Ấn Quang Gia Ngôn Lục - Phần I

23 Tháng Chín 20164:56 CH(Xem: 3142)
Ấn Quang Gia Ngôn Lục - Phần I

LỜI VÀNG 
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC 
 

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm 
Phiên dịch & thi kệ toát yếu 2015

Ấn Quang Gia Ngôn Lục - Phần I

Chương I: Tịnh Độ Thù Thắng

 

Thật huyền diệu thay, pháp môn niệm Phật
“Làm Phật, và là Phật” chỉ tâm này
Một niệm xưng danh, thành Phật tại đây
Độ khắp ba căn thượng, trung, và hạ
Lại gồm thu cả Luật, Thiền, và Giáo
Như mưa phải thời tươi mát khắp cùng
Như đại dương uống trọn nước ngàn sông
Chứa đầy đủ thiên, viên, và đốn, tiệm [15]
Phương tiện tùy cơ Tiểu, Đại, Quyền, Thực [16]
Đồng hồi quy một pháp giới viên minh
Hoặc nghiệp chưa đoạn trừ, đới nghiệp vãng sinh
Viên mãn Bồ Đề, một đời cùng Bổ Xứ.
Chúng sinh như hằng sa trong chín cõi [17]
Lìa pháp môn này, Phật đạo khó tựu thành.
Phật mười phương khó thể độ quần manh
Nếu chẳng dụng pháp môn như phương tiện.
Cũng như vậy,
Hải chúng Hoa Nghiêm theo mười hạnh nguyện
Hội Pháp Hoa, chỉ một tiếng xưng danh
Liền chứng ngay thật tướng, há quẩn quanh
Luận Khởi Tín [18], ngài Mã Minh từng thuyết
Pháp môn Tịnh Độ dễ tu, chóng đến.
Tỳ Bà Sa [19], Ngài Long Thọ [20] xiển dương.
Trí Giả [21] được xem là thừa tự [22] Pháp Vương [23]
Thập Nghi Luận [24] vì người mà phân biện.
Sư Vĩnh Minh [25] là Phật A Di Đà hóa hiện
Lưu truyền chương Tứ Liệu Giản [26] huyền thư
Cả tam thừa [27], ngũ tánh [28] chứng chân như
Đưa trên thánh, dưới phàm qua bến giác.
Nên phải biết, Tịnh Độ vi diệu pháp
Là pháp môn chín pháp giới hồi quy
Khắp mười phương khen ngợi bất tư nghì
Ngàn kinh luận đều xiển dương, tuyên thuyết.
Có thể nói,
Pháp Tịnh Độ là pháp môn bất tuyệt
Pháp cực kỳ vi diệu được thuyết ra
Trải một đời, trăm pháp hội Thích Ca
Là đại giáo, là nhất thừa vô thượng.
Thật khó gặp, nếu chẳng trồng cội phước
Đã được thấy nghe thì phải gắng công
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là Phật cương tông
Nghĩ nhớ Phật, niệm Phật, là nẻo tắt.
Trong thời nay, chính là đường chứng đắc
100. Bỏ pháp này chẳng có thể viên thông
Không như xưa, pháp pháp đủ bốn tông [29]
Cũng bởi lẽ tánh người nay hạ liệt
Cách Phật thánh lâu xa, tâm phàm hèn kém
Không nương vào Phật lực quyết chẳng xong.
Pháp môn Tịnh Độ đủ thượng, hạ, trung
Vượt trên cả Luật, Thiền, và Hiển giáo.
Nên phải rõ, đại từ bi tâm Phật
Chỉ ngay vào tánh Phật của muôn loài
Đưa ba thừa, năm tánh nhập liên đài
Khiến phàm thánh cùng viên thành pháp Phật.
Cũng như xưa,
Dưới tòa Hoa Nghiêm, mười phương Bồ tát
Nhất tâm cầu Tịnh Độ được vãng sinh
Thuở Kỳ Viên thuyết thời pháp đầu tiên
Các trước tác từ Tây thiên, Đông độ
Đều quy hướng về Tây phương Tịnh thổ.
Lời người xưa: “Chẳng dễ có thân người
Chốn kinh kỳ cũng khó thể đến nơi
Nghe Phật pháp chẳng phải là dễ được
Vòng sinh tử không dễ dàng liễu thoát”.
Nay chúng ta đều hội đủ cả ba
Được thân người, đi lại chốn phồn hoa
Nghe Phật pháp chẳng lấy gì làm khó
Chỉ tự thẹn mình nghiệp sâu, chướng nặng
Khó đoạn trừ tư kiến hoặc [30], vượt tử sinh
Hy hữu thay,
Đức Như Lai vì tâm lượng đại bi
Pháp tự thuyết là pháp môn quyền xảo
Khiến phàm phu còn trong vòng nghiệp đạo
Nếu tu trì, mang nghiệp cũ vãng sinh
Nếu chẳng phải từ muôn kiếp có căn lành
Sao lại được nghe pháp môn tận thiện?
Nên nhanh chóng phát tâm tín hạnh nguyện
Cầu được sinh nơi cõi Phật Tây phương.
Tịnh độ môn mang hoài bảo bậc pháp vương
Chỗ đứng vượt huyền ngôn và diệu nghĩa
Từ mười hai tạng kinh đến năm tông phái [31]
Chư Tổ sư khó luận tận môn này
Nếu đại địa chúng sinh hiện tướng lưỡi rộng dài
Thành chánh giác, dụng thần thông, trí lực
Nhiều như số vi trần hằng muôn cõi nước
Không mảy may dừng tuyên thuyết Tịnh tông
Cũng không sao nói đến chỗ tận cùng
Bởi Tịnh Độ bất tư nghì diệu pháp.
Hãy thử nghĩ,
Kinh Hoa Nghiêm là vua trong Tam tạng
Phẩm cuối cùng [32] về với đại nguyện vương [33]
Huyền nghĩa Pháp Hoa [34] thực khó tranh hơn
Thông diệu lý, vãng sinh ngang Đẳng giác.
Thế mới biết, muôn kinh và ngàn luận
Đồng hồi quy Tịnh Độ diệu pháp môn.
Đức Như Lai từng thọ ký lời rằng [35]:
Đời mạt pháp, không Tịnh tông, khó độ
Trong luận Tỳ Bà Sa, ngài Long Thọ
Từng dạy rằng: Pháp giản dị, chóng thành.
Thế cho nên, xưa các bậc thánh hiền
Đều hồi hướng, đâu phải là uổng phí.
Trọn một đời luôn hoằng dương, pháp thí
Nhân địa là pháp niệm Phật chính tông
Căn, thức, trần như cảnh vật, núi sông
Mỗi mỗi pháp đều xiển dương Tịnh độ.
Vòng xoay chuyển của sinh già bệnh khổ
Cảnh thiên tai, chiến trận khói mù bay
Khác chi lời cảnh tỉnh chóng thoát ly
Cầu Cực Lạc, đó gọi là chữ Độ.
Còn như nói: “Một lời gồm tất cả”
Đó là lời thuần Tịnh suốt thủy chung
Tịnh đến vô cùng thì hẳn tinh thông
Chưa thành Phật sao đảm đương cho được?
Nếu chẳng hội, suy tầm bài Lục Tức [36]
Sẽ rõ ràng ý nghĩa quảng đường tu.
Thiếu tín thì không đủ phát nguyện sâu
Không lập nguyện, hạnh lấy chi nương cậy
Thiếu diệu hạnh, nguyện không viên mãn vậy
Lấy điều chi dẫn chứng được lòng tin
Kinh luận Tịnh tông theo đó phát minh
Ba yếu chỉ không thể nào thiếu một.
Tịnh Độ Thập Yếu [37] chữ chữ là rường cột
Làm cầu, đò đời mạt pháp dựa nương
Lời lời như máu và lệ trào tuôn
Xứng tánh hạnh [38] phát ra từ tim óc
Dùng ẩn dụ gởi tấc lòng bi thống
Ví cứu người nước cuốn, lửa bao quanh
Đọc kỳ thư chánh tín sẽ phát sanh
Tà kiến diệt ắt rõ rành phương hướng.
Kinh Hoa Nghiêm nói,
“Nếu ác nghiệp của chúng sinh có tướng
Mười phương không gian chẳng đủ chứa dung”.
Nếu tu hành giải đãi, dạ buông lung
Mà tiêu nghiệp thì chưa từng có thật!.
Đức Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà Phật
Lo chúng sinh không đủ sức trừ mê
Khai pháp môn nương diệu lực Bồ Đề
Khiến đới nghiệp vãng sinh về Phật quốc
Phật tâm từ bi, lấy gì báo đáp
Nên sinh lòng sám hối, nguyện trợ tu.
Ngài Thiện Đạo [39] dạy rằng:
“Pháp pháp từ Phật vị đến phàm phu
Muốn học Giải, tất cả đều nên học
200. Muốn học Hạnh, chọn pháp môn khế hợp
Tinh cần tu mới chóng được pháp ân
Bằng không thì kiếp kiếp vẫn trầm luân”.
Pháp khế hợp không gì hơn Tín, Nguyện
Trì danh Phật, cầu vãng sinh đới nghiệp
Tịnh Độ tông có Tịnh Độ Tam Kinh
A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Kinh [40]
Luận sự lý của pháp môn Tịnh Độ
Kinh sách Đại Thừa cũng là vô số
Hoa Nghiêm nhất thừa, lời Phật thuyết đầu tiên
Mười nguyện sâu của Bồ tát Phổ Hiền
Đồng quy hướng cầu vãng sinh Cực Lạc
Trên đất Phật sớm viên thành quả Phật
Đọc Quán Kinh thấy hạ phẩm hạ sanh
Kẻ sắp lâm chung dù hiếm có việc lành
Phạm ngũ nghịch [41] lại thêm mười điều ác [42]
Duyên gặp người hiền dạy câu niệm Phật
Vâng theo lời, niệm chưa hết mười câu
Liền thấy hóa thân tiếp dẫn vãng sinh.
Kinh Đại Tập: “Chúng sinh đời mạt pháp
Kẻ tu hành dù đến hằng muôn ức
Có mấy ai đến được chỗ viên thành
Nên nương vào Phật hiệu thoát tử sanh”.
Pháp niệm Phật là pháp môn tối thượng
Thượng thánh, hạ phàm, trí hay ngu đều được
Dễ hành trì, hiệu quả lại cao xa
Do nương vào Phật lực, tựa buồm hoa
Thuận sức gió, nước xuôi, thuyền chóng đến.
Bậc chánh giác vì chúng sinh ứng hiện
Vô duyên từ [43], đồng thể với đại bi
Phương tiện lập thành năm tông phái tùy nghi
Mật, Giáo, Tịnh, Thiền và Giới Luật
Luật là thân Phật, Giáo là lời Phật
Gọi là Thiền vì chính đó Phật tâm
Ba pháp này từ quả Phật thậm thâm
Cứu chín cõi cũng do từ đây vậy.
Luật, Giáo, Thiền, nếu y theo lời dạy
Thì cả ba nghiệp tội [44] của chúng sinh
Sẽ chuyển thành ba Phật lực [45] viên minh
Nghiệp chuyển hóa,
Sinh tử và Niết Bàn nào có khác
Phiền não là Bồ đề thay hình, đổi dạng
Túc nghiệp sâu nên mật chú gia ân
Lại thương chúng sinh tùy nghiệp thọ thân
Dạy niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc
Dù là thánh nhân hay phàm phu đơn bạc
Niệm Phật danh, tại thế biết ngày về
Bậc thánh thì mau chứng đắc Bồ Đề
Kẻ phàm tục được viễn ly sinh tử.
Luật là nền tảng của Giáo, Thiền, Tịnh, Mật
Không nghiêm trì giới luật, uổng công phu
Muốn xây lầu cao muôn trượng, mặc dù
Nền chẳng vững, chưa xong đà nghiêng lật
Tịnh là chỗ quy tông của Giáo, Thiền, Luật, Mật
Như nước trăm sông về một đại dương
Là pháp môn chư Phật khắp mười phương
Lập phương tiện giúp nương vào Phật lực.
Mỗi mỗi chúng sinh vốn sẳn trí chân thực
Và đủ đầy đức tướng bậc Như Lai
Bởi lìa chân theo vọng, kiếp kiếp lạc loài
Theo trần cảnh chuyển luân trong ác đạo.
Chư Phật xót thương mở khai pháp bảo
Chuyển não phiền thành đức tướng tuệ tâm
Như khối băng kia vốn từ nước lạnh đông
Duyên hội hiệp lại tan ra thành nước
Tướng dụng khác nhau, thể nào có khác
Nhưng căn cơ có lớn nhỏ, sâu nông
Phật khai pháp tùy cơ, bát ngát mênh mông
Pháp thù thắng người người kham lãnh thọ
Nhưng không một pháp sánh ngang Tịnh Độ.
Bởi vì sao?
Tất cả pháp môn thật, quyền, đốn, tiệm
Đều phải tự dụng công tu tập kiên trì
Mới mong đoạn kiến và tư hoặc, xuất ly
Lìa sinh tử, vượt phàm phu nhập thánh
Đó là bậc đã tận tường pháp tánh
Đã triệt thông các lý đạo huyền vi
Kẻ trí phàm há dễ biết đường đi
Trong nhất kiếp khó mong ngày chứng nhập
Lý đạo cao sâu, dễ gì tu tập
Chuỗi thời gian đăng đẳng trải công phu
Vẫn chưa tận thiện, lại làm kẻ lãng du
Trong nghiệp đạo luân hồi không dừng nghỉ.
Riêng Tịnh độ tông,
Chẳng phân biệt kẻ ngu hay người trí
Không kể chi phú quý hoặc bần hàn
Không luận hàng thế tục hoặc ni, tăng
Do nguyện lực đại bi, đều nhiếp thủ.
Trong nhất niệm,
Tánh Phật và tánh chúng sinh bất nhị [46]
Khi tâm mê tạo tác khiến trầm luân
Lúc vào địa ngục, lúc dạo thiên cung
Tánh Phật sẵn có vẫn không hề tổn thất
Ví như ngọc ma ni quăng vào nơi dơ bẩn
Phải chung cùng với phẩn uế tanh tao
Kẻ trí kia biết bảo ngọc, chân châu
Vào nhặt lấy, rửa chùi nên trong sáng
Treo ngọc trên cao, quang minh chiếu rạng
Quả thật là được Như Ý bảo châu
Đại Giác Thế Tôn,
Thấy sinh chúng nào có khác chi đâu
300. Mãi mê mệt vui trong ba đường ác [47]
Phật chẳng quản công lao, tìm duyên thuyết pháp
Ẩn hiện trăm phương kế độ quần manh
Khiến người hiền, kẻ dữ được phân minh
Vô thượng đạo vì chúng sinh quảng diễn
Với kẻ sơ cơ, dạy ngũ giới và thập thiện
Người tịnh tu, dạy diệu pháp thậm thâm
Khuyên muôn người vượt thoát cõi mê tâm
Trong tam giới, dù điều tâm, phục hoặc
Nhưng thân kiến [48] vẫn còn đang chấp chặt
Thêm ái hà, tình cảm vẫn chưa thôi
Phước báo khi hết sạch phải nỗi trôi
Duyên đưa đẩy lại tạo thành ác nghiệp
Nghiệp cảm khổ, vòng luân hồi nối tiếp
Kinh Pháp Hoa đã chỉ rõ điều này
Ba cõi như nhà lửa, đáng sợ thay
Nếu chẳng được chỗ tình không, nghiệp tận
Chẳng đoạn hoặc, chứng chân, lấy gì hy vọng?
Nay pháp môn Tịnh Độ dễ thực hành
Lòng chân thành, nguyện tha thiết trì danh
Nương Phật lực cầu sinh nơi cõi Tịnh
Đã vãng sanh, lại nhập vào Phật cảnh
Các tình phàm, ý thánh cũng không sanh
Thật viên toàn, ứng hợp, pháp trì danh
Nếu bỏ sót, mạt thời mong chi thoát.
Trong tâm chúng sinh, Phật quang chiếu suốt
Lặng lẽ, thường hằng, chẳng diệt, chẳng sanh
Vô thủy chung nhưng diệu dụng tung hoành
Nói vốn Không,
Nhưng ngay đó vạn đức đều hiển hiện [49]
Nói là Có,
Nhưng dù một vi trần cũng chẳng lập
Pháp pháp đều là, tướng tướng đều ly
Ngũ nhãn [50] tứ biện tài [51] cũng khó luận suy
Dù là vậy, không nơi nào chẳng gặp
Chúng sinh mê nên từ trong khổ tập [52]
Chẳng biết dùng trí Phật, dụng công lầm
Mang chân tâm đi vào chỗ mê trầm
Vòng sinh tử chưa một lần dừng lại
Thọ huyễn báo thay cho chân như thường tại
Như kẻ say thấy nhà cửa ngữa nghiêng
Do vọng tâm hóa hiện cảnh đão điên
Trí vô ngại ẩn tàng khi vọng khởi
Do khởi vọng nên thấy sanh, thấy diệt
Vọng diệt thì Phật tánh hiện bản chân
Cảnh vật lộ bày rạng rỡ một vầng trăng
Trăng không hiện, cảnh chìm trong tỉnh lặng.
Nếu ví tâm như trăng, cảnh là vạn vật
Tâm chẳng sinh thì cảnh cũng là không
Vô tâm, vô cảnh, pháp pháp thể đồng
Linh quang tịch chiếu, căn trần đâu can dự
Lộ thể chân thường, đâu màng văn tự
Tâm không nhiễm ô tự tánh viên quang
Như như Phật, diệt vọng, hiện chân
Ngàn ngôn giáo đều chỉ bày tự tánh
Tâm mê chúng sinh có cạn sâu dày mỏng
Nếu chẳng nhọc nhằn dùng phương tiện mở khai
Chúng sinh thấy đâu vầng nguyệt tựa tâm này
Mây tan hiện bóng trăng vời vợi sáng.
Cũng vì vậy,
Kinh Hoa Nghiêm chẳng dụng quyền hiển thực
Một bước vào liền thực tướng Như Lai
Thuyết đốn môn vượt chín cõi không hai [53]
Chẳng xen tạp pháp Tiểu thừa, quyền biến.
Chúng sanh độn căn khó vào diệu thiện
Phật lại tùy cơ thuyết pháp độ nhân thiên
Ngũ giới, Thập thiện, Thập Nhị Nhân Duyên
Hoặc Lục độ đưa đường ba la mật
Từ thời A Hàm cho đến thời Bát Nhã
Các tạng kinh đều khế hợp căn duyên
Đến thời Pháp Hoa hiển thực, khai quyền [54]
Từ trong Tích [55] rõ rành bày căn Bổn [56]
Hy hữu thay, tiểu, quyền, tiệm, đốn
Thảy thảy đều trong một pháp Nhất chân
Kẻ làm thuê chính con bậc thượng nhân[57]
Ba căn tánh [58], mỗi mỗi đều thọ ký
Đại sự nhân duyên, bản hoài xuất thế [59]
Từ thủy chí chung tương chiếu lẫn nhau
Thời Hoa Nghiêm cho đến mãi ngàn sau
Đầu và cuối, hai thời về một chỗ
Nay lại nói nguyên lai môn Tịnh độ
Tâm tánh chúng sinh bất biến tựa hư không
Tuy thường hằng nhưng niệm niệm duỗi rong
Chẳng duyên cõi Phật thì duyên vào chín cõi [60]
Không duyên ba thừa [61] thì duyên sáu nẻo [62]
Không nhân thiên ắt lại chọn tam đồ [63]
Theo hai đường nhiễm tịnh có tế, thô
Thọ quả báo khổ vui đều sai biệt
Tuy bản thể vốn thường hằng bất biến
Hiển hiện ra tướng và dụng khác thường
Như hư không lúc bừng ánh thái dương
Khi mây kéo mịt mù trời lẫn đất
Rực rỡ, âm u chẳng khiến hư không tăng, giảm
Tướng trạng ẩn tàng thì chẳng phải như nhau
Bởi lẽ này,
Dạy chúng sinh hằng vạn kiếp về sau
Duyên Phật hiệu, tâm tư thường nhớ Phật
Tưởng nhớ Phật ắt có ngày gặp Phật
Làm Phật và là Phật, chỉ tâm minh
Theo tri kiến chúng sinh thì tâm của chúng sinh
400. Đã biết vậy mà không tin thì thật lạ!
Tịnh độ môn,
Duyên hồng danh Như Lai Vô Thượng Giác
Lấy quả địa [64] làm nhân địa [65] tu hành
Vạn đức ân chứng đạo tức Phật danh
Cho nên nói,
Quả tận nguồn nhân, nhân trùm biển quả
Ví như người ướp xông thân thơm hương xạ
Huân tập lâu ngày hẳn có lúc hồi quy
Chuyển phàm hóa thành lực dụng bất tư nghì
Không một pháp môn nào hơn Tịnh độ.
Cũng bởi Phật lực, tự lực đều gồm đủ
Giúp người đoạn hoặc chứng pháp thân
Hoặc là mang nghiệp cũ để vãng sinh
Dù ngu phụ[66] cho đến hàng Đẳng giác
Đều hưởng đức ân đưa đường giải thoát
Nên là pháp môn tối diệu chẳng gì hơn
Chớ nên dùng phàm trí [67] lý luận suông
Phước mỏng, chướng sâu, mong tự mình trừ hoặc
Trí cạn, nghiệp dày, thật muôn vàn khó được.
Kể từ khi Phật pháp trải về Đông [68]
Đất Lô Sơn, Liên Xã [69] được khởi hưng
Một câu xướng trăm câu hòa nhã điệu
Đời Bắc Ngụy, sư Đàm Loan[70] kỳ cựu
Vua nhà Lương [71] vọng bái tự Bắc phương
Thường tán dương: “Chính Bồ tát nhục thân”
Trí tuệ khó dùng tình phàm lượng giá.
Đời Trần-Tùy có Thiên Thai Trí Giả [72]
Sang đời Đường, sư Đạo Xước[73] xiển dương
Ba bộ kinh Tịnh Độ [74] giảng trăm lần
Sư Thiện Đạo [75] trở thành người nối mạch
Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang, Đại Hạnh
Quạt ngọn Liên phong như lốc cuốn trong ngoài
Các tông môn cũng theo đó triển khai
Dùng Tịnh đạo mật tu và hiển hóa.
Thiền tông nói: “Một pháp còn chẳng lập
Huống chi cầu cõi Cực Lạc vãng sinh!”
Chớ nên lầm! Đó là luận về tánh bản nguyên
Một chẳng kể, thảy thảy đều chẳng kể
Thật tế lý địa [76], đó là nói bản thể
Vạn sự môn trung [77], chỉ rõ việc tu hành
Bỏ tục nói chân thì chẳng phải thực chân
Chẳng khác diệt ngũ uẩn để mong cầu tự thể
Muốn thấy chân phải tìm ngay trong tục đế
Mắt thấy, tai nghe, mỗi mỗi lộ chân tâm.
Đại sư Liên Trì [78] tham học với Tùng Nham[79]
Lắm cân nhắc, sau cùng liền đề xướng:
“Nếu tịnh nghiệp viên thành, thiền tông tự chứng
Tắm trong đại dương tức dùng nước trăm sông
Chân bước vào điện Hàn Nguyên há lại hỏi Trường An?”
Nối nguồn pháp, nơi nơi đều xướng lập
Sư Ngẫu Ích [80], Triệt Lưu, hàng hàng, lớp lớp
Khéo dụng công mà hưng thịnh Tịnh tông
Hóa độ tùy thời, pháp ứng hợp cơ phong
Nếu chẳng vậy, chúng sinh sao được độ
Khi sư Huệ Viễn [81] lập Liên tông nơi Trung thổ
Khiến họ Lưu khắc lời nguyện trên bia
Bạn đồng tu là Huệ Vĩnh trú Tây Lâm
Trên đỉnh biếc dựng một gian lều cỏ
Một vùng núi quyện hương bay theo gió
Người chung quanh liền gọi “động hương thơm”
Thời gian dài, thiền giả hướng Tịnh môn
Dù như vậy, không soạn biên rõ rệt
Sau Vĩnh Minh [82] nhiều áng văn trác tuyệt
Khuyến tu trì pháp niệm Phật viên thông
Trong thiền môn có thiền giả Tử Tâm
Lưu truyền văn bản “Khuyến Tu Tịnh Độ”
Tôn giả viết:
“Niệm Phật hiệu A Di Đà dễ niệm
Cõi Tây phương, đất Phật dễ vãng sinh
Người tham thiền nên niệm Phật trì danh
Người ám độn không dễ chi tỉnh thức
Nên phải nương vào A Di Đà nguyện lực
Tiếp dẫn người tu như nguyện vãng sinh
Nếu có kẻ y lời tôi mà chẳng được như trên
Thì tôi phải đọa A tỳ cắt lưỡi”.
Tịnh Độ Thuyết của thiền sư Chân Hiết Liễu
Thấy ghi rằng:
“Tông Tào Động nhiều người tu Tịnh độ
Bởi là con đường tắt để tu hành
Y cứ vào Đại Tạng, khế hợp hạ thượng căn
Bậc long tượng ngộ bất-không bất-hữu
Nên dốc chí chuyên tâm vào Tịnh nghiệp
Nhập một môn tức nhập vạn pháp môn
Bởi giáo, thiền, Phật, Tổ vốn chung nguồn
Pháp Tịnh Độ giúp người mau thấy Phật”.
Thiền sư Trường Lô Trách kết Liên Hoa hội
Phổ khuyến người tu phát nguyện Tây thiên
Cảm ứng trong mơ Phổ Tuệ, Phổ Hiền
Chư đại Bồ tát hiện thân phó hội.
Giáo là lời Phật, Tịnh là tâm Phật, Luật là hạnh Phật
Ngôn, hạnh, tâm – ba thứ phải dung thông
Người đời sau tùy phương tiện lập tông
Duy Tịnh Độ hợp các căn lợi, độn
Lại là pháp quy các tông về Một
Như ngàn châu trên lưới Thích Đề Hoàn [83]
Cùng phóng quang minh chiếu rạng hàng hàng
Không tạp loạn, tịch nhiên mà thường chiếu.
Kẻ câu nệ vào Tích môn[84] lớn tiếng:
500. “Các pháp môn, mỗi pháp khác xa nhau”
Người khéo nhìn hẳn thấy pháp pháp viên thông
Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy
Cửa tuy khác nhau nhưng thành thì chỉ một
Pháp pháp trên đời đều hiện tướng chân như
Chẳng riêng chi lời Phật tại Linh sơn
Mới đúng là pháp quy chân đạt bổn [85]
Mà tất cả Ấm, Nhập, và Xứ, Giới [86]
Khắp thế gian đều là pháp minh tâm
Mỗi một pháp chính là tánh, là tâm
Nên kinh Lăng Nghiêm nói:
“Ấm, Đại, Nhập, Xứ, Giới đều là Như Lai Tạng”.
Tất cả pháp thảy đều là Phật pháp
Không một ai chẳng là Phật tự tâm
Quên châu trong vạt áo, chịu lầm than[87]
Che kín mặt Như Lai mà tạo nghiệp.
KHUYÊN TÍN HẠNH NGUYỆN NÊN CHÂN THÀNH, THA THIẾT
Lòng tin chân thành, tâm nguyện tha thiết
Tín là tin cõi sa bà cực khổ
Tín là tin cõi Cực Lạc an vui
Ngoài sinh già bệnh chết mãi tới lui
Tâm giam hãm trong ái ân hừng hực
Tám nỗi khổ [88], dù sang giàu vượt bực
Hoặc nghèo hèn không một chỗ dung thân
Bảy loại đầu do quá khứ cảm thành
Khổ thứ tám do khởi tâm động niệm
Quả vị lai là nhân trong hiện tại
Trong ba thời nhân quả chẳng khi dừng
Sắc là do nghiệp báo tạo nên thân
Thọ, tưởng, hành, thức,
phát sinh khi gặp cảnh
Thân tâm giả dối gặp sáu trần[89] tạo nghiệp
Lửa dục cháy bùng, thêm ngũ ấm ngại ngăn
Tự tánh che mờ không nhận rõ chân thân
Như mây lấp mặt trời nên khó thấy
Cũng như vậy,
Trí phàm phu bị vây trong ngũ ấm
Nên tuệ quang chưa thể hiện toàn chân
Nỗi khổ này là nguồn gốc trầm luân
Kẻ đại định không khởi tâm duyên cảnh
Hằng tu tập, lại gia công, dụng hạnh
Chứng vô sinh dứt hoặc nghiệp mê lầm
Căn bản tử sinh vượt thoát chỗ thọ thân
Nhưng thời mạt, mấy ai người chứng đạt.
Sao lại chẳng cầu vãng sinh Cực Lạc
Trên báu trì sẽ ngự đóa liên hoa
Hiện thân đồng nam, thọ mạng sánh hư không
Không tai biến, không sinh già bệnh khổ
Cận kề thánh chúng, lá hoa, chim nói pháp
Hằng quy tâm, thọ pháp Phật Di Đà
Tùy sức trí minh, chứng lý đạo gần xa
Chẳng thấy kẻ thân, huống chi người oán
Muốn có áo tức thời liền được áo
Tưởng đến ăn liền thấy việc đang ăn
Lầu ngọc, gác vàng nạm thất bảo, chân châu
Chẳng nhọc sức cất xây mà hóa hiện
Bảy thống khổ biến hình thành diệu lạc
Thân uy nghi diệu lực đại thần thông
Không rời chỗ ngồi đến cõi Phật hiện thân
Làm Phật sự, thượng cầu và hạ hóa
Đắc đại trí, biện tài, tùy cơ thuyết pháp
Nơi một tướng này, biết thực tướng vạn muôn
Tịch diệt thân tâm, ngũ ấm thảy đều buông
Nên kinh nói:
“Chỉ hưởng an vui nên gọi là Cực Lạc”
Gọi là chân tín tức tin sâu lời Phật,
Chớ nên dùng tà kiến để luận bàn
Lại bảo người: Ao thất bảo, đất trải vàng
Cảnh thắng diệu Tây phương là thí dụ
Tức ngụ ngôn, cũng đều là tâm pháp
Nào phải đâu cảnh có thể thọ sinh.”
Hiểu sai lầm mất lợi ích đã đành
Đánh mất cả duyên ngàn năm một thuở.
Vốn đã biết sa bà là cảnh khổ
Hãy mau mau cầu cõi khổ thoát ra
Như kẻ rơi vào hầm phân lập nguyện thiết tha
Hoặc như kẻ bị giam trong ngục tối
Lòng bi đát nhớ quê, luôn trông đợi
Cầu gặp người uy thế mở ngục môn
Chúng sinh vì gặp cảnh khởi tham sân
Làm ô uế tánh giác minh vốn có
Gieo nhân gặt quả, chuyển luân sáu cõi
Đó chính là ngục tối khó thoát thân
Đó chính là lao ngục chẳng hề phóng thích tội nhân
Hy hữu được Đức Di Đà đại nguyện
Bốn mươi tám nguyện vương, một lần đã nguyện
“Nếu có chúng sinh nghe đến tên Ta
Phát lòng cầu sinh về cõi Di Đà
Trong mười niệm,
Chẳng vãng sinh, Ta chẳng thành chánh giác”.
Phật phát đại nguyện nhưng nếu chúng sinh bội bạc
Không muốn nương về, Phật khó độ chúng sanh
Nếu có người hết lòng dạ trì danh
Tất nhiên được Phật từ tâm nhiếp thọ.
A Di Đà Phật đại từ đại lực
Nếu chúng sinh xứng tánh, Phật trong tâm
Chúng sanh tâm đồng thể với Phật tâm
Phàm và thánh cách ly vì mê huyễn
Hãy khởi lòng tin, kiên trì phát nguyện
Niệm niệm đều là câu Phật hiệu Di Đà
Như mẫu tử thâm tình gặp lại chẳng còn xa
Tâm siêu thoát liền vào ngay đất Phật.
Phải có lòng tin sa bà là đất khổ
600. Muốn xa lìa, hướng cõi Tịnh an nhiên
Niệm danh Di Đà như con trẻ gọi cha hiền
Tín Nguyện Hạnh ngay đây đà đầy đủ
Chẳng khác nào như thái dương rực rỡ
Mặt trời lên băng giá cũng phải tan
Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm
Không khẩn thiết thì lẽ nào đến được?
Phải nên tin hiện đời cầu vãng sinh sẽ được
Phải nên tin niệm Phật, Phật gia trì
Hướng Tây phương như viễn khách muốn hồi quy
Như tội phạm ước mong về cố quán
Bất kể nằm ngồi, uống ăn, đi đứng
Luôn giữ cho Phật hiệu chẳng rời tâm
Tâm chẳng dừng tưởng Phật, Phật tại tâm
Tùy sức lực, chí tâm trì danh Phật.
Khuyên trừ nghi sanh tín tâm
Nếu có lòng tin lời kinh chân thật
Tấc lòng tin chẳng thể sánh gì hơn
Nếu khởi nghi, với Phật chẳng tương ưng
Lúc tạ thế biết làm sao cảm ứng
Người xưa nói:
“Tịnh độ pháp môn, Phật cùng Phật cân xứng
Đăng địa Bồ tát chỉ biết được ít phần”
Kẻ phàm nhân cớ sao vội lạm bàn
Dùng trí nhỏ mà khởi tâm phê phán
Nếu có lòng tin Tây phương Cực Lạc
Cõi Sa Bà dù chữa bước chân ra
Cũng không còn là khách trọ lâu xa
Bởi Cực Lạc đang chờ người khách quý
Chớ nên biếng lười để tâm lãng phí
Bậc trượng phu chẳng chết tựa cỏ cây
Các pháp môn có tiểu đại đủ đầy
Với tiểu pháp thì đại căn chẳng thọ
Với đại pháp thì tiểu căn thấy khó
Riêng Tịnh môn thích ứng đủ ba căn
Trên thì Phổ Hiền, Văn Thù, Thế Chí, Quán Âm
Dưới ngũ nghịch, A tỳ đều không thiếu
Nếu Như Lai không mở bày pháp môn thần diệu
Trong mạt thời muốn liễu thoát khó thay
Nếu chẳng là người có thiện phước sâu dày
Thì có lẽ cũng sinh lòng nghi hoặc
Chẳng những phàm phu mà Nhị thừa không khác
Bồ tát quyền thừa [90] chưa hẳn có tín tâm
Bồ tát Đại thừa quả vị cao thâm
Mới có thể tuyệt dứt lòng nghi hoặc
Như thái tử dù thân rơi trên đất
Nét phong lưu vẫn vượt trội quần thần
Người kính tin dù đầy dẫy oán ân
Gieo hạt giống mà Nhị thừa không sánh kịp.
Do dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật
Hòa tâm phàm vào biển giác Như Lai
650. Bởi biết hòa nên Phật trí mở khai
Hợp lý đạo thánh phàm cùng nhất thể.
Nếu chẳng nói rõ về pháp môn tự lực
Những khó khăn do nương cậy sở tri
Những dễ dàng do Phật lực gia trì
Kẻ chưa hiểu sẽ cho là rất lạ
Nếu không nghi pháp cũng khởi nghi hành giả
Bởi nếu tâm còn nhen nhúm nghi nan
Mối nghi này sẽ chướng ngại muôn vàn
Dù tu tập cũng khó mong thành tựu
Khuyên người tu chớ ngại ngần do dự
Tịnh độ môn cõi nước Phật Di Đà
Thuyết pháp khó tin từ kim khẩu Thích Ca
Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ
Đồng hướng về, hoằng dương rạng rỡ
Huệ Viễn, Thanh Lương, Trí Giả, Vĩnh Minh
Liên tục phát huy, đề xướng giúp kẻ hậu sinh
Nối đuốc tuệ, thêm Liên Trì, Ngẫu Ích.
Các Bồ tát và pháp thân đại sĩ
Sớm vì người thâm cứu Đại tạng kinh
Giúp người tu còn mê hoặc, vô minh
Một nhảy vọt, vào liền ngôi Bổ Xứ [91]
Trong một đời này tháo lồng, phá củi
Vào chỗ đốn viên lại thuận tiện, giản đơn
Nhiếp Thiền, Giáo, Luật, mà lại vượt trội hơn
Dù quyền hoặc thực đều không hơn Tịnh độ.
Xưa Phật Tổ xiển dương, hàng tri thức thời nay phá bỏ
Kinh Hoa Nghiêm là vua của các vua
Phẩm cuối cùng quy kết đại nguyện vương
Hoa tạng hải chúng, pháp thân đà chứng nhập
Đều cầu vãng sinh, hoàn thành quả Phật
Bọn chúng ta sao dám chẳng theo cùng
Hãy sớm bỏ thị phi, sớm diệt tâm cuồng
Tận nguyện lực, hành pháp môn Tịnh độ
Công đức, lợi ích sẽ tự mình sáng tỏ
Kẻ đa văn chưa hẳn biết chân thường
Đừng tưởng mình thông thái, giỏi phô trương
Kẻ biết pháp thì tâm đồng như pháp.
Pháp môn Đại thừa thảy đều viên diệu
Nhưng nội dung có sâu cạn khác nhau
Sâu thì khó được, cạn lại dễ vào
Pháp Tịnh độ vừa sâu vừa giản tiện.
Tổ Thiện Đạo là Phật Di Đà hóa hiện
Lo người tu chí bất định, dễ lung lay
Nghe theo các pháp sư giảng dạy tùy nghi
Không thâm cứu bởi lòng luôn giải đãi
Tổ Thiện Đạo phát một lời khẳng khái:
“Dù sơ, nhị, tam, tứ quả thánh nhân
Cho đến hàng Bồ tát tối thượng căn [92]
Hoặc chư Phật khắp mười phương tụ hội
700. Phóng quang trong hư không tận cùng pháp giới
Đồng khuyên tôi chớ gìn giữ Tịnh tông
Đồng thuyết ra pháp vi diệu tựa kim ngôn
Tôi cũng chẳng đổi thay đường hành đạo”.
Ôi, khẳng quyết thay, lời ngài Thiện Đạo!
Sớm biết người đời sau lần lữa chẳng kiên tâm
Đã đứng trên biển cả lại mơ sông
Tâm cuồng vọng biện bày theo thế trí
Thật áo não, người vâng theo chẳng mấy
Ác nghiệp nào xui giục khiến làm ngơ
Ngoảnh mặt, quay lưng, chối bỏ pháp khế cơ
Nghiệp thức mang mang, luân hồi sáu lối.
Người đã chọn Tịnh môn, há phải mang tâm dong ruỗi
Hết hỏi người kia rồi lại hỏi người này
Dù truy vấn khắp nơi không gặp kẻ cùng thầy
Lời Phật Tổ cũng đủ làm nơi y cứ
Hỡi này các bậc nam nhi, liệt nữ
Quyết chẳng nên bỏ lời Phật, lấy lời phàm
Chớ để cho kẻ ưa thích khoe khoang
Trở thành kẻ nắm tiền đồ ta vậy.
Do tập khí, kẻ ngu nghiêng về tà vạy
Bậc trí thì ưa chuộng Lý thanh cao
Nếu kẻ ngu biết phận, gắng công lao
Tu Tịnh nghiệp, hiện đời về Cực Lạc.
Đến lúc ấy,
Vốn là kẻ ngu nhưng mấy ai sánh được
Bậc trí kia nếu theo Sự, tu hành
Nương Tịnh tông, cầu Phật lực vãng sanh
Nếu được vậy mới là người đại trí.
Còn nếu như nương cậy vào thế trí
Tự tin theo lối kiến giải biện thông
Tự mình, bảo người miệt thị Tịnh tông
Kẻ như vậy đời đời trong ác thế
Muốn được như kẻ ngu kia nào có dễ.
Tánh tướng tông giáo [93] với người thật tỏ thông
Tôi dù ái mộ nhưng đâu dám trông mong
Lại càng chẳng dám đi theo cầu học
Bởi vì sao?
Nước giếng sâu, dây ngắn thì cực nhọc
Túi vãi thô, vật lớn khó chứa vừa
Tôi chẳng bảo ai theo tôi làm kẻ kế thừa
Nhưng trí kém lại muốn thẳng vào tự tâm diệu đạo
Toan làm bậc đại thông vẫy vùng biển giáo
Chỉ e chẳng dễ thành bậc đại thông gia
Sánh với hàng ngu phu niệm Phật, quả cách xa
Khéo thành vụng, muốn bay cao mà xuống thấp
Một lời riêng nhắn nhủ hàng hậu học
Hãy tự xét căn cơ xác thực của mình!
Như La Đài Sơn chẳng được vãng sinh
Bởi tập khí văn chương đeo quá nặng
Ngày ngày dù cho nói là luôn niệm Phật
Nhưng niệm niệm quy vào một túi văn chương
Là bệnh chung của văn nhân, không chỉ La Đài Sơn
Nên Phật dạy,
Thế trí biện thông là một trong tám nạn[94].
Sống trong đời luôn luôn tròn bổn phận
Đó mới gọi là quân tử, bậc nữ nhân
Giữ vẹn toàn phận vị, chỗ trì tâm
Vào Tịnh độ, tránh sinh lòng sau trước
Hãy tự cho chính mình là kẻ ngu kém phước
Phải biết rằng, kẻ ấy dễ thoát ly
Bởi vì không chia trí bởi luận suy
Tâm kẻ ấy đơn sơ, không dị kiến
Nếu người thông giáo, tông, buông xuống điều thấy, biết
Thực hành công phu như kẻ ngu kia
Thì việc tử sinh sớm được xa lìa
Nếu chẳng thế, tự mình lầm mình vậy.
Pháp Tịnh độ là pháp môn nhiếp lấy
Một pháp chung gồm đủ các pháp riêng
Nên nói rằng pháp Tịnh độ chí viên
Sinh Phật quốc hiện đời nên chí đốn.
Là chiếc thuyền từ độ chúng sinh khắp chốn
Chẳng tin theo pháp này do nghiệp chướng chẳng kham
Khó liễu thoát tử sinh, nhập thánh siêu phàm
Vòng lục đạo biết bao giờ thoát kiếp
Kinh sợ thay cho người, nên thuyết lời bi thiết
Không nề hà, khan tiếng gọi đồng nhân
Đến hôm nay nhận thư kẻ dùng dằng
Luận lắm việc, đều dựa trên thế trí
Dùng kiến thức phàm phu để suy lường Phật trí
Thân tâm, cảnh vật này, ai biết rõ quả nhân?
Biết bắt chước người hiền tức biết lập thân
Tâm an lạc, sống vui, chết thì tự tại.
Nếu bảo rằng,
“Chẳng rõ đầu đuôi nên khó tin lời Phật dạy
Lại chưa hề thấy cõi Tịnh nơi đâu!”
Thử hỏi rằng,
Suốt ngày ăn cơm, mặc áo, do bởi từ đâu?
Đâu là gốc việc ngăn ngừa lạnh, đói?
Nếu biết rõ, xin vì người mà nói
Xin chỉ ra đích xác chỗ khởi nguyên
Nếu không, tức là noi theo dấu vết tiền hiền
Lập ra việc có cơm ăn, áo mặc.
Nay, khi đối diện pháp môn thù thắng
Lại sinh tâm muốn biết trước sắc hình
Biết rõ rồi mới dám khởi lòng tin
Dù Phật Tổ đã thuyết lời chân thực.
800. Nếu như có bệnh cần ngay lương dược
Lại nằm chờ nghiền ngẫm bệnh tên chi
Chờ mở sách xem dược thảo có những gì
Hay lập tức mời thầy lang cho thuốc?.
Nếu uống thuốc ngay mong thân điều phục
Thì bệnh trong tâm gấp gấp chữa ngay chưa?
Bản Thảo, Mạch Quyết [95] là cái học của người xưa
Không tận mắt thấy lại hết lòng tin tưởng
Nếu bảo rằng,
“Các sách thuốc này chẳng thể không tin được”
Vậy sao lời Phật Tổ lại không tin
Lại phải chờ đến lúc tận mắt nhìn
Vậy thì thuốc cũng nên chờ mới phải!
Nếu vẫn giữ tánh tình ưa phải, trái [96]
Không hiểu, không tin, sinh phỉ báng Tịnh đường
Bản tánh trí người như lưỡi kiếm Can Tương[97]
Chẳng chém đá lại chém bùn, ôi phí phạm
Phật pháp vốn được xem là tâm pháp
Trí thế gian há sánh được hay sao
Chỉ tạm dùng thí dụ để bước vào
Chẳng nên chấp rồi luận bàn này nọ
Như dùng quạt ví trăng, rung cây ví gió
Tạm dùng giả hình để tỏ ngộ tánh chân
Quả cảnh kia bởi tâm vọng làm nhân
Tâm tịch tịnh thì cảnh không dấy loạn
Tâm niệm Phật là duyên nhân thành Phật
Quả gần là trong một kiếp vãng sanh
Quả xa là Phật đạo sẽ viên thành.
Nay gác lại chuyện có hay không có Phật
Hãy tự hỏi chính mình: phải chăng mình có thật?
Nếu là không, ai là kẻ luận bàn?
Nếu có thì hãy chỉ ra đích xác, rõ ràng
Bởi lời nói do thức và căn tụ tập
Mỗi mỗi việc đều không rời ngũ ấm [98]
Có phải chăng người hỏi ở nơi đây?
Ngoài ngũ uẩn ra thì người hỏi là ai?
Không biết chính mình lại mong cầu biết Phật
Có biết đâu Phật vẹn toàn, chân thật
Bởi chúng sinh chấp ngũ uẩn là mình
Chưa thấy Không[99] nên vướng mắc phàm tình
Nên không thấy được chính mình Thật Có[100]
Kinh Kim Cang nói,
Chư Bồ tát phát đại tâm hóa độ
Khiến chúng sinh được mau chóng tựu thành
Hóa độ muôn người mà chẳng thấy có chúng sanh
Hành lục độ[101] nhưng không trụ vào ngũ ấm
Không đứng trên Sắc, Thọ… mà bố thí
Không chấp vào Hành, Tưởng… khiến giới trì
Không bám vào Ý thức để biết chẳng thoái suy
Không cố chấp để phải tu nhẫn nhục
Văn kinh chỉ nói những lời giản lược
Rốt ráo là không chấp cứng khiến vọng sanh
Không ngã, nhân, thọ giả đến chúng sanh
Cứ như vậy mà tiến tu thiện pháp
Hãy thử nghĩ,
Tu như trên là hữu tướng hay vô tướng?
Trí quang minh chiếu rạng cõi thái không
Vì chẳng giữ sắc hình nên nói đó là Không
Vô sở trụ, tức không chấp tình phàm, ý thánh.
Nói độ chúng sanh, sinh tâm, thiện hạnh…
Là muốn dạy người đời xứng tánh khởi tu
Tánh Phật không vọng chấp hữu hoặc vô
Thấy tự tánh mới gọi là đại trí
Có khó gì không được tâm chánh tín
Cũng dễ tiêu trừ, dứt tuyệt lòng nghi
Vì cớ gì mãi theo thói thị phi
Dù Phật hiện, chẳng biết sao giải cứu.
Muốn biết có Phật, không Phật, đối trước kinh văn thâm cứu
Nào Tây Quy Trực Chỉ [102], Tịnh Độ Văn
Nếu xem thường, cho là chuyện lăng nhăng
Vòng lục đạo sẽ vào ngay địa phủ
Lửa đỏ, dầu sôi, rừng gươm… do tâm hiện đủ
Lại không cho là cảnh lạ, bởi quá quen
Vẫn sống trong ngục tối chịu đão điên
Kiếp hiện tại, vị lai đều không khác.
Nay kể lại những điều ghi trong sử sách
Tiền Sơn[103] đời Thanh giữ chức Phiên Đài
Lúc bấy giờ nhiều thổ phỉ tại Quảng Tây
Tiền Sơn dùng chiến lược phá tan băng đảng
Kẻ bị bắt nhốt, kẻ phơi thây trận mạc
Bốn năm qua[104] Sơn thọ bệnh lạ lùng
Chợp mắt liền thấy ở trong cảnh tối tăm
Vô số quỷ bao quanh ông bức hại
Bừng ác mộng, sinh lòng đầy kinh hãi
Mắt nhắm thì cảnh tượng lại hiện ra
Ba ngày đêm không dám ngủ cả ba
Thở thoi thóp, người vợ liền khuyên nhủ:
“Hãy niệm hồng danh A Di Đà Phật”
Y theo lời, Sơn cố gắng niệm thầm
Không bao lâu ngủ thiếp, chẳng loạn tâm
Không mộng mị, bệnh dần dần thuyên giảm
Từ đó Tiền Sơn trường trai, niệm Phật
Cùng họ Trần[105] lên núi kể cho Ấn Quang tôi
Nếu như người gặp cảnh dữ vừa rồi
Có phải rõ giả, chân, rồi mới niệm?
Nếu quả thật không còn màng quý, tiện
Nhìn vinh hoa như dép rách đó thôi
Thế sao không xem kiến chấp rã tan rồi
Lại mang nó để toan vào cửa đạo?
Niệm Phật là nhân, vãng sinh là quả
900. Nên như hàng ngu phụ, chẳng biện phân
Bởi vì,
Nếu học đòi mà chẳng rõ quả nhân
Mê sự lý, biết đâu là tánh tướng
Chấp có, chấp không, dám lấy kinh làm chứng
Ôi, thật là những kẻ chỉ bàn suông
Như kẻ mù không thấy được thái dương
Nếu mắt sáng, vừa nhìn thì liền thấy
Pháp niệm Phật giúp mắt kia sáng lại
Chí tâm thì thấy thật tướng Như Lai
Do quay lưng nên mới phải lạc loài
Trở thành kẻ ngông cuồng như Diễn Nhã[106]
Chẳng khác kẻ chéo áo buộc châu[107] bao đông, hạ
Cam lòng làm kẻ đói khổ, lang thang.
Dù là thân, dù là cảnh trong cõi thế gian
Đều do cộng, biệt nghiệp, tự tâm chiêu cảm
Cõi Cực Lạc do Phật Di Đà tiếp dẫn
Phật tánh thường hằng, tự tánh chân tâm
Như hư không bao bọc vạn sắc tâm
Vạn tượng đến đi hư không nào tổn thất
Khác cõi thế, có còn thì có mất
Cõi Tịnh do xứng tánh hóa hiện ra
Không tướng thành, trụ, diệt phải trải qua
Chính vì vậy, khi Phật Thích Ca tự thuyết
Kinh A Di Đà kết tinh hoa một đời ứng hiện
Chư Phật mười phương tán thán, ngợi khen
Công đức khó lường, thuyết kinh pháp khó tin
Là tạng pháp đứng trên muôn tạng pháp
Bởi khó tin nên cả trí ngu sinh lòng phỉ báng
Cho đến Thanh văn, Duyên giác cũng nghi ngờ
Tiểu thánh không tin, mà ngay cả Bồ tát quyền thừa
Cho đến các bậc Pháp thân đại sĩ
Dù tin nhận nhưng khó thể tận tường pháp vị
Vì Tịnh tông lấy Quả Giác làm Nhân
Cảnh giới này chỉ Phật với Phật cảm thông
Chẳng phải trí con người mà hiểu được
Hãy như kẻ phàm phu kính tin lời Phật
Tận lực tận tâm y giáo phụng hành
Nghe được lời kinh tức nhiều kiếp tạo căn lành
Huống chi lại tin sâu và tu tập.
Kinh Hoa Nghiêm quy về nghĩa chân thật
Là đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh
Trên đóa sen thơm, Phật quả viên thành
Phẩm Nhập Pháp Giới[108], Thiện Tài Đồng Tử
Chứng Đẳng Giác, vẫn cầu sinh Cực Lạc
Cũng đồng như Ngài Đại Hạnh Phổ Hiền
Bồ tát Hoa Tạng trong cõi bảo liên
Đều quy hướng cầu vãng sinh Tịnh độ
Dù kẻ tự cho mình giáo, tông đều hiểu rõ
Miệng lợi lanh, tự nhận biết kinh văn
Dám sánh cũng bậc Đẳng giác hay chăng?
Có biết vãng thánh, tiền hiền[109] đều tin nhận
Có biết cả ngàn kinh và muôn luận
Đều quy về Tịnh độ, cõi báo thân
Há chẳng đáng để hàng hậu học kính vâng
Nếu chẳng đáng, thánh hiền đều ngu muội?
Phải tự biết mình nghiệp sâu đến nỗi
Việc trong nhà còn chẳng hiểu rõ ràng
Quen ưa thích thị phi nên mãi luận bàn.
Lại có kẻ nghi,
“Vô lượng chúng sinh niệm A Di Đà Phật
Phật làm sao tiếp dẫn khắp mười phương?”
Chớ nên dùng thế trí để suy lường
Ấn Quang tôi nay đưa ra thí dụ
Như một vầng trăng trên không gian sáng tỏ
Lấp lánh biển hồ khắp cõi thế gian
Một trăng thành trăm ngàn vạn bóng trăng
Khi nhìn ngắm, mỗi người đều tự thấy
Vạn người nhìn, vạn khuôn trăng trong mắt
Nếu lại đi từ nam bắc đến tây đông
Thì vầng trăng vẫn trước mặt, trên không
Như theo với bước chân người qua lại
Nước hồ trong, thấy trăng vàng óng ánh
Nước hôi dơ, không thấy được khuôn trăng
Tâm chúng sinh như nước, Phật như trăng
Tâm vọng động thì làm sao thấy Phật
Tâm chí thành, có cảm thì Phật ứng
Tâm tham sân như gió lộng nước lao xao
Phật hiện nhưng nào thấy được ánh hào
Hoa Nghiêm nói: “Phật thân trùm pháp giới
Cảm ứng tùy duyên, ra vào muôn ức cõi
Nhưng chân thân vẫn ngự tại bửu tòa”.
Phật chưa từng khởi niệm có lại, qua
Do Phật lực đáp ứng tâm chiêu cảm.
Phải biết rằng,
Pháp niệm Phật là pháp môn trùm khắp
Người căn cơ bậc thượng thượng kính tin
Biết Thiện Tài chứng Đẳng giác, nhưng Phổ Hiền
Vẫn khuyến tấn cầu vãng sinh Cực Lạc
Để từ đó được viên thành quả Phật.
Kẻ ngông cuồng chẳng hiểu lý cao minh
Thấy ngu phu, ngu phụ tận lòng tin
Lại tận lực hành trì nên nhạo báng
Cho Tịnh tông là Tiểu thừa chẳng đáng
Không biết chính đây là tối thượng pháp môn
Một đời thành Phật, trọn thủy, trọn chung
Chẳng khác nhất thừa Hoa Nghiêm đã thuyết.
Lại có kẻ tự khinh mình hạ liệt
Nghiệp lực sâu dày, làm sao được vãng sinh
Chẳng biết rằng: Tâm, Phật, và Chúng Sinh
1000. Không sai khác, một là ba, ba là một.[110]
Kẻ ngũ nghịch, thập ác sắp rơi vào địa ngục
Gặp người hiền dạy niệm Phật nhất tâm
Dù kẻ kia niệm chưa được mấy lầ
Khi lìa xác liền vãng sinh Cực Lạc
Đó là lời Quán Kinh đà trích dẫn
Chúng ta dù tội nghiệp, kém công phu
Chớ bỏ qua một cơ hội ngàn thu
Mất lợi ích từ pháp môn tối thượng.
Như từng nói,
Pháp niệm Phật là pháp môn bậc nhất
Pháp chí viên, chí đốn lại đơn thuần
Chín cõi chúng sanh nếu chẳng tin dùng
Tức Phật đạo không dễ gì hoàn mãn.
Cũng như vậy,
Chư Phật mười phương nếu không dùng Tịnh pháp
Thì làm sao lợi ích khắp quần manh
Kẻ chê bai vì chẳng thông luận, hiểu kinh
Mãi vướng mắc vào chỗ tâm giam hãm
Như mù nhìn mặt trời, như điếc nghe tiếng sấm 
Không thấy, không nghe, chỉ mường tượng mà thôi
Nghe rồi tin, tức tu thiện hạnh đã nhiều đời
Nay niệm Phật, nhiếp căn, chuyển phàm tâm thành Như Lai Tạng
Tiếp cận danh hiệu Như Lai tức thấm nhuần khí cách
Như người ướp nhiều hương thì thân thể thơm lâu 
Khi lâm chung cảm ứng tiếp dẫn đạo giao
1026. Sự và Lý lẽ nào không tương hợp.
Hết Phần I
(Xin xem Phần II và các phần tiếp theo)
 
Chú thích:

[15] (頓漸二教) Đốn giáo và Tiệm giáo. Giáo pháp không theo thứ lớp mà giúp người tu hành đạt đến giác ngộ một cách nhanh chóng, gọi là Đốn giáo; còn giáo pháp phải theo thứ lớp tu hành dần dần trong thời gian dài mới đạt được quả Phật thì gọi là Tiệm giáo. Thiên là giáo pháp không viên mãn, còn gọi là Quyền giáo. Viên là giáo pháp viên mãn, còn gọi là Chánh giáo.

[16] Tiểu thừa, Đại thừa, Quyền giáo, Thực giáo hoặc Chánh giáo.

[17] Xem # 3, ngoại trừ cảnh giới Phật.

[18] (大乘起信論) Có 1 quyển, cũng gọi Khởi Tín Luận, tương truyền do bồ tát Mã minh (Phạm: Azvaghoza) của Ấn độ tạo, ngài Chân đế (499 - 569) dịch vào đời Lương thuộc Nam triều, thu vào Đại chính tạng tập 32. Nội dung sách này thuyết minh về duyên khởi Như lai tạng và tướng phát tâm tu hành của Bồ tát, phàm phu v.v... Tức là từ hai phương diện lí luận và thực tiễn mà qui kết về trung tâm tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. (Tự điển Phật Quang)

[19] Vibhasa dịch là Quảng thuyết, Thắng thuyết, Dị thuyết

[20] Nāgārjuna (S), ludrup (T)Long Mãnh, Long Thụ; Na già yên lạt thọ naTổ thứ 14 trong 28 tổ Phật giáo Ấn độ, người Nam Ấn, sanh vào năm 160. Nhờ sự gia hộ của Đức Đại Nhật Như Lai ngài mở được tháp bằng sắt, vào bên trong và đảnh lễ Ngài Kim Cang Tát Đoả rồi được ban lễ quán đảnh và tiếp nhận hai bộ Đại Kinh. Các kinh ngài ghi chép lại có: Na Tiên Tỳ kheo Kinh, Trung Luận, Thập nhị môn luận,... Ngài thọ khoảng 60 tuổi, truyền y bát cho tổ Ca na đề bà (Kanadeva). (Từ điển Phật học Việt Anh - Minh Thông)

[21] Tổ thứ tư Thiên Thai Tông (538-597).

[22]Nguyên văn hai chữ  hậu thân hay hóa thân ở đây có nghĩa là người nối pháp, y pháp Phật mà truyền bá chớ không phải là thân ứng hóa (một trong ba thân) của Phật Thích Ca. Vì vậy người Trung Hoa gọi Trí Giả là Tiểu Thích Ca. Chủ Tiểu có nghĩa là môn đồ, đệ tử.

[23] Đức Thích Ca Mâu Ni.

[24] (淨土十疑) Mười điều nghi về Tịnh độ. Ngài Thiênthai Trí khải đời Tùy, y cứ vào giáo nghĩa vãng sinh Tịnh độ, nêu ra 10 điều hoài nghi, đồng thời giải thích rõ 10 điều nghi để khuyên mọi người cầu vãng sinh Tịnh độ. Đó là: 1. Giải thích điều nghi rằng cầu sinh về Tịnh độ là không có tâm từ bi. 2. Giải thích điều nghi rằng cầu sinh về Tịnh độ là trái với lí vô sinh bình đẳng. 3. Giải thích điều nghi rằng thiên cầu vãng sinh Cực lạc là trái với pháp tính bình đẳng. 4. Giải thích điều nghi tại sao chỉ niệm danh hiệu Phật A di đà? 5. Giải thích điều nghi tại sao hàng phàm phu còn bị phiền não trói buộc vẫn được vãng sinh? 6. Giải thích điều nghi rằng tại sao vãng sinh tức là được bất thoái? 7. Giải thích điều nghi rằng tại sao không cầu vãng sinh về cõi trời Đâu suất? 8. Giải thích điều nghi rằng tại sao chỉ niệm 10 niệm được vãng sinh? 9. Giải thích điều nghi tại sao người nữ, người thiếu các căn, hàng Nhị thừa không được vãng sinh. 10. Giải thích điều nghi phải tu hạnh nghiệp gì để được vãng sinh? [X. luận Tịnh độ thập nghi]. (Tự điển Phật Quang)

[25] Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽, 904-975): vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, xuất thân Dư Hàng (餘杭), Phủ Lâm An (臨安府, Tỉnh Triết Giang), họ là Vương (王), tự Xung Huyền (冲玄), Bảo Nhất Tử (抱一子). Ngay từ nhỏ ông đã có chí xuất trần nhưng không được toại nguyện, nên làm quan cho nước Ngô Việt. Đến năm 28 tuổi, ông theo xuất gia với Thúy Nham Linh Tham (翠巖令參, thế kỷ thứ 9-10, pháp từ của Tuyết Phong); sau đó theo hầu hạ Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶), kế thừa dòng pháp của vị này và trở thành vị tổ thứ 3 của Pháp Nhãn Tông. (Phật học Tinh tuyển)

[26] Một số tự điển ghi Tứ Liệu Giản là bốn pháp giản biệt do sư lâm Tế Nghĩa Huyền lập ra. Ngày xưa chư Tổ không tranh danh đoạt lợi cho nên không màng đến chủ quyền, vì vậy nay không rõ xuất xứ này từ đâu.

[27] Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát.

[28] Ngũ Tánh Các Biệt (五姓[性]各別, Goshōkakubetsu): chúng sanh có 5 loại tố chất (tánh) của nhân cách mang tính tôn giáo vốn đầy đủ tính tiên thiên và được chia làm 5 loại theo chủ trương của Duy Thức Pháp Tướng Tông. Tánh (姓、性) là từ gọi tắt của chủng tánh (種姓、種性). Năm loại tánh ấy gồm:

(1) Thanh Văn Định Tánh (聲聞定性), (2) Độc Giác Định Tánh (獨覺定性), (3) Bồ Tát Định Tánh (菩薩定性), (4) Bất Định Tánh (不定性) và (5) Vô Chủng Tánh (無種性).

Ba loại đầu, mỗi con đường tu hành và quả chứng ngộ đạt được là quyết định, không có thay đổi, nên được gọi là Quyết Định Tánh (決定性). Loại Bất Định Tánh thứ tư thì không dứt khoát và có thể thay đổi. Loại Vô Chủng Tánh thứ năm thì không thể nào đạt được chứng ngộ. Trong 5 loại kể trên, chỉ có loại thứ 3 và 4 mới mới có thể thành Phật. Đây là giáo nghĩa chủ trương của Duy Thức Pháp Tướng Tông. Chính giáo nghĩa này đã tạo nên điểm tương phản với quan niệm của Phật Giáo Đại Thừa là hết thảy chúng sanh đều thành Phật, từ đó gây nên sự luận tranh giữa các tông phái. Đặc biệt, tại Nhật Bản thì những luận tranh của Tối Trừng (最澄, Saichō), Đức Nhất (德一, Tokuitsu) và Ứng Hòa (應和, Ōwa) dưới thời Bình An (平安, Heian) là nổi tiếng nhất. (Phật học Tinh tuyển)

[29] Giáo, lý, hạnh, quả

[30] Kiến Hoặc: Các loại vọng kiến, phân biệt tà vạy, gây ra những mê hoặc. Tư Hoặc: Lấy tình cảm mê chấp tham, sân, si, mà nghĩ cảm về vạn hữu trên thế gian. (Từ điển Phật học Việt Anh - Thiện Phúc)

[31] (五宗) I. Ngũ Tông. Chỉ cho 5 tông Đại thừa: Thiên thai, Hoa nghiêm, Pháp tướng, Tam luận và Luật. II. Ngũ Tông. Chỉ cho 5 tông phái Thiền: Tông Qui ngưỡng, tông Lâm tế, tông Tào động, tông Vân môn và tông Pháp nhãn. III. Ngũ Tông. Chỉ cho 5 tông do pháp sư Tự quĩ ở chùa Hộ thân đời Tề thành lập: Tông Nhân duyên, tông Giả danh, tông Bất chân, tông Chân thực và tông Pháp giới. (xt. Ngũ Tông Giáo). (Từ điển Phật Quang)

[32] Phẩm Nhập Pháp Giới.

[33] Phổ Hiền đại nguyện

[34] Thiên Thai Trí Giả, Pháp Hoa Huyền Nghĩa.

[35] Pháp hội Đại Tập

[36] (六卽成佛): trong giáo nghĩa của Thiên Thai Tông có luận một cách có hệ thống về các giai vị từ sơ phát tâm cho đến khi đạt quả vị Phật và phân chia ra thành Bốn Giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên. Về bản chất thì chúng sanh tức là Phật, nhưng về mặt tu hành thì lại có Sáu Tức, gồm:

(1) Lý Tức (理卽, về mặt bản lai thì có thật tại thành Phật), (2) Danh Tự Tức (名字卽, lấy đây làm lý niệm mà lý giải), (3) Quán Hành Tức (觀行卽, quán tâm tu hành để thể nghiệm), (4) Tương Tợ Tức (相似卽, sáu căn thanh tịnh tương tợ với chơn giác ngộ), (5) Phần Chứng [Chơn] Tức (分証[眞]卽, thể hiện bộ phận của chơn như) và (6) Cứu Cánh Tức (究竟卽, hoàn toàn giác ngộ).

[37] Gồm 10 quyển, do ngài Tri Húc biên soạn vào đời Minh, được xếp vào Vạn Tục Tạng, tập 108. (Tự điển Huệ Quang)

[38] Lấy căn bản trí, Phật tánh làm nhân tu hành thì gọi là xứng tánh. Khác với lấy ngũ uẩn làm nhân tu hành.

[39]善導 Shandao (613-681). Vị thứ ba trong năm vị tổ Tịnh độ và là vị thứ năm trong bảy vị tổ của Chân ngôn tông. Ngài xuất gia khi còn nhỏ tuổi và tu tập thiền quán tưởng A-di-đà và Tịnh độ. Khi Ngài nghe tiếng Đạo Xước (c: Daochuo 道綽), Thiện Đạo đến gặp và nhận giáo lý Tịnh độ từ Ngài. Suốt đời Thiện Đạo hiền mình tu tập và hoằng truyền giáo lý nầy. Tương truyền ngài đã chép kinh A-di-đà hơn 100.000 lần và vẽ hơn 300 bức tranh về cõi Tịnh độ. Ngoài việc tụng kinh và niệm Phật thường xuyên, ngài còn tu tập các thời khoá thiền quán tưởng đức Phật A-di-đà và cõi nước của Ngài. Thiện Đạo còn trứ tác năm tác phẩm, trong chín cuốn, gồm những luận giải khác nhau về kinh Quán vô lượng thọ. Ngài thường được gọi là Quang Minh tự Hoà thượng光明寺和尚, Chung Nam Đại sư終南大師 (Từ điển Phật học Anh-Hán-Việt )

[40] Kinh Quán Vô Lượng Thọ

[41] (五逆往生) Người phạm 5 tội cực ác, nhưng nhờ sức niệm Phật mà được vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc. Đây là chủ trương của kinh Quán Vô Lượng Thọ, cho rằng sự niệm Phật chí thành có một công năng siêu tuyệt. (Tự điển Phật Quang)

[42] (s: daśākuśala-karma-pathāni, 十惡): còn gọi là Thập Ác Nghiệp Đạo (十惡業道), Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo (十不善業道), Thập Bất Thiện Căn Bổn Nghiệp Đạo (十不善根本業道), Thập Hắc Nghiệp Đạo (十黑業道); là 10 hành vi ác, không tốt của ba nghiệp thân, miệng và ý; gồm:

(1) Sát sanh; (2) Trộm cắp; (3) Tà dâm; (4) Nói dối; (5) Nói hai lưỡi, tức nói lời ly gián; (6) Nói thô ác, tức mắng nhiếc thậm tệ, nói lời ác độc; (7) Nói lời thêu dệt; (8) Tham dục; (9) Sân si; (10) Tà kiến. (Tự điển Tinh Tuyển)

[43] Còn gọi là đại từ đại bi của chư Phật, tuyệt đối bình đẳng.

[44] Thân, khẩu, ý

[45] Phật thân, Phật ngôn, Phật trí

[46] (不二) Không hai. Cũng gọi Vô nhị, Ly lưỡng biên (lìa hai bên). Đối với hết thảy hiện tượng không phân biệt, hoặc vượt lên các thứ phân biệt. Cứ theo Đại thừa nghĩa chương quyển 1 nói, thì lí Nhất thực màu nhiệm, vắng lặng, lìa các tướng, như bình đẳng, không đây, không kia, cho nên gọi là Bất nhị. Cũng gọi Chân như, pháp tính. Nhưng đặc biệt được xem trọng về phương diện nhận thức luận và phương pháp luận. Như Trung luận v.v... đã tổng kết tư tưởng Bát nhã, dùng Bát bất: bất sinh, bất diệt v.v... để biểu hiện rõ bản chất của pháp tính tạo thành nhận thức Phật giáo không dính mắc thiên kiến, khế hợp pháp tính: gọi là Trung đạo quán. (Từ điển Phật Quang)

[47] Tam đồ. Chỉ cho nhà lửa trong phẩm Thí Dụ, kinh Pháp Hoa.

[48]有身見Kiến chấp về ngã, không thể vượt thoát ra khỏi ý niệm về 'Ngã và Ngã sở'(s: satkāya-dṛḍṭi; p: sakkāya-diṭṭhi). Gọi tắt là Thân kiến 身見. Phiên âm là Tát-ca-da kiến 薩迦耶見. Đây là một trong Tứ kiến liên hệ đến mạt-na thức. (Từ điển Phật học Anh-Hán-Việt)

[49] Chỉ cho Chân Không Diệu Hữu

[50]五眼): chỉ cho 5 loại nhãn lực. (1) Nhục Nhãn (s: māṃsa-cakṣus, 肉眼), là con mắt vốn có đầy đủ nơi nhục nhân này. (2) Thiên Nhãn (s: divya-cakṣus, 天眼), là con mắt của người trên cõi Trời Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), chứng đắc được nhờ có tu Thiền Định. Mắt này xa gần trước sau, trong ngoài, ban ngày hay ban đêm, trên hay dưới đều có thể thấy được. (3) Tuệ Nhãn (s: prajñā-cakṣus, 慧眼), là con mắt của hàng Nhị Thừa, có thể biết rõ chân không vô tướng, cũng có thể quán sát các hiện tượng đều là không tướng, định tướng. (4) Pháp Nhãn (s: dharma-cakṣus, 法眼), là con mắt của chư vị bồ tát có thể quán chiếu thấy tất cả các pháp môn để cứu độ hết thảy chúng sanh. (5) Phật Nhãn (s: buddha-cakṣus, 佛眼), là con mắt của Phật, có đầy đủ tác dụng của 4 loại nhãn lực vừa nêu trên. Mắt này không có gì không thấy biết, cho đến không việc gì không biết, không nghe; cả nghe và thấy đều dùng hỗ tương lẫn nhau, không có tư duy nào mà không thấy được. (Phật học Tinh tuyển )

[51] Thông đạt danh tự của các pháp vô ngại, gọi là Pháp vô ngại trí. 2. Thông đạt tất cả các nghĩa lý vô ngại, gọi là Nghĩa vô ngại trí. 3. Hay dùng đủ thứ từ ngữ phương tiện tùy nghi diễn thuyết, gọi là Từ vô ngại trí. 4. Nơi các pháp nghĩa viên dung vô ngại, khéo thuyết tự tại, khiến chúng sanh dễ được tín giải thọ trì, gọi là Khéo thuyết vô ngại trí. Nói chung gọi là Tứ vô ngại trí. (Ngữ vựng danh từ Thiền học)

[52] Khổ, tập, diệt, đạo tức Tứ Đế.

[53] Bất nhị

[54] (開權顯實) Phá trừ sự chấp trước vào quyền giáo phương tiện của Tam thừa để hiển bày nghĩa chân thực Nhất thừa. Đây là từ ngữ phán thích kinh Pháp hoa do tông Thiên thai lập ra. Khai nghĩa là khai trừ, khai phát, khai thác; khai trừ là trừ bỏ quyền chấp(chấp vào giáo pháp phương tiện tạm thời), Khai phát là do cơ duyên bên trong thuần thục mà lìa quyền chấp, khai thác là quyền tức thực mà mở rộng ý nghĩa về thể của nó. Giáo pháp do đức Phật thuyết giảng trước kinh Pháp hoa là giáo pháp phương tiện, nhằm thích ứng với những căn cơ chưa thuần thục, hầu dắt dẫn chúng sinh vào giáo pháp chân thực. Vì dùng phép phương tiện quyền giả (tạm thời) để hiển bày nghĩa chân thực, nên gọi là Khai quyền hiển thực. Tuy nhiên, quyền thực vốn chẳng khác nhau, nếu trừ bỏ được chấp trước này, thì quyền thực không hai, quay về với chân nghĩa Nhất Phật thừa. Trên đây là nói theo Hóa nghi Tích môn thuộc nửa bộ trước của kinh Pháp hoa. Mà Khai tích hiển bản thuộc Hóa nghi Bản môn của nửa bộ sau cũng gọi là Khai quyền hiển thực tức phá trừ chấp trước vào quyền giáo Tích môn, để hiển bày thực nghĩa Bản môn. Nếu nói theo trọn bộ kinh Pháp hoa, thì 14 phẩm trước là Khai tam hiển nhất, 14 phẩm sau là Khai cận hiển viễn, tức là nửa bộ trước trừ bỏ giáo pháp Tam thừa phương tiện, để hiển bày giáo pháp Nhất thừa chân thực; còn nửa bộ sau là trừ bỏ Cận Phật thùy tích (Phật mới thành), mà hiển bày Chân Phật bản địa (Phật đã thành từ lâu xa). Như vậy, tất cả 28 phẩm kinh Pháp hoa đều qui về Khai quyền hiển thực. Lại nữa, Khai tam hiển nhất là nói theo người, căn cơ, trái lại, Khai quyền hiển thực là nhằm giải thích lí, giáo. [X. Pháp hoa kinh huyền nghĩa Q.5 thượng; Pháp hoa văn cú kí Q.8 phần 3; Thiên thai tứ giáo nghi tập chú Q.thượng; Pháp hoa huyền luận Q.3, Q.5]. (xt. Bản Tích Nhị Môn, Khai Tam Hiển Nhất, Khai Cận Hiển Viễn). (Từ điển Phật Quang )

[55] Xem chú thích # 54

[56] Xem chú thích # 54

[57] Chỉ người trưởng giả, phẩm Tín Giải, kinh Pháp Hoa.

[58] Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát

[59] Đại sự nhân duyên Phật ra đời là để cho chúng sinh khai thị ngộ nhập Phật tri kiến

[60] Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, Trời, Người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh

[61] Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn

[62] Trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh

[63] Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh

[64] (果地) Cũng gọi Quả vị, Quả cực. Đối lại: Nhân vị, Nhân địa. Do tu hành nhân vị mà chứng được cực vị của quả mãn Diệu giác. Kinh Lăng nghiêm quyển 4 (Đại 19, 122 thượng) nói: Phải nên quán xét cho thấu đáo, nhân địa phát tâm và quả địa giác giống nhau hay khác nhau. (Từ điển Phật Quang )

[65] (因地) Đối lại: Quả địa. Đồng nghĩa: Nhân vị. Chỉ cho các địa vi hoặc giai vị đạt được trong quá trình từ khi tu tập nhân hạnh đến chứng quả vị. Nhân địa có thể chia làm 2 loại: 1. Nói theo quả vị Phật, thì từ Đẳng giác trở xuống đều là Nhân địa, như câu Bồ tát Pháp tạng khi còn ở nhân vị trong Giáo hành tín chứng quyển 2, là nói theo quả địa của đức Phật A di đà. Vì bồ tát Pháp tạng là danh hiệu của đức Phật A di đà khi còn ở địa vị tu nhân (nhân vị) trong quá khứ. 2. Nói theo Bồ tát từ Sơ địa trở lên, thì các giai vị Bồ tát trước Thập địa đều là nhân vị. Tóm lại, giai vị đã chứng gọi giai vị chưa chứng là Nhân địa. Như kinh Lăng nghiêm quyển 5 (Đại 19, 128 trung) nói: Con xưa kia ở nơi nhân địa dùng tâm niệm Phật mà vào Vô sinh nhẫn. (xt. Quả Địa). (Từ điển Phật Quang )

[66] Người đàn bà quê mùa

[67] Trí tuệ của kẻ chưa thấy tánh, hoặc trí thức của thế gian.

[68] Tức Đông độ, Trung Hoa.

[69] (蓮社): tức Bạch Liên Xã (白蓮社), là đoàn thể tu pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ, do Huệ Viễn (慧遠, (334-416) ở Lô Sơn (廬山) đời Đông Tấn sáng lập ra vào năm 402 với một nhóm đồng chí 123 người. Cho nên Liên Xã còn có nghĩa là Tịnh Độ (淨土), thế giới của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀).

[70] (曇鸞) (476-?) Vị cao tăng của Tịnh độ giáo ở thời Nam Bắc triều, người Nhạn môn (huyện Đại, tỉnh Sơn tây), có thuyết nói sư là người Vấn thủy Tinh châu (Thái nguyên, Sơn tây), không rõ họ gì. Nhật bản tôn sư là Sơ tổ trong 5 vị Tổ của tông Tịnh độ, Tổ thứ 3 trong 7 vị tổ của Chân tông. Nhà sư ở gần núi Ngũ đài, sư thường được nghe những chuyện thần tích kinh dị, nên lúc 10 tuổi sư lên núi xin xuất gia.

[71] Lương Vũ Đế.

[72] (538-597) Tổ thứ tư Thiên Thai Tông.

[73] (道綽) (562 - 645) Vị tăng thuộc tông Tịnh độ đời Đường, người Vấn thủy, Tinh châu (huyện Thái nguyên, tỉnh Sơn tây), có thuyết nói là người Tấn dương, Tinh châu, họ Vệ. Cũng gọi Tây hà thiền sư. Là tổ thứ 2 của tông Tịnh độ, vị thứ 4 trong 7 vị cao tăng của Chân tông Nhật bản. Năm 14 tuổi, sư xuất gia, học khắp các kinh luận, đặc biệt tinh thông kinh Niết bàn và từng giảng dạy kinh này tất cả 24 lần. Sau, sư ở tại chùa Huyền trung do ngài Đàm loan sáng lập, nhân đọc văn bia của ngài Đàm loan mà chuyển sang tín ngưỡng Tịnh độ, lúc ấy sư được 48 tuổi, từ đó mỗi ngày sư đều niệm Phật 7 vạn biến. Suốt một đời, sư giảng kinh Quán vô lượng thọ tới hơn 200 lần chủ trương bất luận là người xuất gia hay tại gia đều nên lấy việc niệm Phật làm cốt yếu.

[74]淨土三部經; Ba bộ kinh căn bản của Tịnh độ tông: Vô lượng thọ kinh (無量壽經), Quán Vô lượng thọ kinh (觀無量壽經) và A-di-đà kinh (阿彌陀經).

[75] (善導, Shàn-dào, Zendō, 613-681): vị tăng sống dưới thời nhà Đường, người hình thành nên Tịnh Độ Giáo Trung Quốc, vị tổ thứ 3 của Tịnh Độ Tông và được liệt vào hàng thứ 5 trong 7 vị cao tăng của Chơn Tông Nhật Bản. Ông xuất thân Lâm Truy (臨淄), Sơn Đông (山東), họ Chu (朱), hiệu Chung Nam Đại Sư (終南大師). Trước khi ông ra đời là thời đại của Văn Đế (文帝), vị vua rất sùng ngưỡng Phật Giáo; vị tổ khai sáng Thiên Thai là Trí Khải Đại Sư (智顗大師) thị tịch trước khi ông ra đời 16 năm; còn Đạo Xước (道綽) thì quy y với Tịnh Độ Giáo trước khi ông sinh ra 4 năm. Nhà dịch kinh nổi tiếng Huyền Trang (玄奘) thì hoạt động cùng thời đại với ông. Lúc nhỏ ông theo xuất gia với Minh Thắng Pháp Sư (明勝法師) ở Mật Châu (密州), tinh thông các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, v.v. Vào năm thứ 15 (641) niên hiệu Trinh Quán (貞觀) đời vua Thái Tông nhà Đường, ông đến Huyền Trung Tự (玄中寺) ở Tây Hà (西河), yết kiến Đạo Xước (道綽), tu học sám pháp Phương Đẳng và nghe giảng Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經). Từ đó về sau, ông chuyên tâm niệm Phật, tinh tấn vượt qua mọi khổ nhọc, cuối cùng đạt được Niệm Phật Tam Muội và trong giấc mơ thấy được cảnh giới trang nghiêm của Tịnh Độ. (Phật học Tinh tuyển )

[76] Thuật ngữ Thiền: Thật tế lý địa bất lập nhất pháp (Cảnh giới chân thật không lập một pháp)

[77] Thuật ngữ Thiền: Phật sự môn trung bất xã nhất trần (Có chỗ chép là Vạn sự) Trong Phật sự/ Vạn sự việc nhỏ đến đâu cũng không bỏ qua mà không làm.

[78] (雲棲袾宏, 1535-1615): tự là Phật Tuệ (佛慧), hiệu Liên Trì (蓮池), do vì ông từng sống tại Vân Thê Tự (雲棲寺) thuộc Ngũ Vân Sơn (五雲山), Hàng Châu (杭州), Tỉnh Triết Giang (浙江省), được gọi là Vân Thê (雲棲), xuất thân Phủ Nhân Hòa (仁和府), Hàng Châu, họ Trầm (沉). Năm 31 tuổi, ông theo xuất gia với Tánh Thiên Lý (性天理) ở Tây Sơn (西山), rồi đến tham học với Tùng Nham Đắc Bảo (松嵓得寳). Sau đó, ông rời vị này, đi qua vùng Đông Xương (東昌), chợt nghe tiếng trống trên chòi cao trên thành mà đại ngộ. Đến năm thứ 5 (1571) niên hiệu Long Khánh (隆慶), ở độ tuổi 37 ông bắt đầu đi hành cước, đến Vân Thê Sơn (雲棲山), dọn sạch cỏ ngôi cổ tự và lưu lại nơi đây. Ông đã dồn hết tâm huyết của mình vào việc giáo dưỡng và trước tác tại vùng đất này và để lại cho đời hơn 30 loại tác phẩm với hơn 300 quyển.

[79] Tùng Nham Đắc Bảo (松嵓得寳).

[80] (蕅益智旭) Cao tăng Trung quốc sống vào đời Minh, người Mộc độc, huyện Ngô, tỉnh Giang tô, họ Chung, tự Ngẫu ích, hiệu là Bát bất đạo nhân. Vì sư ở núi Linh phong (huyện Hàng, tỉnh Chiết giang) xây chùa, lập Liên xã, viết sách... nên người đời gọi sư là Linh phong Ngẫu ích Đại sư. Thủa nhỏ, sư theo Nho học, thề sẽ tiêu diệt đạo Phật và đạo Lão, nhưng khi tình cờ được đọc các tác phẩm Tự tri lục và Trúc song tùy bút của ngài Châu hoành, sư liền đốt bỏ cuốn Tịch Phật luận (bàn về việc diệt Phật) do sư biên soạn. (Từ điển Phật Quang)

[81] Huệ Viễn, Tăng sĩ Trung Hoa, (523-592), còn gọi là Tịnh Ảnh Huệ Viễn 浄影慧遠; là học giả nổi tiếng với những luận giải về Như Lai tạng và A-lại-da thức.

[82] Xem # 25

[83] Thích Đề Hoàn Nhân, thiên chủ cõi Đao Lợi

[84] Chỉ cho tam thừa hoặc pháp phương tiện

[85] thấu hiểu chân thật, thông đạt tận nguồn cội.

[86] Ngũ uẩn, căn, trần, thức.

[87] Hệ Châu, kinh Pháp Hoa.

[88] (八苦) I. Bát khổ. Tám khổ. Là tám thứ quả khổ mà chúng sinh vòng quanh trong sáu đường phải lãnh chịu, là nội dung chủ yếu của Khổ đế trong bốn đế. 1. Sinh khổ. Có năm thứ: a. Thụ thai, nghĩa là khi thần thức gá vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật chội dơ bẩn. b. Chủng tử, nghĩa là khi thần thức được gá vào di thể (tinh trùng và trứng) của cha mẹ, hạt giống thức phải tùy thuộc hơi thở ra vào của người mẹ, không được tự tại. c. Tăng trưởng, nghĩa là ở trong bụng mẹ chín tháng mười ngày, nóng bức nung nấu, thân hình lớn dần, dưới ruột non trên ruột già, khoảng giữa chật hẹp như tù ngục. d. Xuất thai, nghĩa là khi mới sinh, có gió lạnh gió nóng thổi vào thân mình và quần áo cọ xát vào da mỏng mềm nhũn, đau rát như đâm như cắt. e. Chủng loại, nghĩa là về nhân phẩm có giàu sang, nghèo hèn, về tướng mạo thì có đầy đủ, khiếm khuyết, xinh đẹp, xấu xí v.v... 2. Lão khổ. Có hai thứ: a. Tăng trưởng, nghĩa là từ trẻ thơ đến trai tráng đến già cả, khí lực suy yếu, đi đứng không vững. b. Diệt hoại, nghĩa là thịnh đi suy đến, tinh thần hao mòn, mệnh sống qua mau, dần dần hoại diệt. 3. Bệnh khổ. Có hai thứ: a. Thân bệnh, nghĩa là khi bốn đại (bốn nguyên tố đất, nước, lửa, gió) mất thăng bằng thì tật bệnh phát sinh. Như khi đất mất thăng bằng thì thân nặng trĩu, gió không điểu hoà thì toàn thân tê cứng, nước mất thăng bằng thì thân thể phù thũng, lửa không điều hoà thì khắp mình nóng bức. b. Tâm bệnh, nghĩa là trong lòng khổ não, lo buồn thương đau. 4. Tử khổ. Có hai thứ: a. Thân tử, nghĩa là vì hết số nên đau ốm mà chết. b. Ngoại duyên tử, nghĩa là hoặc gặp duyên ác, hoặc gặp các tai nạn nước, lửa mà chết. 5. Ái biệt li khổ, nghĩa là những người thân yêu mà phải chia lìa, không được sống chung 6. Oán tắng hội khổ, nghĩa là những kẻ cừu thù oán ghét, mình muốn xa lánh mà không được, trái lại, cứ phải chung sống bên nhau. 7. Cầu bất đắc khổ, nghĩa là hết thảy sự vật trong thế gian, lòng mình ưa thích, mà cầu mong không được. 8. Ngũ ấm thịnh khổ, nghĩa là sắc, thụ, tưởng, hành, thức gọi là năm ấm. Âm, có nghĩa che lấp; tức năm ấm hay che lấp chân tính, không cho hiển lộ ra. Thịnh, có nghĩa thịnh vượng, dung chứa. Tức là tất cả các nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử kể ở trên tụ tập lại, cho nên gọi là ngũ ấm thịnh khổ. [X. Trung a hàm Q.7; luận Đại tì bà sa Q.78; luận Đại thừa a tì đạt ma tạp tập Q.6]. II. Bát khổ. Luận Du già sư địa quyển 44 còn nêu ra tám nỗi khổ khác nhau như sau: khổ vì rét, khổ vì nóng, khổ vì đói, khổ vì khát, khổ vì mất tự do, khổ vì tự mình giày vò mình, khổ vì người khác ức hiếp, khổ vì phải sống dưới một loại quyền uy nào đó trong một thời gian dài. (Từ điển Phật Quang )

[89] Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

[90] Bồ tát còn tu ở pháp môn phương tiện, thứ bậc.

[91] Vị Phật trước nhập diệt, vị Phật sau bổ xung vào thì gọi là Bổ Xứ.

[92] Chỉ cho Đẳng giác Bồ tát

[93] Tính là tự thể của các pháp. Tướng là tướng mạo, nghĩa lý của các pháp đó, còn gọi là pháp tướng. Các tông Câu Xá, Thành Thật làm sáng tỏ thuyết Tính Tướng của Tiểu thừa. Các tông Du Già, Duy Thức thuyết minh cho thuyết Tính Tướng của Đại thừa. Vì vậy học tập các luận thuyết về Tính Tướng thì gọi là Tính Tướng Học. (Tự điển Phật học)

[94]八難; C: bānán; S: aṣṭāvakṣanā; tám nạn, tám trường hợp không may có thể xảy ra trên con đường đạt giác ngộ của một tu sĩ. Bát nạn bao gồm:

1. Địa ngục (地獄; s: naraka); 2. Súc sinh (畜生; s: tiryañc); 3. Ngạ quỷ (餓鬼; s: preta); 4. Trường thọ thiên (長壽天; s: dīrghāyur-deva), là cõi trời thuộc sắc giới với thọ mệnh cao. Thọ mệnh cao cũng là một chướng ngại vì nó làm mê hoặc hành giả, làm hành giả dễ quên những nỗi khổ của sinh lão bệnh tử trong Luân hồi; 5. Biên địa (邊地; s: prat-yantajanapāda), là những vùng không nằm nơi trung tâm, không thuận tiện cho việc tu học chính pháp; 6. Căn khuyết (根缺; s: indriyavaikalya), không có đủ giác quan hoặc các giác quan bị tật nguyền như mù, điếc…; 7. Tà kiến (雅見; s: mithyādarśana), những kiến giải sai lệch, bất thiện; 8. Như Lai bất xuất sinh (如來不出生; s: tathāga-tānām anutpāda), nghĩa là sinh sống trong thời gian không có Phật xuất hiện hoặc giáo pháp của Ngài.

[95] Tên hai tập sách nói về các loại thuốc

[96] Thị phi

[97] Can Tương, Mạt Gia là hai thanh kiếm quý đời xưa, có thể chém đá dễ như chém bùn.

[98] Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

[99] Chân Không

[100] Diệu Hữu

[101] Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ

[102] (西歸直指) Tác phẩm, 4 quyển, do cư sĩ Chu mộng nhan soạn vào đời Thanh, được thu vào Vạn tục tạng tập 2. Nội dung sách này nói về pháp môn niệm Phật vãng sinh, khuyến hóa người đời đềunên qui về Tịnh độ phương Tây, vì thế nên lấy tên sách là Tây qui trực chỉ (chỉ thẳng về phương Tây). Đầu quyển có lược truyện của tác giả và các biểu đồ về 10 việc thù thắng ở phương Tây, 9 điều thù thắng của pháp môn niệm Phật, 4 loài 6 đường trong 3 cõi, 7 thứ bất tịnh quán, bạch cốt quán... Quyển 1 nói về Tịnh độ cương yếu; quyển 2 nói vềNghi vấn chỉ nam; quyển 3 nói về Khải tín tạp thuyết, gồm các bài văn khuyến hóa tu hành cầu vãng sinh Tịnh độ; quyển 4 là Vãng sinh sự lược, tức nêu sơ lược sự tích vãng sinh của các vị Bồ tát, Cao tăng, Vương thần, cư sĩ, đồng tử, phụ nữ và người cải ác hướng thiện... (Từ điển Phật Quang)

[103] Hiệu là Bắc Thông Châu Vương

[104] Đại sư Ấn Quang giảng “Gia Ngôn Lục” năm 1936.

[105] Trần Tích Chu

[106] Kinh Pháp Hoa. Kẻ soi gương không thấy đầu sinh kinh hoảng.

[107] Hệ châu trong phẩm Tín Giải, kinh Pháp Hoa

[108] Phẩm thứ 39, kinh Hoa Nghiêm

[109] Thánh hiền đời trước.

[110] Kinh Hoa Nghiêm