Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế Chúc Thánh tại Quảng Nam

09 Tháng Chín 201612:01 SA(Xem: 4302)
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế Chúc Thánh tại Quảng Nam

Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm tế Chúc Thánh tại Quảng Nam

Thích Giải Nghiêm

 

A. DẪN NHẬP

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Đàng Ngoài-Đàng Trong, một giai đoạn bi ai của lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự phân chia đất nước kéo dài trên 170 năm với 7 lần hưng binh đánh nhau khiến cho muôn dân đồ thán. Cục diện huynh đệ tương tàn của hai nhà Trịnh -Nguyễn chưa kết thúc thì tiếp đến cuộc chiến tranh nông dân Tây Sơn lại nổi lên. Tiếng binh reo, ngựa hý, gươm khua không bao giờ ngớt trên đất mẹ Việt Nam thân yêu trong suốt 200 năm. Thế nhưng, trong suốt hai thế kỷ ấy, Phật giáo tại Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong lại hưng thịnh và phát triển. Cũng thật dễ hiểu, đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, sự phát triển của Phật giáo đã xoa dịu nỗi đau thương của dân tộc do chinh chiến gây nên.

Ở Đàng Ngoài, Phật giáo đã có một quá trình du nhập, định hình nên dễ dàng thuận lợi trong việc ổn định và phát triển. Còn Đàng Trong là một vùng đất mới, được hình thành bởi chủ trương Nam tiến của vua Lê Thánh Tông cho đến các chúa Nguyễn, tuy chưa được ổn định nhưng Phật giáo lại rất hưng thịnh. Tại nơi đây, các dòng thiền được truyền bá và phát triển mạnh mẽ, trong đó có thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.

Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh là một trong những chi nhánh của dòng thiền Lâm Tế tại Trung Hoa. Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh được tổ sư Minh Hải - Pháp Bảo khai sáng vào những năm cuối thế kỷ XVII tại chùa Chúc Thánh tỉnh Quảng Nam. Vì thế, dòng thiền này còn có tên gọi khác là thiền phái Minh Hải - Pháp Bảo.

Kể từ khi tổ sư Minh Hải khai sơn xuất kệ truyền thừa, thiền phái Chúc Thánh đã trải trên 300 năm hình thành và phát triển. Trong suốt chuỗi thời gian song hành cùng dân tộc, các thiền sư thuộc thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đã đem ý chỉ của Tổ truyền bá khắp mọi nơi và góp vào lịch sử Phật giáo Việt Nam những trang sử vàng son châu ngọc. Ngày nay, thiền phái Chúc Thánh có mặt khắp các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam, thậm chí còn phát triển mạnh tại các nước Âu - Mỹ. Với một thiền phái lớn như vậy, nhưng các nhà viết sử Phật giáo Việt Nam lại ít đề cập đến, nếu có cũng chỉ vài nét khái lược. Không muốn bị lãng quên bởi thời gian, nhằm khẳng định lại vị thế và những cống hiến tích cực của thiền phái Chúc Thánh trong dòng sử Phật Việt nên người viết đã chọn đề tài này để làm luận văn ra trường. Đây cũng là một việc làm mang tính chất “Ẩm thủy tư nguyên" của hàng con cháu đối với các bậc Tổ sư trong Tông Môn đã dày công giáo hóa. Đồng thời, cũng là tâm nguyện của người viết thực hiện theo di ý của Bổn Sư, ngõ hầu báo đáp thâm ân giáo dưỡng trong muôn một.

2. NHỮNG TÁC PHẨM NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY:

Từ trước đến nay, đã có một số tác phẩm đề cập đến tổ sư Minh Hải và dòng thiền Chúc Thánh, chẳng hạn như: Việt Nam Phật giáo sử luận (tập II) của Nguyễn Lang, NXB Văn Học Hà Nội,1992; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh,1993; Việt Nam Phật giáo sử lược của Mật Thể, NXB Thuận Hóa - Huế, 1993; Lịch sử Phật giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức, NXB TP.HCM, 1995; Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (giáo trình lưu hành nội bộ) của Chơn Phát, 1998. Trong những tác phẩm này, chỉ có cuốn Lịch sử Phật giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức là đề cập nhiều đến thiền phái Chúc Thánh. Nhưng rất tiếc, những sử liệu ông đưa ra vẫn còn nhiều điều cần phải bàn. Gần đây, thầy Thích Hạnh Thiện với luận văn        “ Thiền sư Minh Hải và tổ đình Chúc Thánh”, đề tài tốt nghiệp Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế - Khóa I (1997 - 2001) cũng rất công phu. Tuy nhiên, Thầy chỉ giới hạn nơi tổ sư Minh Hải và tổ đình Chúc Thánh chứ chưa đi sâu, làm sáng tỏ hơn những đóng góp của thiền phái Chúc Thánh đối với lịch sử Phật giáo Quảng Nam nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. Qua những công trình của người đi trước, chúng tôi xin trân trọng cám ơn và ghi nhận. Bởi lẽ, những tư liệu này giúp ích rất nhiều cho việc tham khảo và cũng là nguyên nhân để chúng tôi thực hiện  luận văn này.

3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

Theo như đề tài của  luận văn, người viết chỉ đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của thiền phái Chúc Thánh tại Quảng Nam.

- Về mặt thời gian: Từ những năm đầu khi ngài Minh Hải-Đắc Trí-Pháp Bảo đời 34 Lâm Tế khai sơn Chúc Thánh cho đến thế hệ truyền thừa đời 43, 44 của thiền phái này. Như vậy, khoảng thời gian này kéo dài từ cuối thế kỷ XVII đến những năm  cuối thế kỷ XX.

- Về mặt không gian: đề tài giới hạn trong phạm vi tỉnh Quảng Nam, là nơi phát tích của thiền phái Chúc Thánh.

- Trong chương 3, người viết xin được tóm lược vài nét về sự truyền thừa, ảnh hưởng của thiền phái Chúc Thánh đối với sinh hoạt của Phật giáo tại các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam cũng như Hải ngoại. Từ đó, nói lên được tầm quan trọng cũng như những đóng góp của dòng thiền này đối với Đạo pháp và Dân tộc.

4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Nguồn tư liệu, đây là vấn đề ưu tư và nan giải của người viết. Bởi lẽ, xưa nay chư tổ của thiền phái với tư tưởng “Nhạn vô lưu tích chi ý” nên không chú trọng đến việc ghi lại sử liệu. Có chăng cũng chỉ còn lại một vài văn bia bằng đá ghi lại tiểu sử các vị tổ hay bia công đức ở rải rác một số chùa trong tỉnh.

Phương pháp nghiên cứu là kết hợp giữa nghiên cứu văn bản và nghiên cứu điền dã. Nghĩa là người viết cố gắng sưu tầm tất cả những sử liệu liên quan đến thiền phái Chúc Thánh nằm rải rác khắp nơi. Đồng thời đi khảo sát thực tế tại một số chùa và tham vấn các vị trưởng lão trong môn phái. Từ đó, hệ thống lại, đối chiếu phân tích để có thể đưa ra một sự chuẩn xác theo yêu cầu của đề tài.

5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.

Đề tài này sẽ có những đóng góp cụ thể như sau:

a. Xác định hành trạng của tổ sư Minh Hải cũng như quá trình khai sơn chùa Chúc Thánh để tránh những hiểu lầm, suy luận không căn cứ của một số vị khi tìm hiểu về tổ sư Minh Hải và thiền phái Chúc Thánh.

b. Phác họa lại quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp tích cực của thiền phái Chúc Thánh đối với Đạo pháp và Dân tộc. Từ đó, khẳng định lại tầm quan trọng và vị trí của thiền phái này trong dòng chảy của lịch sử Phật giáo Việt Nam.

c. Với tinh thần “Ôn cố tri tân”, tìm hiểu về cội nguồn của Tông phong Pháp phái để soi gương cổ đức mà nhìn lại chính mình. Đồng thời, người viết mong rằng, luận văn sẽ là tiền đề sơ khởi để về sau có thể đi sâu hơn nữa trong lãnh vực nghiên cứu này.

Tập luận văn này hoàn thành một phần nào đó đánh giá quá trình 4 năm theo học tại Học Viện Phật Giáo thành phố Hồ Chí Minh. Trong khoảng thời gian này, chúng tôi nhận được rất nhiều sự trợ duyên từ chư Tôn đức Tăng Ni cũng như quý đạo hữu Phật tử. Qua đây, chúng tôi cũng xin chân thành cảm niệm và nhớ mãi những thắng duyên ấy. Đồng thời, người viết xin trân trọng tri ân giáo sư Nguyễn Khắc Thuần đã tận tình hướng dẫn để tập luận văn này được hoàn thành như ý nguyện.

 

Chương 1

 THIỀN SƯ MINH HẢI VÀ SỰ KHAI SÁNG

THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH

 

1.1        BỐI CẢNH QUẢNG NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XVII.

1.1.1 Khái Quát Quá Trình Hình Thành Tỉnh Quảng Nam.

Kể từ độ cha ông mang gươm đi mở nước với chủ trương Nam tiến, cánh chim Lạc đã sải cánh bay mãi vào phương Nam đến tận Hà Tiên-Rạch Giá. Một trong những vùng đất đầu tiên sáp nhập vào bản đồ Đại Việt chính là tỉnh Quảng Nam. Mảnh đất “chưa mưa đã thấm” này đã ghi lại những dấu chân hoang sơ  của người Việt trong suốt thời gian mở mang bờ cõi.

Sau cuộc hôn nhân của Huyền Trân công chúa với vua Chiêm là Chế Mân vào năm 1308, lãnh thổ Đại Việt mở rộng đến Quảng Bình và Quảng Trị. Đến thời nhà Hồ (1400-1407), sau khi thương thảo thì vua Chiêm nộp thêm đất Chiêm Động và Cổ Lũy, tức là Quảng Nam ngày nay. Vua Hồ Quý Ly chia đất này thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa rồi đặt lộ Thăng Hoa thống lãnh bốn châu ấy. Đến thời vua Lê Thánh Tông, Hồng Đức năm thứ 2 đã tổ chức lại hành chánh các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; đồng thời đặt làm Đạo thừa tuyên Quảng Nam. Danh từ Quảng Nam bắt đầu có tên trên bản đồ Đại Việt từ lúc ấy.

Vào thế kỷ XV, Đạo thừa tuyên Quảng Nam có diện tích từ phía Nam Thuận Hóa vào đến núi Thạch Bi ở Phú Yên bao gồm 4 phủ 14 huyện [14,35]. Sau đó, vào năm 1490 đổi lại là xứ Quảng Nam, năm 1520 gọi là trấn Quảng Nam và đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm 2 xứ Thuận-Quảng thì đổi lại là dinh Quảng Nam. Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long đổi lại là Trực lệ Quảng Nam thuộc kinh sư. Đến năm 1832, vua Minh Mạng đổi thành tỉnh Quảng Nam. Sau Cách mạng tháng 8-1945 và đến năm 1975 thì Quảng Nam Đà Nẵng có 12 huyện, 2 thị xã và 1 thành phố. Đến năm 1997 tách tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng thành 2 đơn vị: tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam gồm có 12 huyện và 2 thị xã [14, 84].

Như vậy, kể từ khi sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và có tên gọi Quảng Nam, tính đến nay tỉnh Quảng Nam đã có trên 500 năm lịch sử. Trải qua bao sự hưng phế, thịnh suy của các triều đại cũng như các chính thể và tùy theo sự phân chia địa lý hành chính mà diện tích tỉnh Quảng Nam có khi rộng, khi hẹp. Tuy vậy, Quảng Nam vẫn lại là Quảng Nam chứ không thay đổi tên gọi nào khác và mảnh đất này có vị trí rất đặc biệt trong tiến trình mở nước của  lịch sử dân tộc.

Ngày hôm nay, Quảng Nam được coi như là vùng đất trung tâm của hai đầu tổ quốc. Nhưng cách đây khoảng 3 thế kỷ, Quảng Nam là biên giới phía Nam của Đại Việt, một vùng đất mà mỗi khi nghe nhắc đến thì người dân tại các đạo thừa tuyên Thanh Hóa, Nghệ An thường than thở:

“Dậm chân xuống đất kêu trời

Chồng tôi vô Quảng biết đời nào ra”

Ca dao

Như vậy, Quảng Nam là mảnh đất “đầu sóng ngọn gió” trong những năm đầu thế kỷ XVII và suốt cả cục diện Đàng Ngoài-Đàng Trong. Về địa hình, Quảng Nam có bờ biển chạy dài từ Bắc đến Nam, sau lưng là dãy Trường Sơn sừng sững án ngữ suốt cả một vùng biên giới Việt-Lào. Do Quảng Nam có một vị trí quan trọng nên được các chúa Nguyễn quan tâm lưu ý. Dưới thời các chúa Nguyễn, Quảng Nam được coi như là kinh đô thứ hai sau Thuận Hóa. Vì thế, các chúa Nguyễn đều cho các Thế tử vô trấn nhậm Quảng Nam một thời gian trước khi chính thức nối ngôi Chúa. Về chính trị, Quảng Nam là một trung tâm hành chánh nối liền phủ Chúa đến các tỉnh mới lập ở phía Nam cũng như giao lưu quốc tế. Về quân sự, Quảng Nam có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong việc phòng thủ chánh dinh Thuận Hóa  cũng như mở mang bờ cõi. Thời bấy giờ, dinh trấn Thanh Chiêm-Quảng Nam là căn cứ quân sự thủy lục hùng mạnh nhất của chúa Nguyễn. Từ căn cứ này, thủy quân dễ dàng tiếp cứu Quảng Bình khi có quân Trịnh xâm lấn và ngăn chặn tàu nước ngoài quấy nhiễu vùng biển. Cũng từ đây, bộ quân dễ dàng hành quân hỗ trợ cho các cuộc Nam tiến. Về phương diện ngoại giao, kinh tế, văn hóa thì hải cảng Hội An thuộc dinh Quảng Nam là một trong những thương cảng phồn thịnh bậc nhất Đàng Trong thời bấy giờ. Đây là nơi giao lưu văn hóa giữa các quốc gia trong vùng và các nước phương Tây. Nơi đây là nơi mà các đoàn ngoại giao nước ngoài đến nghỉ chân  để tiếp tục ra Thuận Hóa gặp nhà Chúa. Các nhà văn hóa lớn nước ngoài có ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam như Hòa thượng Thạch Liêm (1633-1704), học giả Chu Thuấn Thủy (1600-1682), giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1593-1660) v.v… đều đến ngụ Hội An một thời gian và đánh giá vùng đất này có tiềm năng về mọi mặt, là cửa ngõ quan trọng của Đại Việt.

 1.1.2 Tình Hình Chính Trị Xã Hội:

Sau cái chết của Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng lo sợ cho số phận của mình nên đến vấn kế Nguyễn Bỉnh Khiêm. Với tám chữ ngắn gọn “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Trạng Trình đã mở cho Nguyễn Hoàng một con đường sống, không những vậy mà còn tạo dựng nên một cơ nghiệp lâu dài về sau.

Tháng 10 năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông phong tước Đoan quận công và cử vào trấn nhậm đất Thuận Hóa. Đến năm 1570, Ông được nhà vua cho kiêm lãnh trấn thủ Quảng Nam. Từ đó, Nguyễn Hoàng ra sức chiêu hiền đãi sĩ, mộ phu khai hoang vùng đất mới này. Với những chính sách đối nội và đối ngoại khôn khéo, chúa Tiên-Nguyễn Hoàng đã dần dần biến hai xứ Thuận-Quảng thành một vùng đất trù phú. Ông được sử sách ca ngợi như sau:     “ Đoan quận công vũ trị vài mươi năm, chính trị khoan hòa, thường ra ân huệ, dùng pháp luật công bằng, răn giới bản bộ, cấm trấp kẻ hung dữ, dân hai trấn cảm mến ân đức, dời đổi phong tục, chợ không hai giá, dân không ăn trộm, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến buôn bán, quân lệnh nghiêm túc, mọi người đều cố gắng, vì vậy không ai dám dòm ngó, dân trong xứ đều được an cư lạc nghiệp” [7,115-116].

Kế nghiệp chúa Tiên-Nguyễn Hoàng (1558-1613), các vị chúa anh minh của họ Nguyễn như: chúa Sãi-Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635); chúa Thượng- Nguyễn Phúc Lan (1635-1648); chúa Hiền-Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) v.v…đã củng cố thế lực của mình, dần dần tạo thành cục diện đối lập với thế lực họ Trịnh ở phương Bắc mà lịch sử gọi là Đàng Ngoài-Đàng Trong. Với chủ trương nhất quán “Nam tiến, Bắc cự”, các chúa Nguyễn đã khiến cho họ Trịnh phải lấy sông Gianh phân chia biên giới, đồng thời lãnh thổ Đàng Trong được mở rộng vào vùng đất phương Nam.

So với Đàng Ngoài, tình hình chính trị xã hội tại Đàng Trong tương đối ổn định hơn. Ở vùng đất mới này, với chính sách khoan dung của Chúa Nguyễn nên xã hội không có sự phân tầng rõ rệt như của họ Trịnh. Khôn khéo trong chính trị đã đưa lại một kết quả khả quan là lãnh thổ vẫn mở rộng vào miền Nam nhưng không có một cuộc xung đột nào đáng kể.

Với chính sách mở rộng, thông thoáng trong ngoại giao, các chúa Nguyễn đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các thương gia nước ngoài vào Đàng Trong buôn bán. Thương cảng Hội An là một trong những trung tâm kinh tế thương mại phồn thịnh thời bấy giờ. Nơi đây, có thể được coi là con đường tơ lụa trên biển nối liền Đại Việt với các nước trong khu vực cũng như các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha v.v…. Sự phồn thịnh ấy được ghi nhận như sau: “Nhân dân đông đúc, cá tôm rau quả tập hợp mua bán suốt ngày. Thuốc Bắc hay các món hàng khác, tìm mua ở Thuận Hóa không có thì người mua vào mua ở đây” [12,154].

Về nông nghiệp, các chúa Nguyễn cho quan lại đứng ra chiêu mộ dân đi khai khẩn cũng như dùng quân đội đồn trú để khai hoang. Điều này đã đem lại một kết quả rất khả quan:“ Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, các chúa Nguyễn đã biến nhiều vùng đất hoang thành ruộng đồng tươi tốt, thành xóm làng trù mật và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân” [22, 286].

Lúc bấy giờ tại Trung Quốc, bộ tộc Mãn Châu từ phương Bắc tràn xuống đánh chiếm Trung Nguyên, lật đổ nhà Minh lập ra vương triều Mãn Thanh. Các cựu thần nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh nên đã bỏ nước ra đi. Mảnh đất Đại Việt trở thành điểm đến của những người Trung Hoa vong quốc. Tại Đàng Ngoài, các chúa Trịnh dè dặt trong vấn đề cho người Hoa cư ngụ. Trái lại, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong ưu đãi để người Hoa định cư và cho họ thành lập từng làng sống theo cộng đồng. Vì thế, các làng Minh Hương được thành lập nhiều nơi ở Huế, Hội An, Gia Định v.v…và những người Hoa đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế cũng như mở mang bờ cõi. Cụ thể như các tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình lập ra Cù Lao Phố, Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến lập ra Mỹ Tho Đại Phố, Mạc Cửu cũng đã đem đất Hà Tiên sáp nhập vô lãnh thổ Đại Việt dưới sự cai trị của chúa Nguyễn.

Tóm lại, từ khi mới thành lập cho đến những năm cuối thế kỷ XVII, tình hình chính trị Đàng Trong tương đối ổn định, lãnh thổ mở rộng về phương Nam, kinh tế phát triển, đời sống người dân được cải thiện. Sự ổn định đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo phát triển, trong đó Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tư tưởng của người dân ở Đàng Trong.

1.1.3 Thái Độ Của Các Chúa Nguyễn Đối Với Phật Giáo.

Kể từ khi vào trấn nhậm hai xứ Thuận-Quảng, chúa Tiên-Nguyễn Hoàng cũng như các Chúa về sau đều là những người sùng mộ Phật pháp. Dưới sự hộ trì của nhà Chúa, Phật giáo tại Đàng Trong phát triển rất mạnh. Tuy rằng các Chúa không lấy Phật giáo làm quốc giáo như thời Lý-Trần, nhưng lại lấy Phật giáo làm chỗ dựa cho chính sách an dân trị quốc. Vì sao các chúa Nguyễn lại để tâm đến việc phát triển Phật giáo? Sau đây là hai nhận xét của các nhà nghiên cứu sử sẽ cho chúng ta thấy được phần nào của vấn đề: “Quá trình tạo lập xứ Đàng Trong cũng là quá trình liên tục tổ chức khẩn hoang. Lực lượng khẩn hoang đông đảo nhất chính là những người nông dân nghèo khổ. Họ không có điều kiện để cho con em tới trường, và với số ít ỏi có điều kiện thì đạo thánh hiền mà Nho gia rất mực tôn kính, trong họ cũng đã dần dần bớt thiêng. Họ tìm đến những gì phù hợp hơn, thiết thực vỗ về và an ủi họ khi đối mặt với vùng đất mới bao la và dữ dội. Họ cần trước hết là những bài học về đức làm người, cụ thể, giản dị và sinh động chứ không phải là (bởi vì cũng khó có thể là) sự nghiền ngẫm thiên kinh vạn quyển với vô số những triết lý cao siêu. Và, Phật giáo với đội ngũ các nhà tu hành giàu nhiệt huyết nhập thế một cách tích cực đã mau chóng đáp ứng được điều này. Ở đâu có đất mới được mở ra là ở đó có chùa mới dựng. Tiếng chuông chùa và tiếng tụng kinh chẳng khác gì lời ru êm ái đối với một xã hội lầm lũi” [21, 156]. Nhà sử học Li Tana cũng nhận xét như sau: “Trong tình hình mới này, các nhà lãnh đạo họ Nguyễn cảm thấy cần phải đưa ra một cái gì đó khác với tín ngưỡng của người Chăm để củng cố các di dân người Việt về mặt tinh thần và tâm lý. Không thể sử dụng Khổng giáo vì những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình. Tuy nhiên, họ Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm ra mộỉt giải pháp hoàn toàn khác biệt với truyền thống của người Việt ở phía bắc. Trong những hoàn cảnh đó, Phật giáo Đại Thừa đã cung cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn. Phật giáo, một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và mặt khác làm lắng động các mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của những người cai trị” [13, 194].

Trở lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chúng ta thấy những điều mà các chúa Nguyễn làm là hoàn toàn phù hợp với tình hình chính trị thực tại. Trong giai đoạn đầu của cuộc Nam tiến, những người Việt di cư sống lẫn lộn với người Chăm. Lúc ấy, văn hóa của người Chăm vẫn còn nhiều và đôi lúc ảnh hưởng đến người Việt. Vì lẽ đó, người Việt phải tìm về với cội nguồn văn hóa của mình để an ủi trong những lúc xa xứ. Lúc này, nếu đem Nho giáo ra áp dụng thì không phù hợp. Bởi lẽ, những người dân Việt đã chán ngán với tư tưởng hủ lậu của Nho giáo đã gò bó họ bao đời. Vả lại Nho giáo hoàn toàn xa lạ với văn hóa người Chăm nên dễ đưa đến sự xung đột tôn giáo, ảnh hưởng đến sự cai trị của nhà Chúa. Chỉ có Phật giáo Đại Thừa mới thỏa mãn được nhu cầu của cả hai bên. Vì Phật giáo Đại Thừa với tư tưởng khoáng đạt không chấp nê sự chính thống hay phản nghịch của chúa Nguyễn. Các nhà sư Phật giáo với sự nhập thế tích cực đã đem lại niềm an lạc trong đời sống tinh thần của những người Việt di cư. Thêm vào đó, Phật giáo Đại Thừa có những sự tương đồng trong việc thờ tự của người Chăm nên họ không cảm thấy bỡ ngỡ khi tiếp cận. Qua đây, ta thấy các chúa Nguyễn dựa vào Phật giáo để trị nước là hoàn toàn phù hợp.

Xuất phát từ nguyên nhân trên, cộng với tâm đạo của mình, các chúa Nguyễn đã trùng kiến và xây dựng rất nhiều chùa trên hai xứ Thuận-Quảng. Năm 1601, chúa Tiên-Nguyễn Hoàng cho trùng tu chùa Thiên Mụ [1,72-73]. Năm 1602, khi đi lạc thành chùa Thiên Mụ, Chúa lại phát nguyện trùng tu chùa Sùng Hóa. Năm 1607, Chúa lập chùa Bửu Châu ở Quảng Nam. Năm 1609, Chúa lập chùa Kính Thiên ở xã Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy-Quảng Bình.

Năm 1665, chúa Hiền-Nguyễn Phúc Tần trùng tu chùa Thiên Mụ. Năm 1667, Chúa lại cho xây dựng chùa Vĩnh Hòa ở cửa biển Tư Dung. Tại lễ khánh thành này, Chúa cho mở đại hội Du Già bảy ngày đêm để tạ ơn Tam Bảo và siêu độ vong linh.

Năm 1688, chúa Nghĩa-Nguyễn Phúc Trăn cho trùng tu chùa Vĩnh Hòa. Đồng thời, Chúa còn nhờ thiền sư Nguyên Thiều về Trung Hoa thỉnh cao tăng, pháp tượng, pháp khí sang hoằng hóa tại Đàng Trong.

Năm 1694, Quốc chúa-Nguyễn Phúc Chu thỉnh Hòa thượng Thạch Liêm sang mở đàn truyền giới tại chùa Thiền Lâm -Thuận Hóa. Quốc Chúa quy y với ngài Thạch Liêm, được đặt pháp danh Hưng Long, hiệu là Thiên Túng đạo nhân.

Qua những sự kiện trên, chúng ta có thể thấy rằng: Ngoài chủ trương vận dụng tư tưởng Phật giáo để trị nước, các Chúa Nguyễn thực sự là những người sùng mộ đạo Phật, tôn trọng chư tăng, làm chùa, tạo tượng, đúc chuông v.v… Chính vì lẽ đó mà các thiền sư từ Trung Hoa đã đến Đàng Trong hoằng hóa. Phật giáo nơi đây thật sự hưng thịnh, đặc biệt là dòng Lâm Tế phát triển rất mạnh tại vùng đất mới này.

1.1.4  Phật Giáo Quảng Nam Trước Khi Thiền Phái Chúc Thánh Ra Đời.

Người Việt đi đến đâu là lập chùa thờ Phật đến đó. Đây là một vấn đề tất yếu, bởi lẽ tinh thần Phật giáo đã thấm sâu vào trong tư tưởng tình cảm của mỗi người dân Việt. Vì thế, kể từ khi đất Quảng Nam thành lập, chúng ta đã thấy có bóng dáng của những ngôi chùa cũng như các vị thiền sư hoằng hóa tại nơi đây.

Những ngôi chùa đầu tiên tại xứ Quảng mà chúng ta được biết là chùa Bửu Châu ở Trà Kiệu do chúa Tiên-Nguyễn Hoàng xây dựng vào năm 1607. Ngôi chùa thứ hai là chùa Chiên Đàn tại Hội An do cộng đồng người Hoa xây dựng vào những năm 1653. Chùa này còn có những tên gọi khác như là chùa Di Đà, Quan Âm hay Minh Hương Phật Tự.

Trong những năm đầu giữa thế kỷ XVII, thiền sư Minh Châu-Hương Hải tu học và hoằng hóa tại Quảng Nam. Tổ tiên Ngài vốn người Nghệ An, theo phò chúa Tiên vào định cư tại phủ Thăng Hoa. Ngài sinh năm 1628, thuở thiếu thời là nho sinh nơi cửa Khổng sân Trình, thi đậu ra làm quan tới chức tri phủ huyện Triệu Phong. Năm 1652, Ngài đến thọ giáo với tổ Lục Hồ-Viên Cảnh và Đại Thâm-Viên Khoan, để rồi 3 năm sau xuất gia với pháp danh Minh Châu-Hương Hải và hiệu là Huyền Cơ -Thiện Giác. Sau đó, Ngài dong thuyền ra đảo Tiêm Bút La (Cù Lao Chàm ngày nay) lập thảo am tu hành. Đạo phong của Ngài đã ảnh hưởng đến mọi tầng lớp nhân dân và được Chúa Nguyễn mời ra Thuận Hóa hoằng pháp: “Một thời gian sau ông đóng thuyền đến Cù Lao Chàm ở ngoài cửa biển Hội An, dựng ba gian am nhỏ để ở và tu trì. Thời gian thiền sư ở đảo này khoảng chục năm. Tiếng tăm tu thiền của ông được nhiều người biết đến. Trong số đó có Hoa Lễ Hầu là Tổng thái giám. Hoa Lễ Hầu tâu với Dũng Quốc Công Nguyễn Phúc Tần (1649 - 1687) về thiền sư và thiền sư được quốc công mời về trụ trì viện Thiền tịnh ở núi Qui Kỉnh. Mẹ của Nguyễn Phúc Tần và 3 con là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều đến quy y cùng đông đảo quan lính.” [15, 14-15]

Rất tiếc là một thời gian sau, chúa Hiền-Nguyễn Phúc Tần nghe theo lời sàm tấu sinh tâm nghi kỵ Ngài. Vì thế, vào tháng 3 năm 1682, Ngài cùng với 50 đồ chúng đóng thuyền vượt biển ra Đàng Ngoài. Đây cũng là một tổn thất lớn cho Phật giáo Quảng Nam lúc bấy giờ.

Vào những năm 1677,  thiền sư Hưng Liên-Quả Hoằng là đệ tử của ngài Thạch Liêm Hòa thượng từ Trung Quốc sang Đàng Trong giáo hóa. Ngài lập đạo tràng tại chùa Tam Thai núi Ngũ Hành tỉnh Quảng Nam và được Quốc chúa -Nguyễn Phúc Chu phong làm Quốc sư.

Năm 1695, sau khi giới đàn tại chùa Thiền Lâm-Thuận Hóa viên mãn, Ngài Thạch Liêm vào Hội An để đón thuyền về lại Quảng Đông. Trong thời gian ngụ lại Hội An, Ngài đã mở đàn truyền giới cho khoảng 300 Tăng tục tại nơi đây:     “ Tăng tục luôn luôn đến xin truyền giới, nhơn nghĩ còn mười ngày nữa mới khai thuyền, bọn chúng đã thành tâm khẩn cầu, tiếc chi khó nhọc hai ba ngày, không thành tựu cho vẹn toàn công đức; bèn truyền rao xa gần, hẹn đến ngày mồng 7 truyền giới.

Đến ngày kỳ hẹn, tứ chúng giới tử hơn 300 người, đến thụ giới hoàn tất. Khiến quốc sư và Hậu đường cấp phát điệp - văn cho họ, mặc khác tư giấy trình Quốc vương xin dùng ấn để đóng kiềm điệp văn.”[12, 158]

Điểm qua một vài dữ kiện, ta thấy lúc bấy giờ Phật giáo đã hình thành tại Quảng Nam. Tuy rằng các ngài Minh Châu, Thạch Liêm giáo hóa nơi đây không lâu nhưng đạo phong của các Ngài ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp nhân dân xứ Quảng. Giới đàn vào ngày mồng 7 tháng 7 năm 1695 tại chùa Di Đà-Hội An đủ để chứng minh rằng người dân xứ Quảng thời bấy giờ phần lớn hướng tâm đến đạo Phật và khát khao tìm cầu giáo pháp. Vì các vị thiền sư đến rồi đi nên những sinh hoạt Phật giáo tại đây thường gián đoạn không được ổn định. Mãi đến khi thiền sư Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh và dòng thiền Chúc Thánh thành lập thì Phật giáo Quảng Nam mới ổn định và phát triển mạnh.

1.2 THIỀN SƯ MINH HẢI VÀ SỰ KHAI SÁNG THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH.

1.2.1 Sự Ra Đời Của Thiền Phái Chúc Thánh.

Như trên đã trình bày, trước khi thiền phái Chúc Thánh ra đời, tại Quảng Nam đã có nhiều vị thiền sư danh tiếng giáo hóa như: Minh Châu, Thạch Liêm, Hưng Liên v.v…Tuy nhiên, các ngài chỉ trụ một thời gian rồi ra đi. Ngài Minh Châu cùng với 50 đệ tử vượt biển ra Đàng Ngoài vào tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682). Có thể sợ bị liên lụy nên không một vị đệ tử nào của Ngài ở lại Quảng Nam tiếp tục giáo hóa. Vì thế, sự ảnh hưởng của Ngài mau chóng phôi phai theo năm tháng.

Kế đến là hai thầy trò ngài Thạch Liêm và Hưng Liên của dòng Tào Động. ngài Thạch Liêm qua chỉ một thời gian ngắn, còn ngài Hưng Liên được phong Quốc sư và trụ tại chùa Tam Thai. Tuy nhiên, sau khi ngài Thạch Liêm về nước và ngài Hưng Liên viên tịch thì sự truyền thừa của dòng Tào Động tại Quảng Nam xem như không còn. Điều này có hai lý do giải thích như sau:

Thứ nhất, ngài Thạch Liêm và Hưng Liên đều là những vị tài giỏi nhưng tầm ảnh hưởng của các Ngài chỉ trong nội vi nhà Chúa và giới lãnh đạo mà thôi, chứ chưa có sự ảnh hưởng lan rộng trong lòng quần chúng Phật tử.

Thứ hai, sau khi ngài Hưng Liên viên tịch, các đệ tử của Ngài không có ai có đủ khả năng kế thừa Ngài để phát triển tông phong. Vì lẽ đó, dòng Tào Động cũng mai một và không còn dấu tích trên đất Quảng.

Sự hoằng hóa của các thiền sư kể trên đã làm cho người dân đất Quảng thấm nhuần Phật pháp. Nhưng các Ngài tùy duyên giáo hóa, chợt đến chợt đi khiến cho người con Phật nơi đây cảm thấy hụt hẩng, thiếu thốn. Chính vì lẽ đó, khi thiền sư Minh Hải quyết định trụ lại Quảng Nam hoằng hóa đã đáp ứng được niềm khát khao mong đợi của đa số tín đồ quần chúng. Nếu như các ngài Minh Châu, Thạch Liêm là người có công xây dựng nền móng thì ngài Minh Hải là người có công kiến tạo tòa nhà Phật giáo Quảng Nam.

1.2.2. Lược Sử Thiền Sư Minh Hải.

Thiền sư Minh Hải (1670-1746) thế danh Lương Thế Ân, sinh vào giờ Tuất, ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670) tại làng Thiệu An, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Thân phụ là Lương Đôn Hậu, thân mẫu là Trần Thục Thận, Ngài là người con thứ hai trong gia đình.

Năm Mậu Ngọ (1678), khi vừa lên 9 tuổi, Ngài được song thân đưa đến xuất gia tại chùa Báo Tư thuộc tỉnh Phước Kiến. Sau một thời gian dài tu học, khi tuổi tròn 20, Ngài được đăng đàn thọ cụ túc giới với pháp danh Minh Hải, tự Đắc Trí, hiệu Pháp Bảo. Như vậy, Ngài nối pháp đời 34 dòng Lâm Tế truyền theo bài kệ của ngài Vạn Phong-Thời Ủy.

 Năm Ất Hợi (1695), Ngài cùng với các ngài Minh Vật-Nhất Tri, Minh Hoằng-Tử Dung, Minh Lượng-Thành Đẳng v.v… trong hội đồng thập sư cùng Hòa thượng Thạch Liêm theo lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn Phúc Chu sang An Nam truyền giới. Phái đoàn xuống thuyền tại bến Hoàng phố và cập bến Hội An vào ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi (1695). Sau đó, đoàn ra Thuận Hóa, được chúa Nguyễn Phúc Chu đón tiếp trọng thể và thỉnh về ngụ tại chùa Thiền Lâm.

Ngày mồng 1 tháng 4 năm Ất Hợi (1695), giới đàn khai mở do Ngài Thạch Liêm làm Đàn đầu Hòa thượng.  Giới đàn truyền các giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát cho 1400 giới tử trong đó có cả các vương hầu khanh tướng. Đặc biệt, chúa Nguyễn Phúc Chu được truyền riêng một đàn giới và Hòa thượng đàn đầu đã ban cho pháp danh là Hưng Long.

Sau khi giới đàn thành tựu, ngày 28 tháng 6 năm Ất Hợi (1695), phái đoàn trở vào lại Hội An để chờ thuyền về nước. Tại Hội An, đoàn trú ở chùa Di Đà        (sau này đổi tên là Chiên Đàn ) và thể theo lời thỉnh cầu của chư tăng cũng như bổn đạo, ngài Thạch Liêm lập đàn truyền giới cho 300 giới tử. Ngày 19, đoàn rời Hội An ra Cù Lao Chàm, lên thuyền chờ gió. Ngày 30 thuyền nhổ neo nhưng bị nghịch gió nên phải trở lại Hội An. Ngày 12 tháng 10, chúa Nguyễn mời ngài Thạch Liêm trở lại Phú Xuân lập đàn cúng Phật truyền giới một lần nữa tại chùa Thiên Mụ. Sau đó đến ngày 24 tháng 6 năm Bính Tý (1696) ngài Thạch Liêm cùng với phái đoàn trở về Quảng Đông và không qua nữa.

Sau khi ngài Thạch Liêm về nước, một số vị trong phái đoàn ở lại An Nam trác tích khai sơn hoằng hóa như ngài Minh Hoằng-Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tông ở Thuận Hoá, ngài Minh Lượng-Thành đẳng khai sơn chùa Vạn Đức-Hội An và ngài Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm Phô-Hội An.

Từ những ngày đầu tiên ở nơi mảnh đất đầy cát bụi này, Ngài chỉ lập một thảo am để tịnh tu phạm hạnh. Dần dần hương giới đức của Ngài lan tỏa khắp mọi nơi, ảnh hưởng đạo đức đến người dân phố Hội và các vùng phụ cận nên đồ chúng ngày một quy ngưỡng tham học.

Sau gần 50 năm sang An Nam hoằng hóa, đến ngày mồng 7 tháng 11 năm Bính Dần (1746), Ngài  gọi đồ chúng đến dặn dò và đọc kệ phú chúc:

   原    浮    法    界    空

   真    如    無    性    相

   若    了    悟    如    此

   眾    生    與    佛    同

Âm:

Nguyên phù pháp giới không

Chơn Như vô tánh tướng

Nhược liễu ngộ như thử

Chúng sanh dữ Phật đồng  [18, 19]

Sau khi phú chúc, Ngài thâu thần thị tịch, trụ thế 77 tuổi. Đồ chúng cung thỉnh nhục thân Ngài nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Chúc Thánh.

1.2.3 Thiền Sư Minh Hải  Với Việc Khai Sáng Thiền Phái Chúc Thánh.

Sau khi quyết định trụ lại Hội An để hoằng hóa, tổ Minh Hải khai sơn chùa Chúc Thánh. Để việc truyền thừa có quy củ dài lâu, Ngài xuất kệ truyền pháp như sau:

   傳 法 名 偈                                             傳 法 字 偈

明 實 法 全 彰                                          得 正 律 為 宗

印 真 如 是 同                                          祖 道 解 行 通

祝 聖 壽 天 久                                          覺 花 菩 提 樹

祈 國 祚 地 長                                          充 滿 人 天 中

 

   Truyền pháp danh kệ:                Truyền pháp tự kệ:

Minh thiệt pháp toàn chương                   Đắc chánh luật vi tông

Ấn chơn như thị đồng                              Tổ đạo giải hạnh thông

Chúc thánh thọ thiên cửu                        Giác hoa bồ đề thọ

Kỳ quốc tộ địa trường                              Sung mãn nhân thiên trung.

Bài kệ này bao gồm bốn mươi chữ và được chia ra làm hai phần. Phần đầu gồm 4 câu đầu được dùng để đặt pháp danh và phần còn lại để dặt pháp tự. Ngài Minh Hải có pháp danh chữ Minh và pháp tự là chữ Đắc. Tiếp đến, hàng đệ tử của Ngài theo thứ tự có pháp danh chữ Thiệt và pháp tự chữ Chánh như : Thiệt Diệu-Chánh Hiền, Thiệt Dinh-Chánh Hiển, Thiệt Đăng-Chánh Trí v.v…Chính sự truyền thừa có thứ tự như vậy nên chúng ta dễ dàng nhận ra vị thiền sư nào là đệ tử ngài Minh Hải. Bởi vì, cùng thời với Ngài, có rất nhiều vị thiền sư thuộc đời 34 dòng Lâm Tế với pháp danh chữ Minh theo bài kệ của ngài Vạn Phong-Thời Ủy hoằng hóa tại Đàng Trong. Các vị này cũng cho đệ tử pháp danh chữ Thiệt theo câu kệ: “Hành Siêu Minh Thiệt Tế”. Nếu không có pháp tự bằng chữ Chánh đứng đầu thì chúng ta khó phân biệt vị nào thọ giáo với thiền sư Minh Hải. Đây là điểm đặc biệt của dòng Chúc Thánh mà các thiền phái khác không có.

Thiền phái Chúc Thánh là lấy theo tên ngôi chùa Chúc Thánh do tổ sư Minh Hải khai sơn. Từ đây, sữa Pháp lại được khơi dòng tại đất Quảng, lan tỏa khắp các tỉnh thành, góp phần rất lớn trong sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp.

Về nội dung của bài kệ, chúng ta có thể hiểu như sau:

Ở bài kệ truyền pháp danh, hai câu đầu là nói về chân đế. Nghĩa là các pháp xưa nay vốn dĩ sáng tỏ tròn đầy, cùng với thể tánh Chơn như không có sự sai biệt. Hai câu sau nói về tục đế, cầu cho Thánh quân sống lâu muôn tuổi và vận nước được dài lâu muôn thuở.

Ở bài kệ truyền pháp tự, hai câu đầu mang ý nghĩa lấy giới luật làm tông, nên tuyên dương giới luật. Ban đầu, tổ Minh Hải đặt là “Đắc chánh luật vi tông”, nhưng về sau, vì kỵ tên húy của vua Thiệu Trị [18, 17] nên có một số vị trại chữ Tông lại chữ Tuyên (宣)như Chương Tư-Tuyên Văn; Chương Quảng-Tuyên Châu v.v.. hoặc chữ Tôn (尊) như Chương Đạo- Tôn Tùng; Chương Lý- Tôn Sư v.v…. Còn nội dung của hai câu cuối nói đến sự chứng ngộ của hành giả.

Về ý nghĩa của hai chữ Chúc Thánh, chúng ta có thể hiểu hai nghĩa như sau:

- Đứng về mặt Đạo pháp, là một người trưởng tử của Như Lai, chư tổ thuở quá khứ cũng như các thế hệ chúng ta ngày nay, ai ai cũng muốn cho chánh pháp cửu trụ thế gian để lợi lạc nhân quần xã hội. Ở đây, thiền sư Minh Hải lấy hai chữ Chúc Thánh để đặt tên cho ngôi chùa cũng có ý nghĩa như vậy. Thánh ở đây có nghĩa là Thánh đạo, Ngài muốn Thánh giáo luôn luôn tồn tại ở thế giới Ta-bà này để xoa dịu những nỗi thống khổ của kiếp nhân sinh.

- Đứng về mặt Dân tộc, mỗi người chúng ta ai cũng muốn có những vị vua anh minh cai trị đất nước, đem lại cảnh hòa bình an lạc cho muôn dân. Vì thế, Chúc Thánh ở đây còn có nghĩa là Chúc cho Thánh quân thọ lâu muôn tuổi để trị vì thiên hạ. Bởi lẽ, giai đoạn tổ Minh Hải qua Đàng Trong là giai đoạn các chúa Nguyễn anh minh đang trị vì và Đàng Trong đang thời hưng thịnh. Đồng thời, các chúa Nguyễn là những vị nhiệt tâm hộ trì Phật giáo. Họ chính là những vị hộ pháp đắc lực cho chư tăng trong sự nghiệp  truyền bá chánh pháp.

Qua ý nghĩa hai chữ Chúc Thánh, chúng ta thấy được nơi đây có sự kết hợp hai yếu tố Đạo pháp và Dân tộc. Với hai chữ ngắn gọn, thiền sư Minh Hải đã gói trọn, dung hòa được cả hai yếu tố quan trọng này. Đồng thời, qua bài kệ truyền pháp, chúng ta thấy được sở ngộ, sở tu của tổ Minh Hải. Từ sự chứng ngộ siêu xuất đó, ngày nay thiền phái Chúc Thánh phát triển khắp các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam và sang tận Âu-Mỹ.

1.2.4. Một Vài Nghi Vấn Về Hành Trạng Của Tổ Minh Hải.

Cho đến nay, hành trạng của tổ sư Minh Hải còn có nhiều vấn đề vẫn chưa được làm sáng tỏ. Chẳng hạn tổ xuất gia với tổ sư nào tại chùa Báo Tư-Trung Quốc? Đây là vấn đề quan trọng mà vẫn còn nằm trong bức màn bí mật của thời gian. Ở đây, người viết xin được làm rõ một vài nghi vấn về hành trạng của Tổ mà một số sách sử đã ghi nhầm. Tựu trung xoay quanh ba nội dung chính sau:

a. Tổ Minh Hải có phải là đệ tử của tổ sư Nguyên Thiều?

Theo Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nguyễn Hiền Đức cho rằng tổ Minh Hải là đệ tử ngài Nguyên Thiều? [5, 8] Nhận định ấy có chỗ chưa thỏa đáng. Chúng ta  xác định lại vấn đề qua niên đại của tổ Nguyên Thiều và tổ Minh Hải.

Tổ sư Nguyên Thiều (1648-1728) sinh ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (1648) tại huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngài xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Báo Tư với thiền sư Bổn Khao-Khoáng Viên. Năm Đinh Tỵ (1677), Ngài theo thuyền buôn sang phủ Quy Ninh lập chùa Thập Tháp. Còn tổ sư Minh Hải, Ngài sinh ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670), tại làng Thiệu An, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến. Ngài xuất gia tại chùa Báo Tư khi lên 9 tuổi, tức là năm Mậu Ngọ (1678). Như vậy, khi ngài Minh Hải mới nhập chúng tu học thì ngài Nguyên Thiều đã sang An Nam rồi. Vì thế, ta có thể khẳng định ngài Minh Hải không phải là đệ tử của tổ Nguyên Thiều, mà có thể Ngài là sư điệt gọi tổ Nguyên Thiều bằng sư bá hoặc sư thúc.

b. Có phải tổ sư Minh Hải khai sơn chùa Thiên Ấn - Quảng Ngãi?

Cũng theo Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nguyễn Hiền Đức cho rằng: vào những năm 1694-1695, tổ Nguyên Thiều và tổ Minh Hải có liên quan đến vụ nổi loạn của Linh Vương và Quảng Phú tại Bình Định và Quảng Nam. Vì thế, tổ Minh Hải vào núi Thiên Ấn đổi pháp danh là Pháp Hóa và khai sơn chùa Thiên Ấn; còn tổ Nguyên Thiều  vào Đồng Nai đổi pháp danh là Siêu Bạch và khai sơn chùa Kim Cang [5,19]. Điều này có đúng không? Chúng ta có thể phân tích qua các yếu tố sau:

- Những năm 1694-1695, tổ sư Minh Hải mới qua An Nam thì làm sao dính líu đến vụ nổi loạn của Linh Vương. Lại nữa, nếu cả hai vị tổ sư đều dính líu đến Linh Vương thì làm sao ngài Nguyên Thiều được chúa Nguyễn Phước Trú sắc ban thụy hiệu là “Hạnh đoan thiền sư”? Và liệu rằng, hàng đệ tử của tổ Minh Hải như Thiệt Diệu, Thiệt Dinh, Thiệt Thọ v.v.. có thể yên tâm tu học duy trì Chúc Thánh trong khi bổn sư đi lánh nạn? Chúng ta biết rằng, dưới chế độ phong kiến, một người làm loạn, ba họ bị tru di. Huống gì người thầy làm loạn mà học trò sống an ổn như vậy sao? Vì thế, đây là lý do thứ nhất chứng minh ngài Minh Hải không phải là tổ khai sơn Thiên Ấn.

- Theo bi ký chùa Thiên Ấn, thiền sư khai sơn thuộc đời 35 dòng Lâm Tế, có pháp danh Phật Bảo, tự là Pháp Hóa, thế danh Lê Diệt. Trên bia mộ có ghi rõ “Tự Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Ngũ Thế Pháp Hóa húy thượng Phật hạ Bảo Hòa Thượng Chi Tháp” Như vậy, vị tổ sư khai sơn chùa Thiên Ấn thuộc đời 35 truyền theo bài kệ của ngài Đạo Mân-Mộc Trần. Còn vấn đề thiền sư Thiệt Úy- Khánh Vân, đệ tử tổ Minh Hải kế thế thiền sư Phật Bảo-Pháp Hóa trụ trì chùa Thiên Ấn cũng là lẽ tự nhiên. Thiền sư Thiệt Úy sau khi thọ giáo với tổ Minh Hải ở Chúc Thánh thì về quê nhà tại Mộ Đức lập chùa Liên Tôn. Đến khi ngài Phật Bảo viên tịch, vì không có đệ tử kế thừa nên ngài Thiệt Úy lên kế vị trụ trì Thiên Ấn. Từ đó, chùa Thiên Ấn truyền thừa theo dòng Chúc Thánh và trở thành tổ đình của chi phái Chúc Thánh tại tỉnh Quảng Ngãi.

Qua hai luận giải trên, chúng ta đi đến kết luận rằng: tổ sư Minh Hải-Pháp Bảo và tổ sư Phật Bảo-Pháp Hóa là hai và tổ Minh Hải không phải là người khai sơn tổ đình Thiên Ấn như xưa nay mọi người ngộ nhận.

c. Về hai bài kệ truyền pháp của thiền sư Minh Hải:

Ngoài bài kệ truyền pháp tại Quảng Nam, chư tăng môn phái Chúc Thánh tại Bình Định cũng có một bài kệ truyền pháp như sau:

    傳 法 名 偈                                             傳 法 字 偈

明 實 法 全 彰                                            得 正 律 為 宗

 印 真 如 是 同                                           祖 道 解 行 通

萬 有 唯 一 體                                            覺 花 圓 境 智

觀 了 心 境 空                                            充 滿 利 人 天

戒 香 成 聖 果                                            恆 沙 諸 法 界

覺 海 湧 蓮 花                                            濟 度 等 含 生

信 進 生 福 慧                                            周 圓 體 相 用

行 智 解 圓 通                                            觀 照 剎 塵 中

影 月 清 中 水                                            去 來 當 一 念

雲 飛 日 去 來                                            能 所 豈 非 他

達 悟 微 妙 性                                            心 境 誰 邊 取

弘 開 祖 道 長                                            真 望 總 皆 如

Truyền pháp danh kệ:                             Truyền pháp tự kệ

Minh thiệt pháp toàn chương                   Đắc chánh luật vi tông

Ấn chơn như thị đồng                              Tổ đạo giải hạnh thông

Vạn hữu duy nhất thể                             Giác hoa viên cảnh trí

Quán liễu tâm cảnh không                                   Sung mãn lợi nhân thiên

Giới hương thành thánh quảũ                   Hằng sa chư pháp giới

Giác hải dõng liên hoa                             Tế độ đẳng hàm sanh

Tín tấn sanh phước huệ                          Châu viên thể tướng dụng

Hạnh trí giải viên thông                           Quán chiếu sát trần trung

Ảnh nguyệt thanh trung thủy                    Khứ lai đương nhất niệm

Vân phi nhật khứ lai                                            Năng sở khởi phi tha

Đạt ngộ vi diệu tánh                                           Tâm cảnh thùy biên thủ

Hoằng khai tổ đạo trường.                                   Chơn vọng tổng giai như.

Nguyên nhân xuất hiện của bài kệ thứ hai này như sau: vào năm 1967, có một học sinh gốc người Hoa đến nộp đơn học tại trường trung học Bồ Đề Nguyên Thiều. Qua lý lịch thì được biết học sinh này có quan hệ thân tộc với tổ Nguyên Thiều. Theo sự yêu cầu của thầy giám học Thích Đổng Quán, gia đình em này cung cấp một số tư liệu về gia phả tổ Nguyên Thiều, trong đó có bài kệ này.[19,34] Từ đó, chư tăng dòng Chúc Thánh tại Bình Định sau chữ Đồng thì truyền xuống chữ Vạn chứ không truyền xuống chữ Chúc. Như vậy, giữa hai bài kệ thì bài nào đích thực là của tổ Minh Hải phú chúc?

Xét nội dung hai bài kệ truyền pháp thì cũng không có gì sai lệch. Nội dung của bài kệ tại Bình Định nói về vạn pháp đều quy về một thể, đó chính là tánh không. Khi nào quán chiếu thấy rõ tâm không, pháp không thì đạt thành chánh quả. Ở đây, nhấn mạnh đến trí tuệ Bát Nhã, nói đến bổn tánh vắng lặng trong mỗi chúng sanh, chỉ vì vọng niệm nên trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Giống như mặt trăng bị mây mờ che khuất, khi nào mây tan thì mặt trăng lại lồng lộng tỏa sáng. Tuy nhiên, cả hai bài kệ đều lấy giới luật làm tông, tuyên dương giới luật. Đây chính là điều thiết yếu để đoạn trừ vô minh, bước vào dòng Thánh.

Xét về mặt lịch sử truyền thừa, bài kệ tại tổ đình Chúc Thánh-Quảng Nam được truyền bá rộng rãi hơn. Còn bài kệ tại Bình Định mới phát hiện và được áp dụng truyền thừa trong phạm vi chư tăng môn phái Chúc Thánh tại Bình Định. Như vậy, chúng ta có thể giả định rằng: lúc đầu tổ sư Minh Hải làm bài kệ như Hòa thượng Thích Đổng Quán tìm được sau này, nhưng khi truyền pháp, để phù hợp với tên ngôi chùa mình khai sơn cũng như chúc cho minh chúa sống lâu để hộ pháp an dân nên Ngài mới đổi lại như vậy. Đây cũng là phương tiện quyền xảo trong việc hoằng pháp lợi sanh. Nhưng có một điều chúng ta thắc mắc: tại sao bài kệ của tổ Minh Hải không nằm trong gia phả của dòng họ Ngài mà lại nằm trong gia phả tổ Nguyên Thiều? Mong rằng, về sau có những công trình nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề này.

Như vậy, cả hai bài kệ đều do thiền sư Minh Hải lưu xuất cả. Tuy nhiên, về sự truyền thừa thì bài kệ tại tổ đình Chúc Thánh-Hội An có thời gian lâu dài và tầm ảnh hưởng rộng rãi hơn bài kệ tại Bình Định. Dù chư tăng các thế hệ về sau được đặt pháp danh với chữ Chúc, chữ Thánh hay chữ Vạn, chữ Hữu cũng đều thuộc pháp phái Chúc Thánh-Minh Hải tổ sư. Tất cả đều một tâm nguyện phụng sự Đạo pháp và Dân tộc theo như tinh thần của chư tổ từ xưa đến nay.

Tóm lại, kể từ khi tổ Minh Hải khai sơn, xuất kệ truyền thừa, tính đến giữa và cuối thế kỷ XVIII, thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đã có sự hình thành rõ nét. Sự hình thành này là nền tảng vững chắc để dòng Chúc Thánh phát triển mạnh về sau, góp phần then chốt cho sự phát triển của Phật giáo xứ Quảng.

Chương 2

 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH TẠI QUẢNG NAM

 2.1. NGUYÊN NHÂN PHÁT TRIỂN.

 Kể từ ngày tổ sư Minh Hải khơi nguồn đạo mạch, đến cuối thế kỷ XVIII các chùa tại tỉnh Quảng Nam đều do các thiền sư dòng Chúc Thánh đảm nhiệm giáo hóa. Không những thế, tầm ảnh hưởng của dòng Chúc Thánh nhanh chóng lan rộng vào các tỉnh phía Nam như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Định.

Với thời gian chưa tới 100 năm mà thiền phái Chúc Thánh phát triển nhanh chóng như vậy? Chúng ta có thể lý giải vấn đề này qua một số nguyên nhân sau:

- Gần 50 năm hoằng hóa, đạo phong của tổ Minh Hải đã thấm nhuần, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của người dân xứ Quảng. Quan trọng hơn, Ngài đã đào tạo một thế hệ kế thừa xứng đáng, đủ khả năng kế nghiệp Ngài xiển dương đạo pháp và phát triển tông môn. Đời thứ 2 của dòng Chúc Thánh có các ngài Thiệt Dinh, Thiệt Diệu, Thiệt Thọ, Thiệt Đạo, Thiệt Mẫn, Thiệt Gia, Thiệt Lương v.v.. hoằng hóa tại Quảng Nam; Thiệt Úy, Thiệt Uyên hoằng hóa tại Quảng Ngãi; Thiệt Đăng, Thiệt Thuận hoằng hóa tại Bình Định. Đến thế hệ thứ 3 có các ngài Pháp Liêm, Pháp Chuyên, Pháp Ấn, Pháp Diễn, Pháp Tịnh, Pháp Tràng v.v…đều nhiệt tâm truyền bá chánh pháp làm cho Phật giáo Quảng Nam thêm hưng thịnh, đồng thời tông môn Chúc Thánh nhanh chóng phát triển.

- Các thiền sư dòng Chúc Thánh đã đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân nên dòng thiền này nhanh chóng phát triển. Như chúng ta biết, Hội An là chiếc nôi khai sinh của dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Lúc bấy giờ Hội An là một thương cảng trù phú nên có nhiều người ngoại quốc đến sinh sống làm ăn, trong đó cộng đồng người Hoa chiếm đại đa số. Với một lực lượng kế thừa hùng hậu, các thiền sư dòng Chúc Thánh đã đáp ứng được cả hai cộng đồng người Việt lẫn người Hoa. Các ngài Thiệt Diệu, Thiệt Thọ, Thiệt Mẫn là người Hoa nên ngụ tại Chúc Thánh đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng người Hoa. Còn thiền sư Thiệt Dinh ra khai sơn Phước Lâm với sự hổ trợ của các ngài Thiệt Đạo, Thiệt Gia đã thu hút sự quy ngưỡng cũng như đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của người Việt. Như vậy, trong hàng đệ tử xuất gia của tổ Minh Hải có cả người Hoa và người Việt. Các vị người Hoa ở Chúc Thánh và các vị người Việt ở Phước Lâm tạo thành hai trung tâm hoằng pháp đầu tiên của dòng Chúc Thánh.

- Với tư tưởng phóng khoáng của tông Lâm Tế, cộng với nếp sống giản dị, thanh bần, các thiền sư dòng Chúc Thánh gần gũi với nhân dân nên dễ dàng tiếp cận đi sâu vào lòng quần chúng. Thời bấy giờ, dân Quảng Nam phần lớn là dân di cư từ Bắc vào. Từ lâu họ đã sống trong tư tưởng gò bó của Nho giáo nên rất chán ngán. Nay có một trào lưu mới với những tư tưởng phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết nên họ nhanh chóng tiếp nhận. Sự giản dị trong cách sống, chân tình trong giao tiếp của các thiền sư nơi đất Quảng tạo nên sự gần gũi thân mật dễ dàng hòa nhập cùng cộng đồng.

Với những nguyên nhân trên, dòng thiền Chúc Thánh nhanh chóng phát triển tại Quảng Nam. Không những thế, thiền phái này còn phát triển và ảnh hưởng đến sự sinh hoạt của các tỉnh phụ cận.

2.2. HOẠT ĐỘNG CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH.

2.2.1. Phương Pháp Tu Tập Và Tôn Chỉ Hành Đạo.

a. Phương pháp tu tập.

Sau Lục tổ Huệ Năng, thiền tông Trung Quốc phát triển mạnh và hình thành năm thiền phái. Danh xưng và tính cách tu tập của năm thiền phái được tóm gọn qua bài kệ sau:

Lâm Tế thống khoái

Quy Ngưỡng cẩn nghiêm

Tào Động tế mật

Vân Môn ký cổ

Pháp Nhãn tường minh

Thiền phái Lâm Tế do thiền sư Lâm Tế-Nghĩa Huyền (?-867) sáng lập tại Trung Hoa. Sự truyền thừa của tông Lâm Tế đến đời 21 thì thiền sư Vạn Phong-Thời Ủy chùa Thiên Đồng xuất kệ “Tổ Đạo Giới Định Tông”. Đến đời 31, ngài Đạo Mân-Mộc Trần chùa Thiên Khai xuất kệ “Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên”. Khi các tổ Nguyên Thiều, Minh Hải, Minh Lượng sang An Nam thì tông Lâm Tế phát triển mạnh ở Đàng Trong. Ngài Nguyên Thiều thuộc đời 33 truyền theo bài kệ của ngài Vạn Phong-Thời Ủy, phái này phát triển mạnh ở Bình Định với tổ đình chính là chùa Thập Tháp. Ngài Minh Lượng đời 34 truyền theo bài kệ của ngài Đạo Mân- Mộc Trần, phái này phát triển ở Gia Định với tổ đình Giác Lâm là trung tâm. Ngài Minh Hải đời 34 biệt xuất bài kệ lập phái Lâm Tế Chúc Thánh phát triển tại Quảng Nam và chùa Chúc Thánh là tổ đình chính. Đời 35 có ngài Thiệt Diệu - Liễu Quán xuất kệ truyền thừa nên pháp phái Lâm Tế Liễu Quán được hình thành và phát triển tại Thuận Hóa với tổ đình Thiền Tôn.

Trở lại với môn phái Lâm Tế Chúc Thánh, cho đến nay chúng ta chưa có nguồn tư liệu nào ghi lại sự tu tập và những thiền ngữ của thiền sư Minh Hải. Tuy nhiên, đây là chi phái của tông Lâm Tế nên sự tu tập của các thiền sư dòng Chúc Thánh cũng không ra ngoài tông chỉ của phái này. Qua bài thuật sự tích của thiền sư Pháp Chuyên, đời 36 Lâm Tế Chúc Thánh, chúng ta phần nào thấy được sự tu tập của các thiền sư thời bấy giờ:“Ngài ngày ăn một bữa, xa lìa tài sắc, không màng đến chuyện thế sự, thường xem kinh luật, tinh tấn cầu đạo, tụng chú Đại Bi một tạng, đảnh lễ Tam Thiên, Vạn Phật, Hồng Danh mỗi loại năm lần, đem thiện căn này cầu cho tội chướng tiêu trừ, sớm  thành Phật đạo”. [24, 5]

“Ngài đảnh lễ Bổn sư và thưa:

- Người xưa có nói: kẻ học đạo không thông lý, thân sau phải hoàn trả của tín thí. Thế nào là thông lý? Nguyện Thầy chỉ dạy!

Thầy bèn trả lời:

- Tùy theo pháp mà tu hành, cùng tột của sự thì đến lý, nóng lạnh tự biết, tuyệt đường ngôn ngữ.

Lại hỏi rằng:

- Trong luật có dạy: Người xưa tâm địa chưa thông, không quản ngàn dặm tìm thầy học đạo. Việc ấy như thế nào?

Thầy lại dạy:

- Người xưa xuất gia không màng danh lợi, duy chỉ cầu đến chỗ rốt ráo của Đạo, đoạn trừ sanh tử, tâm địa như vậy, thấy rõ tự tánh thì thành Phật.

Bổn sư biết Ngài là bậc có căn khí Đại thừa, đạo niệm siêu quần xuất chúng, bèn ấn chứng hiệu là Diệu Nghiêm.”[24, 7].

Qua đoạn trích về sự tu hành của thiền sư Pháp Chuyên, một thiền sư danh tiếng thuộc thế hệ thứ 3 của dòng Chúc Thánh, ta có thể thấy được sự tu tập của các vị thiền sư lúc bấy giờ là kết hợp hài hòa giữa Thiền-Tịnh, theo chủ trương Thiền-Tịnh song tu của thiền sư Vĩnh Minh-Diên Thọ (904-975). Nghĩa là các thiền sư tụng đọc kinh văn, lạy Phật sám hối để cầu tội chướng tiêu trừ theo pháp môn Tịnh Độ. Đồng thời, thực tập thiền định, tham thoại đầu, vấn đạo để cầu thầy ấn chứng sở đắc theo truyền thống Thiền tông.

Như vậy, với tư tưởng “Lâm Tế thống khoái”, các thiền sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh có pháp môn tu phù hợp với điều kiện xã hội. Sự vận dụng kết hợp Thiền-Tịnh song tu đã đem lại sự lợi lạc cho hành giả và tha nhân. Về tự thân, các thiền sư đạt được sự an lạc do thiền định đem lại, thân tâm an lạc, nội lực tăng trưởng nên thấy rõ thật tướng của mọi sự, mọi việc. Với pháp môn Tịnh Độ, các Ngài đã giúp cho dân chúng ổn định tinh thần, có một niềm tin hướng về Tam Bảo. Đặc biệt, với lâm lý của những người mới di cư vào vùng Quảng Nam lúc bấy giờ, tín ngưỡng Di Đà, quy kính Tịnh Độ là chỗ dựa tinh thần vững chắc, an ổn nơi mảnh đất đầy sơn lam chướng khí này.

b. Tôn chỉ hành đạo.

Phật giáo phát triển  đến đâu là mang tinh thần hòa bình đến đó. “Hộ quốc an dân” là một tôn chỉ xuyên suốt trong lịch sử 2000 năm truyền đạo trên đất Việt. Tôn chỉ của thiền phái Chúc Thánh cũng không ra ngoài nguyên tắc bất di bất dịch ấy.

Ngay từ những ngày đầu truyền pháp, thiền sư Minh Hải cũng đã phần nào khẳng định tôn chỉ ấy qua hai câu kệ sau:

Chúc thánh thọ thiên cửu

Kỳ quốc tộ địa trường.

Ở ý nghĩa chúc thánh quân sống lâu và vận nước vững bền này, chúng ta thấy có sự gắn liền giữa Đạo pháp và Dân tộc. Đây chính là chất liệu kết nối tăng sĩ với các tầng lớp nhân dân và đạo Phật dễ dàng đi sâu vào quần chúng.

Ngoài việc tu hành chứng ngộ tâm linh, các thiền sư dòng Chúc Thánh chủ trương nhập thế tích cực với tinh thần vô nhiễm. Điều này được thể hiện qua cuộc đời của thiền sư Pháp Liêm, thế hệ thứ 3 dòng Chúc Thánh. Sau khi xuất gia, Ngài về quê đăng lính đánh giặc lập nhiều công to được phong chức chỉ huy. Nhưng Ngài từ bỏ tất cả, phát nguyện quét chợ Hội An suốt 20 năm. Về sau, Ngài được triều đình và dân chúng suy tôn hiệu là Minh Giác thiền sư, thỉnh về kế nghiệp trụ trì tổ đình Phước Lâm. Tiếp nối gương của bậc cổ đức, các thế hệ tăng đồ dòng Chúc Thánh luôn nhiệt tâm tham gia vào các phong trào đấu tranh đòi độc lập cho tổ quốc và tự do cho Dân tộc. Thiền sư Vĩnh Gia, thế hệ thứ 6 dòng Chúc Thánh là một bậc cao tăng được triều đình Huế kính trọng, thường thỉnh ra kinh đô thuyết giảng. Tuy nhiên, không vì sự kính trọng, ưu ái ấy mà Ngài quên đi nổi đau mất nước. Ngài đã âm thầm cố vấn cho nhà chí sĩ Trần Cao Vân và Thái Phiên trong phong trào Duy Tân. Các thiền sư chùa Cổ Lâm huyện Đại Lộc đã che dấu Trần Cao Vân một thời gian dài. Nhà yêu nước họ Trần cũng đã có một thời tu hành tại đây với pháp danh Như Ý [14, 388].

Tinh thần nhập thế của các tăng sĩ dòng Chúc Thánh lại một lần nữa được thể hiện qua phong trào đấu tranh đòi tự do bình đẳng tôn giáo dưới chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Điểm cao của tinh thần ấy là sự hy sinh cao cả của Hòa thượng Thích Quảng Đức, Ngài đã thiêu thân cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn. Tâm nguyện Bồ tát của Ngài đã để lại trái tim bất diệt mà ngàn đời Tăng Ni kính ngưỡng. Bồ tát Quảng Đức pháp danh Thị Thủy, tự ụ Hạnh Pháp thuộc thế hệ thứ 9 dòng Chúc Thánh. Sự hy sinh của Ngài chính là đỉnh cao của tinh thần xả thân phụng sự Đạo pháp và Dân tộc. Ngọn lửa từ bi được Ngài thắp sáng, soi rõ lương tri của thời đại, góp phần đưa Phật giáo đồ cũng như mọi người dân thoát khỏi một chế độ độc tài hà khắc.

Tôn chỉ hành đạo của thiền phái Chúc Thánh kể từ ngày tổ sư khai sơn cho đến nay vẫn không thay đổi. Nhập thế tích cực cứu đời nhưng vẫn thong dong tự tại trước mọi lợi danh. Tùy duyên hành đạo và bất biến giữ đạo luôn được áp dụng tùy từng hoàn cảnh đã thể hiện được bản hoài của người Thích tử theo tinh thần: “Phụng sự chúng sanh tức là cúng dường chư Phật.”

2.2.2. Sinh Hoạt Và Tổ Chức Của Sơn Môn.

a. Sinh hoạt của Sơn Môn Chúc Thánh:

Như phần trên đã trình bày, kể từ khi thiền sư Minh Hải xuất kệ truyền thừa, trong vòng một thế kỷ, thiền phái Chúc Thánh phát triển mạnh ở Quảng Nam và lan rộng theo bước chân Nam tiến vào đến miền Gia Định. Tại Quảng Nam, đến cuối thế kỷ XVIII, các thiền sư dòng Chúc Thánh đảm nhiệm công việc hoằng hóa tại các chùa trong tỉnh và hình thành ba trung tâm hoằng pháp: trung tâm Hội An nằm ở phía Đông với các tổ đình Chúc Thánh, Vạn Đức, Phước Lâm; trung tâm Ngũ Hành Sơn nằm ở phía Bắc với hai ngôi quốc tự Tam Thai và Linh Ứng; trung tâm Đại Lộc nằm ở phía Tây với tổ đình Cổ Lâm. Cả ba trung tâm hoằng pháp của dòng Chúc Thánh tại Quảng Nam  có sự liên hệ mật thiết và hổ tương cho nhau. Trong đó, các chùa Chúc Thánh, Phước Lâm giữ vai trò trung tâm đào tạo tăng tài, phân bổ đến các chùa trong tỉnh.

Bấy giờ, việc sinh hoạt của Sơn Môn cũng còn đơn giản. Thiền tông với chủ trương “Bất lập văn tự” nên các thiền sư không có mở trường dạy học mà chủ yếu là thầy trò truyền dạy cho nhau, thực tập thiền định và ấn chứng sở ngộ. Sự sinh hoạt của các chùa trong tông môn thể hiện rõ nét qua các đàn truyền giới.

Đàn truyền giới được khai mở mỗi khi có giới tử phát nguyện thọ giới để thăng tiến trong việc tu học. Việc này được ghi nhận như sau:“Trước đó một năm, thỉnh chư tăng các chùa quy ước một ngày hội họp luận nghị về việc mở đại giới đàn tiếp dẫn tăng chúng hậu học. Chư tăng đồng ứng nhận hổ trợ, sau đó, công bố cho chư tăng các chùa khắp nơi đều biết mà chuẩn bị, chọn năm… tháng… ngày… v.v…Trước đó 3 ngày, kiền thỉnh chư tăng quang lâm đến chùa đã được định trước, cung thỉnh chư tôn an bài chức sự: một vị Hòa thượng Chủ kỳ, một vị Hòa thượng Đàn đầu, một vị Hòa thượng Yết-ma, một vị Hòa thượng Giáo thọ, bảy vị Xà-lê tôn chứng, bốn vị dẫn lễ, một vị Tuyên luật sư, chọn hai vị Sa di thủ vĩ..” [23,15-15b]

Qua sự mô tả này, ta thấy việc tổ chức giới đàn đều tuân theo quy củ giới luật Phật chế, đầy đủ hội đồng thập sư. Tuy nhiên, theo lời của các vị tôn túc, giới đàn ngày xưa được mở sau khi kết thúc 3 tháng an cư kiết hạ mà hay gọi là trường Kỳ hoặc trường Hương. Nghĩa là giới tử phải tập trung trong 3 tháng an cư, theo vị Đàn đầu Hòa thượng học tập giới luật sau đó mới chính thức đăng đàn thọ giới.

Trong quá trình tiếp tăng độ chúng, các vị thiền sư dòng Chúc Thánh thường tổ chức giới đàn để truyền trao y bát, tuyển người kế thừa sự nghiệp hoằng pháp. Trong Ngũ Hành Sơn Lục, thiền sư Từ Trí ghi lại: vào tháng 4 năm Kỷ Tỵ (1869), thiền sư Chương Tư-Tuyên Văn kiến lập đàn giới tại chùa Phước Lâm, giới đàn này do thiền sư Toàn Nhâm -Vi Ý làm Hòa thượng Đàn đầu và giới tử đắc pháp là thiền sư  Ấn Bổn-Tổ Nguyên-Vĩnh Gia.

Năm Quý Tỵ (1893), thiền sư Ấn Bổn-Tổ Nguyên-Vĩnh Gia cùng ngài Ấn Thanh-Tổ Đạo-Chí Thành khai đđại giới đàn tại chùa Chúc Thánh. Thiền sư Chí Thành được cung thỉnh làm Hòa thượng đàn đầu và ngài Vĩnh Gia làm Giáo Thọ A-xà-lê tại giới đàn này.

 Các năm Mậu Thân (1908), Canh Tuất (1910), thiền sư Ấn Bổn-Vĩnh Gia khai giới đàn và làm Hòa thượng Đàn đầu tại chùa Phước Lâm. Đặc biệt nổi tiếng nhất là giới đàn năm Canh Tuất (1910), giới đàn này quy tụ trên 200 giới tử xuất gia và hàng ngàn giới tử tại gia. Trong đó có một số vị đắc giới và trở thành lương đống trong Phật pháp như các Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Thích Giác Nhiên, đệ nhất và đệ nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Về phần tại gia thì có Tuy Lý Vương-Miên Trinh, Đô thống Lê Viết Nghiêm cũng như nhiều hoàng thân quốc thích khác thọ giáo với Ngài.

Năm Mậu Thìn (1928), niên hiệu Bảo Đại thứ 3, Hòa thượng Chơn Pháp-Đạo Diệu-Phước Trí khai giới đàn và làm Đàn đầu Hòa thượng tại giới đàn chùa Từ Vân-Đà Nẵng. Trong hàng giới tử đắc pháp với Ngài có Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những cao tăng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Năm Kỷ Tỵ (1929), niên hiệu Bảo Đại thứ 4, Hòa thượng Phước Trí lại được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu tại giới đàn chùa Phước Lâm-Hội An.

Qua các giới đàn mà ngày nay chúng ta biết được, phần nào tái hiện lại sinh hoạt của cộng đồng tăng lữ ngày xưa tại Quảng Nam. Điều này thể hiện được mối quan hệ khắng khít của các chùa trong sơn môn Chúc Thánh thời bấy giờ. Các đàn giới đã đào tạo những thế hệ tăng lữ kế thừa nên môn phái ngày càng phát triển rộng khắp. Đồng thời, qua các giới đàn này, đã nói lên được mối liên hệ của chư tăng Quảng Nam đối với các tỉnh lân cận như Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên v.v…Bởi vì, các giới đàn được khai mở tại Quảng Nam đều có sự tham dự của chư tăng các tỉnh trong Hội Đồng Thập Sư cũng như giới tử cầu thọ giới. Cũng thế, khi các tỉnh mở giới đàn đều cung thỉnh các thiền sư ở Quảng Nam tham dự và chư tăng Quảng Nam cũng đến các tỉnh cầu thọ giới.

Ngoài việc lập đàn truyền giới, sự quan hệ của các chùa trong sơn môn Chúc Thánh tại Quảng Nam được biểu hiện qua các ngày giỗ tổ, khánh thành chùa, tang lễ v.v… Trong những Phật sự này, chư tăng tề tựu hỗ trợ lẫn nhau trong công việc, thể hiện tình pháp lữ đồng môn gắn bó tương thân tương trợ.

b. Tổ chức của Môn phái.

Những ngày đầu hình thành, môn phái Chúc Thánh chỉ sinh hoạt đơn giản với danh từ Chư Tự Sơn Môn. Lúc đó, sự tổ chức còn sơ sài, chùa nào có bậc cao tăng thạc đức, uyên thâm giáo điển là tăng chúng quy tụ về theo học. Thông thường, các thiền sư danh tiếng đều trụ tại đạo tràng Phước Lâm. Vì thế Phước Lâm đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của môn phái Chúc Thánh.

Vào những năm đầu thế kỷ 20, tình hình chính trị đất nước biến chuyển phức tạp. Các giáo sĩ Thiên chúa theo bước chân lính Pháp sang truyền giáo và chủ trương đập chùa làm nhà thờ. Minh chứng cụ thể là chùa Bửu Châu do chúa Tiên-Nguyễn Hoàng lập năm Đinh Mùi (1607) tại Trà Kiệu đã bị người Thiên chúa san bằng để làm nhà thờ Trà Kiệu.

Trước tình hình như vậy, vào năm Tân Dậu (1921), Hòa thượng Ấn Nghiêm -Phổ Thoại đứng ra thành lập Bản Tỉnh Chư Sơn Hội nhằm mục đích củng cố Tăng già, chỉnh đốn Thiền môn đồng thời bảo vệ các chùa trước sự tàn phá của binh lính Pháp. Ngài được chư sơn tín nhiệm cung thỉnh làm Trị Sự đầu tiên.

 Cơ cấu của tổ chức Bản Tỉnh Chư Sơn Hội gồm có một vị hội trưởng, một vị thư ký, mỗi huyện thị có một vị Chánh Kiểm Tăng và một vị Phó Kiểm Tăng. Lúc bấy giờ tỉnh Quảng Nam chia làm 9 phủ huyện như sau: Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Hòa Vang, Duy Xuyên, Đại Lộc, Tiên Phước, Hội An.

 Tổ chức Bản Tỉnh Chư Sơn Hội đã bảo vệ được các chùa trước sự tàn phá của lính Pháp cũng như củng cố Tăng già làm tiền đề cho phong trào chấn hưng Phật giáo. Tổ chức này chính là tiền thân của Giáo Hội Tăng Già về sau.

Đến năm Nhâm Thân (1992), nhân dịp khánh thành bảo tháp tổ sư Minh Hải, môn phái Chúc Thánh mới chính thức thành lập. Đây là nhu cầu thiết yếu để duy trì truyền thống và sự phát triển của tông môn. Chư Tăng Ni thuộc môn phái khắp các tỉnh thành trong cả nước đều vân tập về Chúc Thánh tổ chức hội nghị thành lập môn phái. Danh xưng chính thức được gọi là Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh và đặt trụ sở tại tổ đình Chúc Thánh-Hội An. Cơ cấu tổ chức bao gồm 2 hội đồng: Hội Đồng Môn Phái và Hội Đồng Điều Hành. Hội Đồng Môn Phái gồm các vị tôn túc tiêu biểu cho giới luật, có nhiệm vụ chứng minh các đại lễ, đàn giới của môn phái. Hội Đồng Điều Hành có trách nhiệm điều hành mọi công tác Phật sự của môn phái. Đứng đầu môn phái có một vị Trưởng môn phái và nhiều vị Phó trưởng môn phái, chánh phó thư ký và các ủy viên. Các vị phó trưởng môn phái là chi phái trưởng tại các tỉnh thành. Hội nghị cũng đã thông qua bản Nội Quy của môn phái bao gồm 7 chương 16 điều. Đồng thời, trong hội nghị này, môn phái cũng đã quy định 3 năm một lần vào ngày giỗ tổ Minh Hải mồng 7 tháng 11 các năm thuộc chi Dần, Tỵ, Thân, Hợi, Tăng Ni các nơi tổ chức về nguồn để họp bàn tổng kết đánh giá những thành tựu, ưu khuyết của môn phái, từ đó, vạch ra chương trình sinh hoạt trong những năm tới. Thông lệ này được thực hiện một cách đều đặn từ ngày ấy đến nay.

Xuyên suốt 300 năm truyền thừa trên đất Quảng, thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh hình thành và phát triển theo thời gian. Dần theo năm tháng, với những chuyển biến của đất nước, môn phái Chúc Thánh có những tổ chức cụ thể để duy trì truyền thống tông môn. Sự thành lập Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh vào năm Nhâm Thân (1992) là đỉnh cao của tinh thần hòa hợp của Phật giáo. Đây là một tổ chức kiện toàn nhất của dòng Lâm Tế Chúc Thánh từ trước đến nay.

 

2.3. CÁC THIỀN SƯ TIÊU BIỂU TRONG SỰ NGHIỆP TRUYỀN THỪA:

Với 300 năm truyền thừa và phát triển, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, tại Quảng Nam đều có các vị thiền sư đóng vai trò chủ đạo của tông môn. Các vị thiền sư tiêu biểu trong sự nghiệp truyền thừa qua các thời kỳ như sau:

1. Hòa thượng Ân Triêm (1712-1796): Ngài họ Lê, sinh năm Nhâm Thìn (1712) tại xã Bến Đền, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam.

Tương truyền rằng: mẹ Ngài một đêm nằm mộng thấy con trâu chọc sừng chui vào bụng, từ đó bà thọ thai. Từ khi mang thai, bà nhàm chán những thức ăn thịt cá, chỉ dùng toàn chay tịnh và sau đó sanh ra Ngài.

Năm lên 10 tuổi, Ngài xuất gia với tổ Minh Hải tại chùa Chúc Thánh, được tổ ban cho pháp danh Thiệt Dinh, tự Chánh Hiển, hiệu Ân Triêm, nối pháp đời 35 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sau khi tổ Minh Hải viên tịch, Ngài đến ấp Trảng Kèo, xã Thanh Hà, phủ Điện Bàn (Nay là phường Thanh Hà-Hội An) lập thảo am lấy tên là Phước Lâm để tịnh tu đạo nghiệp. Không bao lâu, hương thơm giới hạnh của Ngài lan khắp mười phương và đồ chúng theo về tu học ngày càng đông, dần dần tịnh thất Phước Lâm trở thành Tùng Lâm nguy nga tại Xứ Quảng.

Gần 50 năm khai sáng và hành đạo tại Phước Lâm, vào ngày mồng  10 tháng 11 năm Bính Thìn (1796), sau khi dặn dò phó chúc cho đệ tử, Ngài  phát nguyện thiêu thân cúng dường Tam bảo, hưởng thọ 85 tuổi. Đồ chúng lập tháp tại phía Tây Nam trong khuôn viên chùa Phước Lâm để thờ linh cốt Ngài.

 Hơn 60 năm hoằng dương chánh pháp, Hòa thượng Ân Triêm đã kế thừa sự nghiệp của tổ Minh Hải thắp sáng ngọn đèn chánh pháp tại Quảng Nam. Đệ tử của Ngài có các vị như Pháp Ấn-Tường Quang-Quảng Độ, Pháp Liêm-Luật Oai-Minh Giác (trụ trì chùa Phước Lâm); Pháp Chuyên-Luật Truyền-Diệu Nghiêm  (khai sơn chùa Từ Quang-Phú Yên); Pháp Tịnh-Luật Phong-Viên Quang (khai sơn chùa Thiên Hòa-Tuy Phước). [10, 3]

2. Hòa thượng Minh Giác (1747-1830): Ngài thế danh Võ Đức Nghiêm, sinh ngày 15 tháng 1 năm Đinh Mão (1747) tại thôn Ngọc Trì, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Năm Kỷ Mão (1759), khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài xuất gia tại chùa Phước Lâm với Hòa thượng Ân Triêm và được bổn sư cho pháp danh Pháp Liêm, tự Luật Oai. Như vậy, Ngài nối pháp đời 36 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

Năm Canh Dần (1770), sau hơn 10 năm tu tập, Ngài về làng thăm song thân. Gặp lúc giặc mọi Đá Vách lại nổi dậy, Ngài tòng quân đánh dẹp loạn phỉ, lập nhiều chiến công được phong chức chỉ huy. Tuy hưởng công danh phú quý, nhưng Ngài nhàm chán nên từ quan, về lại Hội An, phát nguyện quét chợ 20 năm để sám hối tội lỗi gây ra trong chiến tranh. Quét chợ để làm sạch cảnh trần ai và cũng là quét sạch mọi cấu bẩn trong tâm, dọn mình khiết tịnh để tiến lên bờ giác.

Năm Mậu Ngọ (1798), khi công hạnh viên mãn, Ngài được Chư Sơn cũng như tín đồ thỉnh về trụ trì chùa Chiên Đàn và tôn hiệu là Minh Giác Hòa thượng. Trong tờ biểu tôn xưng có nói: “ Phật là giác giả, Hòa  thượng có tính thông tuệ, tự cho con đường tình duyên danh lợi đã 20 năm nay như đem dao cắt đứt hẳn, coi giống cát sông bọt nổi. Lại đem mình ở nơi thị tỉnh chịu đựng bụi trần nhọc lòng khổ chí để giữ vững tâm niệm nhập đạo mà thành tựu tấm thân chứng đạo. Đã hay tự mình khai giác hết thảy những người có tình như chiêm bao thức giấc vậy. Trong điển Phật có nói: Tự mình biết, bảo cho người khác biết, đó là có ý nghĩa đầy đủ tiếng khen về biết rõ cả” [14, 169].

Ngài trở lại Phước Lâm cùng ngài Quảng Độ trùng tu chùa và kế thế trụ trì. Ngài tích cực xiển dương chánh pháp cho đến khi viên tịch vào giờ Tý ngày mồng 10 tháng 11 năm Canh Dần (1830) hưởng thọ 84 tuổi.

Hàng đệ tử thờ Ngài với hai câu đối đầy ý nghĩa như sau:

- Dẹp giặc, quét chợ, mấy độ gian lao, xuất gia lạ, phát nguyện càng thêm lạ, tám mươi vãng sanh thành chánh giác.

- Làm chùa, đúc chuông, biết bao công đức, sữa cũ đẹp, làm mới lại càng đẹp, ngàn năm sáng mãi ngọn đèn thiền.

Đệ tử của Ngài có các vị thành danh như:ngài Toàn Nhâm-Vi Ý-Quán Thông (trụ trì chùa Phước Lâm); Toàn Ý-Vi Tri-Phổ Huệ (khai sơn chùa Phổ Bảo- Bình Định); Toàn Tín-Vi Tâm-Đức Thành (khai sơn chùa Khánh Lâm-Tuy Phước). Hạnh nguyện của Ngài quả thật là vô tiền khoáng hậu trong dòng sử Phật Việt. Ngày nay người dân Phố Hội thường nhắc đến Ngài với cái tên dung dị: Tổ Bình Man Tảo Thị.

3. Hòa thượng Quán Thông (1798-1883): Ngài thế danh Nguyễn Văn Định, sanh vào năm Mậu Ngọ (1798), tại làng Trung Phường, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ngài xuất gia và đắc pháp với tổ Pháp Liêm-Luật Oai nên có pháp danh Toàn Nhâm, tự Vi Ý, hiệu Quán Thông, nối pháp đời 37 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

Năm Canh Dần (1830), Ngài trụ trì chùa Phước Lâm sau khi Bổn sư viên tịch. Tiếp đó, Ngài lại được Chư Sơn cung thỉnh kiêm trụ trì chùa Chúc Thánh.

Vào các năm Ất Tỵ (1845), Kỷ Dậu (1849), Ngài đứng ra quyên mộ trùng kiến tổ đình Chúc Thánh, xây dựng tiền đường và đổi hướng chùa từ hướng Tây sang hướng Tây Nam cho phù hợp với địa  thế phong thổ.

 Ngày mồng 2 tháng 3 năm Quý Mùi (1883), Ngài thị tịch, hưởng thọ 86 thế tuế. Phần lớn đệ tử của Ngài đảm nhiệm các chùa tại Quảng Nam như: Chương Nhẫn-Tuyên Hòa-Quảng Hóa (trụ trì chùa Phước Lâm); Chương Đạo-Tôn Tùng-Quảng Viên, Chương Khoáng-Tuyên Điền-Chứng Đạo (trụ trì chùa Chúc Thánh); Chương Quảng-Tuyên Châu-Mật Hạnh, Chương Tư-Tuyên Văn-Huệ Quang, Chương Tín-Hoằng Ân (hoằng hóa tại Ngũ Hành Sơn); Chương Lý-Tôn Sư-Trí Quang, Chương Chất-Tông Chiếu-Quảng Thành, Chương Đàn-Tông Khai-Hoằng Đạt (hoằng hóa tại chùa Cổ Lâm-Đại Lộc). [9, 98]

4. Hòa thượng Huệ Quang (…-1873):Ngài thế danh Đặng Văn Quang người xã Đức An, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ngài xuất gia đắc pháp với tổ Quán thông nên có pháp danh Chương Tư, tự Tuyên Văn, hiệu Huệ Quang, thuộc đời 38 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sau khi thọ đại giới, Ngài xin Bổn sư vân du vào tham học Kinh Luật tại chùa Từ Quang-Đá Trắng tỉnh Phú Yên.

Năm Tân Dậu (1861), Ngài được triều đình bổ nhiệm trụ trì chùa Linh Ứng trên núi Ngũ Hành và đến năm Nhâm Tuất (1862), triều đình cải bổ Ngài làm trụ trì quốc tự Tam Thai.

Năm Kỷ Tỵ (1869), niên hiệu Tự Đức thứ 22, ngài lập đàn truyền giới tại Phước Lâm, thỉnh Hòa thượng bổn sư Quán Thông làm Đàn đầu.

Năm Quý Dậu (1873), vào ngày 22 tháng 6 Ngài nhóm họp môn đồ, ân cần phó chúc mọi việc một cách rõ ràng rồi an nhiên mà thoát hóa. Môn đồ đã kiến tạo bảo tháp của Ngài tại phía Nam ngọn Âm Hỏa Sơn trong núi Ngũ Hành.

            5. Hòa thượng Vĩnh Gia (1840 -1918): Ngài thế danh Đoàn Nhược sinh vào năm Canh Tý (1840) tại làng Thế Dương, quận Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm Kỷ Mùi (1859), Ngài đến chùa Tam Thai- Ngũ Hành Sơn xin xuất gia với tổ Chương Tư-Tuyên Văn, được tổ ban cho pháp danh là Ấn Bổn, tự Tổ Nguyên. Từ đây, Ngài nối truyền đời thứ 39 tông phái Lâm Tế Chúc Thánh.

Năm Kỷ Tỵ (1869), Ngài thọ giới cụ túc tại giới đàn chùa Phước Lâm do tổ Quán Thông làm đàn đầu và được phú pháp hiệu Vĩnh Gia. Năm Quý Mùi (1883), Ngài được triều đình sắc phong trụ trì quốc tự Linh Ứng. Năm Đinh Hợi (1887), thiền sư Chương Nhẫn-Tuyên Hòa, trụ trì tổ đình Phước Lâm viên tịch, Ngài được sơn môn cung thỉnh trụ trì Phước Lâm.

Là một cao tăng tinh thông Tam tạng, nghiêm trì giới luật nên đạo hạnh của Ngài lan rộng khắp các tỉnh miền Trung. Vì thế Ngài thường được triều đình thỉnh về kinh đô Phú Xuân để thuyết pháp cho Vua và hoàng tộc, cũng như cung thỉnh  trong các giới đàn tại các tỉnh Thuận Hóa, Quảng Nam, Bình Định v.v…

Ngài thường xuyên kiến đàn truyền trao giới pháp cho chư tăng tu học. Đặc biệt, giới đàn năm Canh Tuất (1910) tại Phước Lâm, các giới tử đắc giới đều là những bậc cao tăng rường cột cho Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Trong đó, nổi bậc nhất là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thích Giác Nhiên, đệ nhất và đệ nhị Tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Ngài thường căn dặn đệ tử: “ Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, nếu phá giới phải hoàn lại y bát, ra khỏi Già Lam, để cho trong đục rõ ràng, tà chánh phân chia. Có vậy nước Thiền định mới khai thông, đèn Tri giác thêm sáng tỏ”.

Vào ngày 20 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), Ngài thị tịch, thọ thế 79 tuổi. Nhục thân của Ngài được an trí trong bảo tháp rất trang nghiêm nằm phía tả tổ đình Phước Lâm. [9, 100-102]

6. Hòa thượng Từ Trí (1852-1921): Ngài tên Nguyễn Viết Lư sinh năm Nhâm Tý (1852), tại xã An Bình, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm Bính Dần (1866), vừa tròn 15 tuổi, Ngài đến chùa Linh Ứng bái Hòa thượng Chương Quảng-Tuyên Châu làm thầy. Ngài được tổ ban pháp danh Ấn Lan, tự ụ Tổ Huệ, hiệu Từ Trí, nối pháp đời 39 thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.

Năm Đinh Hợi (1887), Ngài được triều đình bổ nhiệm trụ trì chùa Linh Ứng. Từ đây, Ngài ra sức tu bổ Linh Ứng khiến cho chùa ngày càng khang trang mỹ lệ. Đồng thời, Ngài tham dự các giới đàn để thí giới cho tăng đồ tu học.

Năm Ất Mùi (1895), triều đình sắc phong Ngài làm Tăng cang, cai quản hai chùa Tam Thai-Linh Ứng. Trong lịch sử Phật giáo tại Ngũ Hành Sơn, Ngài là vị Tăng cang đầu tiên vậy.

Năm Đinh Dậu (1897), vua Thành Thái ban cho hai chiếc “Ngũ Phước Ngân Tiền”, tưởng thưởng cho công đức tu hành cũng như đạo hạnh của Ngài. Năm Canh Tý (1900), vua ban cho Ngài tấm biển với 4 chữ “Hữu Tâm Tượng Giáo” để tán thán tài đức của Ngài đã làm Phật giáo hưng thạnh như thời Tượng pháp.

Năm Nhâm Dần(1902), Ngài tổ chức trai đàn tại chùa Linh Ứng, vua Thành Thái ngự vào dự lễ, ban cho Ngài sáu chiếc ca sa để thưởng cho Phật sự này.

Năm Tân Dậu (1921), Ngài đã viên tịch, thọ 70 thế tuế. Bảo tháp của Ngài được xây dựng tại phía Nam của ngọn Thủy Sơn trong cụm Ngũ Hành.

Ngài để lại tác phẩm “Ngũ Hành Sơn Lục”, một cuốn sách rất có giá trị lịch sử về các thắng tích cũng như tiểu sử chư Hòa thượng hoằng hóa tại Ngũ Hành Sơn. [11, 220-222]

7. Hòa thượng Phổ Thoại (1875-1954): Ngài thế danh Nguyễn Văn Thọ, sinh năm Ất Hợi (1875) tại xã Cẩm Kim, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Năm Đinh Hợi (1887), khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài xuất gia với tổ Chương Đạo- Tôn Tùng tại chùa Chúc Thánh với pháp danh Ấn Nghiêm, tự Tổ Thân, nối pháp đời 39 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài vốn người thông minh, tính tình cương trực nhưng khiêm nhượng nên Bổn sư rất yêu mến. Vào năm  Quý Tỵ (1893), tổ Chương Đạo viên tịch, Ngài về Phước Lâm y chỉ tổ Vĩnh Gia để tu học.

Vào tháng 4 năm Ất Mùi (1895), khi vừa tròn 20 tuổi, Ngài được tổ Vĩnh Gia truyền trao giới Cụ túc và phú pháp với pháp hiệu là Phổ Thoại.

Năm Kỷ Dậu (1909), được một Phật tử hiến cúng khu đất tại ấp Hậu Xá, xã Thanh Hà, Ngài xin phép tổ Vĩnh Gia ra lập một thảo am nhỏ lấy tên là Long Tuyền để tiện việc tu niệm. Cũng trong năm này, Ngài vận động đúc một đại hồng chung nặng 200Kg dưới sự chứng minh của ngài Tăng cang Từ Trí. Từ đó, Ngài lần lần xây dựng Long Tuyền thành một ngôi Phạm vũ nguy nga và được triều đình nhà Nguyễn ban sắc tứ vào năm Quý Dậu (1933).

Năm Tân Dậu (1921), Ngài đứng ra thành lập Bản Tỉnh Chư Sơn Hội nhằm mục đích củng cố Tăng già, chỉnh đốn Thiền môn. Ngài được chư sơn tín nhiệm cung thỉnh làm Trị Sự đầu tiên. Ngài được cung thỉnh làm Yết Ma, Giáo Thọ trong nhiều đàn giới tại Quảng Nam. Năm 1933, khi Hội An Nam Phật Học thành lập, Ngài được cung thỉnh làm chứng minh đạo sư cho hội.

Hòa thượng Phổ Thoại là một người giới luật tinh nghiêm, chuyên cần tu niệm, thường trì tụng kinh Phạm Võng. Ngoài tinh thần vì Đạo pháp, Ngài còn có một tinh thần Dân tộc rất cao. Ngài thường dạy đệ tử: “Nước nhà mất thì đạo cũng không còn, nên cần phải có ý thức trách nhiệm đối với quốc gia”.

Vào ngày mồng 9 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1954), Ngài đã thị tịch, thọ 80 tuổi. Môn đồ thỉnh nhục thân an trí trong bảo tháp tại phía hữu chùa Long Tuyền. Ngài đã đào tạo được nhiều vị đệ tử tài ba phục vụ cho Phật giáo Quảng Nam hiện  đại. [10, 8-10]

8. Hòa thượng Thiện Quả (1881-1962): Ngài thế danh Dương Văn Y, sinh ngày 23 tháng Chạp năm Tân Tỵ (1881), tại xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm lên 15 tuổi, Ngài xuất gia với tổ Ấn Bính-Tổ Thuận-Phổ Bảo tại chùa Chúc Thánh nên có pháp danh Chơn Chứng. Như vậy, Ngài nối pháp đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

Năm 17 tuổi, Ngài ra Tam Thai học tập kinh luật. Đến năm Nhâm Dần (1902), khi vừa 21 tuổi thì thọ Sa Di tại giới đàn chùa Từ Quang ở Phú Yên và được ban pháp tự là Đạo Tâm. Năm Canh Tuất (1910), Ngài thọ Đại giới tại chùa Phước Lâm do Ngài Vĩnh Gia làm Đàn đầu Hòa thượng và tổ đã phú pháp cho Ngài với pháp hiệu là Thiện Quả. Sau khi thọ giới, Hòa thượng xin phép Bổn sư tiếp tục vào tu học tại chùa Từ Quang ở Phú Yên.

Năm Giáp Dần (1914), tổ Ấn Bính gọi Ngài về và ấn chứng kế thừa trụ trì Chúc Thánh. Hòa thượng về trụ trì Chúc Thánh một thời gian thì đạo phong của Ngài đã lan tỏa khắp nơi và ngày mồng 8 tháng 9 năm Canh Thân (1920), chùa Chúc Thánh được triều đình ban Sắc Tứ.

Với đạo hạnh cao thâm, Ngài được cung thỉnh làm Tôn chứng cho các giới đàn tại chùa Báo Quốc- Huế, Từ Vân- Quảng Nam, Thạch Sơn-Quảng Ngãi v.v…

Năm Quý Dậu (1933), vào ngày mồng 8 tháng 7, Ngài được triều đình sắc phong Tăng cang chùa Chúc Thánh, ban cho giới đao, độ điệp và đến năm Bính Tý (1936), Ngài lại được sắc phong Tăng cang Tam Thai-Linh Ứng.

Vào những năm 1930 -1940, Hòa thượng được cung thỉnh Chứng minh đạo sư cho Hội An Nam Phật Học tại Quảng Nam. Năm Giáp Ngọ (1954), Ngài trùng tu chánh điện, Đông đường, Tây đường khang trang cho đến ngày hôm nay.

Vào mùa hạ năm Nhâm Dần (1962), Ngài thị bịnh và viên tịch vào ngày mồng 6 tháng 7, thế thọ 82. Bảo tháp của Ngài được môn đồ an trí bên cạnh tháp tổ Minh Hải trong khuôn viên tổ đình Chúc Thánh. [10, 11-12]

9. Quảng Nam Tứ Trụ:

Quảng Nam Tứ Trụ là danh từ thân mật kính ngưỡng mà chư Tăng Ni Phật tử  gọi 4 vị Hòa thượng tài ba lỗi lạc của xứ Quảng hiện đại. Đó là Hòa thượng Chơn Phát, Hòa thượng Long Trí, Hòa thượng Như Vạn, Hòa thượng Như Huệ. Mỗi vị có một biệt tài và đã đoàn kết bên nhau hướng dẫn Tăng Ni Phật tử tu hành cũng như tham gia các phong trào đấu tranh đòi tự do bình đẳng tôn giáo vào những thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX. Các Ngài kế thừa sự nghiệp chư tổ làm cho Phật giáo Quảng Nam một thời hưng thịnh.

- Hòa thượng Chơn Phát : Ngài thế danh Nguyễn Nghi, sinh năm Nhâm Thân (1932) tại thôn Kim Bồng, xã Cẩm Kim, Hội An. Ngài xuất gia năm lên 10 tuổi với Hòa thượng Phổ Thoại tại Long Tuyền với pháp danh Chơn Phát, tự Đạo Dũng, hiệu Long Tôn, thuộc đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh. Vào những thập niên 50-60, Ngài theo học tại Phật học đường Ấn Quang và làm giáo thọ sư tại Học viện Giác Sanh-Sài Gòn. Năm 1961, Ngài về trụ trì chùa Long Tuyền và thành lập Phật Học Viện Quảng Nam vào năm 1970. Ngài là người thâm hiểu Phật pháp và tâm huyết với việc đào tạo tăng tài. Hiện nay, Ngài đương kim trụ trì chùa Long Tuyền - Hội An.

- Hòa thượng Long Trí (1928 -1998): Ngài thế danh Lý Trường Châu, sanh năm Mậu Thìn (1928) tại làng Minh Hương-Hội An. Xuất gia năm 19 tuổi với Hòa thượng Phổ Thoại nên có pháp danh Chơn Ngọc, tự Đạo Bảo, hiệu Long Trí, nối pháp đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh.

Trong những thập niên 50, các tăng lữ cùng khóa đều theo học các trường ở miền Nam thì Hòa thượng trụ tại trú xứ và theo học với bổn sư. Do thiên tính bẩm sinh nên Ngài rất có khả năng tổ chức hành chánh cũng như nghi lễ. Năm 1954, Ngài về trụ trì chùa Viên Giác theo lời thỉnh cầu của đạo hữu Phật tử, đồng thời làm phó thư ký cho Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam Đà Nẵng. Trong các mùa pháp nạn, Ngài đều dấn thân tranh đấu cho sự tự do tôn giáo. Ngài thường chú trọng đào tạo Gia Đình Phật Tử, một thế hệ trẻ kế thừa Phật giáo sau này. Hòa thượng viên tịch vào ngày 13 tháng 9 năm 1998, hưởng thọ 71 tuổi.

- Hòa thượng Như Vạn (1930 -1980): Ngài thế danh Trần Văn Chín, sinh năm Canh Ngọ (1930) tại Ái Nghĩa-Đại Lộc. Ngài xuất gia năm 21 tuổi tại Chúc Thánh với Hòa thượng Thiện Quả, được ban pháp danh Như Vạn, tự Giải Thọ, hiệu Trí Phước, nối pháp đời thứ 41 Lâm Tế Chúc Thánh.

Năm 1951, Ngài theo học tại Phật Học đường Ấn Quang. Năm 1959, Ngài được sơn môn cử làm trụ trì tổ đình Phước Lâm. Năm 1960, Ngài được Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần cử làm giảng sư tỉnh Quảng Nam. Hòa thượng là người nhiệt tình trong mọi công tác Phật sự nên rất được Tăng Ni Phật tử yêu mến. Ngài có công trùng tu tổ đình Phước Lâm trang nghiêm cho đến ngày hôm nay. Ngài viên tịch đột ngột vào ngày 23 tháng 3 năm 1980, hưởng dương 51 tuổi.

- Hòa thượng Như Huệ: Ngài thế danh Phạm Huệ, sinh năm Giáp Tuất (1934) tại làng Cẩm Phô-Hội An. Ngài xuất gia từ thuở nhỏ với Hòa thượng Thiện Quả tại tổ đình Chúc Thánh. Ngài được bổn sư ban cho pháp danh Như Huệ, tự Giải Trí, hiệu Trí Thông, nối pháp đời 41 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

Năm 1951, Ngài cùng các Hòa thượng Chơn Phát, Như Vạn, Chơn Điền v.v… vào học tại Học đường Ấn Quang. Năm 1960, Ngài cùng với Hòa thượng Như Vạn được Tổng Hội Phật giáo Trung Phần bổ nhiệm làm giảng sư tỉnh Quảng Nam. Trong mùa pháp nạn 1963, Ngài tích cực dấn thân tranh đấu vì sự trường tồn của Đạo pháp. Năm 1964, Ngài được Viện Hóa Đạo bổ nhiệm làm giảng sư chính thức tỉnh hội Quảng Nam. Những năm 1970, Ngài đảm nhận chức vụ trụ trì chùa Pháp Bảo (trụ sở tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam bấy giờ) và làm Giám đốc trường bồ đề Quảng Nam. Năm 1982, Ngài sang hoằng pháp và khai sơn chùa Pháp Hoa - Nam Úc. Hiện nay Hòa thượng là Hội Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan.

Hiện nay, Quảng Nam Tứ Trụ còn lại hai vị, nhưng những gì quý Ngài đã làm vẫn còn lưu lại trong tâm khảm của người con Phật xứ Quảng.

2.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH:

2.4.1. Đối Với Đạo Pháp:

Kể từ khi tổ Minh Hải khai sơn tổ đình Chúc Thánh tính đến nay đã trải qua 300 năm truyền thừa lịch sử. Trong suốt khoảng thời gian ấy, tăng đồ dòng Chúc Thánh không ngừng vận dụng đem hết mọi khả năng của mình để hoằng dương Phật pháp. Từ một vùng đất mà sự sinh hoạt Phật giáo chưa được ổn định, các Ngài đã đào tạo những thế hệ kế tục xứng đáng làm cho Phật giáo Quảng Nam khởi sắc, ổn định và phát triển song hành cùng với Phật giáo các tỉnh trong nước. Địa hình Quảng Nam từ vùng núi non hiểm trở xa xôi như Hòn Kẽm - Đá Dừng đến miền biển Duy Hải cát trắng đều có dấu chân hoằng pháp của các Ngài. Phần lớn, người dân Quảng Nam đều là tín đồ của Phật giáo. Phật giáo Quảng Nam dưới sự lãnh đạo và hướng dẫn của chư tăng dòng Chúc Thánh đã góp vào lịch sử truyền bá Phật giáo trên đất Việt những trang vàng son rực rỡ.

2.4.2. Đối Với Dân Tộc:

Với tôn chỉ “Hộ quốc  an dân” tăng nhân Chúc Thánh đóng góp rất lớn cho Dân tộc qua mọi triều đại cũng như các chế độ. Trong giai đoạn Đàng Ngoài-Đàng Trong, trong khi các thiền sư dòng Tào Động đóng vai trò cố vấn chính trị cho chúa Nguyễn thì các thiền sư dòng Chúc Thánh đã tạo được sự đoàn kết trong mọi tầng lớp dân chúng, góp phần ổn định nhân tâm nên các chúa Nguyễn rất mến mộ. Trong giai đoạn Pháp thuộc, các Ngài cũng đã dấn thân tham gia phong trào Duy Tân, che chở cho các nhà chí sĩ  cách mạng nhằm giành lại nền tự chủ của nước nhà. Đến thời cận đại, các Hòa thượng cũng đã tham gia tích cực vào các phong trào đấu tranh đòi độc lập, hòa giải Dân tộc để mưu cầu hòa bình cho đất nước.

2.4.3. Đối Với Văn Hóa:

Về văn hóa vật thể: Sự phát triển của môn phái Chúc Thánh tại Quảng Nam đã đưa đến số lượng các chùa ngày một phát triển. Từ Chúc Thánh, các chùa như Phước Lâm, Cổ Lâm, Linh Ứng, Long Tuyền v.v… lần lượt ra đời và trở thành những ngôi chùa tổ. Kiến trúc các ngôi chùa tổ đã phần nào nói lên được nét văn hóa riêng biệt của người dân xứ Quảng. Các pho tượng cổ, các quả chuông xưa, những bản gỗ khắc kinh văn v.v… là những di tích minh chứng cho tâm đạo và sự tài hoa của các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng, làng đúc Phước Kiều xưa. Các hoành phi liễn đối tại các chùa là một kho tàng triết lý vô tận, thể hiện sự thâm sâu giáo lý Phật Đà của các thiền sư. Chính quần thể kiến trúc các chùa xưa cũng là một trong những yếu tố quan trọng để tổ chức UNESSCO công nhận Hội An là di sản văn hóa thế giới, thu hút nhiều khách nước ngoài đến tham quan chiêm ngưỡng.

Về mặt văn hóa phi vật thể: Sự giáo hóa của tăng đồ dòng Chúc Thánh đóng vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần tại đất Quảng. Đạo đức Phật giáo được thể hiện qua đời sống của chư tăng ảnh hưởng đến sinh hoạt tín ngưỡng cũng như tâm tư tình cảm của người dân nơi đây rất nhiều. Cụ thể tại Hội An, trung tâm của dòng Chúc Thánh, vào mỗi đêm 14 và 30 hàng tháng, nhà nào cũng đặt bàn hương án cúng vọng ngoài trời. Vào những ngày rằm và mồng một, hơn 90% dân chúng ăn chay theo tinh thần Phật giáo. Rải rác tại các huyện thị phụ cận, trong các điệu ai đưa linh, chúng ta nghe ông Công khấn nguyện Đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp độ vong giả. Như vậy, tín ngưỡng A Di Đà và tư tưởng vãng sanh Tịnh Độ ảnh hưởng rất lớn trong cộng đồng dân chúng.

Tóm lại, từ đầu thế kỷ XVIII đến những năm cuối thế kỷ XX, môn phái Chúc Thánh phát triển mạnh và đóng góp tích cực vào sự truyền bá Phật pháp tại Quảng Nam. Từ đây, tăng đồ Chúc Thánh đã vân du đến các tỉnh thành hoằng hóa. Vì thế, dòng Chúc Thánh có sự truyền thừa và ảnh hưởng rất lớn đối vơí sinh hoạt của Phật giáo các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam cũng như lan rộng đến các nước trên thế giới.

 

Chương 3

 SỰ TRUYỀN THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH TẠI CÁC TỈNH MIỀN TRUNG VÀ NAM VIỆT NAM.

 Kể từ khi tổ Minh Hải khai dòng pháp thủy tại tổ đình Chúc Thánh-Hội An, các tăng đồ thuộc hàng đệ tử và pháp tôn của Ngài đã đem ý chỉ của Tổ truyền bá khắp nơi.  Bên cạnh sự hình thành và phát triển tại Quảng Nam, thiền phái Chúc Thánh nhanh chóng lan rộng phát triển khắp các tỉnh thành từ Huế vào đến Sài Gòn và lan ra tận hải ngoại vào những thập niên 80 của thế kỷ XX. Từ đó, các tăng sĩ của dòng Chúc Thánh đã góp phần quan trọng trong sứ mệnh truyền pháp khắp mọi nơi trong và ngoài nước.

3.1 Tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Thừa Thiên-Huế tức Thuận Hóa xưa, là kinh đô của các chúa và vua triều Nguyễn trong vòng 4 thế kỷ. Nhắc đến Huế, người ta liên tưởng đến sự cổ kính của cố đô, đồng thời cũng là chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam từ trước đến nay. Là kinh đô của một vương triều sùng mộ đạo Phật, Huế đã vinh dự đón nhận bước chân của các bậc cao tăng đến giảng pháp.

Sự kiện đầu tiên ghi nhận các thiền sư dòng Chúc Thánh có mặt tại Thuận Hóa là tham dự trai đàn tại chùa Linh Mụ vào năm Minh Mạng thứ 2, tức năm Canh Thìn (1820). Chư tăng tại Quảng Nam ra kinh đô dự đại trai đàn là Hòa thượng chùa Phước Lâm và tăng chúng 20 vị [6, 30]. Vị Hòa thượng ấy là Ngài Minh Giác, một vị cao tăng thuộc thế hệ thứ 3 của dòng Chúc Thánh.

Đến năm Kỷ Sửu (1889), thiền sư Chơn Kim-Pháp Lâm thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh từ chùa Châu Lâm-Phú Yên ra kinh đô hoằng hóa tại chùa Viên Thông. Chùa Viên Thông do tổ Liễu Quán khai sơn, truyền đến đời ngài Tánh Trạm thì không có người kế thừa nên thiền sư Chơn Kim đảm nhận chức ỉ trụ trì. Từ đây, thiền phái Chúc Thánh có mặt và phát triển tại Huế. Tuy nhiên, sự phát triển rất khiêm tốn trong sự truyền thừa của chùa Viên Thông. Các thiền sư tiêu biểu truyền thừa tại đây có ngài Hoằng Nguyện và ngài Diệu Khai.

- Hòa thượng Hoằng Nguyện: Ngài người làng Bao La, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa  Thiên, có pháp danh Như Thừa. Ngài kế thừa bổn sư Chơn Kim trụ trì chùa Viên Thông. Ngài có công khai khẩn đất chùa thêm 3 mẫu và cả đời thực hành theo chủ trương “bất tác bất thực” của tổ Bách Trượng. Vào năm Giáp Tý (1924), Ngài định thiêu thân cúng dường vào ngày Phật Đản mồng 8 tháng 4 nhưng bị ngài Viên Thành ở Trà Am và ngài Giác Viên ở Hồng Khê phản đối. Vì thế, Ngài tịch cốc từ mồng mồng 8 tháng 4 đến 15 tháng 5 thì tịch. Đệ tử của Ngài là Thị Bình-Diệu Khai kế thừa trụ trì chùa Viên Thông.

- Hòa thượng Diệu Khai: Ngài pháp danh Thị Bình, sinh ngày 30 tháng 3 năm Mậu Thân (1908) tại làng Nam Phổ Trung, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Ngài xuất gia năm lên 7 tuổi tại chùa Viên Thông và kế vị trụ trì chùa vào năm 1924. Ngài theo học kinh luật với ngài Viên Thành ở Trà Am và học nghi lễ với tổ Phước Huệ tại Thập Tháp. Ngài có công trùng tu chùa Viên Thông khang trang cho đến ngày hôm nay. Đệ tử nối pháp của Ngài có các Hòa thượng Đồng Chơn-Thông Niệm (khai sơn chùa Bát Nhã-Đà Nẵng), Hòa thượng Đồng Quả-Thiện Phước (thủ chúng chùa Linh Sơn-Đà Lạt). Hiện tại, trụ trì chùa Viên Thông là Hòa thượng Đồng Huy, hiệu Quảng Tú đời 43 Lâm Tế Chúc Thánh.

Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thiền sư Ấn Bổn-Vĩnh Gia thường được triều đình thỉnh ra kinh đô thuyết giảng. Đạo hạnh và sự uyên thâm Phật pháp của Ngài đã được cộng đồng tăng lữ đất thần kinh kính ngưỡng và theo thọ pháp. Đặc biệt nhất là giới đàn năm Canh Tuất (1910), số giới tử tại Thừa Thiên-Huế vào Phước Lâm thọ giới với Ngài đều đắc pháp, về sau trở thành những bậc đống lương của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Ngoài Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thích Giác Nhiên, chúng ta còn biết được một số vị cao tăng ở Huế thọ pháp với Ngài Vĩnh Gia như: Hòa thượng Giác Viên (khai sơn chùa Hồng Khê); Hòa thượng Chơn Thiệt (chùa Từ Hiếu); Hòa thượng Giác Nguyên (trụ trì chùa Tây Thiên), Hòa thượng Tịnh Hạnh (trụ trì chùa Tường Vân), Hòa thượng Giác Tiên (khai sơn chùa Trúc Lâm) v.v…Các vị này toàn là những bậc long tượng trong nhà thiền, khiến cho Phật giáo xứ Huế hưng thịnh. Đến năm Mậu Thìn (1928), Hòa thượng Chơn Pháp-Phước Trí khai giới đàn tại chùa Từ Vân -Đà Nẵng, tại Huế có một số giới tử vào cầu pháp, trong đó có Hòa thượng Thích Trí Thủ, một vị cao tăng thời cận đại, đóng góp rất nhiều công đức cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam.

Tóm lại, sự phát triển của dòng Chúc Thánh tại Thừa Thiên-Huế rất là khiêm tốn, chỉ vỏn vẹn một ngôi chùa Viên Thông. Nhưng  xét về mối tương giao thì các vị cao tăng ở Huế thời cận đại đều vào thọ giáo và đắc pháp với các thiền sư dòng Chúc Thánh tại Quảng Nam. Các Hòa thượng  Vĩnh Gia, Phước Trí bằng đạo lực của mình đã tác thành giới thể cho các giới tử, mà về sau trở thành các bậc cao tăng không những cho xứ Huế mà ảnh hưởng rất lớn đến sự thịnh suy của Phật giáo Việt Nam.

3.2 Tỉnh Quảng Ngãi.

Quảng Ngãi là tỉnh tiếp giáp với Quảng Nam nên sớm đón nhận những thiền sư của dòng Lâm Tế Chúc Thánh đến hoằng hóa. Hai vị đệ tử tổ Minh Hải đến Quảng Ngãi đầu tiên là ngài Thiệt Úy-Chánh Thành-Khánh Vân khai sơn chùa Liên Tôn và ngài Thiệt Uyên-Chánh Thông-Chí Bảo khai sơn chùa Bảo Lâm. Sau đó, ngài Khánh Vân lên kế thế trụ trì chùa Thiên Ấn khi tổ khai sơn là ngài Phật Bảo-Pháp Hóa viên tịch. Từ đó, Thiên Ấn truyền thừa theo bài kệ của tổ Minh Hải và trở thành tổ đình của môn phái Chúc Thánh tại Quảng Ngãi.

Các hàng đệ tử, pháp tôn của các Ngài lần lượt khai sơn các chùa như: Ngài Ấn Tham-Hoằng Phúc (đời 39) khai sơn chùa Quang Lộc; ngài Ấn Kim-Hoằng Tịnh (đời 39) khai sơn chùa Phước Quang; ngài Ấn Lãnh-Hoằng Thạc (đời 39) khai sơn chùa Thạch Sơn; ngài Hoằng Thanh (đời 39) khai sơn chùa Cảnh Tiên; ngài Chơn Sử-Khánh Tín (đời 40) khai sơn chùa Thọ Sơn; ngài Chơn Trung-Diệu Quang (đời 40) khai sơn trùng kiến các chùa như Bảo Lâm, Viên Giác, Khánh Vân, Kim Tiên … ngài Chơn Miên-Trí Hưng (đời 40) khai sơn chùa Từ Lâm, ngài Như Bình-Giải An (đời 41) khai sơn chùa Từ Quang v.v… Tất cả đã tạo nên một hệ thống các chùa huộc môn phái Chúc Thánh có sự sinh hoạt rất chặt chẽ.

Dòng Lâm Tế Chúc Thánh có những vị cao tăng góp phần rất lớn trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp tại Quảng Ngãi, tiêu biểu là các vị tổ sư tại Thiên Ấn như sau:

- Đệ nhị tổ thiền sư Khánh Vân: Ngài họ Huỳnh, quê làng Mộ Đức, xuất gia với tổ Minh Hải, pháp danh Thiệt Úy, tự Chánh Thành, hiệu Khánh Vân. Sau khi khai sơn chùa Liên Tôn tại quê nhà, Ngài được thỉnh kế thế ngài Phật Bảo-Pháp Hóa trụ trì chùa Thiên Ấn. Từ đây, chùa Thiên Ấn bắt đầu truyền thừa theo dòng kệ của tổ Minh Hải. Sau hơn 30 năm hoằng dương Phật pháp tại Thiên Ấn, Ngài thị tịch vào ngày mồng 1 tháng 10 năm Quý Tỵ (1773).

- Đệ tam tổ thiền sư Bảo Ấn: Ngài họ Trịnh, quê làng Tráng Liệt, quận Tư Nghĩa, húy Toàn Chiếu, tự Trí Minh, hiệu Bảo Ấn, thuộc đời 37 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài đem hết tâm huyết của mình để trùng tu tổ nghiệp nên thời Ngài tăng chúng tu hành tại Thiên Ấn rất đông. Ngài noi gương tổ Bách Trượng thành lập nông thiền với chủ trương “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”.

Trong đời Ngài có một truyền thuyết rất là thần kỳ: đó là quả chuông thần . Số là trong một đêm Hòa thượng đang tỉnh tọa tham thiền, có vị hộ pháp đến thưa Ngài cho người đến làng Chú Tượng, quận Mộ Đức thỉnh đại hồng chung. (Nguyên là làng Chú Tượng có đúc một quả đại hồng chung nhưng đánh không kêu). Sáng ra, Hòa thượng cho thầy Điển tọa đến thỉnh thì hương chức trong làng không đồng ý, phải đến lần thứ hai thì họ mới chấp nhận. Sau khi quả hồng chung về đến chùa, Ngài khấn nguyện tạ Phật  và  tổ chức lễ khai chuông. Kỳ lạ thay, khi Ngài cầm dùi đánh thì tiếng chuông ngân vang khắp mọi nơi. Sự kiện này xảy ra vào ngày mồng 10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1845), Ngài viên tịch vào ngày 30 tháng 6 năm Bính Dần (1866) sau 40 năm gắn liền với chùa Thiên Ấn.

- Đệ tứ tổ thiền sư Giác Tánh : Sau khi tổ Toàn Chiếu-Bảo Ấn viên tịch, đệ tử là ngài Chương Khước, tự Tuyên Tôn, hiệu Giác Tánh kế nghiệp trụ trì Thiên Ấn. Ngài noi theo chí nguyện của Bổn sư tiếp tục mở rộng nông thiền và tiếp tăng độ chúng. Môn hạ của Ngài có nhiều vị thành danh như các vị Hoằng Phúc, Hoằng Thanh, Hoằng Tịnh, Hoằng Thạc v.v… Đạo phong của Ngài đã khiến vị thần cây đến xin quy y và Ngài đã cho pháp danh là “Lãnh sơn Mộc cộng chi thần, pháp danh Ấn Chứng”. Ngài viên tịch vào ngày mồng 1 tháng 3 năm Tân Hợi (1911) với hơn 50 năm hoằng pháp tại Thiên Ấn.

- Đệ ngũ tổ thiền sư Hoằng Phúc: Sau khi Tứ tổ viên tịch, Ngài Hoằng Phúc, trụ trì chùa Quang Lộc được sơn môn cung thỉnh kế nghiệp trụ trì Thiên Ấn. Ngài họ Phạm, người làng Phước Long-Tư Nghĩa, húy Ấn Tham, tự Tổ Văn, hiệu Hoằng Phúc, là đệ tử của tổ Giác Tánh. Ngài có tâm nguyện sùng hưng chốn tổ, nhưng Ngài chỉ mới trùng tu được cổng tam quan thì viên tịch ngày 19 tháng chạp năm Giáp Dần (1914), sau 4 năm trụ trì Thiên Ấn.

- Đệ lục tổ thiền sư Diệu Quang: Sau khi Ngũ tổ viên tịch, Thiên Ấn rơi vào tình trạng không có trụ trì. Mãi đến năm Tân Dậu (1921), sơn môn thỉnh Ngài Diệu Quang về trụ trì. Ngài họ Trần, người làng Sung Tích-Sơn Tịnh, là đệ tử của tổ Hoằng Phúc có pháp danh Chơn Trung, tự Đạo Chí, hiệu Diệu Quang, thuộc đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài có công làm con đường trôn ốc từ chân núi lên đến chùa. Đạo phong và uy tín của Ngài vang dội, được triều đình sắc phong Tăng cang vào năm Bảo Đại thứ 3. Ngài có công sáng lập và trùng tu nhiều chùa trong tỉnh cũng như đào tạo các thế hệ tăng sĩ kế thừa. Ngài thị tịch vào ngày 13 tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952). [2, 17-30]

Tóm lại, kể từ khi có mặt trên đất Quảng Ngãi, các thiền sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh luôn đem hết khả năng của mình để xiển dương Đạo pháp và phục vụ Dân tộc. Sự đóng góp ấy luôn được Tăng Ni Phật tử các thế hệ sau trân trọng ghi nhận và giữ gìn phát triển. Ngày nay, tại Quảng Ngãi phần lớn các chùa đều truyền thừa theo bài kệ của dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

3.3 Tỉnh Bình Định.

Bình Định, mảnh đất giữa miền Trung nước Việt, nơi đây đã vinh dự đón nhận những bước chân đầu tiên của vị tổ sư dòng Lâm Tế đến Đàng Trong hoằng hóa: đó là Nguyên Thiều-Thọ Tôn Hòa thượng. Từ đây, Phật giáo Bình Định khởi sắc bởi tư tưởng phóng khoáng của tông Lâm Tế. Từ cội nguồn đó, dòng Lâm Tế tại Bình Định truyền thừa theo ba bài kệ: Lâm Tế Nguyên Thiều, Lâm Tế Chúc Thánh, Lâm Tế Liễu Quán. Cả ba phái này hòa quyện và bổ túc cho nhau tạo nên một sự ổn định của Phật giáo tỉnh Bình Định từ xưa đến nay.

Các vị thiền sư đầu tiên của pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh đến đất Bình Định là ngài Thiệt Thuận-Chánh Mạng-Huệ Trường khai sơn chùa Linh Sơn-Phù Cát; Ngài Thiệt Đăng-Chánh Trí-Bửu Quang khai sơn chùa Sơn Long-Quy Nhơn. Cả hai vị đều là đệ tử của tổ sư Minh Hải, thuộc đời 35 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Tiếp đến, ngài Pháp Tịnh-Viên Quang, đời 36 Lâm Tế Chúc Thánh (đệ tử tổ Thiệt Dinh ở Phước Lâm-Hội An) vào khai sơn chùa Thiên Hòa. Đời 37 có các ngài Toàn Ý-Phổ Huệ khai sơn chùa Phổ Bảo; Toàn Tín-Đức Thành khai sơn chùa Khánh Lâm (cả hai vị là đệ tử tổ Pháp Liêm tại Phước Lâm-Hội An); ngài Toàn Thể-Linh Nguyên khai sơn chùa Long Tường (đệ tử tổ Pháp Chuyên- Diệu Nghiêm chùa Từ Quang-Phú Yên). Đời 38, các vị đệ tử tổ Toàn Ý ra khai sơn các chùa như: ngài Chương Lý-Hoằng Hóa khai sơn chùa Diệu Phong; Chương Hiệp-Chánh Trì khai sơn chùa Huỳnh Long; Chương Thiện-Hoằng Đạo khai sơn chùa Phổ Quang; Chương Hải-Thanh Nguyên khai sơn chùa Thiên Trúc; Chương Trí-Quảng Giác khai sơn chùa Hưng Khánh v.v.. Từ đó tạo nên một hệ thống các chùa thuộc dòng Chúc Thánh có sự liên hệ sinh hoạt chặt chẽ.

Trong sự truyền thừa của dòng Chúc Thánh tại Bình Định, có những thiền sư tiêu biểu như sau:

- Thiền sư Liễu Tạng (1784-1866): Ngài sanh năm Giáp Thìn (1784), xuất gia với tổ Toàn Tín-Đức Thành tại chùa Khánh Lâm có pháp danh Chương Nghĩa, hiệu Liễu Tạng, thuộc đời 38 thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài là bậc danh tăng đa văn quảng bác đã soạn cuốn “Thiền môn chánh độ” để làm nghi lễ tế Tăng cang Tổ Ấn-Mật Hoằng thị tịch vào ngày mồng 10 tháng 10 năm Ất Tỵ (1825). Đây là cuốn khoa nghi đầu tiên được soạn để cung tiến Giác linh khi các thiền sư viên tịch nên có tầm quan trọng đối với giới Tăng lữ tại kinh đô cũng như các tỉnh thành. Với đạo cao đức trọng và sự uyên thâm giáo điển, Ngài được mời ra Phú Xuân giảng dạy, hoằng pháp. Ngài thị tịch mồng 4 tháng 4 năm Bính Dần (1866), thọ 83 tuổi. Nhục thân được lưu giữ tại chùa Quốc Ân-Huế.

- Hòa thượng Trí Hải (1876-1950): Ngài thế danh Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876) tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn-Bình Định. Thuở nhỏ, Ngài theo Nho học, thi đậu tú tài năm 31 tuổi.

Năm 1919, khi vừa tròn 43 tuổi, ngài xuất gia với tổ Ấn Lãnh-Hoằng Thạc tại chùa Thạch Sơn-Quảng Ngãi, có pháp danh Chơn Giám, tự Đạo Quang, hiệu Trí Hải, thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Vốn có kiến thức Nho học cộng với sự thông minh mẫn duệ nên Ngài sớm thâm nhập diệu lý của Phật đà.

Năm 1931, Ngài được Hòa thượng Khánh Hòa mời làm chủ bút tạp chí Từ Bi Âm  của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Năm 1934, Ngài khai sơn chùa Bích Liên tại quê nhà. Từ đó mọi người kính ngưỡng đều gọi Ngài là Hòa thượng Bích Liên. Năm 1937, Hội Đà Thành Phật Học tại Quảng Nam Đà Nẵng mời Ngài làm chủ bút tạp chí Tam Bảo. Sau đó, Ngài về chùa nghiên cứu giảng dạy và đã đào tạo nhiều vị tăng tài cho Phật giáo Việt Nam. Ngài viên tịch vào ngày 3 tháng 6 năm Canh Dần (1950) thọ 75 tuổi. Hòa thượng trước tác rất nhiều, đặc biệt hai bản văn “Quy Sơn Cảnh Sách” và “Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi” bằng chữ Nôm đã thể hiện được sự tài hoa của Ngài. [3, 213-217]

- Hòa Thượng Trí Độ (1894-1979): Ngài thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại huyện Tuy Phước-Bình Định. Thuở thiếu thời, Ngài chuyên học Nho và nghiên cứu Phật học. Năm 1935, Ngài được mời làm đốc giáo và giảng dạy tại trường An Nam Phật Học tại chùa Báo Quốc-Huế. Năm 1940, Ngài xuất gia với tổ Chơn Giám-Trí Hải nên được ban pháp danh là Như Đăng, hiệu Trí Độ, thuộc đời 41 dòng Chúc Thánh. Sau đó, Ngài vào tham học với Hòa thượng Phước Huệ tại Thập Tháp. Năm 1941, Ngài thọ đại giới tại chùa Quốc Ân-Huế. Năm 1945, Ngài tham gia Phật giáo cứu quốc và năm 1946, Ngài được mời ra giảng dạy tại chùa Quán Sứ-Hà Nội. Từ đó, cuộc đời của Ngài gắn liền với những Phật sự tại miền Bắc cho đến ngày viên tịch mồng 4 tháng 1 năm Kỷ Mùi (1979) thọ 86 tuổi. Ngài đã để lại nhiều trước tác và dịch phẩm rất có giá trị về Phật học. [3, 571-578]

Hiện tại, dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định còn nhiều cây đại thọ chấn sơn môn, là nơi nương tựa của đàn hậu học như: Hòa thượng Như An-Huyền Quang; Thị Huệ-Bảo An, Thị Quảng-Đổng Quán v.v….

 3.4 Các tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa - Ninh Thuận - Bình Thuận.

Phú Yên từ xưa đến nay vẫn được giới Phật giáo ca ngợi là chốn tổ. Bởi lẽ, các bậc tổ sư danh đức phần lớn xuất thân từ đất Phú Yên như tổ Liễu Quán, tổ Giác Ngộ, tổ Toàn Nhật, tổ Pháp Tạng v.v… Tại Phú Yên, sự truyền thừa chủ yếu là dòng Lâm Tế Liễu Quán và Lâm Tế Chúc Thánh.

Người đầu tiên của dòng Chúc Thánh đến Phú Yên là thiền sư Pháp Chuyên-Diệu Nghiêm, đời 36 Lâm Tế Chúc Thánh. Sau một thời gian hoằng hóa, Ngài khai sơn chùa Từ Quang-Đá Trắng vào năm Đinh Tỵ (1797). Từ đó, chùa Từ Quang trở thành tổ đình của dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại Phú Yên. Nơi đây là trung tâm đào tạo tăng tài của các tỉnh miền Trung vào các thế kỷ XVIII, XIX và đầu thế kỷ XX.

Từ tổ đình Từ Quang, các đệ tử của ngài Pháp Chuyên khai sơn các chùa trong tỉnh như sau: Ngài Toàn Đức-Thiệu Long khai sơn chùa Khánh Sơn; Ngài Toàn Nghĩa-Chơn Thường khai sơn chùa Thượng Tiên Thọ Vân; Ngài Toàn Nhật-Quang Đài khai sơn chùa Viên Quang; Ngài Liễu Năng-Đức Chất khai sơn chùa Phước Sơn; Ngài Liễu Diệu-Chánh Quang khai sơn chùa Triều Tôn v.v..Từ đó, dòng Chúc Thánh hưng thịnh tại Phú Yên và liên tục phát triển vào các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận.

Tại Phú Yên, dòng Chúc Thánh có những vị thiền sư nổi tiếng như :

- Thiền sư Diệu Nghiêm (1738-1810): Ngài họ Trần, sinh ngày 2 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1738) tại làng Cổ Tháp, phủ Thăng Hoa, nay là xã Duy Châu-Duy Xuyên-Quảng Nam. Ngài vốn thông minh đỉnh tuệ, thi đậu tú tài khi 18 tuổi và ra làm quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát. Sau khi xem tuồng “Tam Trinh Cố Sự” và “Long Hổ Sự Duyên”, Ngài ngộ lẽ vô thường ảo hóa của kiếp người nên quyết chí xuất gia. Ngài đến chùa Phước Lâm-Hội An lạy tổ Ân Triêm làm thầy và được tổ cho pháp danh Pháp Chuyên, tự Luật Truyền, hiệu Diệu Nghiêm, nối pháp đời 36 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Từ đó, Ngài tinh cần học đạo, nổ lực hành trì tu tập. Về sau, Ngài đến chùa Thập Tháp-Quy Nhơn theo học với Ngài Liễu Triệt, đồng thời đọc hết bộ Đại Tạng do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Cửu hiến cúng. Vào một đêm, sau khi đọc kinh Hoa Nghiêm, Ngài thấy lòng tỏ ngộ nên phát nguyện: “Phàm gặp người bất luận nam nữ, già trẻ, sang hèn thảy đều giáo hóa quy kính Tam Bảo, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ”. Từ đó, Ngài giáo hóa khắp các vùng từ Quảng Nam vào đến Phú Yên. Mãi đến năm Đinh Tỵ (1797), Ngài mới khai sơn chùa Từ Quang. Thiền sư Pháp Chuyên là người đa văn quảng bác, Ngài trước tác rất nhiều kinh luận, đặc biệt nhất là bộ Tam Bảo Hoặc Luận. Ngài viên tịch vào ngày 17 tháng 6 năm Canh Ngọ (1810) thọ 73 tuổi. [4, 93-97]

- Thiền sư Toàn Nhật: Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ quê quán, năm sinh, năm mất cũng như tên thật của thiền sư Toàn Nhật. Theo tác phẩm “Tam giáo nguyên lưu ký”, thiền sư nói rằng:            

“Ta xưa cũng dự Nho gia

Mười hai tuổi học đến ba mươi  rày…

..Sau ta đầu học phép thiền

Thuở ba mươi tuổi vậy liền xuất gia.”

Như vậy, ban đầu Ngài học Nho nhưng nhận thấy Nho gia không giải quyết được nổi đau sanh tử nên quy y đầu Phật. Năm 30 tuổi, Ngài xuất gia với tổ Pháp Chuyên tại chùa Từ Quang nên có pháp danh Toàn Nhật, tự Vi Minh, hiệu Quang Đài, thuộc đời 37 Lâm Tế Chúc Thánh. Được một vị minh sư như ngài Pháp Chuyên hướng dẫn, ngài Toàn Nhật đã ngộ đạo sau 12 năm tu hành, sau đó về trụ trì chùa Viên Quang. Tại đây, Ngài đã biên soạn, san định, giảo chính trên 20 tác phẩm kinh luận bằng chữ Nôm. Ngài là một trong những vị để lại nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm nhất. [4, 148-149]

- Thiền sư Pháp Tạng: Ngài là đệ tử của thiền sư Ấn Thiên-Huệ Nhãn, đệ tứ tổ tại tổ đình Phước Sơn-Đồng Tròn nên có pháp danh là Chơn Chánh, tự Đạo Tâm, hiệu Pháp Tạng, thuộc đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài kế vị bổn sư trụ trì Phước Sơn với tâm nguyện tiếp tăng độ chúng. Đạo hạnh của Ngài đã được sơn môn Chúc Thánh thỉnh làm Yết Ma cho giới đàn năm Quý Tỵ (1893) tại tổ đình Chúc Thánh-Hội An. Năm Giáp Ngọ (1894), Ngài được triều đình mời ra kinh đô làm thủ gia trì chẩn tế đại khoa tại chùa Kim Quang-Huế. Sau khi hạ đàn, vua Thành Thái đến ôm hôn khen ngợi và ban cho đồng kim tiền, một ca sa và một mũ quan âm. Các năm 1906 và 1907, Ngài khai đàn giới tại chùa Từ Quang và Phước Sơn để thí giới cho tăng tục xa gần, độ người vô lượng. Đệ tử của Ngài có các vị nổi danh như Thiền Phương, Thiền Cơ, Thiền Tâm, Cơ Trụ v.v… [4, 75]. Đặc biệt là ngài Như Đắc-Thiền Phương có công đào tạo nhiều vị cao tăng cho Phật giáo Việt Nam thời hiện đại như các ngài Thị Chí-Phước Hộ; Thị An-Phước Bình; Thị Tín- Phước Trí; Thị Niệm-Phước Ninh v.v..

Hiện nay, dòng Chúc Thánh tại Phú Yên đã truyền xuống đến chữ Đồng, chữ Chúc. Tuy nhiên, đã qua rồi thế hệ các bậc long tượng nên sự sinh hoạt của môn phái  nơi đây rời rạc hơn so với các tỉnh thành khác.                                            

3.5 Tại Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh miền Nam.

Miền Nam, mảnh đất cuối cùng ở phía Nam được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt. Đây là thành quả tất yếu của cuộc trường kỳ Nam tiến trải dài gần 10 thế kỷ. Tuy nhiên, số lượng người Việt di cư đến vùng đất mới này nhiều nhất là vào thời các chúa Nguyễn. Theo bước chân những người Nam tiến, các thiền sư dòng Chúc Thánh cũng đã có mặt đáp ứng nhu cầu tu học của quần chúng Phật tử.

Xét về sự truyền thừa và phát triển của dòng Chúc Thánh tại miền Nam, ta có thể chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX; giai đoạn 2 từ đầu cho đến cuối thế kỷ XX.

a.Giai đoạn 1:

Những năm cuối thế kỷ XVIII, chúng ta đã thấy sự có mặt của các thiền sư dòng Chúc Thánh tại miền Nam. Đó là thiền sư Gia Lành và Gia Linh, thuộc đời 37 Lâm Tế Chúc Thánh đến tỉnh Bình Dương khai sơn chùa Thiên Tôn. Sau khi hai vị thiền sư này qua đời, đệ tử của Ngài Gia Linh là ngài Chương Phụng- Nhơn Lịch kế thừa trụ trì chùa. Cùng thời gian này, thiền sư Toàn Tánh-Chánh Đắc đời 37 Lâm Tế Chúc Thánh từ chùa Tập Phước-Gia Định về trụ trì chùa Hội Khánh-Bình Dương năm 1839.

Như vậy, đến cuối thế kỷ 18, tại miền Nam đã có 3 ngôi chùa lớn truyền theo bài kệ của tổ Minh Hải. Đó là chùa Tập Phước tại Gia Định và chùa Thiên Tôn, Hội Khánh tại Bình Dương. Cả hai ngôi chùa Tập Phước và Thiên Tôn có công giúp đỡ vua Gia Long trong giai đoạn bôn tẩu nên sau khi lên ngôi, vua Gia Long ban sắc tứ để thưởng công.

Từ chùa Thiên Tôn và Hội Khánh, các đệ tử đã ra khai sơn các chùa Tây Tạng, Thiên Chơn, Phước Thạnh, Bình Long v.v..nên hệ thống các chùa thuộc dòng Chúc Thánh nhanh chóng phát triển tại tỉnh Bình Dương. Trong sự truyền thừa tại đây, nổi tiếng nhất là Hòa thượng Từ Văn và Hòa thượng Minh Tịnh.

- Hòa thượng Từ Văn (1877-1931): Ngài thế danh Nguyễn Văn Tầm sinh năm Đinh Dậu (1877) tại làng Phú Cường, tỉnh Thủ Dầu Một. Ngài xuất gia năm lên 10 tuổi với tổ Ấn Long-Thiện Quới tại chùa Hội Khánh nên có pháp danh Chơn Thanh, hiệu Từ Văn, thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài là bậc cao tăng của miền Nam nên được chính phủ Pháp mời sang Marseille tổ chức lễ kỳ siêu cho những người Việt đi lính Pháp chết trận vào năm 1920. Ngài cùng với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thành lập Hội Danh Dự Yêu Nước vào năm 1923 nhằm mục đích giáo dục tinh thần yêu nước trong nhân dân. Ngài có công đào tạo nhiều vị tăng tài cho Phật giáo miền Nam. Ngài viên tịch vào tháng 11 năm 1931, nhục thân được tôn thờ trong khuôn viên tổ đình Hội Khánh.[19, 25]

- Hòa thượng Minh Tịnh (1889-1951): Ngài thế danh Nguyễn Tấn Tạo, sinh năm 1889 tại làng An Thạnh, quận Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương. Năm 16 tuổi xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện tại chùa Thiên Tôn với pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn Tế, thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Còn pháp danh Minh Tịnh là do ngài cầu pháp với tổ Tuệ Đăng tại chùa Thiên Thai-Vũng Tàu. Năm 1935, Ngài một mình hành hương chiêm bái Ấn Độ và Tây Tạng. Sau 2 năm chiêm bái, tu học mật giáo tại Tây Tạng và Ấn Độ, Ngài trở về Việt Nam mang theo Xá Lợi Phật về tôn thờ tại chùa Thiên Chơn. Năm 1945, Ngài được cử làm Chủ tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Thủ Dầu Một. Ngài viên tịch vào ngày 17 tháng 5 năm 1951, nhục thân được tôn thờ tại chùa Thiên Chơn. Hòa thượng biên dịch để lại hai tác phẩm rất có giá trị là Nhật Ký Tây Tạng và Lăng Nghiêm Tông Thông. [19, 41]

b. Giai đoạn 2:

Đầu những năm thế kỷ XX, một số lượng lớn chư tăng thuộc các tỉnh miền Trung vào Nam hoằng pháp. Có lẽ mảnh đất mới miền Nam trẻ trung có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc tu học nên chư tăng vào Nam rất nhiều. Trong trào lưu đó, chư tăng thuộc dòng Chúc Thánh tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên vào miền Nam tu học và chủ yếu là tại thành phố Sài Gòn. Từ đó, các chùa của môn phái Chúc Thánh được thành lập như sau:

Chư tăng thuộc Quảng Nam ban đầu vào ngụ tại chùa Văn Thánh (Quận Bình Thạnh) và Hưng Long (Quận 10), về sau các chùa Bửu Đà (Quận 10), Pháp Hoa (Quận Phú Nhuận), Giác Quang (Quận 4), Viên Thông (Quận 11), Từ Minh (Quận 3), Bảo Tịnh (Quận Bình Thạnh) v.v… lần lần được thành lập, tạo thành một chi phái Chúc Thánh Quảng Nam tại Sài Gòn.

Chư tăng thuộc Quảng Ngãi, tiêu biểu là ngài Khánh Anh vào trụ tại chùa Phước Hậu-Trà Vinh. Tại Sài Gòn, có các chùa Thiền Lâm (Quận 6), Phổ Đà Sơn (Quận 8), Đức Quang (Quận 4), Liên Hoa (Quận 4), Tân Long (Quận 7), Vĩnh Đức(Quận 2) v.v.., tạo thành chi phái Chúc Thánh Quảng Ngãi tại Sài Gòn.

Chư tăng thuộc tỉnh Bình Định vào lập chùa Giác Uyển (Quận Phú Nhuận), Giác Hoa (Quận Bình Thạnh), Phật Quang (Quận 10) v.v…

Chư tăng thuộc tỉnh Phú Yên mà nổi tiếng nhất là Hòa thượng Quảng Đức và Hòa thượng Hành Trụ vào lập chùa Quan Thế Âm (Quận Phú Nhuận), Giác Nguyên, Kim Liên (Quận 4), Đông Hưng, Thiền Tịnh, Từ Phong (Quận 2) v.v…

Như vậy, từ đầu cho đến giữa thế kỷ XX, số lượng chư tăng thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại các tỉnh miền Trung vào tu học và hoằng pháp tại thành phố Sài Gòn có số lượng khá đông. Hệ thống các chùa truyền thừa theo bài kệ của tổ Minh Hải ngày một nhiều. Tuy nhiên, nổi bậc nhất là quý Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Hành Trụ đóng góp rất nhiều công đức cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam.

- Hòa thượng Khánh Anh (1895-1961): Ngài thế danh Võ Hóa, sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia với tổ Hoằng Thanh tại chùa Cảnh Tiên và nhập chúng tu học với Hòa thượng Hoằng Phúc tại chùa Quang Lộc nên có pháp danh Chơn Húy, hiệu Khánh Anh, thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Vốn tính sẵn thông minh nên Ngài thông thuộc kinh, luật và trở thành giảng sư nổi tiếng năm 30 tuổi. Năm 1927, Ngài được mời vào Nam giảng pháp và lãnh đạo Hội Lưỡng Xuyên Phật Học, giảng dạy cho Tăng Ni cũng như cộng tác cho tạp chí Duy Tâm. Năm 1955, Ngài chứng minh cho Hội Phật Học Nam Việt. Năm 1957, Ngài được suy cử làm Thượng Thủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt. Ngày 30 tháng Giêng năm Tân Sửu (1961), Ngài thị tịch với 45 năm cống hiến hết mình cho đạo và thọ 66 tuổi. Ngài trước tác rất nhiều kinh luận, trong đó nổi tiếng nhất là bộ Khánh Anh Văn Sao 3 tập rất có giá trị. Ngài có công đào tạo nhiều vị tăng tài cho Phật giáo Việt Nam như Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Hoàn Quan v.v..Pháp tôn của Ngài là Hòa thượng Thanh Từ, người có nhiều công đức trong việc khôi phục thiền tông Việt Nam trong thời hiện đại. [3, 303-307]

- Hòa thượng Quảng Đức (1897-1963): Ngài thế danh Lâm Văn Tuất, sinh năm Đinh Dậu (1897) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Ngài xuất gia năm lên 7 tuổi với Hòa thượng Hoằng Thâm nên có pháp danh Thị Thủy, tự Hành Pháp, hiệu Quảng Đức thuộc đời 42 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài có tâm nguyện vân du hoằng pháp, gặp nơi nào chùa tháp hư hoại thì Ngài dừng lại trùng tu, kiến tạo rồi lại lên đường. Đời Ngài đã trùng tu cả thảy 17 ngôi chùa và chùa Quan Thế Âm tại quận Phú Nhuận là nơi dừng chân cuối cùng của Ngài. Năm 1963, Phật giáo đồ miền Nam và Trung bị sự đàn áp của chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm. Trước sự đàn áp dã man đó, Ngài phát nguyện tự thiêu vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão (11/6/1963) để ngăn cản bạo quyền. Sự hy sinh cao cả của Ngài đã cứu nguy cho Phật giáo Việt nam thoát khỏi pháp nạn tàn khốc này. Với tâm nguyện ấy, trái tim của Ngài không bị thiêu hủy dưới sức nóng 4000 độ của lò thiêu. Ngài được Tăng Ni Phật tử cả nước tôn xưng là bậc Bồ tát hiện thế. [3, 335-342]

- Hòa thượng Hành Trụ (1904-1984): Ngài thế danh Lê An, sinh năm 1904 tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất gia với tổ Thiền Phương tại chùa Phước Sơn nên có pháp danh Thị An, tự Hành Trụ, hiệu Phước Bình, thuộc đời 41 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Là người học Phật uyên bác nên Ngài sớm làm giáo thọ tại các chùa tỉnh Phú Yên. Ngài có công kiến tạo nhiều ngôi chùa tại Sài Gòn và làm giáo thọ các trường Phật học khắp miền Nam. Ngài nhiều lần được cung thỉnh làm Hòa thượng đàn đầu truyền trao giới pháp cho Tăng Ni. Trải qua các Giáo hội, Ngài đều được cung thỉnh vào Hội đồng trưởng lão chứng minh tiêu biểu cho giới luật. Ngài thị tịch tại chùa Đông hưng vào ngày 29 tháng 10 năm Giáp Tý (1984) thọ 81 tuổi. Ngài trước tác rất nhiều kinh sách nhưng chủ yếu là luật học. [3, 710-714]

Như vậy, tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam hiện tại dòng Chúc Thánh được truyền bá rất rộng rãi. Chư Tăng thuộc các tỉnh miền Trung vẫn trung thành với bài kệ truyền pháp của tổ. Hiện nay, các ngôi tổ đình xưa của dòng Chúc Thánh tại miền Nam như Tập Phước, Hội Khánh không còn truyền theo kệ của tổ Minh Hải. Bởi lẽ, người miền Nam rất phóng khoáng, không câu nệ chấp chặt hệ phái. Điều này, cũng thật là đáng tiếc, vì nó làm mất đi truyền thống bao đời của chư tổ. Có một điểm đặc biệt, khi truyền vào miền Nam trong giai đoạn đầu, ta thấy các thiền sư chỉ truyền pháp danh chứ không có pháp tự. Ví dụ như thiền sư Toàn Tánh có hiệu là Chánh Đắc, chứ không có pháp tự chữ Vi như các vị đồng hàng ở miền Trung. Cũng vậy, các vị Chơn Thanh hiệu Từ Văn, Chơn Phổ hiệu Nhẫn Tế cũng không có pháp tự chữ Đạo theo như bài kệ truyền pháp tự của tổ sư Minh Hải.

 

3.6 Tại hải ngoại:

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng

Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung

Mái chùa che chở hồn Dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông.

                                                            Huyền Không

Phật giáo và Dân tộc đồng hành, đây là một quy luật bất di bất dịch từ 2000 năm nay. Dân Việt đi đến đâu thì Phật Việt theo đến đó. Theo để mà an ủi vỗ về trong những lúc gian nan lận đận.

Vào những thập niên 70-80 của thế kỷ XX, một số lượng lớn người Việt ra nước ngoài định cư. Người Việt rời tổ quốc ra đi với hàng nghìn lý do, nhưng Phật Việt ra hải ngoại chỉ một lý do duy nhất: hướng đạo tinh thần cho người Việt xa xứ và truyền bá giáo lý Phật Đà tại Tây phương. Tuy nhiên, cộng đồng người Việt chỉ tập trung chính ở các nước thuộc Châu Âu, Mỹ và Châu Úc.

Theo dòng người định cư tại hải ngoại, con cháu của tổ Minh Hải cũng đã có mặt khắp các châu lục để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng cũng như ấp ủ chở che cho những người Việt lưu lạc.

Ở Châu Âu, chùa Viên Giác tại Đức là đạo tràng lớn nhất truyền thừa theo dòng Chúc Thánh. Thượng tọa Như Điển thuộc đời 41 dòng Lâm Tế Chúc Thánh sau 6 năm du học tại Nhật đã sang Đức vào năm 1978 để hoằng pháp. Sau 20 năm hành đạo, Thượng tọa đã đào tạo được một đội ngũ tăng trẻ đủ khả năng gánh vác Phật sự tại các chi hội Phật giáo ởi Châu Âu và Thượng tọa đã thành lập một hệ thống các chùa trực thuộc tông Lâm Tế Chúc Thánh như Viên Ý (Italy), Vạn Hạnh (Đan Mạch), Viên Âm, Tam Bảo (Đức), Niệm Phật đường Thảo Đường (Nga), Trung tâm tu học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng - Ấn Độ.

Năm 1975, Hòa thượng Như Kế-Huyền Vi đời 41 Lâm Tế Chúc Thánh cũng đã đến Pháp lập chùa Linh Sơn tại thủ đô Paris. Sau đó, Ngài sáng lập và làm Tăng Thống  Giáo Hội Linh Sơn trên khắp các nước Châu Âu và Châu Mỹ.

Cũng trong giai đoạn này, người Việt sang định cư tại Mỹ rất đông. Trong đó, số lượng tăng sĩ thuộc các thiền phái đều có mặt tại Mỹ để hoằng pháp. Trong tăng đoàn ấy, có Hòa thượng Chơn Điền, đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh sang bang Texas lập chùa Quan Âm; Hòa thượng Thông Đạt-Thanh An, đời 43 Lâm Tế Chúc Thánh lập An Tường Tự Viện ở bang Oakland; Thượng tọa Hạnh Đạo, đời 42 Lâm Tế Chúc Thánh lập chùa Phổ Đà tại bang California; Thượng tọa Đồng Điển-Thông Kinh đời 43 Lâm Tế Chúc Thánh lập chùa Đông Hưng tại bang Virginia. Tất cả quý Ngài cũng không ngoài tâm nguyện phục vụ cho cộng đồng người Việt xa xứ.

Tại Châu Úc, Hòa thượng Như Huệ, thuộc đời 41 Lâm Tế Chúc Thánh  từ Việt Nam sang lập chùa Pháp Hoa tại Nam Úc vào năm 1982, sau đó Hòa thượng lại tiếp tục khai sơn chùa Pháp Âm để Phật tử có nơi chiêm bái, tu tập. Cùng thời gian, Hòa thượng Đồng An-Bảo Lạc đời 43 Lâm Tế Chúc Thánh sau khi tốt nghiệp tiến sĩ tại Nhật Bản đã đến Úùc lập chùa Pháp Bảo tại Sydney. Hòa thượng có công rất nhiều trong việc phiên dịch các kinh điển từ Hán sang Việt. Bên cạnh đó, Thượng tọa Như Mẫn-An Thiên, đời 41 Lâm Tế Chúc Thánh sau khi tốt nghiệp tiến sĩ Phật học tại Nhật đã sang Úc cộng tác với Hòa thượng Bảo Lạc từ năm 1991. Đến năm 1996, thấy nhân duyên hội đủ nên Ngài ra lập chùa Minh Giác tại Cabramatta, Thượng tọa Như Định đời 41 Lâm Tế Chúc Thánh lập chùa Thiên Ấn v.v…

Như vậy, số lượng tăng sĩ thuộc dòng Chúc Thánh sang hoằng pháp tại hải ngoại không phải là ít. Các Ngài bằng hết tâm lực của mình đã kiến tạo chùa chiền nơi xứ người. Tuy rằng những ngôi chùa Việt tại hải ngoại không có mái cong vút, khung cảnh không có thâm u như những ngôi chùa trong nước nhưng cũng đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình: che chở một phần hồn Dân tộc viễn xứ trong những mùa đông lạnh buốt.

C. KẾT LUẬN

Chim bay không cầm  bóng

Nước trôi chẳng giữ  màu

Phất phơ vài lá trúc

Như gió thoảng vườn sau!

Từ xưa đến nay, chư vị tổ sư như cánh nhạn lưng trời bay qua dòng sông đâu có ý niệm lưu hình giữ bóng.Với sự liễu triệt ý đạo thâm huyền, thấy rõ thực tướng các pháp nào có đến có đi thì các Ngài có gì để lưu lại. Tuy nhiên, đứng về mặt tục đế, người viết còn thấy các Ngài đã đến, đã hiện hữu, đã đi nên mạo muội ngược dòng lịch sử trở về quá khứ, phủi dần lớp bụi thời gian để tìm lại những vết chân xưa của các bậc cổ đức, từ đó hiểu rõ hơn công hạnh của tiền nhân. Trong quá trình “Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam”, chúng ta tạm có những nhận định như sau:

- Thiền sư Minh Hải là vị tổ đầu tiên truyền bá dòng thiền Lâm Tế tại Quảng Nam. Bằng sự chứng ngộ của mình, tổ sư Minh Hải đã xuất kệ truyền thừa, lập nên một thiền phái lớn trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Với tư tưởng “Đắc chánh luật vi tông”, Ngài đã đặt một nền tảng căn bản cho sự phát triển của tông môn. Nền tảng này là nguồn cội của tất cả các thiện pháp, Nhân thừa, Thiên thừa, Phật thừa do đây mà thành tựu. Trong bối cảnh đất Quảng Nam đang thiếu một bậc tôn sư hướng đạo, tổ Minh Hải đã đến đúng lúc, đã đáp ứng được tâm nguyện của tín đồ quần chúng. Vì thế, hạt giống Bồ Đề Ngài gieo cách đây 300 năm giờ đã sum suê cành lá. Đồng thời, qua đây ta có thể kết luận rằng: tổ sư Minh Hải không phải là đệ tử của tổ Nguyên Thiều và Ngài cũng không phải là người khai sơn tổ đình Thiên Ấn tại Quảng Ngãi.

- Kể từ ngày tổ sư Minh Hải chấn tích khai sơn, các đệ tử của Ngài đã kế thừa xứng đáng sự nghiệp của thầy tổ nên môn phong Chúc Thánh nhanh chóng hình thành và phát triển. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, các thiền sư dòng Chúc Thánh đã đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền pháp tại Quảng Nam, khiến cho Phật giáo tại nơi đây sớm ổn định và phát triển rực rỡ. Các tổ đình Chúc Thánh, Phước Lâm, Tam Thai v.v… trở thành những trung tâm hoằng pháp chính tại Quảng Nam. Từ những tổ đình này, các vị tổ sư dòng Chúc Thánh đã đào tạo nhiều thế hệ “Như Lai Sứ Giả” đem tư tưởng của Tổ cũng như Pháp kệ truyền bá rộng rãi từ đất Quảng  vào đến các tỉnh miền Nam,

- Sự phóng khoáng của tư tưởng Lâm Tế kết hợp với bản tính cương trực thực thà của người dân đất Quảng đã tạo nên một phong cách sống rất đặc thù của tu sĩ  Quảng Nam: giản dị, gần gũi với tầng lớp bình dân lao động nhưng cương cường bất khuất trước những ai đi ngược với quyền lợi của Đạo pháp và Dân tộc. Do thấm nhuần tư tưởng “Phật pháp bất ly thế gian giác” và hiểu rõ mối tương quan khắng khít giữa Đạo pháp và Dân tộc, tăng sĩ Quảng Nam đã dấn thân vào các phong trào đấu tranh đòi độc lập tổ quốc, tự do cho Dân tộc  và Đạo pháp, thể hiện được sứ mệnh “Hộ quốc an dân “ của người con Phật Việt.

- Với chất giọng Quảng hòa âm cùng làn điệu dân gian, các thiền sư dòng Chúc Thánh đã tạo nên một nghi lễ đặc thù của Phật giáo xứ Quảng. Các điệu hò niệm Phật, các khoa nghi Bạt độ vớt vong, chèo đò tống linh v.v…đã an ủi vỗ về những số phận bất hạnh trong niềm tin tôn giáo và đây cũng là phương tiện thiết thực đưa mọi người vào đạo để hướng tâm đến sự giải thoát an lạc. Tất cả những nét đặc thù của Phật giáo Quảng Nam được thể hiện qua sự tu tập, hành đạo của chư tổ cũng như chư tôn Hòa thượng cận đại của dòng Chúc Thánh.

- Theo bước chân Nam tiến của Dân tộc, các thiền sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh có mặt tại các tỉnh thành trong cả nước để truyền bá giáo lý giải thoát của Phật Đà và ý chỉ Tổ sư. Tại mỗi địa phương đi đến, các Ngài đã đem hết khả năng của mình để giáo hóa và dần dần tạo nên chi phái khắp các mọi nơi. Tăng đồ của thiền phái Chúc Thánh đóng vai trò quan trọng trong việc hoằng pháp tại các tỉnh thành từ Thừa Thiên-Huế đến Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Sài Gòn-Gia Định v.v….Ngày nay, theo bước chân người Việt xa xứ, tăng nhân Chúc Thánh có mặt khắp các Châu Lục để làm tròn sứ mệnh “Che chở hồn Dân tộc” của mình, góp phần đem ánh sáng Chánh pháp cũng như giới thiệu 2000 năm lịch sử thăng trầm truyền bá Phật giáo Việt Nam đến với các nước phương Tây

- Trải qua 300 năm hình thành và phát triển, tăng đồ của thiền phái Chúc Thánh góp phần rất lớn trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp tại nước nhà. Các thiền sư Thiệt Dinh, Pháp Liêm, Pháp Chuyên, Toàn Nhật, Vĩnh Gia, Từ Trí v.v…đều là những bậc cao tăng có sự ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Việt Nam qua các thời đại. Mỗi vị có một hạnh nguyện riêng biệt để hoằng pháp độ sanh: ngài Pháp Liêm-Luật Oai  với hạnh nguyện Bồ Tát ròng rã 20 năm quét chợ không quản nắng mưa, ngài Pháp Chuyên-Luật Truyền, ngài Toàn Nhật- Vi Bảo với trí tuệ siêu việt đã trước tác nhiều tác phẩm Phật học có giá trị lưu lại hậu thế, ngài Ấn Bổn - Vĩnh Gia có công rất lớn trong việc đào tạo tăng tài thời cận đại v.v… tất cả đã viết nên trang lịch sử vàng son cho môn phái. Đặc biệt, ngọn lửa “Đại Hùng Lực, Đại Từ bi” của ngài Thị Thủy-Quảng Đức năm 1963 đã góp phần không nhỏ trong việc đưa Phật giáo và Dân tộc thoát khỏi một chế độ độc tài hà khắc. Ngọn lửa thiêng ấy chính là đỉnh cao, là kết tinh của tinh thần phụng sự Đạo pháp và Dân tộc của tăng nhân dòng Chúc Thánh.

Hiện tại, chư  tăng dòng Lâm Tế Chúc Thánh chiếm một lượng lớn và đóng góp không nhỏ trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Với một bề dày truyền thừa, phát triển và có những đóng góp lớn lao như thế, nhưng các nhà viết sử Phật giáo Việt Nam lại lãng quên thì thật là thiếu sót. Trong quá trình tìm hiểu về lịch sử dòng Lâm Tế Chúc Thánh, người viết gặp rất nhiều trở ngại về nguồn tư liệu nghiên cứu. Từ đây, người viết mới phần nào hiểu được sự khó khăn của các nhà làm sử Phật giáo khi đề cập đến sự truyền thừa của thiền phái Chúc Thánh. Tuy nhiên, không phải vì sự khó khăn trong vấn đề tư liệu mà chúng ta bỏ cuộc, cứ để lịch sử mãi trôi dần về quá khứ và bị phong kín bởi cánh cửa thời gian.

Ngày nay, dòng Lâm Tế Chúc Thánh đã truyền xuống đến đời 44, 45, 46 nghĩa là đã xuống đến chữ Chúc, chữ Thánh, chữ Thọ hoặc chữ Vạn, chữ Hữu, chữ Duy (theo bài kệ tại Bình Định). Điều này là một minh chứng cụ thể cho sự phát triển của môn phái Chúc Thánh. Mỗi khi truyền xuống một đời là báo hiệu cho sự cách biệt một khoảng thời gian giữa các thế hệ. Vì thế, qua đây người viết tha thiết mong rằng chư vị tôn túc trong môn phái nên có một chương trình cụ thể viết về lịch sử truyền bá của thiền phái Chúc Thánh để các thế hệ hậu bối sau này được tường tận và nối tiếp truyền thống tông môn. Như lời các bậc cổ đức có nói: “Vô cổ bất thành kim”, không có xưa thì không có nay, nếu không hiểu tường tận quá khứ của cha ông thì tương lai con cháu sẽ không có một định hướng rõ ràng cho sự phát triển của mình.

Trong quá trình thực hiện đề tài, con đã được chư vị tôn túc trong và ngoài môn phái thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và thành phố Hồ Chí Minh tận tình chỉ dạy, góp ý, cung cấp tư liệu để bản luận văn sớm được hoàn thành. Qua đây, con xin dâng lời tri ân đối với những tình cảm nồng nàn chân thiết của chư vị tôn túc. Tuy nhiên, với thời gian có hạn, kiến thức còn hạn hẹp và kinh nghiệm khảo cứu còn non yếu nên người viết không làm sao tránh khỏi những sai sót, mong rằng chư vị tôn túc cũng như các bậc thiện hữu tri thức hoan hỷ chỉ dạy để trong tương lai chúng con đi sâu nghiên cứu vấn đề này được tường tận và chuẩn xác hơn.

 

Nguồn: dentutraitim.com

---o0o---