Tính văn học qua phẩm Dược Thảo Dụ trong kinh Pháp Hoa | ||
Quá trình khám phá, cảm nhận cái đẹp văn chương bao giờ cũng bắt đầu từ cuộc đời nhà văn, đến tác phẩm, phong cách nghệ thuật, nhân cách con người, v.v… Như vậy, tìm hiểu về tính văn học cũng có nghĩa là thông qua việc tìm hiểu về truyền thống văn hóa, lịch sử của từng địa phương, từng dân tộc. Tính văn học thể hiện ở ngôn từ hoa mỹ, nghệ thuật phong phú và có lẽ bức thông điệp ngoài ngôn ngữ mới chính là cái cốt tủy của một tác phẩm văn học xuất sắc. Để cảm nhận được vấn đề này thì đòi hỏi chúng ta phải có một khả năng nhất định. Hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học đều thống nhất rằng, kinh Pháp hoa đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hàn gắn sự đổ vỡ của các trường phái Phật giáo. Mặt khác, Pháp hoa cũng tổng hợp những tư tưởng cốt tủy của Bát-nhã, Hoa nghiêm, Duy-ma, đồng thời mở ra chân trời mới cho mọi người trong xã hội: Ai ai cũng có Phật tính, ai ai cũng có khả năng thành Phật. Kinh Pháp hoa không trình bày chân lý theo khía cạnh triết học hoặc chuyên môn, mà dưới hình thức một vở kịch có nhiều màn, nên nó mang tính đại chúng, dễ hiểu. Đó là cách truyền đạt chân lý cao siêu qua cái bình thường thông tục. Vì vậy, ngôn ngữ Pháp hoa diễn đạt mục tiêu không phải là sự kiện, mà chính là sự thật chứa ở bên trong. Nói cách khác, ngôn ngữ Pháp hoa là ngôn ngữ biểu tượng và giàu tính văn học, cho nên “chân lý trong kinh Pháp hoa không phải là một thứ chân lý chết cứng vô hồn; mà đó là lý tưởng; là chân lý bừng sáng, thơm ngát và kết hạt như hoa sen, là chân lý tích cực, chân lý được hóa thân trong đức Phật, là Pháp thân, là tự thân Giác ngộ, Năng giác và Sở giác là một”[1]. Trong trường hợp này, vấn đề sẽ trở nên quan trọng đối với người học kinh; vì lẽ nếu không nắm bắt được những ý nghĩa biểu tượng, sẽ không hiểu được ý kinh và thường bị rơi vào các ảo tưởng. Vì thế, trên mặt nhận thức, sự thông suốt về ngôn ngữ và các đặc trưng của nó được xem như điều kiện cần yếu đối với người học kinh. Mà bản thân ngôn ngữ là vô hạn; mọi khuôn mẫu được áp đặt lên nó đều được xem xét dưới góc độ tương đối của nhận thức. Do vậy, cần phải nhìn nhận ngôn ngữ là một phần cơ bản để khám phá, cảm nhận cái đẹp văn chương - cái đẹp bao đời nay vẫn luôn là cái đẹp hấp dẫn – một công việc khó khăn mà vô cùng hứng thú; nó khả dĩ giúp con người nắm bắt được thực tại mà không bị kẹt ở ngôn ngữ, thấy rõ mặt trăng mà không chấp vào ngón tay. Vấn đề còn lại, đòi hỏi ở người hành trì một mức độ thể nhập, một mức độ tư duy thiền định nhất định để có thể đi vào soi sáng Phật lý. Những kinh điển Đại thừa lần lượt xuất hiện, phát dương lý tưởng Đại thừa, giải thích giáo lý mang tính tích cực và đại chúng hơn. Bát-nhã là bộ kinh lớn xuất hiện khá sớm, triển khai tư tưởng Chân không, tích cực đả phá Tiểu thừa, cho rằng Thanh văn và Duyên giác không phải là con của Phật. Kinh Hoa nghiêm chủ trương pháp giới duyên khởi, nhưng vẫn xem Tiểu thừa là thấp kém hạ liệt. Đến Duy-ma-cật thì Tiểu thừa bị chỉ trích thậm tệ. Sự đả phá chỉ trích lẫn nhau đã dẫn đến không chấp nhận nhau và làm cho Phật giáo suy yếu. Đại thừa, mặc dù đã đưa ra đường lối tu tập sinh động hơn, nhưng bên cạnh đó đã tạo ra mối mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Do đó nhu cầu về con đường hòa giải trở nên cấp thiết. Trong bối cảnh đó, kinh Pháp hoa xuất hiện, chủ trương hòa giải mọi mâu thuẫn gay gắt của các dòng tư tưởng Đại thừa trước đó đối với giáo lý truyền thống, tạo sự thống nhất về tư tưởng và đường lối Phật giáo. Từ khi Diệu pháp liên hoa kinh được Cưu-ma-la-thập (Kumàrajìva) dịch và phổ biến thì kinh này trở nên một trong những chủ đề phổ biến nhất trong công cuộc nghiên cứu Phật học, song song với kinh Bát-nhã và kinh Niết-bàn. Với một đường lối dung hòa, với tư tưởng pháp chân không siêu thoát, kinh Pháp hoa đã đạt được mục đích của mình là ‘khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến’. Có lẽ cũng vì vậy mà kinh được tôn thờ quý kính, được hành trì, nghiên cứu và phổ biến sâu rộng. Tuy nhiên, trong hầu hết các kinh đều có thí dụ, chẳng hạn như phẩm Dược Thảo Dụ trong kinh Pháp hoa cũng là một trường hợp điển hình. Đọc xuyên suốt toàn phẩm chúng ta sẽ thấy rằng, đức Thế Tôn đã dùng hình ảnh thí dụ rất sống động, rất giản đơn như những sự kiện, hiện tượng xảy ra hàng ngày và gắn liền với đời sống tâm thức, tình cảm của con người: “Đại-ca-diếp, ví như toàn cõi đại thiên thế giới, núi đồi hang rãnh và ruộng đất mọc lên cây cối và cỏ thuốc, với bao nhiêu là chủng loại mà tên gọi và màu sắc không giống với nhau. Nhưng mây dày nổi lên và giăng bủa khắp cả đại thiên thế giới ấy, mưa xuống một cách đồng thời vày đồng đều, thì nước mưa thấm khắp tất cả. Tất cả cây cối và cỏ thuốc, rễ nhỏ thân nhỏ nhánh nhỏ lá nhỏ, rễ vừa thân vừa nhánh vừa lá vừa, rễ lớn thân lớn nhánh lớn lá lớn, cây cối thì tùy chủng loại lớn nhỏ và cỏ thuốc thì tùy tính chất tốt vừa kém mà hấp thụ đủ cả. Một loại mây đổ mưa xuống, xứng hết với các mầm, nên thứ nào cũng được sinh ra, lớn lên, trổ hoa, ra trái và kết hạt. Cùng một đất mọc lên, một mưa thấm xuống, nhưng các cây cối và cỏ thuốc vẫn có khác nhau”[3] Cây cối có hai loại là nhỏ và lớn, cỏ thuốc có ba tính chất là kém, vừa, tốt, và cây cỏ ấy được xếp làm ba nhóm. Nhóm một, nói riêng về cỏ thuốc (có thể ví dụ cho Ngũ thừa): Nhân đạo và thiên đạo là cỏ thuốc kém, Thanh văn và Duyên giác là cỏ thuốc vừa, Bồ-tát là cỏ thuốc tốt. Nhóm hai, nói riêng về cây cối (có thể ví dụ cho Bồ-tát thừa): Bồ-tát sơ phát tâm là cây nhỏ, Bồ-tát không còn thoái chuyển là cây lớn. Nhóm ba, nói chung cả cỏ thuốc và cây cối (có thể ví dụ cho Tam thừa): La-hán và Duyên giác là cỏ thuốc, Bồ-tát tuệ lực vững chắc là cây nhỏ, Bồ-tát thấu triệt về Không, hóa độ vô số là cây lớn. Tuy nhiên, với tinh thần Pháp hoa là cốt nói Nhất thừa (xác quyết ai cũng làm Phật) thì cách giải thích toàn vẹn nhất phải là tổng hợp tất cả các giải thích trên. Bởi lẽ, cùng mọc lên từ đất, cùng thấm nước mưa, nhưng mọi cây cỏ nảy mầm, lên cây, ra hoa, kết trái, tất cả đều khác nhau mà không thứ nào tự biết như vậy. Hay nói cách khác, qua âm thanh duy nhất của Phật, tất cả cùng nghe pháp đồng nhất, nhưng mỗi người tu nhân và được quả khác nhau mà không ai tự biết. Chỉ có đức Phật, bậc Chánh đẳng giác, với trí tuệ vô lậu mới biết rõ và thuyết pháp cho. Do đó, ví dụ về cây cỏ này cho thấy Ngũ thừa hay Tam thừa cũng xuất phát từ Nhất thừa mà vẫn khác nhau. Điều này cho thấy ý nghĩa biểu tượng của hoa sen là một sự toàn thiện ngay giữa lòng cuộc đời ô trược, cũng như sự giác ngộ, giải thoát không thể thoát ly ngoài con người trần thế và cuộc đời trần thế mà có. Đọc hay tụng lướt qua phẩm Dược Thảo Dụ trong kinh Pháp hoa, người đọc vẫn có thể cảm nhận được mạch văn trôi chảy nhẹ nhàng, ngôn từ hoa mỹ; song, để lãnh hội được ý kinh thì thiết nghĩ phải có một quá trình chiêm nghiệm dài lâu. Ở đây, chỉ với đoạn kinh ngắn này, chúng ta đã nhận được không biết bao nhiêu là thâm nghĩa của kinh qua các biểu tượng cơn mưa, đất, cây cối, cỏ thuốc. Và cho đến nay, cơn mưa, đất, v.v… đã đi vào truyền thống Phật giáo bởi hình ảnh biểu tượng của nó. Nhắc đến cơn mưa, người học Phật nghĩ ngay đến những lời dạy của đức Thế Tôn, như một trận mưa xuống làm sạch bụi bặm, thấm nhuần nuôi dưỡng cây cỏ. Bằng ngôn ngữ so sánh, “cũng vậy”, đức Thế Tôn đã khéo léo so sánh, khéo léo thuyết giảng, đưa chúng sinh đi từ thấp đến cao, từ chỗ mơ hồ chưa hiểu rõ đến chỗ thấu suốt vấn đề cũng bằng một hình ảnh biểu tượng khác. Điều này nói lên rằng, đức Thế Tôn không muốn cho chúng sinh bị mê lầm, mắc kẹt vào mớ ngôn ngữ kia. Điều mà Như Lai muốn, cái thực tại mà Như Lai muốn hiển bày nó nằm ngoài ngôn ngữ, là chúng sinh hãy nương giáo lý của Như Lai như nương vào ngón tay để nhìn thấy mặt trăng, để nhìn thấy, để có thể thể nhập vào cảnh giới Niết-bàn vô tướng của chư Phật. Đó cũng là yếu tố chính khiến cho kinh Pháp hoa thêm đậm tính văn học, và chân lý trong kinh Pháp hoa luôn là một chân lý sống động, một thái độ sống tích cực, một đóa sen vươn lên từ bùn nhơ để tỏa hương thơm ngát giữa bồng bềnh khói sương cuộc lữ. --------------------------------------------- Thích Nữ Khánh Năng (hoangphap.info)
|