Trần. Đời Trần có thể được gọi là thời đại Phật giáo Nhất Tông, tức là thời đại của một phái Phật giáo duy nhất. Tông phái này xuất phát từ núi Yên Tử mà vị tổ khai sơn là Thiền Sư Hiện Quang. Thiền sư Viên Chứng hiệu Trúc Lâm, thầy của vua Trần Thái Tông, là tổ thứ hai của phái Yên Tử, được vua tôn xưng là quốc sư. Vị tổ truyền thừa thứ ba là Đại Đăng quốc sư, đồng sư với vua Trần Thái Tông. Một vi quốc sư khác tượng trưng cho sự lãnh đạo nền Phật giáo thống nhất đời Trần là Nhất Tông quốc sư, đệ tử của thiền sư Ứng Thuận thuộc thế hệ thứ 16 của thiền phái Vô Ngôn Thông. Danh từ Nhất Tông mà vua Trần Thái Tông dùng để tôn xưng vị quốc sư hẳn có ý nghĩa về tình trạng thống nhất của Phật giáo trong một tông phái duy nhất.” [6, 205 – 206]
Qua bối cảnh lịch sử Phật giáo nêu trên cho chúng ta thấy đạo Phật sau 10 thế kỷ du nhập đã ăn sâu và bám rễ trong lòng dân tộc Việt Nam nói chung và vua Trần Thái Tông hoặc thiền sư Trần Thái Tông nói riêng. Từ nền tảng vững chắc và thực chất tốt đẹp này, Phật giáo đời Trần mới đáp ứng được xu thế thời đại nâng tư tưởng thiền lên ngang tầm lịch sử dân tộc. Mỗi cá nhân ở Phật giáo đời Trần mới thực sự bước vào con đường thể nghiệm, dấn thân nhập thế, góp phần vĩ đại vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Chiến công còn ghi lại trong sử sách là 3 lần chiến thắng Nguyên – Mông, một đạo quân được xem là hùng mạnh nhất và hung hãn nhất thời bấy giờ, Phật giáo đời Trần và nhân dân đã xây dựng một quốc gia an bình thịnh vượng mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam. Cũng vậy, Phật giáo Thiền Tông hội nhập vào đời Trần mở ra một kỷ nguyên mới “ kỷ nguyên của đạo Phật trí tuệ cộng với truyền thống văn hóa dân tộc tạo thành sức mạnh tinh thần”, phải chăng đây chính là yếu tố tạo nên những đặc sắc của Phật giáo đời Trần. Trong đó phải kể đến công lao khai sáng của ông vua đầu tiên triều đại – Trần Thái Tông, mà Nguyễn Đổng chi mệnh danh “ Bó đuốc sáng của thiền học Việt Nam.”
Cuộc đời và hành trạng của Thái Tông đã hoàn toàn bản địa hóa với tâm tư tình cảm và trái tim yêu thương hài hòa của dân tộc Việt Nam, có như thế ông mới đặt được nền tảng cho thiền phái Trúc Lâm Yên Tử về sau, một thiền phái thuần túy của Phật giáo Việt Nam.
“Thái Tông thao thức thực hiện tuệ giác để tìm ra một cái gì không sanh không diệt trong dòng đời sanh diệt, bất tịnh, khổ đau, vô thường và vô ngã. Vua đã tham thủ thoại đầu bất hủ của thiền sư Lâm Tế về “con người thực không vị trí” (Vô vị chân nhân). Thoạt đầu “vô vị chân nhân” mà Trần Thái Tông tham khảo là một thoại đầu nổi tiếng của phái Lâm Tế, những ý niệm như “Tam huyền”, “Tam yếu” mà vua thường nói cũng phát xuất từ tư tưởng Lâm Tế. Chắn hẳn ngoài sự nghiên tầm điển tịch và đọc các bộ lục như Lâm Tế Lục và Cát Đằng Tập, vua đã có học hỏi ít nhiều về thiền học Lâm Tế ở thiền sư Thiên Phong vốn từ Trung Hoa sang. Thiền sư Lâm Tế hiệu là Nghĩa Huyền, người tỉnh Hà Nam, hồi trẻ tham học với thiền sư Hoàng Bích, và được Hoàng Bích (cũng đọc là Hoàng Bá) truyền tâm pháp. Tư tưởng thiền của Lâm Tế cũng giống tư tưởng Hoàng Bích: Nhấn mạnh đến nguyên lý vô tâm và nguyên lý chúng sinh với Phật không khác. Nhưng Lâm Tế có nhiều biện pháp giáo hóa rất đặc biệt: hồi thiền sư về Trấn Châu Tiểu Viện hành đạo (sau này đổi là Lâm Tế Thiền Viện). Ông xuất xướng các biện pháp tam cú, tam huyền, tam yếu, tứ chiếu dụng và tứ tân chủ. Đặc biệt nhất là sự thi hành phép bổng yết (gậy đánh và tiếng hét). Gậy và tiếng hét là những phương tiện đánh thức sự giác ngộ. Tiếng hét ngày xưa cũng đã được Mã Tổ sử dụng; chính Mã Tổ cũng đã dùng phất trần để đánh đệ tử trong mục đích giúp đệ tử khai ngộ. Lâm Tế có một nhân cách thật ngang tàng có thể sánh với Bồ Đề Đạt Ma: Lâm Tế Lục sôi bỏng một sức sống rào rạo hùng liệt, không phải như Bích Nham Tập của Tuyết Đậu và Viên Ngộ, tuy diễm tuyệt nhưng đằm thắm “ [6, 248 - 249]
Qua đó cho ta thấy Trần Thái Tông ảnh hưởng phái Thiền Lâm Tế ở điểm: “Nhấn mạnh đến nguyên lý vô tâm và nguyên lý chúng sinh với Phật không khác.”
Quam điểm này khơi lại cho chúng ta nhớ câu của quốc sư Trúc Lâm nói với Trần Thái Tông, khi vua lên núi Yên Tử: “ Tâm lặng mà biết, tức là Phật thật.”
Tuy nhiên, khi trả lời câu hỏi đạo của nhà sư Trung Quốc là Tống Đức Thành, vua nói vô tâm chưa phải là giác ngộ. Ý vua nói, dù đạt tới cảnh giới vô niệm rồi cũng chưa phải là giác ngộ:
“Đừng nói vô tâm tức là đạo,
vô tâm còn cách đạo đến hai cửa ải nữa.”
[33, 25]
Đức Thành lại hỏi:
- “Tâm đã rỗng không rồi, lại còn phải đi qua hai cửa ải sao?”
Vua trả lời:
- “ Nước chảy xuống núi không có ý thức gì,
Mây trắng ra khỏi hang núi cũng là vô tâm”
[33, 25]
Ý Thái Tông nói lặng không chưa đủ, vô niệm mà thôi thì chưa đủ, mà trí tuệ phải chiếu sáng. Phải kết hợp tu Định với tu Tuệ thì mới giác ngộ được. Khẩu khí cũng như nội dung các câu trả lời của Trần Thái Tông chứng tỏ vua rất ung dung tự tại, đúng tư thế của một bậc Giác ngộ và giải thoát thật sự.
Nhìn chung, trong tiến trình phát triển đất nước, dân tộc và Phật giáo Việt Nam, vua Trần Thái Tông đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Đạo Pháp và dân tộc. Ngài đã xây dựng thiết thực cho chủ quyền quốc gia vững mạnh, đoàn kết được toàn dân, là nguồn gốc sức mạnh đời Trần, giúp cho quân dân ta đánh giặc giữ nước thắng lợi. Đồng thời, vua Thái Tông đã tạo điều kiện cho Phật giáo đời Trần phát triển đến đỉnh cao của nền văn hóa dân tộc. Vua còn là một thiền sư đạt đạo, phong thái thiền học của vua Thái Tông rất độc đáo và nổi bật ở chổ thích nghi được với dân tộc Việt Nam, cả về môi trường hoàn cảnh xã hội cho đến tâm lý tín ngưỡng của người dân bản xứ mà lại không xa rời tinh hoa, cốt lõi của đạo Phật. Do lẽ đó, vua Thái Tông mới đặt nền móng cho thiền phái Trúc Lâm Yên Tử về sau, và phát triển truyền thừa cho lịch sử Phật giáo nước nhà. Trần Thái Tông xứng đáng được tôn vinh là “ Bó đuốc Thiền Tông”. Sư nghiệp hoằng dương Chánh pháp của ông mãi mãi được khắc sâu vào tận con tim khối óc cõi lòng người con Phật Việt Nam đã và đang sống trên khắp hành tinh này.
2.6. Đánh Giá Cụ Thể
Vua Trần Thái Tông là một thiền sư danh tiếng thời nhà Trần, Ngài là một minh quân có tâm hồn cao cả, đã lãnh hội được nguyên lý giác ngộ giải thoát tuyệt đối. Ngài có một cách sống, một đạo sống đẹp giúp con người đạt đến hạnh phúc đích thực nơi trần thế. Trong việc hoằng pháp lợi sanh, Ngài thực hành rất thiết thực, như sách Thiền Tông Bản Hạnh có câu:
“ Thái Tông mở Phật trường đồ
Quỳnh Lâm, Tư Phúc, cùng chùa Hoa Yên”
Mặc dù vua Thái Tông tu tại gia, nhưng hành xử như một bậc xuất trần thượng sĩ. Những tác phẩm, những bài thơ của Ngài đều toát lên ý nghĩa thoát trần. Ngài là con người hòa nhập với đất trời, con người vũ trụ. Con người ấy, một khi đã đạt đến cái tâm vắng lặng, chân như vô phân biệt sẽ quên mình, quên vật và sống trọn vẹn với bản thể vốn có, hòa với cái vũ trụ vô cùng. Lúc này, con người đã vượt qua khỏi cái hữu hạn để đạt đến cái vô hạn, hay nói khác hơn là cảnh giới giác ngộ giải thoát.
Tư tưởng con người tác động vào đời sống hiện thực đem lại an lạc hạnh phúc cho bản thân, gia đình, đoàn thể, xã hội, tổ chức nhân sinh đời này đến đời sau, là tư tưởng tốt hiền thiện. Trái lại, tư tưởng đem đến kết quả khổ đau gọi là tư tưởng xấu. Như vậy, tư tưởng Trần Thái Tông chỉ ác hành thiện tương ứng Kim Cương Bát Nhã của Phật, vượt khỏi thiện ác đến cảnh giới tự tại vô ngại cho chính bản thân ông, ảnh hưởng tốt đẹp tha nhân là tư tưởng siêu việt.
Cuộc đời Trần Thái Tông có gì đặc biệt, Ngài hưởng vinh hoa phú quý rất sớm. Năm lên 8 tuổi được làm quan hầu cận Nữ Hoàng. Rồi sau được Nữ Hoàng nhường ngôi vua. Nhưng ở ngôi vị quốc chủ mà những thỏa mãn vật chất xa hoa nơi ngai vàng ngất ngưỡng không làm Ngài yếu hèn nhu nhược. Như Đức Thế Tôn, Ngài thức tỉnh cuộc đời huyễn mộng, địa vị hoàng vương không khắc phục được sanh lão bệnh tử, ưu bi khổ não. Năm 1236 (Bính Thân), từ chổ bất toại nguyện đó Ngài tìm cách rời khỏi hoàng cung lên núi xuất gia. Vị thầy đầu tiên là Trúc Lâm Đai Sa Môn khai thị: “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm vắng lặng mà biết, đó gọi là chân Phật, nay Bệ Hạ nếu ngộ được tâm ấy, thời tức khắc thành Phật, không phải nhọc công tìm đâu xa”. Quốc sư dạy tiếp: “Phàm là đấng nhân quân, phải lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ Hạ về triều, Bệ Hạ không thể không trở về được. Song việc tham cứu nội điển, xin Bệ Hạ để tâm chớ quên.” [23, 71]
Pháp ngữ Thiền độc đáo biện minh chân lý phật đà. Trúc Lâm Quốc Sư đã khai sinh một vị Bồ Tát Hộ Pháp Nhơn Vương Trần Thái Tông, có công rất lớn với đạo pháp và dân tộc Việt Nam thân yêu. Chúng ta hãy tìm hiểu qua ý nghĩa rút ra từ lời dạy của Quốc Sư Trúc Lâm như đã nêu trên: Muốn thành Phật hãy tìm Phật trong tâm, rồi từ đó qua pháp Thiền biện tâm, để có Phật tâm siêu việt giúp đời tích cực, giống như muốn vớt người chết đuối ta phải bơi giỏi.
Mặc dù có tích lũy tri kiến Phật học từ trước, qua câu nói sấm sét của Quốc sư, Trần Thái Tông tuy rằng ngay lúc đó chưa ngộ được Phật tự tánh, nhưng cũng trút được gánh nặng phiền não. Ngài xuống núi, theo áp lực của Trần Thủ Độ, vừa làm vua vừa tìm Phật trong tâm, ngài tham cứu nội điển, học hỏi thiện tri thức, chuyên cần tu tỉnh để được chứng ngộ Phật tánh bản hữu, và nghiên cứu ngoại điển Nho - Lão để tìm sách lược trị nước an dân.
Bằng sự nỗ lực cá nhân để giữ an bờ cõi, đồng thời quay về biện tâm, tu tập tâm, Trần Thái Tông đã thực hiện thành công trên hai lĩnh vực: vừa là một vị vua anh minh trị nước với 32 năm tại vị, vừa là một thiền sư sống động trong màu áo hoàng tộc. Phải có một trí tuệ tuyệt vời được thăng hoa từ sự nhận thức chân lý cuộc sống khổ, không, vô thường, vô ngã, Trần Thái Tông mới xây nên tư tưởng tự chủ tự lực cho thiền học đời Trần và ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền độc lập tự cường của dân tộc.
Đồng quan điểm này sử gia Lê Văn Siêu có viết: “Năm 1250, vua Thái Tông xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là quốc gia. Đó là cách nói rõ lên cái nghĩa: vua là nước, nuớc là vua; vua chẳng phải chỉ là một cá nhân được trời Phật cho ở ngôi, mà vua đại diện cho dân cho nước để vinh nhục sướng khổ thì dân nước cũng cảm thấy như thế, và ngược lại dân cho nước đau buồn tủi nhục thì vua cũng cảm thấy nỗi đau buồn tủi hổ ấy.” [12, 336]
Làm vua, không những Trần Thái Tông biết trị nước yên dân, mà khi có chiến tranh, vua cũng không ngại trực tiếp cầm quân đánh giặc, Bắc thì đánh Nguyên Mông, Nam thì thảo phạt Chiêm Thành… Nhưng vua vẫn tuyên bố xem ngai vàng như chiếc giày rách, trút bỏ lúc nào cũng được.
Với tư cách là hoàng đế, Thái Tông đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Vua cũng là một phật tử nhiệt thành, một cư sĩ đạt đạo và là một con người giải thoát.
Sau khi dẹp yên quân xâm lăng, vua Trần Thái Tông thoái vị, lên làm Thái thượng hoàng cùng con trị quốc và hoằng dương Phật Pháp, bước chân của Ngài đã chu du khắp thiên hạ để quảng bá Phật giáo. Thượng hoàng Thái Tông đã đặt chân đến Thanh Hóa (cực Nam) nơi thiền sư Mãn Giác đã từng tới.
Theo sử gia Nguyễn Khắc Thuần: “… Lúc đầu, Trần Cảnh tu tại gia, sau làm Thượng hoàng được một thời gian, Trần Cảnh xuất gia tu hành tại Vĩ Lâm (Hoa Lư, Ninh Bình). Theo chúng tôi, ông thuộc lớp hậu Vô Ngôn Thông và là bậc tiền bối của dòng Trúc Lâm Yên Tử sau này.” [20, 113]
Hay nói chính xác và cụ thể, người khai sáng ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là Trần Nhân Tông làm đệ nhất Tổ, nhưng người có công đặt nền móng thiết lập cho Thiền phái Trúc Lâm phát triển và truyền thừa từ mô hình tổ chức cho đến nội dung tu tập hành trì, tất cả đều mang tính độc lập và thể hiện bản sắc dân tộc là Trần Thái Tông. Sự kiện ra đời dòng thiền này có ý nghĩa rất lớn, nó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc là xây dựng một đất nước Đại Việt độc lập tự chủ không chỉ được xác định trên cương thổ biên giới về địa lý mà còn độc lập tự chủ trên mọi phương diện của lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo. Thế nên, dù trong cương vị là vị Hoàng đế, hay là Thái thượng hoàng, hay là vị thiền sư, ông luôn khát khao thiết lập dòng thiền mới mang tính cách Đại Việt và thật phù hợp với bối cảnh lịch sử dân tộc đã sang trang và tình hình phát triển của đất nước Đại Việt.
Suy cho cùng sự hoài thai của Trần Thái Tông ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và sự hoằng pháp của ông đã un đúc ra một lớp nguời lãnh đạo của đất nước kế tiếp là Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông và một số tướng lĩnh quan lại, hướng dẫn mọi người dân thực hiện con đường chuyển hóa thân tâm bằng con đường hướng nội, thực hành thiền định ngang qua nếp sống hướng thiện đầy đủ của giới đức, tâm đức, tuệ đức. Chính Thiền hướng nội và biện tâm này mà Trần Thái Tông tạo thành một sức mạnh tổng hợp đoàn kết toàn dân trong đời sống thiết thực xã hội, cũng như đời sống chính trị kinh tế của đất nước. Các mâu thuẫn đối kháng của các mối quan hệ giữa vua tôi, tăng tục, quý tộc và nhân dân lao động được giải quyết một cách êm đẹp. Tất cả chỉ vì niềm tin, vì lý tưởng phụng đạo yêu nước, vì ai cũng muốn thể hiện “ý muốn của mình là ý nuốn của thiên hạ, tấm lòng của mình là tấm lòng của thiên hạ” mà Trần Thái Tông chủ trương thực hiện.
Tóm lại, Trần Thái Tông là một ông vua cũng là nhà triết lý kiêm Thiền sư. Một người vừa có quyền lực, lại vừa có đạo đức và kiến thức, là mẫu người trị nước lý tưởng đồng thời cũng là một Thiền sư tiêu dao vạn vật.
Như một con rồng lớn, hình ảnh kỳ vĩ tuyệt đẹp của Trần Thái Tông vẫn còn tung hoành mãi trên bầu trời lịch sử của dân tộc Việt và Đạo Phật Việt. Trần Thái Tông đời đời bất tử trong lòng lịch sử và sông núi, Trần Thái Tông sống mãi trong sự nghiệp Việt Nam.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua sự nghiên cứu những đánh giá của các nhà Sử học về Trần Thái Tông cho chúng ta thấy: Vua Trần Thái Tông là bậc hùng tài kiêm văn võ, không những đã có công khai sơn phá thạch cho cả một triều đại anh dũng bậc nhất của lịch sử dân tộc, mà còn mở đường cho cả một dòng tư tưởng thiền học riêng biệt Việt Nam phản chiếu cả một giai đoạn lịch sử Phật giáo của dân tộc. Hình ảnh nhập thế sống động và bất hủ với thời gian của Trần Thái Tông đã thể hiện bằng cả một tâm hồn hiền triết, một nhà đạo học điển hình Đông Phương, được cảnh tỉnh về ý nghĩa của đời người bằng nghịch cảnh trớ trêu mà chính tự thân ông đã trải nghiệm. Để rồi vị vua này phải bỏ phắt ngai vàng, tìm vào rừng núi ở ẩn, nhưng lại phải miễn cưỡng trở về. Từ đó, Trần Thái Tông đã đem cả thân tâm phụng sự cho quốc gia xã tắc, đồng thời ông thực hiện cái triết lý sống “Vừa tri vừa hành” để vượt lên sống chết là đại sự ở đời, để “phá hủy cái biết của mắt, mũi, tai, lưỡi, thân và ý làm cái biết thần thông trực giác, chơi cõi khổ biến thành bản thể tự tại.”
Đến đây thì khoa học với nghệ thuật, tri thức với hành động không còn biên giới cách biệt. Cho nên ở Trần Thái Tông chúng ta còn thấy một thi sĩ, một hồn thơ đa cảm thâm trầm. Vì đối với tâm hồn ông, cảnh vật thiên nhiên là hóa thân của tâm linh tối cao, của nguồn sáng tạo bất tuyệt, làm sao cho tình với cảnh đồng điệu. Đấy là cái tâm mà Trần Thái Tông đã tự ngộ, không phải tự ngộ trong trầm tư mặc tưởng, yên lặng vô vi mà là sau khi và trong khi hành động vào sanh ra tử, đánh Bắc dẹp Nam, quên mình cho dân cho nước.
Như thế đủ thấy được vua Trần Thái Tông không những là một đại tư tưởng gia, một bó đuốc trong thiền học Việt Nam mà ông còn là một anh hùng dân tộc với tâm hồn nghệ sĩ. Đây chính là kiểu mẫu nhân bản toàn diện Việt Nam thời nhà Trần, đầu thế kỷ XIII. Điểm chính yếu của chủ nghĩa nhân bản ấy ở tại sự nối Đời với Đạo, đời sống hiện thực với đời sống tâm linh, Nho học với Phật học, hành động với tri thức dựa vào tín ngưỡng về một bản thể tánh linh chung cho các bình diện của sự sống, vừa là nguyên lý dung hòa thực tại với bản ngã tâm lý và giá trị tư tưởng của nhân sinh.
Tóm lại, cuộc sống có đổi thay, lịch sử đã sang trang, nhưng giá trị hiện thực của Phật giáo đời Trần nói chung và nhân vật Trần Thái Tông nói riêng vẫn được tăng thêm qua mỗi lần nhìn lại. Ngày hôm nay, xã hội đang trên đà tiến đến giai đoạn nền kinh tế cực mạnh, thì những giá trị lịch sử của quá khứ cần phải được trân trọng, bảo lưu và giữ gìn cẩn thận. Bởi vì lịch sử là chứng tích sinh động làm cơ sở cho niềm tự hào dân tộc. Tuy nhiên thừa kế di sản của tổ tiên không chỉ đơn thuần giữ gìn của cải vật chất, di tích lịch sử mà quan trọng là biết kế thừa tinh thần và tư tưởng của tổ tiên, tinh hoa của thời đại, cái đó mới thực sự là “Bảo”, là cái đáng xem trọng, đáng để kế thừa và phát huy làm hưng long Đạo pháp, cường thịnh quốc gia.
Trần Thái Tông đã để lại cho đời tấm gương sáng, chính cái đó mới có thể luân lưu trong dòng đời bất tận và luôn tỏa sáng đến muôn ngàn thế hệ hôm nay và mai sau. Tư tưởng đặc sắc của Trần Thái Tông là một thực thể sống, kế thừa và phát huy tư tưởng này hậu bối chúng ta phải là những người chân tu thực học, hết lòng vì Đạo Pháp – Dân tộc. Nhất là Tăng Ni trẻ trong cuộc sống hiện nay, những người thừa đương mạng mạch Phật Pháp, là hàng long tượng của Phật giáo, chúng ta phải sống và tư tưởng như thế nào để xứng với lòng mong mỏi của các bậc cha ông. Tuy nhiên thực hiện trọng trách này không đơn giản, nhưng cũng chẳng phải là không làm được, chúng ta hãy can đảm đứng lên đánh thức những người mê ngủ, kêu gọi thiện tâm của những người tỉnh thức cùng nhau ngồi lại nhìn về một hướng, hiện tại và tương lai Phật giáo. Dĩ nhiên, công việc nào cũng có khó khăn của nó, quan trọng là nghị lực và lòng cương quyết “hãy đốt lên ngọn lửa (dù le lói) còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng đêm”. Muốn xây dựng cái chung tốt đẹp có lẽ mỗi cá nhân chúng ta nên có giây phút nhìn lại mình, để thấy mình như thế nào, đang tư duy ra sao cho cuộc sống hiện tại và tương lai, có như thế mới mong cống hiến phần nào cho sự tồn vinh của xã hội, đất nước và con người./.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đào Duy Anh, Lịch Sử Việt Nam, Từ Nguồn Gốc Đến Thế Kỷ XIX, NXBVHTT.
[2]. Minh Chi, Truyền Thống Văn Hóa Và Phật Giáo Việt Nam, NXB tôn giáo. PL2547-DL 2003.
[3]. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, Các Triều Đại Việt Nam, NXBTN Hà Nội – 1999.
[4]. Thích Phước Đạt, Trần Thái Tông Với Chủ Trương Thiết Lập Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.
[5]. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, NXBVHTT 1999.
[6]. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập I,II,III. NXB Văn Học, Hà Nội – 1994.
[7]. Nguyễn Quang Lê, Từ Lịch Sử Việt Nam Nhìn Ra Thế Giới, NXBVHTT. Hà Nội –2001.
[8]. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (bản kỷ) quyển 5+6.NXBKHXH. Hà Nội –1993.
[9]. Nguyễn Phan Quang – Võ Xuân Đàn, Lịch Sử Việt Nam, Từ Nguồn Gốc Đến Năm 1884. NXBTPHCM.
[10]. Trương Hữu Quýnh, Đại Cương Lịch Sử Việt Nam, Tập I. NXBGD.
[11]. Ngô Thì Sĩ, Việt Sử Tiêu Án, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn – 1960.
[12]. Lê Văn Siêu, Việt Nam Văn Minh Sử Cương, Văn Minh Đại Việt, NXBTN.
[13]. Lê Tắc, An Nam Chí Lược, NXB Thuận Hóa Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây.
[14]. Vân Thanh, Lược Khảo Phật Giáo Sử Việt Nam, PL 2518.
[15]. Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Tập III, NXBTPHCM – 2002.
[16]. Lê Mạnh Thát, Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam, Tập III, NXBTPHCM – 2002.
[17]. Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Thái Tông, NXBTH. TPHCM – 2004
[18]. Thích Mật Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, Minh Đức XB, Sài Gòn 1960.
[19]. Nguyễn Khắc Thuần, Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam, NXBVHTT.
[20]. Nguyễn Khắc Thuần, Đại Cương Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam, Tập III, NXBGD.
[21]. Nguyễn Khắc Thuần, Thế Thứ Các Triều Vua Việt Nam, NXBGD.
[22]. Nguyễn Khắc Thuần, Nước Đại Việt Thời Lý-Trần. NXBTN.
[23]. Nguyễn Đăng Thục, Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, Tập 4, NXBTPHCM – 1992.
[24]. Nguyễn Đăng Thục, Phật Giáo Việt Nam, Mặt Đất XB.
[25]. Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục, Dịch giả Sa Môn Thích Thanh Kiểm, Thành Hội Phật Giáo TPHCM ấn hành – 1992.
[26]. Thích Minh Tuệ, Lược Sử Phật Giáo Việt Nam, Thành Hội Phật Giáo TPHCM ấn hành – 1993.
[27]. Thích Thanh Từ, Thiền Sư Việt Nam, NXBTG – 2004.
[28]. Thích Thanh Từ, Thánh Đăng Lục, NXBTPHCM – 1999.
[29]. Thích Thanh Từ, Thiền Tông Bản Hạnh, NXBTPHCM – 1998.
[30]. Lý Khôi Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo,1988.
[31]. Đại Việt Sử Lược, khuyết danh. NXBTPHCM – 1993.
[32]. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập I, Viện Sử Học Việt Nam, NXBGD – 1998.
[33]. Thiền Học Đời Trần, nhiều tác giả, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành – 1995.
Nguồn: dentutraitim.com
---o0o---