Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
THƯ MỤC TÁC GIẢ

9. Phật Giáo nước ngoài

21 Tháng Chín 20169:52 CH(Xem: 4974)
9. Phật Giáo nước ngoài

MỸ THUẬT PHẬT GIÁO

Kiêm Đạt

(ĐH Đông Phương – California – USA)

 

 

9.

Phật Giáo nước ngoài 

Đạo Phật truyền bá sang Tây Phương

 

Ở Phương  Tây, mỗi  khi nói  đến Phật  Giáo là  người ta  nói đến Thiền. Người Tây Phương quan tâm về Thiền hơn là Tịnh Độ tông, vì  theo họ, Tịnh  Độ tông có vẻ bề ngoài  rất giống Thiên Chúa Giáo,  không có gì lạ. Thiền là sản phẩm tiêu biểu nhất của Phương Đông,  một thứ  văn hoá vừa  đơn sơ,  vừa  thâm trầm, rất  hấp dẫn người Phương Tây. Dĩ nhiên, để truyền bá văn hoá đạo học nầy, cần thiết  phải có tác  phẩm giới thiệu được viết bằng  ngôn ngữ Phương Tây. 

 Về phương  diện nầy, các  tác phẩm của  bác sĩ Daisetsu  Suzuki  được coi như một hiện tượng. Người ta cũng không quên công giúp đỡ của vợ ông,  bà Béatrice Suzuki. Nhiều tác phẩm  của ông viết bằng tiếng Anh đã được dịch sang tiếng Đức và tiếng Pháp, phổ cập rộng  rãi trên thế giới. Các tác phẩm được đọc nhiều nhất là: Thiền Học  Nhập Môn (An Introduction to  Zen Buddhism), Sống Thiền (Living by Zen), Thiền Phật Giáo Cương  Yếu (Manual of  Zen Buddhism), Thiền tăng  tu hành  (The Training  of Zen  Buddhist monk), Thiền Phật Giáo  và Văn  hoá Nhật  Bản  (Zen  and Its  Influence on  Japanese Culture)...

Tuy nhiên, các  tác phẩm Thiền của ông chủ  yếu thuộc phái Thiền Lâm Tế mà không chiếu cố mấy đến các phái Thiền khác. Vì vậy, khi học giả Phương Tây đề cập đến  Thiền, thì đa số là Thiền qua các tác phẩm  của bác sĩ Suzuki.  Như thế phải chăng  đã thực sự tốt?  Triết học sâu xa của Thiền sư Đạo Nguyên và Thiền Tào Động nghiêm  mật chưa được  giới thiệu là bao nhiêu; đó  là điều thiếu sót. Do đó, học  giả Phương Tây chưa  thể biết rõ chỗ  dị đồng giữa Thiền  Lâm Tế và Thiền Tào Động.

IV-  Những chương trình nghiên cứu mới  

Hiện nay, giáo sư Callway, chủ nhiệm  bộ môn Tôn Giáo Tỷ Giảo Học ở Đại hoc South Western đang tiến  hành việc nghiên cứu nầy và đã gửi nhiều câu hỏi chất vấn  các học giả Nhật Bản. Friedrich Heiler, nguyên giáo sư Thần học  tại Đại học  đường Marburg đã  tỏ rõ sự quan tâm  hứng thú trong tác  phẩm Buddhistsche Versenkung (Thiền Phật Giáo) của ông. Giáo sư Dumoulin đã dịch Vô Môn Quan, một tập công án  Thiền ra tiếng  Đức và đã  viết bằng tiếng  Đức tác phẩm "Lịch sử  Thiền tông sau  ngài Lục Tổ".  Tác phẩm nầy  đã được bà Ruth Fuller  Sasaki dịch từ tiếng  Đức sang tiếng Anh  và đã phát hành trong một ấn bản xinh xắn. Bà Sasaki đang cai quản một Thiền  viện ở New York tên là Sokeian  (Tào Khê Am), nhằm phổ biến Thiền học cho  người Mỹ.

Naberfeld, bạn  của giáo sư Dumoulin  đang caiquản nhà  thờ Thiên Chúa  Giáo ở Kichijôji  (Kyoto) đã dịch  xong  Kinh Duy Ma và Tu Chứng Nghĩa ra tiếng Đức.   Nhiều năm trước  đây, bác sĩ Nukariya Kaiten,  nguyên Viện trưởng Viện Đại học Komazawa, một Viện  Đại học Phật Giáo của phiá Thiền Tào Động ở Tokyo, đã xuất  bản quyển The Religion of The Samourai   (Tôn giáo  của người Võ  sĩ đạo), lần  đầu tiên cổ  xúy Thiền Tào Động bằng Anh ngữ. Christmas  Humphreys, Hội trưởng Hội Phật Giáo Luân Đôn đã viết một tác phẩm về Thiền nhan đề là Zen Buddhism (Thiền PhậtGiáo). Tuy nhiên, tác phẩm đó chưa cho thấy chỗ lý giải đầy đủ về Thiền Tào Động. Ông cũng xuất bản  một tập sách nhỏ với nhan đề là Twelve Principles of Buddhism (Mười hai nguyên lý của Phật Giáo),có thể nói là  thành công một phần nào, vì đã  nêu lên được những khái lược về Phật Giáo, nhưng chỉ tiếc không thấy đề cập đến Tịnh Độ tông. 

Giáo sư  Lan Wans của Viện  Đại học Asia Institute  đã viết quyển  The Spirit  of Zen Buddhism  (Tinh thần Thiền  Phật Giáo) và  một quyển nhỏ  hơn nhan đề  là Zen  (Thiền);  cả hai đều  đi theo con  đường trước của  bác sĩ Suzuki. Tạp chí  Philosophy East and West của đại học Hawaii thường xuyên  đăng tải những bài nghiên cứu về  Thiền học.

V-         Phát triển Thiền Tào Động    

Mấy năm trước đây, đã có cuộc  trao đổi lý thú giữa bác sĩ Suzuki  và giáo sư Hồ Thích, một học  giả Trung Quốc ở Đại học Princeton. Học giả Hồ Thích là nguyên Viện  trưởng Viện Đại học Bắc Kinh, một thời là Đại  sứ Trung Quốc tại Hoa Kỳ;  ông là chuyên viên nghiên cứu các tư liệu khai quật ở Đôn Hoàng liên quan đến Thiền.

Lập luận  của Hồ Thích có ảnh hưởng đáng kể đến học giả Nhật Bản, lý luận bén nhọn. Điều  nầy ảnh hưởng không  ít đến những tác  phẩm của Suzuki sau đó. Thiền  lại phát triển nhiều nơi  ở Mỹ. Đáng kể là  tại Los Angeles, Senzaki Nyoden, môn đệ của  ngài Sôen, tổ chức những khoá  dạy thiền cho Phật tử Hoa Kỳ. Ông xuất bản cuốn Zen (Thiền), phỏng  dịch cuốn  "Phổ Khuyến Thiền Nghi"  của ngài Đạo Nguyên;  ngoài ra, ông còn dịch "Vô Môn Quan" ra Anh Ngữ. Cùng thời, Dwight Goddard xuất bản cuốn  A Buddhist Bible (Thánh  Thư Phật Giáo), trong đó  đúc kết các hệ  phái Phật Giáo, đặc biệt là  Thiền Tào Động. Cùng chung biên soạnsách nầy có  Saiho Loe, một nhà trí thức  Phật Giáo nổi tiếng. Mặc  dù tuổi đã cao, ông vẫn chuyên tâm nghiên cứu sâu rộng và đã xuất gia. Hai vị  đều là thiền sư Tào Động.  Phát triển thêm, ông John Bolfeld đã dịch  cuốn "Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu  Luận" của Đại Châu Huệ Hải ra Anh ngữ với nhan đề "The Path to Sudden Attainment".

Thiền sư Tachibana, nguyên  Viện trưởng Viện Đại học  Komazawa qua Luận văn The Ethics Of Buddhism (Luân Lý  Phật Giáo), đề cập sâu sắc về  Thiền, nhất  là Thiền Tào  Động. Như thế,  trong mấy năm  gần lại đây, Thiền  Tào Động được trình  bày sâu rộng và  có hệ thống tại   Hoa Kỳ. Đáng kể là hai công trình biên soạn: "What is Zen" (Thiền học là  gì?) và "Zen  Culture" (Văn hoá  Thiền). Giáo sư  Ryusaku Tsunoda, giảng dạy Thiền tại Đại học Columbia đã dịch ra tiếng Anh cuốn Chính Pháp Nhãn Tạng Tùy Văn  Ký của ngài Đạo Nguyên. Đây là tác phẩm kinh điển về Thiền Tào Động.

VI-      Thiền dưới nhãn quan mới    

Gần đây, trên tạp chí Life và Time của Hoa Kỳ thường đăng tải các đề tài về Phật Giáo, đặc biệt là Thiền. Tài liệu đáng kể là của bác sĩ Jung,  nhà phân tâm  học nổi tiếng  trên thế giới.  Vấn đề tạo nhiều ảnh  hưởng. Trong dịch phẩm  "Introduction To Zen Buddhism" của Suzuki, ông  đã không hài lòng về phương  pháp "Phân tâm học" của Sigmund Freud  về trung tính dục (sex) là  cội rễ của mọi vấn đề, nhân đó, giới thiệu Thiền là điểm xuất phát mớ trong lãnh vực tâm lý học.  Bác sĩ Jung  phân tách cái "Tâm" ra  làm "Ý thức" và "Vô  ý thức"  (Mạt Na Thức).  Vô ý thức lại được  phân loại thành Vô ý  thức cá nhân và Vô ý  thức tập hợp. Vô ý thức tập hợp  tồn tại ở 3 mức độ  (1) Ở nam là Anma, ở nữ là  Animas (2) Ở nam là Cổ hiền nhân (the old wise man); ở nữ là Địa  mẫu (the earth mother) (3) Ở nam cũng  như ở  nữ đều có  Tự ngã (Self).  Sự thực cái  Tự ngã nầy không phải là cái tự kỷ có tính cách  cá nhân, mà là tự thể của bản chất siêu cá  nhân. Thiền học  gọi đó  là  "Bản Lai Diện  Mục" là Chân tính, là Cốt lõi. Thấu triệt chỗ nầy tức là Giác ngộ. Bác sĩ Jung gọi đó Individution  là Con người toàn chân  thật. Ngôn ngữ Thiền trong quan niệm nầy gọi là Bản Lai Diện Mục.

Trong bài Tựa của dịch phẩm kể  trên, bác sĩ Jung viết: "Thiền là một trong những thể hiện tốt đẹp nhất của tinh thần Phật Giáo, đã nở hoa từ  tư tưởng vĩ đại và  bao la của thế giới  Phật Giáo”. Như thế bác sĩ Jung đã mở ra một vùng khai thác mới mẻ vói tư duy củangười  Tây Phương.  Ông không  đi theo  con đường  dùng những khảo hướng (approaches) có tính thuần lý (intellectual) của Tây Phương. Ông thay đổi cách nhìn, cách tư duy có tính bao quát hơn. Như thế, môn Tâm Lý Học của Jung, nhất  là đối với những người tu Thiền, là sự lãnh hội dễ dàng hơn khoa nầy của Tây Phương trước đó.

 

Vấn đề 2:Phật Giáo các nước Tây Phương

A- Phật Giáo tại Anh Quốc

Vào tháng 3 năm 1788, sau khi thành lập Hội Học Thuật Châu Á của Hoàng Gia  Anh, chính quyền thực  dân đã ủng hộ  công cuộc nghiên cứu đối  với 2 văn hệ  Pali và Sanscrit. Nhân  đó, giáo sĩ truyền giáo Claugh nước Anh đã công bố  tư liệu về "Văn pháp và ngôn ngữ tiếng Pali", vào năm 1824. Thời điểm nầy đã được một số nhà nghiên cứu xem là mốc giới truyền bá  Phật Giáo tại Anh Quốc. Nhưng một số học giả khác thì cho là sớm hơn thế nữa.

 Thu  thập kinh văn: Vào năm 1833, viên công sứ Hogglin  người Anh ở Népal đã thu thập được một khối lượng lớn kinh văn  Phật Giáo được ghi chép trên lá bối (bối  diệp) bằng tiếng  Sanscrit. Ông trao  tặng toàn bộ  cho trường Đại Học Oxford và Đại Học Luân Đôn. Ngay sau đó, dựa vào tư liệu nầy, Pawnoff  đã chỉnh lý và hệ thống  hoá lại những tư liệu mà Hogglin đã gửi về, xuất bản cuốn "Bàn Về Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ (1845). Sách được truyền bá sâu rộng và ảnh hưởng lớn. Max Muller là môn hạ của Pawnoff, đã nhận sự ủy thác của Hội Học Thuật Châu  Á Hoàng Gia  Anh, đã  biên  tập và xuất  bản bộ "Đông Phương Thánh Thư"  gồm 49 quyển, trong đó phần  lớn là kinh điển Phật Giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa.

 Vợ chồng Liszt Dawidh, nhà nghiên cứu Phật Học Anh, vào năm 1881, đã tập  trung một số  nhà trí  thức  Anh, thành lập  ra Hiệp Hội Pali Thánh Điển. Ông đã giành hết cuộc đời còn lại của mình để chú giải bộ Tam Tạng bằng  tiếng Pali, in bằng mẫu tự La  Mã, dịch một phần kinh sách  nầy sang tiếng Anh.  Nhờ đó, phong trào  nghiên cứu Phật Giáo tại Anh được mở rộng.

Khai quật khảo cổ học: Vào những năm đầu thế kỷ XX, nhà thám hiểm Anh, F. Sdanen, đã 3 lần đến khai quật di tích khảo cổ học tại Tân Cương, Trung Quốc và Trung Á,  đã tìm thấy được  những kinh điển Phật  Giáo tàng trữ ở Đôn Hàng viết bằng các loại Phạn Văn (Sanscrit), Quy Tư Văn, Hồi Cốt Văn và Lập Đặc  Văn. Số lượng lớn lao của kinh  văn được phát hiện nầy đã làm chấn động các nhà  nghiên cứu tôn giáo học và ngôn ngữ học. Cũng từ  đó, nhiều công trình dịch thuật  và nghiên cứu kinh điển Phật Giáo tại Anh được lan rộng, với phương pháp mới và nhãn quan mới.  Hai tác phẩm nổi danh trong giai đoạn đó là "Ánh sáng châu Á" của Anowder và "Phúc Âm của Phật Giáo" của L. Karlosi. Những tác phẩm nầy được  phát hành rộng rãi,  báo chí đề cập  nhiều và cũng được dịch ra  nhiều thứ tiếng.  Nhiều Viện Đại  Học Anh cũng  dùng làm sách tham khảo.

 Những danh tăng: Vào những năm đầu thế kỷ XX, đã có nhiều người trong giới  trí thức quy  y. Vị tỳ  kheo đầu tiên  của Anh là ông Bernardo, có pháp  danh là A Nan Đà Di  Lặc (Ananda Maitrya). Vào năm 1898, ông lên đường đến Sri Lanka, Myanma để nghiên cứu Phật pháp (Tiểu thừa). Để phát triển thêm, ông thành lập Hội Phật Giáo  Quốc tế tại Myanmar. Đến năm 1908, ông dẫn một phái đoàn tăng ni đến truyền bá Phật Giáo tại Anh. Ngay  sau  đó,  nhiều  nhà  trí  thức  khác  noi gót của Bernardo: Jackson, Ailon là những tên tuổi  lớn. Họ thành lập Hiệp Hội Phật Giáo Anh Quốc, do Tiến sĩ List Dawigh làm Hội trưởng. Hai năm sau đó, Hội nầy đổi  tên là Hội Phật Giáo Anh và Ireland, đồng  thời  xây  dựng  những  chi  hội tại Manchester, Liverpool, Birmingham, Manchester và London. Nhiều trí thức, nhiều nhà văn hoá đã gia nhập hội nầy ngày càng đông.

Một số cơ sở  Phật Giáo cũng ra đời, nổi tiếng  là Hội Phật Giáo Linh Trí  Học Hội do  vị phán quan  Humfos tổ chức.  Hội này cũng phát triển  khá nhanh chóng  và sau đổi  thành hội Trung  Đạo Phật Giáo. Hội nầy  phát triển Phật Giáo Tiểu Thừa  lẫn Đại thừa, và về sau có thêm Kim Cang thừa. Năm 1926, đánh dấu một bước ngoặt mới của Phật Giáo Anh quốc, khi ngài Dharma Bahar từ Sri Lanka đến Anh quốc. Ngài một trong Tứ đại danh tăng châu Á sang London để  thành lập hội Makaba Pa. Hội nầy chủ trương phát huy những tinh  túy chính thống của Tiểu Thừa Phật Giáo.Vào thời  Đệ nhị thế chiến,  do tình thế hỗn  loạn, Phật Giáo Anh đình chỉ hoạt  động trong một thời gian; tuy  nhiên, khi hoà bình vãn hồi thì lại vươn lên cao hơn bao giờ hết. Cũng trong  giai đoạn nầy, Mật  Tông truyền bá sang  Anh và nhanh chóng bắt kịp đà tiến triển của các giáo phái khác. Phật Giáo Anh phát triển không  ngừng; theo thống kê năm 2000 thì tại Anh, có 230,000 Phật Giáo đồ,  trong số 49% là tín đồ Mật Tông, 26% theo  Phật Giáo Đại  thừa, 24% theo  Phật giáo Nguyên  thủy và Phật Giáo Tiểu thừa.

B-  Phật Giáo Đức Quốc 

Người có công nhất trong giai  đoạn phát triển đầu tiên Phật Giáo tại nước Đức là Max Muller. Những nhân vật tiếp nối là Rozenberg, Weber, Newman,  Clak và Oaleger. Họ  chuyên dịch và phổ  biến những kinh  văn Phật  Giáo bằng  tiếng Pali.  Những bộ  kinh Phật  được truyền bá sâu rộng tại nước Đức  là "Thanh Tịnh Đạo Luận" và kinh "Di Lan Đà Vương Giản Kinh". Tất cả đều được dịch sang tiếng Đức, cho nên truyền bá sâu rộng được dễ dàng. Sau đó là giai đoạn thành lập Hiệp hội. Vào khoảng 1913-1914, học giả Seddon đã xây dựng Hội Truyền Bá Phật Giáo tại Berlin. Ngay sau đó, sự bành  trướng ngày càng nhanh, cho nên  đã chuyển đổi thành Liên Hiệp  Phật Giáo Hội, để  có thể phát triển  đồng bộ Phật Giáo Đại Thừa, Tiểu Thừa và Kim Cang  Thừa. Để phát triển thêm, một tạp chí nghiên cứu Phật Giáo có tên  là "Rama" (Đại Ngộ), trụ sở đặt tại Munich  là nơi tập trung  đông đảo nhất các  nhà trí thức Phật Giáo tại Đức Quốc.

Những trung  tâm Phật Giáo đa  dạng khác được thành  lập trong giai đoạn  nầy như:  Phật Giáo  Tịnh Xá,  Nội Thiết  Phật Điện, Thiền Đường, Tự Viện.  Phulunau trở thành trung tâm quốc tế giao lưu Phật học ở nước Đứcvới những quốc gia  châu Âu và Bắc Mỹ. Năm 1951,  các tín đồ Phật Giáo ở  thủ đô Berlin  đã xây  dựng  nên Hội Phật  Giáo Đức, được truyền bá Phật Giáo sâu rộng, kể từ khi chế độ Quốc Xã Đức bị sụp đổ. Cứ  theo đà đó, lại  có thêm nhiều Hiệp  hội khác: Năm 1954, hình thành Hội Phật Giáo Hamburg;  năm 1955, thành lập Hội Phật Giáo Đức  Quốc thống nhất cả nước; năm 1960, thành lập Hội  Liên Hiệp Phật Giáo Đức Quốc, với quy mô và khuynh hướng phát triển sâu rộng hơn. Cũng trong năm đó, các nhà trí thức Phật Giáo Đức thiên về Mật Tông đã tổ chức nghiên cứu toàn bộ tư tưởng Kim Cang Thừa, với sự tán trợ của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV. Cho đến nay, tại nước Cộng Hoà Liên Bang Đức (Tây Đức) có khoảng75,000 tín đồ  Phật Giáo; Đông Đức có khoảng  53,000 tín đồ. Con số ngày càng gia tăng. Điều đặc biệt mà các nhà nghiên cứu tôn giáo ở đây thường nhấn mạnh  là sở học Phật Giáo của hầu  hết tín đồ tại Đức có trình  độ rất cao. Họ chú  trọng về phẩm hơn là  về lượng. Đại bộ phận những trung tâm  Phật Giáo Đức đều ở Berlin, Stugart, Munich, Hamburg, Hạ Ruhr.

C-  Phật Giáo tại Pháp Quốc  

Trong những quốc gia châu Âu,  nước Pháp phát triển Phật Giào sớm nhất và đa  dạng nhất. Tính ra, đến nay,  các nhà nghiên cứu Phật học ở đây đã khởi đầu từ 150 năm hay nhiều hơn nữa. Nhân vật đặt  nền tảng đầu tiên là ông  F. Pawnof, thành lập Hiệp Hội Pháp  Á Phật Giáo ở  Paris. Ông dịch kinh  Diệu Pháp Liên Hoa bằng Phạn văn ra Pháp văn và phát triển Pháp Hoa tông tại Paris và nhiều thành phố khác. Những  người kế tiếp  là Lévi, Fousier  và và Porelowsky;  họ nghiên cứu  kinh điển bằng Hán  Văn, Tạng Văn và Phạn Văn.  Lévi đã hiệu đính cuốn "Trung Luận" và dịch ra Pháp Văn cuốn "Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận". Ngoài  ra, về Thiền Học, phải kể  đến sự đóng góp của Thiền sư Nhật Bản, Cao Nam Thuận Nghĩa Lâm. Đệ tử của  Lévi là Poussin, hiệu đính "Trung  Luận Tụng" của ngài  Long Thọ  và "Minh Cú Luận"  của ngài Nguyệt Xướng.  Ngoài ra, ôngcòn dịch  "Thành Duy Thức  Luận" do ngài  Huyền Trang biên  dịch,"Câu Xá Luận"  của ngài Thế Thân ra Pháp  ngữ. Những hoạt động của Lévi và  những cộng sự viên  đã đặt nền tảng  cho việc nghiên cứu  Phật học  hiện tại ở châu  Âu. Ngoài ra, phải  kể những dịch giả Renoir, Fénocesse và  Sayminucay đã tham gia nhiều  để chuyển ngữ kinh điển Phạn văn ra Pháp văn.

Về mặt tổ chức, nhiều Hiệp hội  thành lập. Hội Phật Giáo Hũu Nghị thành lập  năm 1929, với  sự khuyến khích  của Thái Hư  Đại Sư từ  Trung Quốc. Hội Phật Giáo Paris thành lập năm 1939, nhưng bị gián đoạn thời Đệ nhị thế chiến và  phục hoạt sau đó.  Hội nầy xuất bản Tập san  "Tư tưởng Phật  giáo", dựng Niệm  Phật đường, triển  lãm nghệ thuật  Phật Giáo, lập Trung  tâm hoạt động  văn hoá và  xã hội Phật Giáo.Vào thập niên 1950, Liên Minh Tín đồ Phật Giáo Việt Nam cũng được  thành  lập. Mật  Tông phát  triển chậm  hơn những  lại phát  triển  nhanh;  trung   tâm  Mật  Tông   quan  trọng  nhất   là  Tịnh  xá Uchincansaselin tại Castelan. Theo thống  kê của "Bách Khoa  Toàn thư Cơ đốc  giáo" năm 1980, ở Pháp có  khoảng 35,000 tín đồ  Phật Giáo, nhưng trên  thực tế còn đông hơn nữa, nhất là những Phật tử từ Trung Quốc, Việt Nam, Nhật  Bản, Tây Tạng sang nhập cư.

D- Phật Giáo tại Hoa Kỳ

 Ba trường phái nghiên cứu Phật Giáo tại Hoa Kỳ:

Những công trình  nghiên cứu của Edward Conze,  sự hình thành hệ thống Phật Giáo tại Hoa Kỳ có thể phân chia thành 3 truờng phái: 

1- Trường  phái Anglo German:  Đại  diện là T. W.  Rhys Davids, H.Oldenberg và E.  J. Thomas. Đây là trường phái  chủ đạo toàn cảnh thịnh hành trong khoảng thời gian 1881-1914. Họ tập  trung nghiên cứu truyền  hống Phật Giáo Pali.  Do đó, năm 1881,  Hội Nghiên  Cứu Văn  bản Pali  được thành  lập. Những công trình của những  học giả nầy tạo được cơ  sở vững chắc trong bước  ban đầu.

 2-  Trường  phái  Đông  Âu:  Đại  biểu  cho  trường  phái nầy là: Stcherbatsky, Rosenberg  và Obermiller. Thời gian  vững mạnh nhất của trường phái nầy là 1914-1944. 

3-  Trường phái  Franco Belgian:  Tiêu biểu  là những  học giả LaValée Poussin,  Jean Ptzyluski, Sylvain Lévi,  Paul Demiéville và Étienne Lamotte.Theo nhận định  của Conze thì: Trong khi 2  trường phái trên càng ngày càng  già đi và không  mấy ai tham gia,  xiển dương thêm nữa, thì trái lại  trường phái Franco - Belgian phát  triển không ngừng.  Như thế, hầu  hết các học giả Phật  Giá Hoa Kỳ hiện nay  đều được phát sinh từ trường phái nầy.

 Di sản tôn giá trong quá khứ ở Hoa Kỳ

Vấn đề nghiên cứu thật quan trọng. Cốt lõi chính của truyền thống văn hoá Hoa Kỳ đầu tiên được tạo thành do văn hoá Anglo Saxon. Dođó, giới trí  thức thường coi mình là thành  viên của văn hoá châuÂu, cụ thể là Anh quốc. Hiện nay, tại Hoa Kỳ, các trường Đại học có phân khoa Phật Giáo và các  Viện Hàn  Lâm Văn  hoá đều  có khuynh  hướng nghiên cứu theo trường phái Franco - Belgian. Từ  trước, người Mỹ thướng hưóng về đạo Tin Lành  từ Anh và Tây Âu  sang. Do Thái Giáo và  Ki Tô Giáo (Công Giáo)  rơi vào tình  trạng phân biệt  đối xử. Nhưng  nay thì khác.

Phật Giáo vào  Hoa Kỳ bám rễ từ tư duy  và nhân sinh. Không một áp đảo chính trị nào diễn ra khi đạo Phật bành trướng ở đây.   Bàn về tình hình tôn giáo Hoa Kỳ hiện nay, giáo sư Eillhelm Pauchk  viết: "Sự phát  triển vuợt  ra ngoài  nền tảng  nầy là nguyên tắc   "không rõ ràng  về tự do tôn giáo  ở Mỹ". Mỗi tôn giáo  được phép hành động  như là không có  Giáo hội nào tồn  tại. Nhưng khi hành  động tôn giáo, các nhóm tôn giáo  khác nhau đã thừa nhận các Giáo hội khác  đang thực sự  tồn tại. Phật  Giáo ở đây  cũng không ra ngoài quy phạm đó".Tình hình  nầy thực ra diễn  ra trước Đệ nhị  thế chiến. Nhưng từ   1945 về sau, chủ  nghĩa cô lập về tôn giáo đã  không còn dung hợp tại Hoa Kỳ nữa. Càng ngày, người Mỹ càng thấy rõ những thách thức  tín ngưỡng phi Mỹ, phi Tây Phương, phi Ki Tô Giáo. Những tôn giáo phương Đông, bao  gồm cả Phật Giáo manh nha  mạnh mẽ và ảnh hưởng   lớn trong dân Mỹ.

Các giai đoạn

Giai đoạn 1:   Một trong  những nhà trí  thức Hoa Kỳ  nghiên cứu Phật  Giáo trong giai đoạn  đầu là Paul Carus  (1852-1919) . Ông là  triết gia Đức theo khuynh hướng tự do,  sống tại Illinois,  chủ nhiêm và  chủ bút của  hai tạp chí  "Người theo chủ nghĩa Nhất nguyên" và tờ "Toà án công khai".  Trước kia, bản thân ông không phải là một Phật tử. Có thể, ông thích cổ  vũ tôn giáo  và triết học,  trên cơ sở  nền tảng khoa học.  Nhiệt tình của ông đối với Phật Giáo được thể hiện qua những tác  phẩm nghiên cứu đầu tiên, điển hình là cuốn "Tín điều của đức Phật" (Gospel of Buddha) (1889). Cùng với triết gia Hegeler, ông ra sức tài trợ cho "Hội nghị các tôn giáo" năm 1893. Trong hội nghị nầy,  ông đã liên lạc và cung thỉnh  2 đại sư tham gia: Shibaji Mokurai và Nanjo Bunyu,  đại diện cho Phật Giáo  Đại thừa (Mahayana). Một danh  tăng khác  tham dự  Họi  nghị  là Shaku  Soen, sư  phụ của Daisetsu  Suzuki. Sau  hội nghị,  Paul Carus  biên soạn nhiều tài liệu Phật Giáo;  tiêu biểu là "Những bài thuyết pgháp của  ngài Mã Minh" về Đại Thừa" (1900); "Những bài  thuyết pháp nổi tiếng" (1906); "Đại cương về  Đại Thừa Phật Giáo"  (1907). Chính ông đã  đặt nền tảng cho phong trào học Phật tại Hoa Kỳ sau đó.

Giai đoạn 2:   Sau chiến  tranh Nga Nhật  (1904-1905) nhiều học giả  Phật Giáo bắt đầu sang Hoa Kỳ để thuyết giảng. Những nhân vật tiêu biểu là:  

Okakura Kakuzo (1862-1913)  được mời sang  Hoa Lỳ làm  việc trong Viện  BảoTàng Boston. Giới  trí thức biết ông qua tác  phẩm "Trà Đạo" (The   Book of Tea) (1906); ngoài ra, Okakura còn biên soạn những tác phẩm danhtiếng khác: Lý tuởng của Đông Phương (The Ideals of the East), Sự Phục Hưng của  nước Nhật (The Awakening of  Japan), Con Cáo trắng  (The White Fox).

 Bác  sĩ Takamine  Jokichi, người  đã tham  gia nhiều công trình nghiên cứu văn hoá Nhật và phổ  biến sâu rộng trong giới trí thức  Nhật. Ông  cũng là vị danh  y, người từng phát  hiện ra cách chữa bệnh viêm tuyến hormone thượng thận.  

 Bác sĩ  Niguchi Hadeo, người  đã mang lại  cho trí thức  Hoa Kỳ những ý  nghĩa sâu xa  của văn hoá  Phật Giáo Nhật:  trà đạo, hoa đạo, thư pháp, nghệ thuật cắm hoa, tuồng Nô, thơ Bashô...  Như thế, mối quan tâm ngày càng  tăng đối với nghệ thuật, văn hoá và  tôn giáo  Nhật khai  triển thuận  lợi. Những  luận thuyết của  Okakura Kakuzo, Lafcadio Hearn và Ernest Fellosa đã tham gia phát triển các khiá cạnh văn hoá nầy.  Ngay tại các giảng đường Hoa Kỳ, trí thức Nhật tham gia không ít.

 Tiến sĩ Anesaki Masahara được  mời giảng dạy môn Văn hoá  Nhật tại Đại học  Harvard. Những  khoá trình của  ông được ấn  hành và phổ  biến sâu rộng qua những tác phẩm: "Nghệ Thuật Phật Giáo", "Nichiren: Vị thánh Phật Tử", "Lịch Sử tôn giáo Nhật"...   Sau đó,  tiên sĩ Anesaki  cũng được mời  giảng dạy tại  các Đại học hàng đầu Hoa Kỳ, đã đóng góp những Luận văn trên nhiều tạp chí văn hoá Mỹ. Ông cũng tham gia biên  tập bộ "Bách Khoa Toàn thư Văn hoá và đạo đức" của Hasting.  

 Tiếp nối  Anesaki, phải kể đến  những nhà Phật học  đi vào giáo dục Hoa Kỳ: James H. Wood, nhà Ấn Độ học; Josiah Royce, nhà triết học; George F.  Moore, nhà sử học tôn giáo.  Ba nhân vật nầy cũng như Anesaki đã góp phần không  nhỏ trong việc truyền bá Phật Giáo Đại thừa tại Hoa Kỳ.

Giai đoạn 3:   Khởi đầu  sau  Hội Nghị Các triết  gia Đông Tây vào đầu năm 1933 tạiChicago và  Honolulu năm 1939.  Hai luận sư  danh tiếng nhất  của  Nhật vào thời đó là Kyshimoto  Hideo và Takakusu Junjiro tham dự,  thuyết trình  và điều động  2 chương trình  nầy. Cũng trong  giaiđoạn nầy,  bác sĩ Suzuki  trong chuyến sang  thăm Hoa Kỳ  đã khởi xướng chương trình nghiên cứu Thiền học tại đây. Những tác phẩm của  Suzuki được phiên  dịch ra Anh ngữ trong giai  đoạn nầy phải kể đến:  Thiền luận Phật Giáo, Nghiên  cứu kinh Lăng Già (Lankavatara), Tu luyện của các Thiền sư Phật  Giáo, Giới thiệu Thiền Phật Giáo, Sổ  tay  Thiền Phật  Giáo, Thiền  Phật Giá  và ảnh  hưởng với văn hoá  Nhật.

 

Vấn đề 3: Tình hình Phật Giáo thế giới ngày nay

Phật Giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới, bên cạnh đó là Đạo Cơ Đốc và  Hồi Giáo. Căn  cứ theo thống  kê của "Bách Khoa Toàn Thư  Cơ Đốc Giáo Thế  giới" (2002) thì tín  đồ Phật Giáo trên thế giới hiện nay là 295,570,780 người (chung cho cả các hệ phái),   được phân chia như sau:   

Đông Bắc Á: 143,359,570 tín đồ - Nam Á và Đông Nam Á: 150,927,990 tín đồ - Nước Nga: 350,000 tín đồ - Châu Mỹ La Tinh: 501,250 tín đồ - Bắc Mỹ: 189,850 tín đồ - Châu Âu: 212,320 tín đồ - Châu Đại Dương: 17,190 tín đồ  - Châu Phi: 12,610 tín đồ.   Tình hình Phật Giáo trong những  biến động chính trị vừa qua cũng có nhiều thay đổi. Sau Đệ Nhị Thế chiến, Phật Giáo ở các nơi trên  thế giới  đã trải qua những  biến đổi khác nhau,  đồng thời cũng đã xuất hiện một số đặc điểm mới:

1- Hưng thoái của các hệ phái:  Mấy chục năm gần  lại đây, những phái truyền thống của Phật Giáo đều trải qua những biến đổi khác nhau;có phái đang  trong giai đoạn suy thoái dần  (Duy Thức Tông, Luật Tông, Hoa Nghiêm Tông), nhưng có  hệ phái đã phát triển rất nhanh  chóng, hơn thế nữa, đã có khí  thể vươn lên mạnh, bao trùm, trong  đó nổi bật nhất là Thiền Tông và Mật Tông.  

a) Thiền Tông: Thiền Tông là một hệ phái Trung  Quốc. Ở châu Âu trước kia, Thiền Tông không  được coi trọng,  nhưng sau Đệ  Nhị Thế chiến,  sự tín ngưỡng  và nghiên  cứu Thiền  Tông đã  có một  thời sôi nổi, hình  thành một luồng "nóng Thiền Tông".  Hiện nay,  tại Hoa Kỳ  có 175  Trung  tâm tu Thiền  hay Đạo trường Thiền Tông, đã  xuất hiện những phái Thiền Tông  muôn màu muôn vẻ,  luôn thay đổi, như: Đồi phế  Thiền, Tạp khoái Thiền, Phương Thiền và Thiền  ngoại Thiền...  Tu Thiền  không chỉ  đơn giản  trở thành phương  thức sống  như Thái  Thiền (Thái  là thức  ăn rau  cỏ), Trà Thiền, Xạ Nghệ Thiền, Vũ Đạo  Thiền... và thủ thuật tu luyện thân tâm của người  Mỹ và người châu Âu, thậm  chí trở thành "một loại kỹ nghệ" để  bồi dưỡng nhưng nhân viên quản  trị xí nghiệp. Thiền Tông cũng rất thịnh hành ở các  nước Anh, Pháp, Đức Ở châu Âu gần đây, đã thành lập "Liên Minh  Thiền Tông châu Âu". Liên Hiệp Phật Giáo Thế  Giới cũng thừa nhận  đó là một khu  vực trung tâm quan trọng.     

b) Mật Tông:    Sự tín ngưỡng và  thực hành Mật Tông trước đây chỉ  bó hẹp ở trong phạm vi một số các nước theo  Đại Thừa Phật Giáo; nhưng ngày nay, đã truyền bá khắp thế giới. Ổ Ấn  Độ từ năm 1959 - 2000 đã có 150 ngôi chùa  viện và Trung  tâm huấn luyện  của Mật Giáo  hay Lạt Ma  Giáo, thu nạp và bồi dưỡng hơn 6,200 tăng lữ. Các phái của Lạt Ma Giáo ở Tây Tạng  và ở Mông Cổ hầu như đều  truyền đến các nước Âu Mỹ.

Hiện nay,  các chùa viện, các Trung tâm  huấn luyện, các Trung tâm Thiền định... của  Mật Tông Tây Tạng ở Hoa Kỳ  có 5 ngôi chùa lớn, có hơn 40 trường Đại học  hay Cơ quan Nghiên cứu chuyên giảng dạy và nghiên cứu đại Lạt Ma Mông, Tạng và các văn hoá khác.  Ở Anh quốc,  trong các tín  đồ quy y  Phật Giáo có  đến 50% Phật Giáo tạng  truyền, 25% Thiền Tông.  Phần còn lại là  các hệ phái Phật Giáo khác.   Ở Đức quốc, Hoffman  thành lập "Giáo đoàn Mạn Đà  La Phật Di Lặc", nay đã  trở thành một tổ  chức Mật Giáo mang  tính quốc tế, cũng lưu hành rất rộng rãi ở Anh, Pháp, Bỉ.

2- Thế tục hoá:   Hiện nay, khong  ít quốc gia châu Á Phật  Giáo và phong trào chính trị, xã  hội đã kết hợp  chặt chẽ với nhau,  xuất hiện rất nhiều  chính đảng và đoàn thể xã hội Phật Giáo.Tại Ấn Độ  và Nhật Bản, một số  chính đảng và đoàn thể  Phật Giáo  đem việc thực hiện dân chủ xã  hội Phật Giáo và lý tưởng Tịnh Thổ  làm mục tiêu phấn đấu trên chính trường.  Tại Thái Lan,  từ năm 1932 đến nay,  các bộ Hiến Pháp đều  quy định Phật Giáo là quốc giáo.  Tại Lào, năm 1947 và ở Myanma  năm 1961 cũng đã từng có lúc tuyên bố Phật Giáo là quốc giáo. 

Sự kết hợp giữa Phật Giáo và các phong trào dân tộc, dân chủ châu Á là  đặc trưng  rõ rệt  của những  thập niên  gần đây. Rất nhiều  phong trào Chấn hưng  và cải cách dân tộc và xã  hội đều chịu ảnh hưởng của Phật  Giáo: Phong trào Khởi Mông Cận  Đại tại Sri Lanka   đã bắt nguồn từ Thần Trí Học  Hội, Ma Kha Hiệp Hội; Phong trào Ma  Kha Bồ Đề Hiệp Hội, phong trào  Khai Sáng đã cải thiện tình trạng  giai cấp tiện dân (intouchables) Ấn Độ, phong trào Khai Sáng Hiện  Đại của Népal, phong trào Chính trị Xã Hội tại Myanma, phong trào  Phục Hưng tại Lào, phong trào  Tân Hưng Tôn giáo tại Nhật... đều  gắn bó với Phật Giáo. Cũng có những phong trào quần chúng nổi dậy và phát triển dưới ngọn cờ của Phật Giáo. Gần đây, trong một giai  đoạn, chủ nghĩa  xã hội Phật Giáo đã được  tuyên truyền rầm rộ và  cũng gây ảnh hưởng không ít trong hàng ngũ tín đồ Phật Giáo. Điều nầy cho thấy tính quần chúng và tính tiếp cận của Phật Giáo trong xã hội khá vững mạnh.

3- Đối thoại và giao lưu:   Càng ngày  Phật Giáo các  nước đã mở  rộng phạm vi  hoạt động văn hoá. Sự  thẫm thấu và  sự kết hợp  tương hỗ của  các hệ phái trong Phật Giáo hay  giao lưu tinh thần với các  tôn giáo khác càng được  mở rộng hơn trước. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, "Tân Phật Giáo" ở Ấn Độ,  một số hệ  phái tôn giáo ở Nhật  Bản, Hội Phật Giáo Hỗn  Hợp Âu Mỹ, Viện Phật Giáo ở Triều Tiên, Phật Giáo Hoà Hảo ở Việt Nam...   Về mặt giáo lý và nghi thức đều  có rất nhiều khác biệt với các hệ phái Phật Giáo truyền thống; tuy nhiên họ vẫn hướng về giáo lý của  đức Phật trên  một lãnh vực nào đó. Chẳng  hạn như Viện Phật Giáo  (Triều Tiên)  chủ trương lấy  "nhất viện" làm  trung tâm, lại  đem  "pháp thân"  của Phật Giáo, "đại  cực" của Nho Giáo  và "đạo" của  Lão Giáo kết hợp  với nhau. Theo họ, kết hợp nầy  không có gì là mâu thuẫn nhau cả. Ngoài ra, còn xuất hiện thêm một số "Tân Phật Giáo" hay những nhà  "tân tăng" được họ xem là sự kết hợp để hoà đồng với xã hội và trào lưu hiện đại hoá.

Những xu hướng nghiên cứu Phật Giáo hiện đại

1- Lĩnh vực nghiên cứu:   Lĩnh vực  nghiên cứu Phật Giáo  hiện nay tương đối  được mở rộng;ngoài  việc nghiên  cứu về  giáo  lý,  kinh điển,  lịch sử,  giáo phái... của bản  thân Phật Giáo, lại còn đề  cập đến các lĩnh vực khác như: khoa  học, triết học, tâm lý học,  luận lý học, luân lý học, siêu hình học, văn học,  nghệ thuật... Phật Học đã trở thành một trong  những môn học tương  đối quan trọng trong  khoa học xã hội và nhân văn, trong đó, có  những liên hệ đặc biệt với ngành xã hội học.  Thiền đưọc  nói nhiều trong  trà đạo, hoa  đạo, thi ca,  hội họa, vườn cảnh,  nghệ thuật cắm  hoa, âm nhạc,  kịch nghệ, nghệ  thuật sống...

2- Chính trị:   Một số nhà nghiên cứu chính trị  và xã hội châu Á thường nhấn mạnh đến vai trò và mối quan hệ hữu cơ giữa Phật Giáo và chính trị tại  châu Á trong xu thế phát triển hiện nay. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, do nhu cầu về  chính trị, Hoa Kỳ và  Nga Sô (trước đây) đã  đặc biệt coi trọng việc điều tra, nghiên cứu  hiện trạng ở các khu vực nầy,đã công  bố hàng loạt những  công trình nghiên cứu  và luận văn có liên quan  đến lãnh vực nầy.  Chẳng hạn: Trung Tâm  Nghiên cứu Tôn Giáo Thế giới  của trường Đại học Harvard từ  năm 1967 đến 1972 đã phát hành bộ sách thứ 3 rất đồ sộ bàn về "Tôn giáo Trung Quốc dưới thời thống  trị của Mao Trạch  Đông".

Cũng trong chiều  hướng nầy,trường Đại học Princeton trong thập  niên 1970 và 1980 đã xuất bản một loại sách nghiên cứu tôn giáo và chính trị các nước Đông Nam Á.Nga Sô trong thập niên 1980 cũng phát hành không ít những tác phẩm chuyên đề và  luận văn liên quan đến tôn  giáo, như "Phật Giáo và Phong trào Giải phóng dân tộc Đông Nam Á", "Tôn giáo tại Myanma với chính trị"...Dĩ nhiên những  dụng ý xâm nhập vào Phật  Giáo để hoạt động chính trị không nhỏ.

3- Nghiên cứu Thiền và Mật   Thiền Tông  và Mật Tông  là 2 hệ  phái Phật Giáo  đang bành trướng mạnh mẽ tại  nhiều vùng rộng lớn trên thế  giới hiện nay. Theo đà  phát triển của  Thiền Tông, Mật Tông cũng được  khai triển, kể từkhi Trung  Cộng chiếm Tây  Tạng và Mật  Tông được giới  thiệu sâu rộng ở  nước ngoài. Khắp nơi  trên thế giới không  những tìm tòi,  thảo luận lý luận và thực tiển của Thiền định, cơ chế, mục đích và phương pháp tu Thiền, lại còn đem phương pháp tu Thiền ứng dụng vào các lãnh  vực tâm lý, bảo vệ sức  khoẻ, võ thuật, nghệ thuật,   văn  học, quản  lý sản  xuất... Sự  truyền bá  tư tưởng Thiền học trong nghệ  thuật sống của  con người đã  gây những ảnh  hưởng nhất định. Chẳng hạn như một số các  nhà lý luận Cơ Đốc Giáo tuyên bố:  "Thiền định là con đường đưa đến sự chứng ngộ trong Cơ Đốc Giáo".  Do  đó, đã  nẩy sinh  ra phong  trào "Thiền  Cơ Đốc". Trong chiều  hướng đó, Mật Tông cũng gây những ảnh hưởng tương tự như thế.

4- Phương pháp nghiên cứu:    Trong giao lưu văn hoá hiện nay, phương pháp nghiên cứu Phật Giáo đã cải tiến nhiều.Không ít  học giả thường chọn  một khu vực và  thôn trấn lưu hành một phân chi hay một phái của  một phái biệt nào đó làm đối tượng điều tra  chuyên sâu hơn. Phương  pháp so sánh, hiện  đại hoá, tỷ giảo học,  cảnh quan học... thường  được dùng để thực  hiện những công tình biên khảo Phật Giáo hiện nay. Kết quả nghiên cứu của họ  thường thể  hiện dưới những báo  cáo chuyên đề điều  tra hay luận  văn. Phật  Giáo được nhận  định qua những  giác độ khác  nhau. Tuy nhiên, cũng không  thiếu một số sơ sót; một  số nhà nghiên cứu đã  thiếu mất sự chỉ đạo của thế giới quan khoa học, cho nên chỉ dùng phương pháp nhận thức chủ quan, có khi chỉ "thấy cây mà không thấy  rừng", nên thường đưa ra những kết luận phiến diện, lệch lạc.

5- Nghiên cứu  tổng hợp:     Trước đây, một số học giả chỉ  tập trung nghiên cứu những văn bảnvà sử liệu tiếng Pali Nam Truyền, chú trọng nghiên cứu lịch sử và lý luận căn bản  của Phật Giáo trong thời kỳ đầu;  một số học giả khác thì  coi trọng sử liệu  và kinh văn Hán  văn Bắc Truyền, coitrọng  nghiên cứu  những vấn  đề có  liên quan  đến Phật Giáo Đại Thừa.Nhưng hiện  nay đã khác.  Các học giả  Phật Giáo hiện  đại đã chú trọng đến  cả 2 mặt, không  những chú ý tới  Phật Giáo Nam Truyền, đồng thời cũng coi trọng Phật  Giáo Bắc Truyền. Họ thường tập hợp cả hai để so sánh, bổ túc  cho nhau, đồng thời chọn những giá trị thích hợp và  ý nghĩa nhất trng biên soạn.  Cũng không thể bỏ sót những công tình khai quật khảo  cổ học được tiến hành trong những thập niên gần lại đây để có  được những chúng liệu cụ thể và thích đáng trong nghiên cứu lịch sử và tư liệu.

 

Vấn đề 4: Phật Giáo trong giai đoạn phục hưng

Trong vòng ba bốn  trăm nay, do ảnh hưởng của hoàn  cảnh xã hội của nhiều khu vực trên thế giới, Phật  Giáo bị ngưng trệ thì đến đầu thế kỷ  XX, đã chứng  kiến sự hồi  sinh tại nhiều  nơi ở châu Á, thuộc Phật Giáo Đại Thừa hay Phật Giáo Tiểu Thùa.

 Tại Nhật Bản: Khả năng hồi sinh  nhanh chóng nầy bắt đầu từ năm 1868, khi sự giải  thể Phật Giáo vào lúc đầu thời  đại Minh Trị và  những chủ  trương ngược đãi suốt  một thời gian đối  với tôn giáo nầy. Tuy nhiên trong hoàn cảnh đó,  Phật Giáo đồ đã cố vươn mình trỗi dậy, như một liều thuốc kích thích.

 Tại Tích Lan, cũng vài năm sau đó, Phật Giáo cũng bắt đầu ngẩng đầu trở  dậy. Những nhân vật  có công trong sự  phuc hưng ban đầu nầy, phải kể đến: Meggetuwatte, Gubananad và đại tá H. S. Olcott. Họ đã tạo ra một ảnh hưởng lớn trong đường hướng tôn giáo của quốc gia nầy.  Sự hồi sinh  của Phật Giáo  trong vùng đất  nầy bắt đầu diễn ra  dưới dạng một  phong trào Phật  Giáo có tổ  chức vào năm1891, khi ngài Anagarika Dharmapala thành lập Hội Đại Bồ Đề (Maha Bodhi Society).   

 Tại Trung Hoa, sự tỉnh thức của hàng ngũ tăng sĩ và tín đồ Phật Giáo bắt đầu từ những hoạt động của Thái Hư Đại Sư đề xướng phong trào canh tân Phật Giáo.

 Tại Miến Điện: Sự hồi sinh của  Phật pháp được gắn liền với têntuổi của vị học giả uyên bác Ledu Sayadaw. 

Trong tất  cả các quốc gia  Phật Giáo ở châu  Á, thì có lẽ  chỉ ở  Tích Lan và  Miến Điện là 2 nơi  Phật Giáo đang hồi sinh  một cách thắng lợi nhất. Chính hoàn cảnh chính  trị và xã hội là một trong những yếu tố giúp đỡ sức hồi sinh sớm nầy. Tích Lan là một ví dụ: Những thành tích đạt được ở Tích Lan do sự khai sinh 2 tổ  chức Phật Giáo lớn của Phật Giáo  thế giới; đó là Hội Đại  Bồ Đề và Hội  Ái Hữu Phật Giáo  Thế Giới. Từ hai  cơ cấu nầy,  khắp nơi  trong nước  đều dấy  lên phong  trào trùng tu chùa chiền, tổ chức tăng già và quần chúng tu tập. 

Có lẽ, trừ  2 nước Nhật Bản và  Tích Lan ra, với khả  năng eo hẹp của mình, nhưng  họ cũng đã cử ra  nước ngoài, kể cả các  quốc gia Tây Phương, nhiều vị sứ giả Phật Pháp (Dharmaduta) hơn bất cứ một quốc  gia  Phật  Giáo  nào  khác.  Các  học  giả Phật giáo như BS Malalasekera,  Coomaraswamy và  Buddhadatta, các  họa sĩ  như Manjurri Thera và George Keyt, các văn sĩ, thi sĩ như  Dhanapala, Tambimuttu,  khi giới  thiệu những  công trình nghiên cứu, hoàng  pháp và thể hiện nghệ thuật  ra nước ngoài đều  được đa số tiếp  nhận, kính trọng,  xem như một trào lưu tư tưởng và văn hoá mới của thời đại. Theo chiều hướng  đó, ngay ở trong nước, các  ngành nghệ thuật, thủ công, phong  tục bản địa,  văn hoá truyền  thống, từng bước  cũng được hồi sinh trên tinh thần mới.  Những ràng buộc, khống chế văn hoá, tín ngưỡng do chế  độ thực dân trước kia gây ra,  thì sau đó, Tích Lan đã  từng bước tháo gỡ  khôn khéo và hữu  hiệu. Nằm trong Khối Thịnh Vượng Chung, Tích Lan đã tỏ ra kông thua kém gì nước Anh vềcông cuộc phát  triển tôn giáo và văn hoá.  Thậm chí, chính quyền Anh phải phái nhiều học giả sang đây để nghiên cứu Phật Giáo, trở về truyền bá lại trong nước.

 Tại Miến  Điện, cũng đã diễn  ra trường hợp tương  tự. Nền độclập của quốc gia nầy chẳng những tạo ra phong trào Chấn hưng Phật Giáo,  mà lại còn dẫn đến sự hồi sinh văn hoá Phật Giáo nước nầy. Tình hình  một số nước  khác chuyển biến  khác hơn. Chẳng hạn:  tại Thái Lan, Kampuchia và  Lào, sụ trỗi dậy của Phật  Giáo cũng như sự hồi sinh của  nền văn hoá  Phật Giáo không  được nổi bật  lắm; nguyên nhân là ít chịu ảnh hưởng  của nước ngoài, cho nên cả Phật Giáo cùng những ngành nghệ thuật, phong tục, thể chế đi kèm đã không bị suy sụp đến mức tệ hại như những nước khác.

 Tại Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc,  Phật Giáo không có cơ hội để tạo nên những  nét khởi sắc; mãi cho  đến từ năm 1932 trở  đi, dã dấy lên  cuộc vận động chấn  hưng khắp ba kỳ.  Những tổ chức Phật Giáo được thành lập trong một phạm  vi nào đó, phải đợi đến 1963,sau cuộc tranh  đấu Phật Giáo thành công, mới  đi đến thống nhất,  ít ra, trên đại thể.   

 Tại Thái Lan,  sau một thời gian tổ chức  biên dịch, hiệu đính và kết tập đã  hoàn thành việc biên soạn toàn  bộ Giáo lý Pali chuyển sang tiếng Thái Lan, gồm 45 tập.  Ấn bản công phu nầy mang tên là  "Tam Tạng Hoàng Gia Thái Lan" đến nay vẫn là ấn bản hoàn chỉnh vàđầy đủ duy nhất của bộ Thánh điển Phật Giáo nguyên thủy từng được thực hiện ở những quốc gia Phật Giáo châu Á hiên được lưu hành.  

 Tại Nhật Bản, quốc gia chịu  ảnh hưởng nền công nghiệp hiện đại rõ nét nhất, thì sự trỗi dậy đáng kể của nền văn hoá Phât Giáo đã không dẫn  đến sự "hồi  sinh", nguyên nhân  là nhờ dân  tộc nầy từ  trước đến  nay vẫn duy  trì tinh thần  hoà hợp giữ  Phật Giáo với Thần Đạo; dân Nhật đã nỗ lực duy trì và củng cố, tuy sống giữa một môi trường đầy  bất lợi và đầy đố  kỵ của đời sống hiện  tại.

Một trong những  nhân vật am  tường Phật học  và văn hoá  Phật Giáo là Tiến sĩ D. T. Suzuki, nhà thiền học nổi tiếng. Qua những tác phẩm  và những bài giảng của vị thiền  sư nầy, đã tạo được một ảnh huởng sâu xa và rộng  rãi hơn bất cứ một  tín đồ Phật Giáo nào  khác trên  phương diện tư tưởng, văn hoá của người châu Âu và châu Mỹ.- Vấn đề chính trị: Tại những quốc  gia chịu sụ khống chế của thểchế chính trị, như trường hợp  Trung Quốc, Tây Tạng, Népal, kể cả Việt Nam, chính trị đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng, chi phốimọi sinh hoạt tinh thần. Với Cộng Sản "tôn giáo là thuốc phiện của  dân chúng",  nhưng những chính quyền  ở những nước nầy  không thể khống chế toàn diện Phật Giáo  được, đành quay sang thực hiện một  chế độ quản trị mới, để tránh phản kháng, ít nhất trong từng giai  đoạn.  Những thông  tin về chính quyền  Bắc Kinh trao tặng  Xá lợi xương  Phật cho  Miến Điện, hay tặng  một bộ Tam Tạng Thánh  Điển bằng tiếng  Hoa cho Tây Tạng... nằm trong kế hoạch đó.

 Ấn Độ  và phong trào hồi  sinh Phật Giáo: Sự  hồi sinh của Phật  Giáo tại Ấn Độ trong 60 năm qua, nhất là trong thập niên vừa qua,  là một trong những sự kiện đặc  biệt và đáng lưu tâm trong lịch sử văn hoá Phật Giáo. Không một nơi nào trên thế giới có thể tìm thấy  được một  trường hợp tương  tự của  một  tôn giáo đã  từng biến mất trong nhiều thế kỷ qua, mà nay  lại được hồi sinh. Đây không phải là mệnh lệnh của  một bạo chúa, cũng không phải là  do kết quả của nạn ngoại xâm, mà chỉ do quyết tâm của quảng đại quần chúng.

Điều nầy đang diễn ra rõ ràng nhất trên đất Ấn Độ ngày nay.  Chưa đầy một thế kỷ trước đây,  ở đây chẳng ai được nghe nhắc đến  Phật Giáo trên miền đất sinh ra tôn giáo đó; và nếu có được nhắc  đến  chăng đi  nữa, cũng  chỉ nhắc  là "một  tôn giáo không chính thống", từng bị chống đối và đã biến đi. Nhưng ngày nay, từ "Phật Giáo" lại trỏ nên quen thuộc với dân nước nầy. Bên trên chiếc ghế của vị  Tổng thống nước Cộng  hoà Ấn Độ, trong  Viện Dân Biểu, mấychữ Dharmachakara  Pravarttanya (Chuyển Pháp Luân)  sáng ngời ánh điện trước  các đại biểu đến  dự họp. Ngay chính  giữa lá quốc kỳtung  bay  trên  hàng  nghìn  công  sở  Ấn  Độ, cũng thấy ký hiệu này, nhắc  nhở mọi  người không  những về  giáo lý  cao cả của đức Phật, mà lại còn cả chủ trương Dharmavijaya (Thắng trí) của vua A Dục.  Sự hồi sinh của Phật Giáo ở đây được gắn liền chặt chẻ với sự phục  hưng nền văn hoá  của xứ nầy. Sự phục hưng diễn  ra một thời gian trước đó, sau mới đến sụ hồi sinh của Phật Giáo. Sự hồi sinh nầy, bản thân là  một phần của phong trào rộng  lớn nhằm phục hồi đờisống tôn giáo, văn hoá, tư tưởng,  đạo đức và chính trị quốc gia.Sự hồi sinh  nầy còn g16n liền với  sự phục hưng của một  nền văn hoá Phật Giáo đặc trưng của  đất nước nầy. Cũng trong chiều hướng  nầy, các  nhà chính trị  và tư tưởng  Ấn Độ đã  nhận thức được tầm  quan  trọng của  việc nghiên  cứu các  kinh điển  tiếng Pali, tiếng Phạn,  tiếng Tây  Tạng và  tiếng Trung  Hoa nữa.  Thơ của thi hào Rabindranath T.  Tagore, tiểu thuyết của  Gurabaksh Singh, truyện  ký của  Edwin Arnold... chịu sâu  xa ảnh hưởng của  Phật Giáo, đã trở thành những tác phẩm kinh điển của văn học Punjab hiện đại.

 

----o0o---