7 NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO

21 Tháng Chín 20169:51 CH(Xem: 12967)
7 NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO

MỸ THUẬT PHẬT GIÁO

Kiêm Đạt

(ĐH Đông Phương – California – USA)

 

 

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO

 

Mỹ thuật và dân tộc tính

Sự phát triển  Phật Giáo khắp châu Á cũng  chịu ảnh hưởng lịch sử thạnh suy của từng nước. Ngay tại Ấn Độ là xuất phát điểm của đạo Phật, Phật Giáo chỉ hưng thịnh trong nghìn năm đầu, nhưng vào  thế kỷ thứ VI và VII, đã bị sát nhập vào Ấn Đọ Giáo. Ở Nepal, Tây Tạng và những quốc gia vùng Hy Mã Lạp  Sơn, Miến Điện, Sri Lanka, Phật  Giáo vẫn còn lớn mạnh cho đến  ngày nay. Tại  Tây Tạng, sự  phức tạp trong  nghi lễ tôn giáo và  hình thành một nền  văn hoá Tây Tạng  độc đáo. Trong khi các nước Nam Á, Phật Giáo vẫn giữ truyền thống cổ xưa, thì những quốc gia  miền bắc, bắt  đầu từ vòng  đai Hy Mã  Lạp Sơn lại theo những trường phái đầy huyền bí và sùng bái. Tại các quốc gia vùng Đông Nam  Á, nghệ thuật Phật  Giáo lại nhấn mạnh  về những chủ đề truyền thống, tượng  hình liên quan đến lịch sử  đức Phật và giáo pháp của ngài.

Tại Ấn Độ, 8 trung tâm hành hương liên quan đến cuộc đời đức Phật như Bodhi Gaya,  nơi Ngài đạt chánh quả,  Sarnath nơi Ngài thuyếtgiảng bài  pháp đầu tiên còn  lưu lại nhiều di  chỉ, di vật liên quan đến đời Ngài. Tại Nhật Bản, Phật Giáo hoà nhập  với tín ngưỡng dân gian và  Thần Đạo theo khuynh  hướng thờ cúng bản  địa. Tại Triều Tiên, hầu hết  điêu khắc và đồ tượng của  chùa chiền đều dựa theo"Túc Sanh Truyện"  tác phẩm minh họa lại những  tiền thân của đức Phật; gần đây nhất, việc khai quật được 10,000 tượng Phật đủ loạiỏ thế kỷ thứ  VIII gần Hán Thành đã phác  thảo rõ nghệ thuật Phật Giáo toàn bích trong thời du nhập nầy. Tại Indonesia, nghệ thuật Phật Giáo hướng về vũ trụ luận Phật Giáo trong đó "kiến trúc  tứ trụ" của chùa tháp Borobudur là hình ảnh của núi Tu Di (Meru), hình ảnh cao nhất của cuộc sống và tu hành. Tại Việt Nam, kiến trúc  chùa Pháp Vân và tháp Hoà Phong được xem là  công trình đầu tiên tại thành  Luy Lâu,  do ảnh hưởng Phật Giáo từ Ấn  Độ trực tiếp theo đường bộ vào. Pho tượng duy nhất đời Lý còn bảo lưu được đến ngày nay là tượng Phật A Di Đà  (Amitabha) chùa Phật Tích  thì mang phong cách  thuần túyViệt Nam.

 

Phong cách đặc thù kiến trúc PG

Nhìn chung, nghệ thuật Phật Giáo góp phần củng cố những nguyên lý bất diệt của  tôn giáo, cúng với sự phát  triển và phong cách của nó, duy trì  toàn bộ cho lịch sử  tôn giáo, 2 đặc tính  nầy không thể tách rời nhau. Với tín đồ, xây chùa, đúc chuông, chú tượng và những cúng dường cho các đền  chùa là một trong những phương tiện căn bản cho người  tu tại gia có thể tạo được  một nhân sinh quan và nhận thức  quan hướng Phật. Trong nền nghệ  thuật nầy, phải kể đến những kiến trúc chùa tháp, điêu khắc, trang trí, đồ họa trong chùa chiền... tất cả tạo cảnh quan cần thiết trong cúng dường, lễbái.

Nói đến kiến trúc Phật Giáo thời nguyên thủy phải kể đến các tháp (Stupa), chánh điện  (Chaitya) và tịnh xá (Vihara)  mà phong cách mỗi nơi một khác. Chẳng hạn tại  Tây Tạng, ảnh hưởng của Mật Tôngqua  Kim Cang  Thừa (Vajrayana)  thể  hiện  qua những  Mạn đà  la (Mandala), Thần chú (Mantras) và Ấn quyết (Mudra) đưọc xem là chủ điểm trong điêu khắc Phật Giáo tại đây. Tất cả những  điều kể trên là dấn  ấn mỹ thuật để minh  họa chứng tích văn hoá từng vùng.

Mỹ thuật Ấn Độ:

Nền mỹ thuật  Phật Giáo Ấn Độ vĩ  đại và hoành tráng khởi  đầu từ thời vua A  Dục (Ashka) khoảng năm 272 -  231 trước CN. Điển hình của mỹ thuật thời nầy phải kể  đến những "chiếc cột vũ trụ" là sự hoà điệu  kiến trúc Phật Giáo  và yếu lý kinh  Vệ Đà. Trên những chiếc cột nầy, những bài kinh  Phật, hình Phật, bánh xe luân hồi, núi Tu Di, toà  sen và những biểu tượng PG là  nổi bật nhất. Kiến trúc những chiếc cột vũ trụ  được truyền bá sang hai vùng Bengale và Afghanistan, nhất  là vùng thung lũng Indus.  Những công trình nầy chỉ bị gián đoạn khi đế chế Ba Tư xâm lăng Ấn.

Bên cạnh  đó là kiến trúc  chùa tháp. Nghệ thuật  Ấn rõ nét trong việc  kiến tạo  các Tịnh  xá (Vihara),  Chánh điện (Chaiya). Theo giới nghệ thuật Ấn, hình tháp là  biểu trưng Đại Niết Bàn của đức Phật (Pari Nirvana). Trong các bảo  tháp dạng nầy, nổi tiếng nhấtlà bảo tháp Sanchi, bảo tháp Bharhurt và bảo tháp Amaravati. Điêu khắc ở bảo tháp  Sanchi trình bày hình tượng tiền  thân đức Phật, dựatheo Túc  Sanh Truyện. Bảo tháp  Bharhurt nặng về nghệ  thuật tạo hình cách điệu (symbol); trong khi  đó thì bảo tháp Amaravati thể hiện tượng Phật Tượng Tam  Thế: Quá khứ, Hiện tại,  Vị lai (đức Phật A Di Đà, đức Bổn  Sư Thích Ca  Mâu Ni, đức  Đương Lai Hạ  Sanh Di Lặc Tôn Phật); Di Đà Tam Tôn: Phật A Di Đà (Amitabha) ở giữa; đức Đại Thế Chí Bồ Tát  (Maha Sthanaprata) ở  bên trái; đức  Quan Thế Âm  Bồ Tát (Avalokitesvara) ở bên phải; tượng Thế Tôn: Đức Bổn Sư  Thích Ca Mâu Ni (Cakyamonni) ở giữa; đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjucri) ở bên trái;  đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát (Samantaghadha) ở bên phải.

Một số chùa, bên cạnh đức Thế Tôn là đức A Nan Đà (Ananda) và Ma Ha Ca Diếp (Mahakacyapa); tượng Di  Lặc Tam  Tôn: Đương  Lai Hạ  Sanh Di  Lặc Tôn  Phật (Maitreya) ở giữa, đức Pháp Hoa Lâm  ở bên trái; Đại Diện Tướng ở bên phải.  Tượng Đế Thích (Indra) ở bên trái và đức Ngọc Hoàng (Brahma) ởbên phải. Tượng  Tứ Thiên Vương (Đông, Tây, Nam  Bắc) hay Tứ Bồ Tát (Ái Bồ Tát, Sách Bồ Tát, Ngữ Bồ Tát và Quyền Bồ Tát);  tượng Địa Tạng  Vương Bồ Tát (Ksutigabha); các tượng về  đức Quan Thế Âm Bồ Tát như:  Quan Âm Chuẩn Đề (3 mặt, 18 tay) Quan Âm Thiên Thủ, Thiên Nhãn (nghìn tay, nghìn mắt) Quan Âm Nam Hải (đi bè vượt biển cả).

Vào triều đại Gupta , khi Phật Giáo  Ấn lùi về phát triển nông  thôn thì kiến trúc "hang động". Công trình tiêu biểu nhất là hàng loạt hang động Ajanta, là mô hình tịnh xá truyền thống Ấn,  bảo lưu đến ngày nay. Kiến trúcnầy biểu hiện tính đa thần, theo phong cách "tiền Phật, hậu Thần"  hay "tiền Thần, hậu Phật".

Mỹ thuật PG Miến Điện:

Trong những  quốc gia Nam Á  chịu ảnh hưởng Ấn  Độ, mỹ thuật Miến Điện thấm nhuần sâu sắc nhất. Những vốn là một nước đa chủng, với chính sách khép  kín, cho nên kiến trúc và  điêu khắc tại đây khó phá vỡ dạng thức cũ. Cho đến thời  kỳ "Pagan rực rỡ" (thế kỷ XI -XIII), thời  hoàng kim của mỹ  thuật PG mới tạo  được bản sắc độc đáo. Không có những kiến trúc quy mô như Kampuchia hay Indonésia, nhưng các công trình PG ở đây rất đa dạng, chi tiết và phát triển toàn diện.  Nhìn chung, mỹ thuật  Miến Điện thể hiện  trên 2 dạngcông trình: Chùa  (stupa) và đền. Stupa ở đây  thường bố cục theo các loại  hình trụ, hình  chỏm, hình chuông,  chân tháp mở  rộng, trên  chóp khắc  chạm hình  Hrâna.

 Những  stupa mới  nhất có kích thước lớn, trở thành trung tâm của những quần thể kiến trúc phức tạp; điển hình là khu chùa chiền Shwedgon tại thủ đô Rangoon. Cònnhững ngôi  đền thờ tuân  thủ theo  2  bình đồ: một  bình đồ hìnhvuông dùng làm  điện thờ, với nhiều phù điêu  nổi tiếng; một bìnhđồ khác kiến trúc hang động, bố cục hình chữ thập. Phần điêu khắcchiếm phần  lớn các trần nhà  có dạng vòm hình  cung hay vòm cuốn bán nguyệt. Đề tài dựa theo kinh "Bổn sanh" (Jataka) về tiền thân đức Phật, Bồ Tát, nhất là đức Quan Thế Âm (Avalokitesvara).

Mỹ thuật PG Sri Lanka

Phật Giáo Sri  Lanka duy trì liên tục trong  suốt 2,000 năm. Theo truyền thuyết, đức Phật Thích Ca có thăm viếng đảo nầy 3 lần; sau đó con trai của vua A Dục  đến đây kiến tạo những công trình kiếntrúc lớn.  Thủ đô cổ  Anuradhapura nước nầy  trở thành trung  tâm nghệ thuật Nam Á. Tại đây, nhiều điện thờ, tu viện, quần thể kiến trúc, đồ tượng chung quanh cội bồ đề nổi tiếng.

Mỹ thuật PG Tây Tạng:

Mọi công trình đều kiến tạo trên nền tảng giáo lý Mật Tông. Quần thể chùatháp Potala tiêu  biểu rõ nét nhất cho kiến  trúc và điêu khắc PGxứ nầy. Ba đại tu viện khác tiếp tục khai thác mọi thành tựu giáolý Kim Cang Thừa: Tu viện Thiktse  tập trung các hình thức Mạn ĐàLa; Tu viện Shalu khai thác nguồn mỹ cảm phái Cổ Mật, còn tu việnSamye (Yeshe Od) kiến trúc theo  nguyên lý "tứ trụ". Từ Tây Tạng,kiểu dáng nầy đã truyền sang các nước như kiến trúc chuà Đại Ngỗng(Great Goose) tại Sian (Trung Hoa), tháp Shwedigon (Miến Điện) vàchùa Horyuji tại Nara (Nhật).

Kiến trúc PG Trung Quốc

Kiến trúc chỉnh  thể PG Trung Quốc được nói  đến từ đời nhà Đường (581 - 907). Mỹ  thuật PG thời nầy do ảnh hưởng  của 3 tông phái: Tịnh Độ Tông, Mật Tông và Thiền  Tông. Mỹ thuật Tịnh Đô Tông nhấn mạnh đến cõi  Niết Bàn, mà trong đó  hình ảnh kiến tạo núi  Tu Di (Meru) được xem là trung tâm  điểm; ngoài ra, hình tượng đức Phật A Di Đà thể hiện hàng trăm kiểu  thức; Mật Tông chú trọng đến cấu tạo đồ  tượng Mạn Đà La,  tánh chất "Mật" trong  các phạm trù kết cấu. Thiền tông thì thiên về hình ảnh tĩnh lặng, siêu thoát, chơn như, trong đó thiền họa và giai thoại thiền là chủ điểm. Chùa chiền Trung Hoa đời Đường  cũng mang phong cách đặc biệt: do cấu trúc bằng  gỗ, chùa mở chiều rộng hơn  là chiều cao. Quần thểchùa chiền đều  theo một trục thẳng, từ cổng  đến hậu viện. Chánh điện thì theo kiểu thức "tứ trụ", ở giữa thờ đức Bổn Sư, 4 góc có Từ Thiên Vương.

Đến đời  Tống, kiến trúc chùa  có vài thay đổi:  Hai chái được mở rộng, nhiều gian  nhà phụ. Toàn bộ kết cấu  theo hình chữ "Đinh", chữ "Tam" hay  kiểu "Nội Công, Ngoại Quốc". Đồ  án kiến trúc theo chủ nghĩa  thế tục của người  Trung Quốc, tượng thờ  đa dạng hơn, tiện nghi phong phú hơn. Ảnh  hưởng của "Tân Khổng Giáo" đến kiến trúc không ít. Từ thế kỷ VII về sau, Thiên Thai Tông (Tiantai) phát triển; trung tâm tông phái nầy  ở Ninh Ba, một trung tâm tu  học và hành hương vị  đại. Thiên  Thai Tông  vốn theo  giáo lý  trong Liên Hoa Kinh (Saddharma  Pundarka) nên  kiến trúc  và điêu  khắc đều theo đúng trọng tâm  kinh điển nầy: nhấn  mạnh về đức tin,  tán dương bồ đề tâm kiên cố.

Kiến trúc PG Nhật Bản:

Nền mỹ thuật nầy chia làm 3 giai đoạn:

(a) Trong triều đại Asuka và Nara (552 - 794)  Phật Giáo Nhật khởi đầu du nhập từ Triều Tiên. Những đền  chùa tiêu biểu trong giai đoạn  nầy đều tại trung  tâm Horayuji còn mang  dấu ấn ngoại lai, trước  khi chấn chỉnh.  Mỹ thuật PG  đã kết hợp  với văn hoá Thần Đạo khá nhuần nhuyễn, theo hướng bảo vệ dân tộc tính. Tượng Tam Thế Phật ở Kondo là trường hợp tiêu  biểu, mà trong đó Tam tượng Shika là kỳ  công của triều đại  Asuka trong khi đó  điện thờ Tamamushi sáng giá nhất triều đại Nara. Nét tiêu biểu là Phật Giáo đại thừa Nhậtlúc nầy nặng về lễ bái chư Phật, chư thiên.

(b) Trong triều đại Heian (794 - 1185) được xem là thời hoàng kim củaPG  Nhật. Ngay  chung quanh  thủ đô  Đông Kinh  có hàng ngàn chùachiền lớn  nhỏ xây dựng trong  ba năm đầu. Với  phong cách Kondo,kiến trúc Nhật mở ra chu kỳ mới. Tông phái Saicho (767 - 822) chịu ảnhhưởng của Thiên Thai Tông Tông phái  Chơn Ngôn (Shingo) chuyển  sang giáopháp thần  bí của Mật Tông, nhưng vẫn cố gắng bảo  vệ tính trong sáng vàhuyền diệu PG Nhật. Khu di tích Toji là nét tiêu biểu quan trọng của triều đại Heian.

(c) Trong  triều đại  Kamakura và   Muromachi (1185  - 1573)  PG Nhật chuyển sang chu kỳ mới. Tuy cuộc nội chiến  cuối thế kỷ XII đã gây tai  hại lớn cho nhiều công trình kiến trúc, nhưng ngay sau đó, cuộc kiến thiết bắt đầu. Kamakara được mệnh danh là sự phục hồi truyền thống cổ điển trong nghệ thuât Phật Giáo toàn nước  Nhật. Chùa chiền, tháp tượng từng bước được  tái tạo. Cuộc phục  hưng PG trong giai  đoạn nầy không ngoài đường hướng phục hoạt tư tưởng chân chính, chống ngoại lai. Chùa Todaiji  và chùa  Kofukuji trở  thành hai  biểu tượng chính thống trong giai đoạn nầy với phong cách Phật Giáo hoà hợp. Trường phái điêu khắc "Kei" trở thành hướng chỉ  đạo trong mọi công trình xây dựngchính. Nhìn chung,  kiến trúc và điêu  khắc Phật Giáo Á  Châu không theo một mô thức đồng  nhất, hội nhập với văn hoá bản  địa, nên đã tạo kiểu thức và phong cách đa dạng, sinh động và biểu cảm.

 Nghệ thuật thiền họa

Thiền bắt  đầu từ thời  Phật Thích Ca,  rồi được tổ  Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) từ Ấn  Độ truyền sang Trung Quốc  vào năm 480. Ngài là Tổ sư Thiền Tông đời thứ 28  ở Ấn Độ. Ở Trung Hoa, lúc ban đầu  Thiền bị  ảnh hưởng mạnh của  Lão Giáo và Khổng  Giáo. Thiền chỉ độc lập và nổi  tiếng ở đây từ thế kỷ thứ  VII (đời Đường) và trở thành một tông phái chính ở  Trung Hoa. Thiền được giới thiệu đếnNhật vào khoảng  thế kỷ thứ IX qua hai  thiền phái Lâm Tế (RinzaiSect) và Tào Động (Soto/ Tao tung); cả hai  đều ảnh hưởng sâu sắc  tư tưởng của ngài Lục  tổ Huệ Năng ở thế kỷ thứ  VIII. Nếu Thiền Lâm Tế thích ứng với giới thượng lưu trí thức, thì Thiền Tào Động lạigần gũi với tầng lớp bình dân.

Thiền sư đắc đạo  với tâm bao la, hoà nhập với  trời đất và có sức ảnh hưởng lớn vào lòng người,  vũ trụ và nhân sinh. Thiền tâm ngự trị trong  thế giới trầm lặng thì nó  tỏa sức sống, tạo thành cảnh giới yên  tĩnh, an vui kỳ diệu. Thậm  chí Thiền đi vào trong nghệ thuật,  tạo thành giới võ  sĩ đạo ở Nhật.  Thiền đi vào nghệ thuật cắm hoa, uống trà là những sinh hoạt rất bình thường, những uống trà, cắm  hoa theo phong cách Thiền, gọi  là Hoa đạo, Trà đạo thì khác hẳn.  Tuy nhiên chỉ có Thiền sư,  Thiền sinh tức là những  người có sức sống Thiền mới có khả năng thể hiện Hoa đạo, Trà đạo.Trong lãnh vực nghệ thuật, những tác phẩm Thiền họa có thể nói làcó giá trị  tuyệt đối. Chỉ cần vài  nét đơn sơ phác thảo  lên mộtcành hoa,  một hòn đá trên  nền trắng, mực đen,  cũng đủ toát lênsức sống mạnh  mẽ, mà không cần sử dụng  nhiều màu, không vẽ thêmgì nữa.

Thiền đã ảnh  hưởng đậm nét trong tâm  hồn của hai dân tộc  Hoa -Nhật suốt bao thế kỷ trong sinh  hoạt đời sống hàng ngày cũng nhưtrong học thuật, mỹ nghệ.

Thiền họa  ở Trung Hoa cũng  có những nét đặc  biệt trong lịch sửhội họa của nước nầy. Từ trước, hội họa  truyền thống của Trung Hoa gồm các chủ đề  ước lệ, thể hiện  với màu sắc đậm  nhạt khác nhau, thậm chí những màu rực  rỡ. Các chủ đề nầy  được lặp đi lặp lại thể tài về hoa (mai, lan, cúc, trúc, sen, thủy tiên, mẫu đơn,quỳnh, tử đằng) về các cầm  thú (phụng, hạc, ưng, trĩ, công, két, quạ,  chim cút,  vịt trời,  nai, dê)  linh thú  (long, lân,  quy, phụng) côn trùng (bướm, chuồn chuồn, dế, bọ ngựa, sâu, kiến), thủy tộc (cá,  tôm cua, ngạc ngư,  sấu), cây cối (mai,  lan, cúc, trúc, tùng, bách, ngô đồng, dương liễu),  phong cảnh (mây nước, sóng gió, biển cả,  khe suối, thác ghềnh),  nhân vật (truyền thuyết  và hiệnthực), trái  cây (đào tiên, phật  thủ). Những chủ đề  nầy được cáchọa sĩ khai thác triệt để mọi  góc cạnh qua bao thế kỷ. Có những danh họa chuyên về hoa, về  đá, trúc hay lan... Trong chiều hướng đó,  hội hoa  Trung Hoa  đi dần  vào biển  chết (Tử  hải). Hoạ sĩthường cảm thấy lúng túng, chật vật, vì sợ trùng lắp, nhại lại.  Những ý tưởng cũ  kỹ đã được các tiền bối khai  thác đến tận cùngrồi.

 Cho đến khi  Thiền du nhập thì hội  họa Trung Hoa bắt đầu thoát ly  khỏi Tửhải đó. Thiền đã thổi vào nền  hội họa truyền thống của Trung Hoa luồng sinh khí  mới, để cứu ra khỏi ngõ bí.  Cách thể hiện của Thiền là nguồn cảm hứng  bất tận cho người nghệ sĩ và  họ cố đi vào conđường nầy  để có thể  mở ra chân  trời mới. Trong  sinh hoạt tinh thần, hội họa cũng là phương  tiện để thể nghiệm Thiền cũng như Trà đạo, Kiếm đạo, Hoa đạo.

Nhưng phương châm của Thiền là  "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự", thành  thử phải thể hiện theo phong  cách nào để đưa hội họa trở  thành phương tiện  để chuyển tải  tư tưởng thâm  sâu của Phật Giáo. Đành rằng Thiền họa là lối thoát  cho nền hội họa tắt nghẽn, tuy nhiên, thực hiện cũng như thưởng ngoạn đã không dễ dàng. Đạt được tư duy và  sáng tạo nầy đòi hỏi  những cố gắng không ngừng  về tu  tập Thiền.

Nhiều nhà  nghiên cứu đã  phân tách khá  cặn kẻ về  lãnh vực nầy. Chẳng hạn  như trong cuốn  "The Art of  Zen" của Stephen  Addiss(1989) đã  nêu lên những  điều xem như  là "nghịch lý"  trong nghệthuât Thiền:  "Sự thật, Thiền bao  hàm những sự kiện  tưởng chừng nghịch lý.  Thiền đã là "vô tự",  nhưng cho đến nay,  số lượng sách viết về Thiền  thì vô số kể! Thiền là  "cá thể" (individual), tuy nhiên  trong tu  tập phải  cần đến  Thiền sư  hướng dẫn bước đầu.  Thiền  là "thực  tiễn" (down to earth), bàng  bạc trong  cuộc sống  hàng ngày, tuy nhiên, được thực  hành nghiêm nhặt trong hầu  hết các thiền viện.Thiền mang  tính trang nghiêm nhưng  lại chứa đựng nhiều  nụ cười hóm hỉnh. Thiền đòi hỏi phải  hiển thị (being) hơn là biểu tượng, tuynhiên lại  được cảm truyền  qua nhiều hình  thức nghệ thuật  như: Vườn thiền,  Hoa thiền hay Hoa đạo  (Kwado), Trà thiền hay  Trà đạo (Chanoyu),  Tranh thiền...  Thiền hướng  dẫn cho  chúng ta  không những chỉ "nghe" (hearing) mà phải biết "lắng nghe" (listening);  không chỉ  "nhìn" (looking) mà  phải biết "thấy"  (seeing); không chỉ "nghĩ" (thinking) mà phải  đi vào "kinh nghiệm" (experience).  Sau cùng, không  nên chỉ bám víu vào những  điều hiểu biết suông, phải chấp nhận, hoan hỷ hoà nhập vào thế giới hiển hiện..."

Trong hội họa Trung Hoa thường được  phân chia ra làm 2 lối: công bút và ý bút. Công bút là bỏ nhiều công phu trong việc trau chuốt từng chi tiết  một, chọn lọc kỹ càng;  trong khi đó ý bút  là bút pháp tả ý  trong một số đường nét; tuy  nhiên trong Thiền họa bútpháp nầy  ky khai các màu  sắc, chỉ có mực  đen giấy trắng. Người Nhật gọi  đó là "mặc  hội" (Sumie); Trung  Hoa gọi là  "mặc họa".Cũng không phải là "thủy mạc" vì không cần đến đậm nhạt trong màu đen.

Nghệ thuật  trong Thiền khá tinh  tế. Đặc điểm nổi  bật cuả những bức tranh Thiền  là sự đơn giản đến tối  đa, tưởng chừng phi nghệ thuật, nhưng chính là khả năng hướng nội, sự viên mãn trong trống trải, tánh sâu  sắc chỉ trong vài đường nét.  Trong Thiền họa, sự tiết giảm  nét bút là cần  thiết, để lại nhiều  khoảng trống trênnền vẽ, mà nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là "phong cách vẽ một góc"  (one corner style).  Giấy và  mực trong Thiền họa  cũng là điều đáng  nói. Phải là mực đen làm bằng bồ  hóng, tức là muội than của gỗ  tùng và khói dầu,rồi trộn chung  với chất keo dẻo, theo một  tỷ lệ vừa phải, đun lỏng rồi đúc thành thỏi để nguội  lại. Hoạ sĩ Thiền thường tự tay làm lấy. Tiếp đến là  bút lông (mao bút). Thường làm  bằng những loại lôngthú như  cừu, chồn, sói, chuột,  thỏ. Có nhiều cỡ:  nét nhỏ, mạnh thì dùng  lông thỏ; nét  lớn thì dùng  lông cừu. Giấy  vẽ là loại giấy rất mỏng, đặc biệt là loại "giấy Tuyên" còn gọi là  "xuyến chỉ". Từ  đời Tống trở  về trước, tranh  Trung Hoa thường dùng lụa làm chất liệu nền.  Từ đời Tống trở về sau, do kỹ thuật giấy tinh xảo hơn, bắt đầu xuất hiện loại giấy Tuyên. Trong hội họa  bình thường, khi  vẽ sơn thủy  và tả ý  thì dùnggiấy; vẽ nhân vật, hoa điểu thì dùng lụa. Nhưng dù là giấy hay lụa, cả hai  đều là chất liệu lý tưởng, hút mực dễ dàng.

Dùng đến  những chất liệu mong  manh như loại giấy  Tuyên để thể hiện nguồn  biểu cảm của  họa sĩ thì  phải chuyển đi  thật nhanh,đường nét  phóng ra từ  tâm hồn khoáng  đạt; nếu dừng  lại để suynghĩ, giấy sẽ bở rách, đọng mực  nhiều, nên dễ rách. Họa sĩ Trung Hoa không mấy  khi dùng sơn dầu như họa  sĩ Tây Phương. Thiền họalại càng  chối bỏ. Khi phác  họa, đường nét cần  phải nhanh, chuẩn xác, tiết  giảm đến tối đa,  chỉ thể hiện những  gì cần thiết. Đềtài họa được  nung nấu sâu sắc, un đúc  nhiều ngày tháng, cho nên khi họa chỉ  thực hiện theo tình ý  đó. Như thế, một nét  bút củaThiền họa được phóng ra là duy  nhất, xác quyết; dù thế nào chăngnữa thì  người nghệ sĩ  cũng không tô  lại, thêm bớt,  điểm xuyếtnữa. Thiền họa gọi đó là "ý lực họa" tức là thể tài được huân tậplâu ngày, do nội tâm chuyển hoá.  Nét vẽ trong Thiền họa cần phảitự do, thoát sáo, không gò ép, tẩy xoá hay miễn cưỡng. Họa sĩ chỉđể cánh  tay cầm bút  đưa theo giòng  mỹ cảm tự  nhiên, thực hiệntheo tự  phát. Trong khi  thao tác, cánh  tay, bàn tay,  ngọn bútchính là một tổng  thể hoà hợp duy nhất. Nghệ sĩ  cứ tưởng như cóbàn tay  vô hình nào  chuyển vận đi  trong phút xuất  thần.

Trong Thiền họa, người ta thường nói  đến bản năng phi kiểm soát, nhưng đầy khổ luyện, kể cả những lúc toạ Thiền. Thành thử, họa sĩ Thiền họa phải  là những Thiền  sư hay ít  ra là Thiền  sinh tu tập lâu năm. Vẽ với họ chỉ là cách thể hiện khả năng thiền định của mình khi "minh tâm kiến  tánh". Khi khởi sự vẽ, giữa giấy  và mực là sự trống vắng; nếu có những suy nghĩ, đắn đo nào, thì sẽ phá vỡ tác phẩm. Nhiều người quen thưởng thức  tranh vẽ Tây Phương, khi nhận định tranh Thiền (đúng nghĩa Thiền), cứ tưởng là những nét nguệch ngoại, cẩu thả, ấu trĩ. Dường  nét tranh Thiền tưởng chừng mang ý nghĩa bất toàn. Nó bất chấp luật lệ về phối cảnh (perspective) và luật lệ  về vẽ bóng của  nguyên tắc hội họa  Tây Phương. Điều cốt lõi trong loại tranh nầy chính  là "cái thần khí", cái "hồn tính" mà vẽ ra chỉ là giải phóng những tiềm ẩn lâu ngày. Nguồn biểu cảm của tranh Thiền  thiên về thiên nhiên cho  nên người thưởng ngoạn phải hiểu  biết về tư duy  Thiền trước đã. Nghệ  nhân Thiền không  bao giờ quan tâm đến sự phê phán, mà hướng về trực cảm.

Nhiều chân dung của các vị Tổ  Thiền tông cũng được vẽ theo đường hướng  nầy. Trong  cuốn "Buddhist  Art and  Architecture" tác giả Robert E. Discher  viết: "Sự quan trọng chủ yếu  là những bức chândung của các vị Tổ sư Thiền  và những đền chùa nổi bật mang những hình tượng  thuộc về điêu  khắc lẫn hội  họa Thiền, đối  với chân dung của các nhà sư (Chinzo) được dùng như một biểu tượng của lời giao ước không nói ra giữa thầy  và trò. Khi mọi người thiền định chân chính, đi đến giác ngộ, chân dung của những vị Tổ sư dùng để minh chứng cụ  thể mối liên hệ bằng trực  giác giữa hai người, và thuờng được  người ta đưa  ra một ý  nghĩa hỗ trợ  cho nhân cách, bằng hình thức bổ sung nghệ thuật viết chữ đẹp của vị thần tổ..."  (trang 230).

Một trong những bức chân dung quan trọng nhất của Thiền họa là về ngài Bồ Đề Đạt Ma, vị Tổ  sư Thiền Trung Quốc đầy huyền thoại. Để phù hợp với khuynh hướng châm biếm của Thiền phái, ngài Bồ Đề Đạt Ma thường được miêu tả một cách  hài hước, một sự đột phá xa hơn,  dựa trên  những phương pháp  tu tập của  Phật Giáo truyền  thống.  Thậm chí, trong những Mạn Đà  La (Mandala) của Mật Tông ngày nay,  một số Thiền  sư cũng thể hiện theo phong  cách Thiền họa, phá vỡlối cân đối, khung sáo.

Thiền họa  khác với lối vẽ  tranh sơn dầu kiểu  Tây Phương. Trong tranh sơn dầu,  vấn đề chính là tuân thủ  một bố cục nghiêm nhặt, màu sắc linh lung uyển chuyển, theo quy củ, theo hệ thống. Họa sĩ dùng  vải, bố  trên khung,  nên việc  tẩy xoá  tương đối dễ dàng. Nhưng  trong Thiền  họa thì  lại khác.  Những dụng  cụ dùng trong Thiền họa rất  đơn giản, thậm chí quá nghèo  nàn. Đường nét Thiền họa thường đơn sơ,  giản lược đến mức tối đa, chỉ  vẽ lên những gì cần thiết nhất  chính trong tâm thức.

Tuy nhiên,  đi sâu vào từng đường nét  của Thiền họa,  sẽ thấy  bùng  vỡ cả một  nhịp sống ẩn tàng, sôi  động. Từng nét chấm  phá, súc tích nói  lên không biết bao nhiêu  tình ý.  Người  xem loại tranh dầu  đóng vai trò  khách quan trong thưởng ngoạn;  nhưng người xem Thiền họa  thì "chuyển khách vi chủ", tự xem mình là người  khám phá. Tranh Tây Phương nói lên hết trong  màu sắc; tranh  Thiền họa thì  "ý tại sắc  ngoại" (ý ở ngoài màu sắc),  tùy theo trình độ thưởng ngoạn  để giải thích và khám phá. 

Thậm chí những chi  tiết bình thường như  tảng đá, búpnon, lá rơi... nhưng chuyển tải không biết bao nhiêu là nội dung sâu thẳm. Một  cành trúc la  đà trước  gió  là hình ảnh  của sức sống phiêu bồng; một chiếc thuyền nan  trên bến sông biểu hiện tâm hồn bao la, siêu trần; một ông lão bên bờ suối gợi lên "một chút linh hồn nhỏ;  mang mang thiên  cổ sầu". Chỉ  có những nét  mong mang, chắt lọc trong Thiền họa mới toát lên sắc thái đó.

Thiền họa không  thiên về tả chân, không mô  phỏng, sao chép. Một chấm nhỏ là  hình chim, một đường con là  ngọn núi. Một chiếc giày  trên bãi  cát nói lên cuộc  phong trần. Rất đơn  giản mà cũng rất  hàm xúc.  Nghệ sĩ Thiền họa  không mấy khi nhìn  cảnh vật để kiếm đường nét, mà  hướng về nội tâm để chiếu  kiến cách diễn tả. Cung cách thực hiện của nghệ sĩ Thiền họa cũng giống cách Thiền định ở thiền đường,  cách uống trà trong  Trà Đạo, cách dùng  kiếm trong Kiếm Đạo.  Hội họa trở  thành cuộc sống  thể nhập. Điều  nầy giải thích  tại sao  những người  thành công  trong Thiền  họa phải là  những Thiền sư hay ít ra cũng thâm nhập tư tưởng Thiền trong cuộc sống từng sát na.

Từ trong ý nghĩa đó, nét bút của nghệ sĩ Thiền họa rất dứt khoát, chính xác, không tô sửa, tẩy xoá. Còn hoài nghi thì họ hũy bỏ, để an  tâm, dưỡng  khí. Người  vẽ phải  xuất thần,  nhập hóa. Bút và người là một. Sáng  tạo trở thành da thịt của họ.  Với họ, vẻ đẹp của Thiền  họa thể hiện  toàn triệt, khi  đã nung nấu  trong tiềmthức. Vẽ ra chỉ là để giải  phóng niềm biểu cảm chất chứa từ lâu.Họ không  hề để cho tạp  niệm, ngoại cảnh, lý  trí xâm nhập trongtâm cảm khi phóng bút.

Thiền họa chối  bỏ nhiều màu sắc. Họ chỉ dùng  mực đen trên giấy trắng. Tranh  của họ  không cần  phải phủ  hết trang  giấy. Nhiều khoảng  trống trong tranh.  Khoảng trống cũng là cách  vẽ. Thiền họa phảilà sáng tạo  hoàn toàn, không sao chép, không  mô phỏng. Nhờ thế, đề tài Thiền họa  vốn vô biên, vô tận để khai  thác. Chỉ có những tâm hồn  khai phóng của  Thiền định mới  đạt mức đó.  Trong tranh Thiền, thường có  những nét bắt chợt, bất ngờ.  Cũng như Thiền sư đốn ngộ, những đường nét nầy nói lên tất cả. Khi vẽ xong, nghệ sĩ chẳng mấy khi nhìn lại, thanh thản  ra đi. Họ cũng không suy nghĩlà đã đạt hay chưa đạt. Họ tránh nhiễu loạn nội tâm. Vẽ trở thành hình ảnh cuộc  sống. Tinh thần sảng khoái trong  hội họa cũng như  trong thi ca "Thi trung hữu họa; họa trung hữu thi".

----o0o---