Ý Nghĩa Ngày Tết

25 Tháng Mười Hai 201611:37 CH(Xem: 3397)
Ý Nghĩa Ngày Tết

Tết do chữ Tiết mà ra, là "thời gian" đặc biệt đã được ấn định trong năm. Theo Âm Lịch hay lịch ta, trong một năm có nhiều Tết, chẳng hạn như Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọc, Tết Trung Thu, Tết Trùng Cửụ Tết Nguyên Đán hay Tết Cả. Tết quan trọng và lớn nhất trong năm của người Việt Nam là Tết Nguyên Đán (Nguyên là bắc đầu hay đầu tiên, Đán là buổi sớm mai) Nguyên Đán là ngày đầu tiên của một năm mới âm lịch, tức là ngày một một tháng Giêng tạ Vì Tết Nguyên Đán là Tết lớn nhất trong năm, cho nên người ta còn gọi là Tết Cả. Để khỏi lầm lẫn với dương lịch, Tết Nguyên Đán cũng còn được gọi là Tết Ta (trong khi mồng một tháng Giêng dương lịch thì gọi là Tết Tây)


Mâm Ngũ Quả Ngày Tết



Người Việt Nam luôn luôn trọng nghĩạ Bất kỳ lễ lạc nào đều có sắc thái đề cao tổ tông. Ngày Tết cũng vậy, nhà nào cũng có tục lệ bày soạn mâm quả để dâng cúng tổ tiên ông bà. Ngũ là năm (5) vì vũ trụ được tạo bởi năm nguyên tố căn bẳn: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mâm ngũ quả thường gồm năm loại quả mà tên gọi có ý cầu mong một điều gì đó. Trong mâm quả thường hay có Mãng Cầu, tức là cầu chúc cho mọi điều đều như ý; có Dừa, vì âm "dừa" tương tự như là "vừa", có nghĩa là không thiếu; có Sung, vì gắn với biểu tượng sung mãn về sức khỏe hay tiền bạc; rồi Đu Đủ, vì đó có nghĩa là mang một năm mới được đầy đủ thịnh vượng; Ngoài ra còn có Xoài, vì tên "Xoài" na ná như là "xài", để cầu mong cho tiêu xài không thiếu thốn. Ngày nay, các mâm ngũ quả còn được chen thêm nhiều loại quả khác để cho thêm phần đẹp mắt, chẳng hạn như Dưa Hấu, Táo, Đào Tiên, Quýt ...

Tục Mâm Quả ngày Tết là một nét đẹp của dân tộc Việt Nam, nó biểu tượng cho lòng biết ơn ông bà tổ tiên của mỗi người Việt, cũng như lòng ước mong một năm mới an khang, nhiều may mắn, tốt đẹp.

Bánh Chưng 

Một trong những đặc trưng không thể thiếu của ngày Tết Việt Nam là bánh chưng xạnh. Bởi vậy tục ngữ Têt của ta có câu:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh

Bánh chưng là một thứ bánh đặc biết hoàn toàn Việt Nam, làm bởi gạo nếp đậu xanh, thịt mỡ, tiêu, hành, gói bằng lá dong hay lá chuối rồi "chưng" lên (hay nấu, luộc) trong nhiều tiếng đồng hồ cho chín nhừ đị

Cứ vào dịp Tết, người ta gói bánh chưng và làm bánh dầy cúng tổ tiên để tưởng nhớ tới công ơn tiền nhân hoặc để biếu Tết lẫn nhaụ Ở nhiều địa phương, dịp Tết bánh dầy còn là lễ vật để tế thần ở đình của làng nữạ Đây là thứ bánh dầy thật lớn, có khi to bằng cái mâm, ngoài ra trước đây, bánh dầy còn dùng làm lễ vật trong các lễ cưới hỏi nữạ

 

Sự Tích Bánh Chưng Bánh Dầy

Ngày xưa, vua Hùng Vương có 18 người con. Riêng hoàng tử thứ 18, tên là Lang Liêu, mồ côi mẹ rất sớm. Tết năm đó, vua cha truyền lịnh cho các con trai, rằng ai mang đến cho nhà vua loại bánh nào tuyệt hảo nhất, sẽ được nối ngôi vua . Các em biết không, những hoàng tử kia còn có mẹ bên cạnh. Các bà mẹ ra sức chuẩn bị làm các thứ bánh tuyệt hảo cho con trai mình. Riêng hoàng tử Lan Liêu vì mồ côi mẹ nên chàng rất lo lắng. Lan Liêu về nhà, trằn trọc suy nghĩ suốt đêm. Mệt quá, nên chàng ngủ thiếp đi . Trong cơn mê, có một bà tiên xuất hiện và khuyên Lang Liêu rằng : "Con hãy nghĩ đến một thứ bánh nào tượng trưng cho công lao của cha mẹ đã dành cho con cái. Lang Liêu sực tỉnh. Công ơn của cha mẹ nuôi dưỡng con cái thật là lớn lắm thay . Các em nghĩ xem có thứ bánh nào có thể tượng trưng cho công ơn sinh thành dưỡng dục của cha me không ? Công cha nghĩa mẹ lớn như trời bể, phải không các em ? Suy nghĩ mãi, cuối cùng, hoàng tử Lang Liêu lấy đậu và nếp, làm ra bánh dầy và bánh chưng. Đến kỳ hạn, vua cha ngồi trên ngai . Các hoàng tử lần lượt đem những loại bánh mà mình đã đi khắp nơi, nhờ cậy nhiều người làm giúp đến. Vua cha nếm qua các thứ bánh, gật gù khen thưởng. Cuối cùng, vua nếm thử loại bánh của hoàng tử Lan Liêu tự mình làm lấy . Vua lấy làm ngạc nhiên, hỏi Lang Liêu :
- Loại bánh này vị ngon và lạ quá. Con hãy giải thích cho ta xem.
- Thưa vua cha, bánh này tượng trưng cho công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái . Bánh dầy hình tròn, tượng trưng cho trời . Bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất. Bởi vì, công ơn cha mẹ lớn tựa trời đất. Đậu, nếp, và thịt heo tượng trưng cho công lao nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ đã dành cho con cái ... bằng những món ăn mà bất cứ ai cũng cần để lớn lên ...
Vua nghe thấy chí lý, lại thấy bánh ăn mặn mà hương vị, bèn truyền ngôi cho hoàng tử Lang Liêu .Sau khi lên ngôi, Lang Liêu truyền lịnh cho cả nước giữ tập tục ăn bánh dầy, bánh chưng vào dịp đầu năm để tưởng nhớ công ơn của cha mẹ.

 

ĐÊM BA MƯƠI

Đêm quan trọng nhất của năm cũ và năm mới  là đêm 30 tháng Chạp hay củ mật, tức đêm 30 Tết. Sở dĩ gọi là "củ mật" vì vào độ gần Tết, thường luôn luôn có trộm cướp cho nên nhà nào cũng phải phòng bị hết sức cẩn thận. Đặc biệt ở Bắc Phần Việt Nam đêm 30 Tết, trời đất một màu đen, có khi hai người đi cạnh mà không nhìn thấy nhau, cho nên tục ngữ có câu "Tối như đem 30 Tết" là vậỵ

Xưa, đêm 30 Tết cũng còn là thảm cảnh của những người phải trốn nợ cuối năm vì không có tiền trẻ cho chủ nợ Thường thì chủ nợ cố đòi cho được vào cuối năm vì đầu năm mới "kiêng" đòi nợ, sợ "giông" cả năm. Bởi vậy người thiếu nợ phải trốn nợ cho tới khi nào gần giao thừa mới dám trở về nhà... Chính tục đòi nợ cuối năm mà người ta thường nói "giàu có ba mươi Tết mới hay".

Ngoài ra, đêm 30 Tết, theo tục xưa, là đêm quan trọng không kém ngày đầu năm. Ngày từ chiều ba mươi, người ta đã làm "cơm cúng" gia tiên và tối ba mươi là "đêm không ngủ" để chuẩn bị đón mừng Tổ Tiên về ăn Tết và đón giao thừa (tiễn năm cũ và mừng năm mới). Tục này đã có từ lâu đời và gọi là Lễ Thủ Tuế.

CÂU ĐỐI TẾT 

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung là câu đối đỏ. Những chữ nghĩa ở các câu đối này thường là những chúc tụng nhân năm mới, chẳng hạn như:

Phước thâm tự hải (hạnh phúc nhiều sâu như biển)

Lộc cao như sơn (của cải nhiều cao như núi)

Hay là:

Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ (Trời đất ngày gia tăng ngày tháng ví như con người mỗi năm tăng thêm tuổi thọ)

Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường (mùa xuân về đầy trong Trời Đất ví như hạnh phúc đầy nhà)

Câu đối cũng còn được gọi là liễn nữạ Liễn thường là những dải giấy màu đỏ hay hồng đào, hai đầu dải giấy có làm trục bằng gỗ hay bằng tre để khi treo lên thì dải câu đối được ngay ngắn. Cũng có khi liễn không cần có trục và chỉ là những giải giấy để tiện dán vào những nơi cần treo như ở hai bên bàn thờ, các cột nhà cửa, cổng hay ngõ...

Trước đây ở chốn thôn quê, mỗi khi Tết đến, người ta còn cẩn thận dán liễn đỏ ở nơi các cửa chuồng lợn, trâu, bò hoặc ở thân cây dừa, nhãn, ổi, nạ... để ngụ ý cầu mong cho mọi sự được tốt đẹp như lợn, trâu, bò hay ăn chóng lớn, sinh đẻ đầy đàn... các cây thì sai tráị. Những nhà không có đủ khả năng và phương tiện viết câu đối ăn Tết thường phải nhờ những cụ đồ Nho chuyên viết và bán những câu đối Tết, những năm trước chiến tranh 1939-1945 đã được thi sĩ Vũ Đình Liên mô tả trong bài thơ bất hủ "Ông Đồ"

Các văn nhân nhân dịp Tết cũng thường làm câu đối để bày tỏ ý chí của mình hoặc chỉ trích những thói hư tật xấu của người đờị Chẳng hạn như :

Thiên hạ xám rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế, lại bôi vôi

(Trần Tế Xương)

Hay:

Tối ba mươi khép cánh càn khôn
Ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới
Sáng mồng một, lỏng theo tạo hóa
Mở toang ra, cho thiếu nữa đón xuân vào

(Hồ Xuân Hương)