Quyển thứ bảy
Phẩm thứ tư: HỮU Y HÀNH (tiếp theo)
Lại nữa, này thiện nam tử! Có các chúng sanh bẩm tánh hung bạo, lời nói hung ác, thật là ngu si, ngã mạn, tự cho là thông minh, không trừ bỏ sát sanh cho đến tà kiến. Đối với người được lợi dưỡng, cung kính, tiếng khen ở đời thì ganh ghét; thường tự tìm cầu lợi dưỡng, cung kính, tiếng khen ở đời chưa từng mỏi mệt; thường khen ngợi mình, khinh chê người; không phòng ngừa, giữ gìn ba nghiệp thân, ngữ, ý; thường ưa làm tất cả điều ác; ôm lòng độc ác, không có từ bi; không tàm, không quý; ưa làm não loạn người khác. Đối với các bậc phước điền ưa so lường hơn thua. Đối với các người xuất gia quy y trong giáo pháp của Ta thì ưa tìm vết xấu của họ. Vừa được chút ít hình tướng, không chịu xem xét hư thật thế nào mà liền khinh chê, quở mắng, trách phạt. Tâm họ ương ngạnh, mê loạn, bướng bỉnh, tàn ác; thường ưa làm não loạn các người xuất gia, không xét lỗi của mình mà nghĩ đến việc quở trách lỗi lầm của người khác. Tuy khi được nghe tán thán công đức của Đại thừa thì phát khởi ý chí mong cầu, nhưng tâm ưa làm các việc ác lớn, chưa từng dừng nghỉ, làm mê hoặc người khác. Đối với pháp Đại thừa hiện tại, tự mình lắng nghe, dạy người khác lắng nghe. Hiện tại tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng; tự mình cống cao lấn hiếp kẻ khác. Đối với pháp Đại thừa thì cung kính khen ngợi. Đối với các hạnh, cảnh giới của Đại thừa tự mình chưa từng tu học, chưa có thể hiểu biết mà tự xưng ta là Đại thừa, khuyên dụ người khác theo mình tu học, mưu cầu danh lợi để tự sinh sống. Ví như vị thầy giữ luật mà lại phá giới, làm ác, tự mình phạm giới, ưa làm việc ác, vì danh lợi nên khuyến dụ người khác siêng năng tu học tạng luật. Dua nịnh, lừa dối chúng sanh như vậy, làm thân người hạ tiện còn khó được, lui mất đường thiện đi đến Niết-bàn nhị thừa, huống là đắc Đại thừa, hoàn toàn không có việc này, sẽ đọa vào đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi. Những người có trí không nên thân gần người như vậy.
Người ở giữa đại chúng mà không có tàm quý, tự xưng là Đại thừa như sư tử rống, vì danh lợi nên dụ người ngu si cuồng loạn làm cho thân gần mình, cùng nhau kết bè đảng. Ví như con lừa đội lốt sư tử, liền tự cho mình là sư tử, có người trông thấy cho là sư tử thật, khi đến gần nghe tiếng kêu thì biết là lừa, họ cùng la lên: “Đây chẳng phải là sư tử, ăn những đồ dơ bẩn. Thật là con lừa dơ xấu”, rồi quở mắng đủ thứ và bỏ đi. Ta nói hạng người này thường ưa làm mười nghiệp đạo ác, đốt cháy tất cả hạt giống trời người; pháp Thanh văn, Độc giác thừa còn thối lui, huống là Đại thừa mà có thể thành tựu bậc pháp khí.
Người ngu si, kiêu mạn tự xưng là Đại thừa, dối gạt người khác để chiêu tập lợi dưỡng. Ví như người không có chân tay, bị trở ngại, chậm chạp mà muốn vào trận lớn đánh nhau, dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng. Giả xưng là Đại thừa cũng như vậy, tay lòng tin, chân giữ giới không có trọn vẹn, tự mình không phòng giữ các nghiệp mà muốn đánh nhau với giặc phiền não, thì dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng được.
Ta nói những người này không giữ gìn ba nghiệp, hay làm việc ác, vọng xưng là Đại thừa; đối với ba thừa thật chẳng phải là pháp khí mà muốn phá hoại giặc phiền não kiên cố, mạnh mẽ của tất cả chúng sanh, muốn hiển thị tám Thánh đạo cho tất cả chúng sanh, làm cho họ được vào thành Niết-bàn vô úy thì hoàn toàn không thể được.
Vì sao? - Này thiện nam tử! Vì bậc Đại thừa thọ trì luật nghi thanh tịnh bậc nhất, tu hành thiện hạnh vi diệu bậc nhất, đầy đủ tàm quý kiên cố bậc nhất; thấy rõ nên rất sợ quả khổ đời sau, xa lìa tất cả pháp ác, thường ưa tu hành tất cả pháp thiện, tâm từ bi ban khắp tất cả hữu tình, thường làm lợi ích an lạc, cứu giúp khắp tất cả chúng sanh vượt qua các đau khổ tai nạn sanh tử, không trông mong cho bản thân mình được an lạc, mà chỉ cầu mong cho tất cả chúng sanh được an lạc. Như vậy gọi là người an trụ vào Đại thừa.
Này thiện nam tử! Những tướng nào gọi là Thanh văn thừa?
- Nghĩa là các chúng sanh thường siêng năng tinh tấn an trú chánh niệm, ưa định đẳng dẫn, xa lìa các dua nịnh, tin hiểu biết nghiệp quả báo, không đắm trước năm món dục lạc ở đời, không bị tám pháp thế tục làm nhiễm, tu tập việc thiện mạnh mẽ như cứu đầu đang cháy, thường quán xét kỹ các uẩn - xứ - giới, thường ưa an trú dòng giống Thánh. Người đầy đủ những tướng này gọi là bậc Thanh-văn thừa. Những chúng sanh như vậy còn chưa thành tựu pháp khí Độc giác thừa, huống là có thể thành tựu pháp khí Đại thừa.
Này thiện nam tử! Có những tướng nào gọi là Độc giác thừa?
- Nghĩa là các chúng sanh đầy đủ tất cả công đức của Thanh văn thừa đã nói ở trên, lại phải đối với năm thủ uẩn kia thường an trú phép quán vô thường, thường an trú quán sanh diệt, ở trong tất cả pháp duyên sanh hay quán sát kỹ đều là pháp diệt. Người đầy đủ những tướng này gọi là Độc giác thừa. Chúng sanh như vậy chẳng phải pháp khí Đại thừa.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài tụng:
- Nếu bậc Sát-đế-lợi hiền thiện
Cho đến Mậu-đạt-la hiền thiện
Tu tập tin theo mười luân trên
Mau thành pháp khí Thanh văn thừa
Ba nghiệp thanh tịnh cầu Độc giác
Đầy đủ tàm quý, sợ các uẩn
Biết lỗi, ưa ở nơi thanh vắng
Gìn giữ các căn, tâm tịch tịnh
Tu tịnh lự, quán pháp duyên khởi
Khéo quán sát các uẩn, giới, xứ
Đủ mười luân hữu y hành này
Vượt qua biển khổ thành pháp khí
Tu cả nhị thừa và tam thừa
Cầu cho mình thoát khổ phiền não
Không độ hữu tình, bỏ tập khí
Người này chẳng phải khí Đại thừa
Ngu si, biếng nhác, căn thấp kém
Đối pháp nhị thừa không siêng tu
Luân Đại thừa quyết định không đủ
Nên chẳng phải khí lớn Đại thừa
Ngu si cầu giải thoát riêng mình
Chí thấp kém, không hành từ bi
Ưa chấp đoạn kiến, hướng đường ác
Xả bỏ chánh pháp, nói phi pháp
Không trì luật, phỉ báng nhị thừa
Thọ giới Cụ túc, xưng Đại thừa
Phá pháp Ta, mê hoặc chúng sanh
Do nhân này, khó được thân người
Não loạn pháp Ta và Hiền Thánh
Trách phạt người mặc ca-sa đỏ
Quở mắng, ngăn đoạt các y bát
Lui mất đường trời người lâu dài
Thế nên muốn được lại thân người
Không do bệnh lưỡi mà mất mạng
Thường ưa đích thân gặp chư Phật
Nên hoằng truyền chánh pháp ba thừa
Muốn được tối thượng trong ba thừa
Pháp ba thừa nên quán sát kỹ
Vui vẻ chỉ dạy khắp mọi người
Quyết định thành Phật không còn nghi
Phá giới, tham, ganh ghét, kiêu mạn
Khen mình, chê người, xưng Đại thừa
Xa người ác đó, nương kẻ trí
Quyết định thành Phật độ ba cõi
Pháp khí ba thừa tùy căn cơ
Từ bi giảng thuyết pháp ba thừa
Tùy nguyện viên mãn, không ganh, tham
Sẽ được thành Phật, không nghi ngờ
Biết uẩn, xứ, giới đều vắng lặng
Ví như hư không, không chỗ trú
Thuyết pháp giáo hóa các hữu tình
Sẽ được trí diệu giác vô biên
Phá giới, tâm ưa nghĩ điều ác
Nghe công đức Đại thừa thù thắng
Dối xưng Đại thừa vì danh lợi
Như lừa đội lốt da sư tử.
Nay Ta bảo tất cả đại chúng
Nếu muốn mau được đạo thù thắng
Nên tu tập tốt mười nghiệp thiện
Hộ trì pháp Ta, chớ phá hoại
Khi xưa Ta thuyết các khế kinh
Cầu Đại giác nên hành Đại thừa
Xa lìa Thanh văn, Độc giác thừa
Vì thanh tịnh nên nói pháp này
Từng cúng vô lượng câu chi Phật
Dứt ác, siêng tu, tâm thanh tịnh
Ta vì khuyên chúng sanh tinh tấn
Nên nói một thừa, không có hai
Chúng này đầy đủ khí ba thừa
Chỉ có thể trú Thanh văn thừa
Tâm rất lo sợ nhiều sự nghiệp
Thì không thể chứng đắc Bồ-đề
Kẻ si ưa Độc giác thanh vắng
Thì không khả năng đạt giác ngộ
Có thể an trú trí thượng diệu
Tùy theo sở thích thuyết ba thừa
Đủ công đức tịnh, ưa giải thoát
Nghe nói Đại thừa đọa đường ác
Như bệnh có đàm, bày uống sữa
Bệnh không lành, tăng thêm độc hại
Vậy chẳng phải hạng Thanh văn thừa
Nghe thuyết Đại thừa, tâm mê loạn
Liền sanh đoạn kiến, đọa ác thú
Thuyết pháp cần phải quán căn cơ.
Phẩm thứ năm: SÁM HỐI
Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói bài tụng này rồi, ở trong chúng hội có vô lượng trăm ngàn chúng sanh từng hiểu lầm khi nghe pháp phát sanh sai lầm về giải không, bác bỏ không có nhân quả, đoạn mất thiện căn, đọa các đường ác, nghe Phật giảng thuyết kinh này trở lại được chánh kiến, liền rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật, ở trước đức Thế Tôn rất hổ thẹn, chí thành sám hối, chấp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Chúng con vốn ở trong Thanh văn thừa, đã từng gieo trồng thiện căn, nhưng chưa thành tựu pháp khí Thanh văn thừa, sau lại gặp nghe pháp Độc giác thừa thì mê muội không hiểu rõ, liền phát sanh kiến không, phế bỏ nói không có nhân quả. Do nhân duyên này, chúng con tạo vô lượng nghiệp về thân, miệng, ý nên trải qua các đường ác. Nay chúng con ở trước đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này, trở lại được chánh kiến nên rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện được diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vĩnh viễn không dám phạm lại và đề phòng nghiệp chướng, tội lỗi sắp đến.
Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót, cứu giúp làm cho tội lỗi chúng con đều được tiêu diệt. Vào đời vị lai, vĩnh viễn không dám phạm lại.
Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót, cứu giúp cho chúng con khỏi những quả khổ trong đường ác vào đời sau. Nay chúng con nguyện quay về thọ trì, trước hết tu tập hạnh Thanh văn thừa.
Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót, dạy bảo cho chúng con.
Đức Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Lành thay! Các ông biết hổ thẹn đến như vậy mà phát lồ cầu xin sám hối. Trong giáo pháp của Ta có hai hạng người gọi là không phạm tội:
1- Người bẩm tánh trong sạch, từ xưa đến nay không phạm tội.
2- Người phạm tội rồi biết hổ thẹn, phát lồ cầu xin sám hối.
Ở trong giáo pháp của Ta, hai hạng người này gọi là dũng mãnh, được thanh tịnh.
Lúc đó, đức Thế Tôn tùy theo ưa thích của mỗi người mà phương tiện thuyết pháp bốn Thánh đế. Những chúng sanh kia ở trong hội có người được nhẫn bậc hạ, có người được nhẫn bạc trung, có người được nhẫn bậc thượng, có người được pháp đệ nhất thế gian, có người được quả Dự-lưu, có người được quả Nhất-lai, có người được quả Bất-hoàn. Trong đó có tám vạn bốn ngàn Bí-sô các lậu diệt sạch, tâm được giải thoát, hoàn toàn thanh tịnh, thành bậc A-la-hán, vui mừng lễ Phật, trở về chỗ cũ.
Lúc ấy, trong chúng hội có năm mươi bảy trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh từng hiểu lầm khi nghe pháp, phát sanh ra sai lầm về giải không, phế bỏ không có nhân quả, diệt sạch thiện căn, hướng đến các đường ác, nghe thuyết kinh này rồi được chánh kiến trở lại, liền rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật, ở trước đức Thế Tôn rất hổ thẹïn, chí thành cầu xin sám hối, chấp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Chúng con vốn ở trong Độc giác thừa từng gieo trồng thiện căn, nhưng chưa có khả năng thành tựu pháp khí Độc giác thừa. Sau chúng con lại gặp nghe giảng thuyết Đại thừa, tuy có tâm ưa mến nhưng không thể hiểu rõ bởi ngu si, tối tăm, nghi ngờ, liền phát sanh kiến không, phế bỏ không có nhân quả. Do nhân duyên này chúng con tạo vô lượng nghiệp tội về thân, miệng, ý; mang nghiệp duyên này mà đọa trong các đường ác vô lượng kiếp, chịu các thứ đau đớn, khổ sở, khó chịu nổi. Nay chúng con ở trước đức Thế Tôn, nghe giảng thuyết kinh này được chánh kiến trở lại, rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vĩnh viễn không dám làm lại, ngăn ngừa nghiệp chướng tội lỗi về sau.
Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót cứu giúp, làm cho tội lỗi của chúng con đều được tiêu trừ, vào đời vị lai vĩnh viễn không dám phạm lại.
Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót, cứu giúp nhổ sạch những quả khổ đường ác về sau của chúng con. Nay chúng con nguyện xin quay về thọ trì, trước hết tu tập hạnh Độc giác thừa.
Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót chỉ bày cho chúng con.
Đức Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Lành thay! Các ông đã hổ thẹn như vậy mà phát lồ xin sám hối. Ở trong giáo pháp của Ta, có hai hạng người gọi là không phạm:
1- Người có bản tánh trong sạch, xưa nay không phạm tội.
2- Người phạm rồi biết hổ thẹn, phát lồ xin sám hối.
Trong giáo pháp Ta, hai hạng người này gọi là dũng mãnh, được thanh tịnh.
Lúc ấy, đức Thế Tôn tùy theo căn cơ của mọi người mà phương tiện thuyết các pháp duyên khởi, làm cho tất cả chúng sanh kia tu tập Duyên giác thừa, dần dần viên mãn, đều được chứng đắc định tràng tướng duyên; đối với Độc giác thừa được bất thối chuyển, vui mừng làm lễ Phật rồi trở về chỗ cũ.
Lúc bấy giờ trong chúng hội lại có tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh đã từng ở trong giáo pháp chư Phật vào thời quá khứ hủy báng lời Phật dạy, cho đến một bài tụng. Do nhân duyên này đọa vào các đường ác, chịu các quả khổ, lúc mới trở lại được làm thân người bị câm, ngọng, lưỡi thường bệnh hoạn tê cứng, không thể nói được, nghe giảng thuyết kinh này rồi được chánh kiến trở lại, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật, ở trước Thế Tôn rất hổ thẹn, chí thành sám hối nghiệp ác đời trước, chấp tay cung kính chiêm ngưỡng tôn nhan Thế Tôn, nhờ thần lực của Phật, tất cả mọi người đều nói được.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn biết mà vẫn hỏi:
- Đời trước các ông tạo nghiệp ác gì mà nay ở trong chúng đây không thể nói được?
Các người kia đồng một lúc thưa Phật, trong đó có một hạng người thưa như vầy:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Khi xưa chúng con ở trong giáo pháp của đức Tỳ-Bát-Thi Như Lai, hoặc phỉ báng chánh pháp Đại thừa, hoặc phỉ báng pháp Độc giác thừa, hoặc phỉ báng pháp Thanh văn thừa, cho đến một bài tụng. Do báo chướng nghiệp ác này nên chúng con trôi lăn trong sanh tử chín mươi mốt kiếp, thường ở trong địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, câm, ngọng không có lưỡi, hoàn toàn không thể nói được, nhận lấy các khổ đau đớn bức bách khó chịu nổi. Như đời này được lại thân người nhưng còn câm ngọng, lưỡi thường bị bệnh tật tê cứng. Nhờ thần lực của Phật mới có thể nói được, lại có thể nghĩ nhớ được nguyên nhân các báo chướng nghiệp ác đời quá khứ của mình.
Lại có một hạng chúng sanh thưa như vầy:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Khi xưa chúng con ở trong giáo pháp của đức Thi Khí Như Lai, hoặc phỉ báng chánh pháp Đại thừa, đều tùy theo bản duyên nói rộng như ở trước.
Lại có một hạng chúng sanh thưa như vầy:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Tỳ-Nhiếp-Phù Như Lai, hoặc phỉ báng chánh pháp Đại thừa, đều tùy theo bản duyên nói rộng như ở trước.
Lại có một hạng chúng sanh thưa như vầy:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Yết-Lạc-Ca-Tôn-Đà Như Lai, hoặc phỉ báng chánh pháp Đại thừa đều tùy theo bản duyên nói rộng như ở trước.
Lại có một hạng chúng sanh thưa như vầy:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Yết-Nặc-Ca-Mâu-Ni Như Lai, hoặc phỉ báng chánh pháp Đại thừa đều tùy theo bản duyên nói rộng như ở trước.
Lại có một hạng chúng sanh thưa như vầy:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Ca-Diếp-Ba Như Lai, hoặc phỉ báng chánh pháp Đại thừa, hoặc phỉ báng pháp Độc giác thừa, hoặc phỉ báng pháp Thanh văn thừa, cho đến một bài tụng. Do báo chướng nghiệp ác này, chúng con từ trước đến nay trôi lăn trong sanh tử, thường ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, câm ngọng không lưỡi, hoàn toàn không thể nói được, nhận lấy các khổ, đau đớn bức bách khó chịu nổi. Đời nay chúng con mới trở lại thân người mà còn bị câm ngọng, lưỡi thường bệnh tật tê cứng, nhờ thần lực của Phật mới có thể nói được; lại có thể nghĩ nhớ nguyên nhân các báo chướng nghiệp ác đời quá khứ của mình. Hôm nay chúng con được ở trước đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này liền được chánh kiến, rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối. không dám che giấu, nguyện được diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vĩnh viễn không dám phạm lại, ngăn ngừa những tội lỗi về sau.
- Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót cứu giúp, làm cho tội lỗi của chúng con đều được tiêu diệt. Vào đời vị lai vĩnh viễn không dám tái phạm.
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót cứu giúp nhổ sạch những quả khổ trong đường ác vào đời vị lai của chúng con.
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót giảng thuyết chánh pháp cho chúng con.
Đức Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Lành thay! Các ông đã biết hổ thẹn phát lồ xin sám hối như vậy. Ở trong chánh pháp Ta có hai hạng người gọi là không phạm tội:
1- Hạng người xưa nay bẩm tánh trong sạch, không phạm tội.
2- Hạng người phạm rồi biết hổ thẹn phát lồ xin sám hối.
Ở trong pháp Ta, hai hạng người này gọi là mạnh mẽ, được thanh tịnh.
Lúc ấy, tùy theo sự ưa thích của mỗi người, đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giảng thuyết chánh pháp, mỗi người tùy theo sở thích đều được lợi ích, vui mừng lễ Phật, trở về chỗ cũ.
Lúc bấy giờ, trong chúng hội có vô lượng trăm ngàn Thanh văn và vô lượng trăm ngàn na-dữu-đa Bồ-tát nghe Phật giảng thuyết kinh này, liền nghĩ nhớ các báo chướng nghiệp ác đã tạo khi xưa, liền rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật, ở trước đức Thế Tôn, rất hổ thẹn, chí thành sám hối, chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Chúng con nghĩ nhớ khi xưa đã từng ở trong giáo pháp của vô lượng chư Phật, hoặc nói lời: “Chúng con đối với các đệ tử của chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - gây nhiều hành động sân giận, quở mắng, hủy nhục, chê trách, khinh khi và phỉ báng đủ cách, che giấu điều thiện, phơi bày điều ác của người. Do nhân duyên báo chướng nghiệp ác này, chúng con trải qua vô lượng kiếp đọa vào các đường ác, chịu các khổ lớn bức bách khó nhẫn. Sau đó được gặp vô lượng chư Phật, chúng con đều đã từng thân cận phụng sự cúng dường; lại được gặp vô lượng chúng đại Bồ-tát chúng con cũng đều thân cận phụng sự cúng dường. Ở trước mỗi đức Phật, mỗi vị Đại Bồ-tát chúng con đều rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối các chướng nghiệp ác. Ở chỗ các đức Phật, các vị đại Bồ-tát chúng con đều được lắng nghe, lãnh thọ vô lượng pháp môn, siêng năng hộ trì tu học vô lượng hạnh khổ khó làm. Do nghiệp chướng kia chưa hết, còn dư lại, làm cho chúng con chưa có thể chứng đắc Niết-bàn an vui, chưa thể chứng đắc công đức thù thắng của môn Tam-ma-địa”.
Hôm nay chúng con ở trước đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này, liền rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện xin diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vĩnh viễn không dám làm lại và ngăn ngừa tội chướng về sau của chúng con.
Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót cứu giúp, làm cho tội lỗi của chúng con được diệt trừ, đời sau không phạm lại nữa.
Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót cứu giúp nhổ sạch khổ báo trong đường ác vào đời vị lai của chúng con. Hôm nay chúng con nương nhờ thần lực của Phật, nguyện theo sở thích mà mau chứng đắc Niết-bàn an lạc, hoặc có thể chứng đắc công đức thù thắng môn Tam-ma-địa.
Lại có hạng người thưa như vầy:
- Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - dùng lời thô ác, lấn hiếp, bức bách họ. Do chướng nghiệp ác này, chúng con trải qua vô lượng kiếp đọa vào các đường ác.
Nên biết, theo thứ lớp như nói rộng ở trước.
Lại có hạng người nói:
- Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - đánh đập làm tổn thương. Do ác nghiệp chướng này, trải qua vô lượng kiếp, chúng con đọa vào các đường ác.
Nên biết thứ lớp nói rộng như trước.
Lại có hạng người nói:
- Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - đoạt lấy y bát của người. Do ác nghiệp chướng này, chúng con trải qua vô lượng kiếp đọa vào các đường ác.
Nên biết thứ lớp nói rộng như trước.
Lại có hạng người nói:
- Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - chiếm lấy các vật dụng và không cho ăn uống. Do chướng nghiệp ác này, chúng con trải qua vô lượng kiếp đọa vào các đường ác.
Nên biết thứ lớp nói rộng như trước.
Lại có hạng người nói:
- Chúng con đối với đệ tử xuất gia của vô lượng chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - bắt lột áo ca-sa trở về thế tục, đóng thuế, đi quân dịch. Do chướng ác nghiệp này, chúng con trải qua vô lượng kiếp đọa vào các đường ác.
Nên biết thứ lớp nói rộng như trước.
Lại có hạng người nói:
- Chúng con đối với đệ tử xuất gia của vô lượng chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí; hoặc phạm tội, hoặc không phạm tội - trói buộc gông cùm, giam nhốt trong lao ngục. Do chướng nghiệp ác này nên chúng con trải qua vô lượng kiếp đọa vào các đường ác.
Nên biết thứ lớp nói rộng như trước.
Lại có hạng người nói:
- Chúng con đối với đệ tử xuất gia của vô lượng chư Phật kia - hoặc là pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - khinh mạn, làm não loạn nhiều cách, làm cho họ không an vui. Do chướng ác nghiệp này nên chúng con trải qua vô lượng kiếp thọ lấy các khổ lớn bức bách khó chịu nổi. Sau đó gặp được vô lượng chư Phật, đều đã từng thân cận phụng sự, cúng dường; lại gặp được vô lượng chúng đại Bồ-tát cũng đều thân cận, phụng sự, cúng dường. Đối trước mỗi đức Phật, mỗi vị đại Bồ-tát đều rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối các chướng nghiệp ác. Ở chỗ các đức Phật, các vị đại Bồ-tát đều được lắng nghe, lãnh thọ vô lượng pháp môn, siêng năng hộ trì, tu học vô lượng hạnh khổ khó làm. Do nghiệp chướng kia chưa hết, còn sót lại nên làm cho chúng con chưa thể chứng đắc Niết-bàn an vui và chưa thể chứng đắc công đức thù thắng môn Tam-ma-địa. Nay chúng con ở trước đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này lại rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện xin diệt trừ tất cả. Từ này trở đi, vĩnh viễn không dám làm lại, ngăn ngừa tội chướng về sau.
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót cứu giúp làm cho tội lỗi chúng con đều được tiêu diệt, vào đời vị lai vĩnh viễn không dám phạm lại.
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót cứu giúp nhổ sạch khổ báo đường ác vào đời vị lai của chúng con. Nay chúng con nương nhờ thần lực của Phật, tùy theo sở nguyện ưa thích mau chứng đắc Niết-bàn an vui, hoặc có thể chứng đắc công đức thù thắng của môn Tam-ma-địa.
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo khắp chúng Bồ-tát, Thanh văn:
- Lành thay! Lành thay! Các ông đã hổ thẹn mà phát lồ cầu xin sám hối như vậy. Có hai hạng người gọi là không phạm:
1- Hạng người từ xưa đến nay bẩm tánh trong sạch, không phạm lỗi.
2- Hạng người phạm tội rồi, biết hổ thẹn phát lồ xin sám hối.
Ở trong giáo pháp của Ta, hai hạng người này gọi là mạnh mẽ, được thanh tịnh.
Lại nữa, này thiện nam tử! Tội làm não loạn đệ tử của Phật như vậy, so sánh với tội gần tội vô gián đã nói ở trước, thì tội kia chỉ có tên nhưng chưa đủ để kết tội. Song, tội làm não loạn đệ tử của Phật còn hơn tội ngũ vô gián nói ở trước vô lượng lần. Vì sao? - Vì nếu các Bí-sô phá giới cấm, làm các pháp ác, còn có thể chỉ bày dắt dẫn cho vô lượng trăm ngàn câu chi na-dữu-đa chúng sanh không đi con đường điên đảo, mà hướng đến Niết-bàn an vui, làm chỗ cất chứa công đức trân bảo lớn cho chúng sanh - nói rộng như trước - huống là người hành trì giới cấm, tu tập thiện pháp. Vì nghĩa này, nếu có người nào làm não loạn các chúng đệ tử xuất gia của Phật thì nên biết đó là đoạn diệt hạt giống Tam bảo, cũng gọi là phá hoại con mắt pháp của tất cả chúng sanh, cũng là hủy diệt chánh pháp mà Ta đã siêng năng chịu khổ lâu dài mới được, làm điều tổn hại lớn cho các chúng sanh. Vì thế, tội làm não loạn đệ tử của Phật hơn tội ngũ vô gián đã nói ở trước gấp vô lượng lần. Thế nên hôm nay các ông ở trước Ta chí thành phát tâm tàm quý tăng thượng, dốc lòng khẩn thiết phát lồ cầu xin sám hối các chướng nghiệp ác đã tạo đời trước. Nay Ta thương xót tiếp độ các ông, làm cho chướng nghiệp ác của các ông lần lần được tiêu diệt. Ở cõi Phật này, trong đại hiền kiếp có ngàn đức Như Lai xuất hiện ở đời, đối trước các đức Như Lai kia các ông cũng phải chí thành phát lồ, cầu xin sám hối các chướng nghiệp ác và ngăn ngừa các tội lỗi về sau. Ngàn đức Như Lai trong hiền kiếp này, đức Như Lai sau cùng tên là Lô Chí Như Lai, đủ mười danh hiệu: Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư, Phật, Bạt-Già-Phạm. Các ông ở trước Phật Lô Chí kia cũng phải chí thành phát lồ xin sám hối các nghiệp chướng ác mới được diệt sạch, không còn sót lại.
Lúc ấy, các chúng Thanh văn và Bồ-tát đều thưa Phật:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Chúng con xét đoán: vào thời Phật Lô Chí sau cùng mới được chánh kiến, xa lìa các tà kiến, diệt sạch các ác nghiệp chướng, không còn sót lại, giải thoát tất cả khổ não. Nếu để cho chúng con vào thời đại hiền kiếp thường ở trong đại địa ngục vô gián, thường chịu các thứ đau khổ bức bách thì chúng con cũng có thể nhẫn chịu.
Đức Thế Tôn bảo:
- Lành thay! Lành thay! Các ông có khả năng mạnh mẽ đến vậy. Do sức thệ nguyện tinh tấn kiên cố của mình, các ông quyết định ở trước Phật Lô Chí kia các chướng nghiệp ác tích tập đời trước đều được diệt trừ, nhất định phát sanh lòng tin kính tăng thượng, thân cận cúng dường Lô Chí Như Lai, quyết định vĩnh viễn diệt trừ tất cả phiền não, thành A-la-hán, hoặc nhất định chứng đắc công đức thù thắng của môn Tam-ma-địa.
Khi ấy, các chúng Thanh văn và Bồ-tát vui mừng lễ Phật, trở về chỗ cũ.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Kim Cang Tạng:
- Này thiện nam tử! Ta dùng Phật nhãn quán sát khắp thế gian thấy cõi Phật này vào đời vị lai có vô lượng vô số trăm ngàn cu chi na-dữu-đa Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư sĩ Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Phiệt-xá Chiên-trà-la, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc người nam, hoặc người nữ gieo trồng chút ít thiện căn, tuy được làm người mà theo bạn ác, phát sanh các tà kiến, làm các điều ác, phá hoại chánh pháp thâm sâu vô thượng của Ta. Đối với giáo pháp Ta giảng thuyết không làm hưng thịnh mà còn diệt đi sự hưng thịnh; không tin kính, ưa thích; hoặc đối với chánh pháp tương ưng với Thanh văn thừa do Ta thuyết ra thì phỉ báng khinh chê, làm chướng ngại, ngăn che, không cho lưu truyền rộng rãi; hoặc đối với lời giảng thuyết chánh pháp của Ta tương ưng với Độc giác thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, ngăn che, không cho lưu truyền rộng rãi; hoặc đối với lời giảng thuyết chánh pháp của Ta tương ưng với Vô thượng thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, ngăn che, không cho lưu truyền rộng rãi; hoặc đối với các người xuất gia, quy y Ta - hoặc là bậc pháp khí, hoặc chẳng phải pháp khí - thì gây nhiều hành động sân giận, quở mắng, hủy nhục, chê trách, khinh khi, phỉ báng đủ cách, che giấu điều thiện, hiển bày việc ác của người, nói rộng ra cho đến khinh mạn, làm xúc não đủ cách... Các người này chẳng phải là pháp khí bậc Thánh, thật là ngu si mà ngã mạn tự cho là thông minh. Từ đây, sau khi qua đời đọa vào các đường ác chịu vô lượng các khổ dữ dội, tột độ khó chịu nổi. Trải qua vô lượng trăm ngàn cu chi na-dữu-đa kiếp khó được trở lại thân người. Nói rộng như ở trước.
Này thiện nam tử! Các chúng sanh như vậy thà ở trong đại địa ngục vô gián chịu các khổ lớn, chứ không thọ lấy thân người hèn mọn, cống cao, kiêu mạn, theo bạn bè xấu ác mà tạo các nghiệp ác bất thiện này rồi trôi lăn trong sanh tử, khó có thể cứu vớt được, thường ở trong sanh tử chịu các đau khổ.
Lúc bấy giờ, trong hội có vô lượng vô số hữu tình có trí tuệ lớn, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật, chấp tay hướng đến Phật, rơi lệ khóc mà bạch Phật:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Con quán sát chúng sanh ở thế gian này tuy được thân người khó được nhưng xa lìa chánh tín, xa lìa chánh nguyện, xa lìa chánh ý lạc, xa lìa chánh kiến, xa lìa bạn tốt, xa lìa thời gian tốt, xa lìa chỗ ở tốt, xa lìa tịnh giới, xa lìa chánh định, xa lìa chánh tuệ. Các chúng sanh như vậy tuy được thân người khó được nhưng do lực ngu si kiêu mạn nên tạo các tội nặng như nói ở trước, phỉ báng chánh pháp của đức Thế Tôn giảng thuyết, làm xúc não đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn. Hôm nay chúng con đối trước Thế Tôn chí thành phát thệ nguyện chơn chánh: “Chúng con từ hôm nay trôi lăn trong sanh tử cho đến đời vị lai lúc chưa được giải thoát, thường nguyện không gặp duyên ác này, quyết định không tạo tội trọng như vậy. Hoàn toàn không phỉ báng chánh pháp của chư Phật, cũng không làm xúc não các người xuất gia, quyết không khoét con mắt pháp của chúng sanh, cũng không đoạn diệt dòng giống Tam bảo. Nguyện xin đức Thế Tôn thương xót chứng giám lời thệ nguyện này của chúng con”.
Khi ấy, trong chúng hội lại có vô lượng trăm ngàn cu chi na-dữu-đa hữu tình thông minh, có trí tuệ rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính thưa Phật:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Nay chúng con đối trước đức Thế Tôn chí thành phát thệ nguyện chơn chánh:
“Chúng con từ hôm nay trôi lăn trong sanh tử cho đến đời vị lai, lúc chưa được pháp nhẫn, trong khoảng thời gian đó nguyện thường không ở các ngôi vị đế vương.
Nguyện thường không ở các địa vị Tể quan.
Nguyện thường không ở các địa vị Quốc sư.
Nguyện thường không làm trưởng nơi thành ấp, xóm làng, đồn bót canh gác.
Nguyện thường không làm các địa vị quân tướng.
Nguyện thường không làm các địa vị thương buôn.
Nguyện thường không làm chủ nơi miếu am thờ tư.
Nguyện thường không làm chủ địa vị trưởng giả, cư sĩ, Sa-môn.
Nguyện thường không ở các địa vị Sư trưởng.
Nguyện thường không ở các địa vị gia trưởng.
Nguyện thường không làm địa vị xử đoán các việc.
Cho đến đời vị lai, lúc chưa được pháp nhẫn, nguyện thường không ở cho đến tất cả các ngôi vị tôn quý. Nếu chúng con ở các địa vị này thì đối với Phật pháp gọi là nhân duyên ác, tạo các tội trọng, hủy báng chánh pháp của chư Phật giảng thuyết, làm xúc não đệ tử xuất gia của chư Phật, ắt phải làm hư hoại con mắt pháp của chúng sanh, cũng làm tiêu diệt dòng giống Tam bảo, cũng làm não hại vô lượng hữu tình. Do đây, quyết định sẽ đọa vào địa ngục vô gián, lưu chuyển trong đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi”.
Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót chứng giám cho lời phát nguyện như vậy của chúng con.
Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng đến dự hội như: Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, nhơn, phi nhơn.v.v... đều rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật, kêu gào, khóc lóc thảm thiết, chấp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch Đại đức Thế Tôn! Từ vô thỉ đến nay, chúng con trôi lăn trong sanh tử, ngu si kiêu mạn, tạo các nghiệp ác, hoặc tạo nghiệp ác về thân, hoặc tạo nghiệp ác về lời nói, hoặc tạo nghiệp ác về ý; tự mình làm hoặc dạy người làm, thấy nghe đều vui theo... Các tội ác như vậy, ngày nay chúng con ở trước Phật rất tàm quý, phát lồ cầu xin sám hối, không dám che giấu, nguyện xin diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vĩnh viễn không dám phạm lại, ngừa những tội lỗi về sau.
(Nói như vậy đến lần thứ hai, lần thứ ba)
Chúng con chí thành phát thệ nguyện chơn chánh: “Từ nay cho đến sanh tử đời vị lai, trong khoảng thời gian đó thường nguyện không gặp các bạn ác, cũng nguyện không gặp các nhân duyên xấu ác. Giả sử có gặp thì nguyện không thuận theo, quyết định không tạo các nghiệp tội ác đã nói ở trước, chớ để chúng con chịu lấy khổ lâu dài”.
Bạch Đại đức Thế Tôn! Xin Ngài thương xót chứng giám cho lời phát nguyện như vậy của chúng con.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo tất cả đại chúng đến trong hội:
- Lành thay! Lành thay! Các ông đã thấy rõ khổ đời sau, lo sợ phát lồ sám hối. Nay các ông muốn vượt qua dòng sanh tử rộng lớn, muốn vào thành Niết-bàn vô úy mà phát nguyện như vậy.
Này các thiện nam tử! Có mười pháp có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội. Thế nào là mười?
Này các thiện nam tử! Nếu các đại Bồ-tát nào không đắm trước nội thân, không đắm trước ngoại thân, không đắm trước nội ngoại thân, không đắm trước thân quá khứ, không đắm trước thân vị lai, không đắm trước thân hiện tại, đó là pháp thứ nhất có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước nội thọ, không đắm trước ngoại thọ, không đắm trước nội ngoại thọ, không đắm trước thọ quá khứ, không đắm trước thọ hiện tại, không đắm trước thọ vị lai, đó là pháp thứ hai có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước nội tưởng, không đắm trước ngoại tưởng, không đắm trước nội ngoại tưởng, không đắm trước tưởng quá khứ, không đắm trước tưởng vị lai, không đắm trước tưởng hiện tại, đó gọi là pháp thứ ba có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước nội hành, không đắm trước ngoại hành, không đắm trước nội ngoại hành, không đắm trước hành quá khứ, không đắm trước hành vị lai, không đắm trước hành hiện tại, đó gọi là pháp thứ tư có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước nội thức, không đắm trước ngoại thức, không đắm trước nội ngoại thức, không đắm trước thức quá khứ, không đắm trước thức vị lai, không đắm trước thức hiện tại, đó gọi là pháp thứ năm có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước đời này, đó gọi là pháp thứ sáu có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước đời khác, đó gọi là pháp thứ bảy có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước cõi Dục, đó gọi là pháp thứ tám có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước cõi Sắc, đó gọi là pháp thứ chín có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Lại nữa, này các thiện nam tử! Các đại Bồ-tát nào không đắm trước cõi Vô sắc, đó gọi là pháp thứ mười có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Này các thiện nam tử! Đó gọi là mười pháp có thể làm cho đại Bồ-tát được pháp nhẫn chánh lộ vô tội.
Khi đức Thế Tôn giảng thuyết pháp này cho đại chúng, ở trong chúng hội có bảy mươi hai trăm ngàn cu chi đại Bồ-tát đồng một lúc chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Lại có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ-tát chứng đắc tùy thuận pháp nhẫn.
Lại có vô lượng trăm ngàn Thanh văn vĩnh viễn đoạn diệt tất cả phiền não, thành bậc A-la-hán.
Lại có trăm ngàn na-dữu-đa chúng sanh trước chưa phát tâm, nay phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác, đối với trí Như Lai an trụ, không thối chuyển.
Lại có vô lượng vô số chúng sanh trước chưa phát tâm, nay mới phát tâm Độc giác thừa.
Lại có vô lượng vô số chúng sanh trước chưa phát tâm, ngày nay mới phát tâm Thanh văn thừa.
Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo đại chúng:
- Nếu các hữu tình đã đắc pháp nhẫn thì Ta cho phép được ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các địa vị tôn quý khác. Các hữu tình khác thì không được.
Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình chưa đắc pháp nhẫn thì chắc chắn cho phép hay không chắc chắn cho phép họ được ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các địa vị tôn quý khác?
Thế Tôn dạy:
- Nếu các hữu tình chưa đắc pháp nhẫn mà có thực hành mười nghiệp đạo thiện, cũng khuyên chúng sanh thực hành, thì Ta cho phép họ được ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các địa vị tôn quý khác.
Nếu các hữu tình chưa đắc pháp nhẫn, cũng không thực hành mười nghiệp đạo thiện và khuyên chúng sanh siêng năng thực hành, mà dùng thế lực mạnh để ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các địa vị giàu sang tôn quý, đó gọi là vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la và các địa vị giàu sang tôn quý Chiên-trà-la khác, ngu si kiêu mạn phá rối, hủy hoại chánh pháp thâm sâu của Ta, muốn dập tắt ngọn đèn chánh pháp, đoạn diệt dòng giống Tam bảo. Đối với chúng đệ tử xuất gia của Ta thì làm não loạn đủ cách như: đánh đập, tra khảo hình phạt, đoạt y bát, cơ nghiệp, tài sản của người, bắt hoàn tục, đóng thuế, đi quân dịch, hoặc trói nhốt trong lao ngục cho đến đoạn mạng sống; đối với nghĩa lý chánh pháp vi diệu do Ta giảng thuyết thì phỉ báng khinh chê, chướng ngại, ngăn che, không làm cho lưu truyền rộng rãi; cướp đoạt vật của chùa và vật chúng Tăng.
Những người như vậy đều sẽ đọa vào địa ngục vô gián, chịu lấy các thứ khổ dữ dội, lưu chuyển trong các đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi.
Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng lại thưa Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Đối với các hữu tình chưa được pháp nhẫn, cũng không thực hành mười nghiệp đạo thiện và khuyên chúng sanh siêng năng thực hành, mà dùng thế lực mạnh để ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các địa vị giàu sang tôn quý khác, có chút ít biệt duyên nào để làm phương tiện cứu giúp cho người đó khỏi đọa địa ngục vô gián và các đường ác, khỏi chịu các khổ không?
Đức Thế Tôn bảo:
- Cũng có biệt duyên để làm phương tiện cứu giúp họ, nghĩa là có chúng sanh ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh và các địa vị giàu sang tôn quý khác, tuy chưa thành tựu mười nghiệp đạo thiện, pháp nhẫn, nhưng có sức tin, tôn kính Tam bảo, đối với chánh pháp giải thoát tương ưng với tam thừa mà Phật giảng thuyết, cho đến một bài tụng, hoàn toàn không phỉ báng, làm chướng ngại, ngăn che, không cản trở việc làm cho lưu truyền rộng rãi.
Đối với các đệ tử xuất gia của Phật - người trì giới hay phá giới, cho đến không có giới, chỉ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa - đều không làm não loạn, đánh đập, trách phạt, chiếm đoạt y bát, cơ nghiệp, tài sản của người, bắt hoàn tục, đóng thuế, đi quân dịch, trói nhốt trong lao ngục, cho đến đoạn dứt mạng sống; cũng không chiếm đoạt vật của chùa, tháp và vật của Tăng chúng, ngăn cản, điều phục những người hung ác, không để cho họ làm não loạn các vị xuất gia, xâm đoạt tài vật Tam bảo.
Đối với giáo pháp giải thoát tương ưng với ba thừa do Phật thuyết ra thì cung kính lãnh thọ, nghe rồi tinh tấn tu hành pháp tùy pháp hành.
Đối với các đệ tử Hiền Thánh ba thừa của Ta thì cung kính, cúng dường, thân cận phụng sự, ở trong Đại thừa lập thệ nguyện kiên cố, hoàn toàn không nghi ngờ, thối lui; cũng thường khuyên bảo, hướng dẫn chúng sanh tin thọ tu học pháp Đại thừa. Sát-đế-lợi Chiên-trà-la này và các vị Chiên-trà-la phú quý khác, chư Phật quá khứ đều cho phép ở ngôi vị đế vương và các địa vị tôn quý khác, tuy thọ hưởng các tài nghiệp lớn của đất nước, thành ấp, xóm làng nhưng được thoát khỏi đọa địa ngục vô gián và các đường ác khác, Ta cũng cho phép ở ngôi vị đế vương và các ngôi vị tôn quý khác, tuy được thọ hưởng tài nghiệp đất nước, thành ấp, xóm làng nhưng cũng khỏi đọa địa ngục vô gián và các đường ác. Nếu các hữu tình muốn sám hối trừ diệt tất cả các nghiệp chướng ác, không còn sót lại thì đối với pháp môn do Ta thuyết này nên chuyên cần tu học, chớ nên bỏ mất. Đại chúng ở đây nếu biết tàm quý, sám hối các nghiệp ác thì tất cả nghiệp ác đã tạo trong đời trước đều được tiêu trừ, không còn sót lại.
KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN
Hết quyển thứ bảy
--- o0o ---