QUYỂN X

11 Tháng Giêng 20173:42 CH(Xem: 2823)
QUYỂN X

Kinh Hoa Thủ
(hay Nhiếp Chư Thiện Căn)     
Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu quyển 16, số 657
Đời Hậu Tần, nước Quy Tư
Pháp Sư Cưu Ma La Thập 
Phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Tỳ Kheo Thích Bảo Lạc dịch ra chữ Việt
Pháp Bảo ấn hành 1990

---o0o--- 
 

QUYỂN X

 

34 - Phẩm PHÁP MÔN thứ ba mươi bốn

Phật bảo Kiên Ý rằng: đã gọi là pháp thì không suy, không nghĩ, vô tướng, vô tác, không nhớ, không tưởng, thanh tịnh không duyên, không văn tự, cũng không bằng lời, không thể chỉ bày ra được.

Này Kiên Ý, các pháp không gặp các căn không thể dùng trí biết được, cũng không thể dùng vô trí biết được. Không thể biết, cũng như không thể không biết. Này Kiên Ý, pháp do các duyên hợp thành, Như Lai biết mà biết không phải bằng lời nói. Như Lai đem pháp bất khả thuyết ấy nói về các pháp; có thuyết đạo tức là có pháp môn rồi. Tại sao? Đem chư hành (1)      ấn chứng vào tất cả các pháp thành một vị. Này Kiên Ý, các pháp vô cùng tận không bờ mé. Này Kiên Ý, các pháp hoàn toàn không tăng, không giảm cho đến vô tận. Do nghĩa này nên Như Lai dùng ngôn ngữ, văn tự phân biệt giải rõ. Kiên Ý, vành chữ 31 (A)      sau mới tới các chữ khác theo thứ tự liên tục. Vì thế nói từ chữ A  biến ra những chữ khác. Từ các chữ hợp thành các câu, những câu kết hợp lại với nhau thành ý nghĩa. Vì thế Như Lai nói chữ 31 bao hàm tất cả các pháp. Này Kiên Ý, pháp môn này những gì là pháp? Kiên Ý, sở dĩ gọi pháp, vì bản lai của nó vô tác, không thể nói bàn, không chỉ ra được. Vì vô tri nên biết mà không thể nói ra được, không nói ra được nên không thể chỉ bày ra được. Chữ 31 (A)      như thế có thể làm ra tất cả ngôn ngữ gọi là pháp môn. Nếu thiện nam, tín nữ nhập pháp môn này là được trí huệ vô tận, và biện tài vô ngại. Pháp môn vô tận ấy ở quá khứ vô cùng, trong cái vô cùng tận ấy không có tướng, không thể nói ra được. Có những cái biết đều là vô tri, có những cái thấy đều không thể thấy, có những sự phân biệt đều không phân biệt cho nên gọi là vô tận. Này Kiên Ý, đấy gọi là môn. Môn là gì? Ấy là các pháp môn vậy. Những gì là pháp Phật không đạt được? Hơn thế nữa, môn này quán xét các pháp tới chỗ không còn suy lường nữa. Tại sao thế? Vì tất cả ngôn ngữ đều chẳng phải ngôn ngữ. Mọi việc nói bàn đều không cùng tận. Mọi lời nói đều NHƯmà chẳng lìa NHƯ. Mọi hiểu biết đều chẳng có thể biết. Này Kiên Ý, đó là câu Kim Cang (2)      vậy. Tại sao gọi là câu kim cang? Như pháp vô tác thì không thể hoại diệt được. Vì không hoại diệt nên gọi là câu kim cang. Các pháp không nghiệp, vì không nghiệp nên không có báo. Vì thế Như Lai nói tất cả pháp không nghiệp, không báo như thế gọi là pháp ấn. Như Lai nói nghiệp, quả báo đều là ấn cả. Ấn thì không thể hủy diệt được. Này Kiên Ý, nếu thiện nam, tín nữ nào muốn biết nghiệp báo thì vào môn này. Kiên Ý, tất cả các pháp không đến, không đi là nhập pháp môn. Nhân môn này ta vì chúng sanh nói có sanh tử khác nhau. Kiên Ý, nếu thiện nam, tín nữ muốn hiểu sanh tử của chúng sanh thì dùng ấn này mà vào, gọi là pháp ấn, ấn vô văn tự, ấn vô chướng ngại. Này Kiên Ý, Như Lai có nói bàn cũng đều từ ấn ấy. Tất cả những gì có thân đều là thân Như Lai. Tại sao? Vì tánh của các thân ấy không chống trái nhau. Phật dùng ấn này nói về thân tướng chúng sanh, gọi là thân ấn; cũng dùng ấn này để chỉ rõ tất cả thân tướng. Tại sao? Này Kiên Ý, vì các pháp vô môn nên không thể nhập. Vì không nhập nên cũng không thể xuất. Các pháp không xuất nên cũng không nhập. Vì thế Như Lai, nếu có thuyết đều không lìa cái vô ngại ấy mà thuyết. Dùng cái bên ngoài vô ngại mà nói các pháp, cũng như do cái bên ngoài này biết được chúng sanh để tùy nghi mà thuyết pháp. Này Kiên Ý, cái bên ngoài vô ngại ấy là cái không có ngằn mé. Không ngằn mé là tánh của tất cả chúng sanh, gọi là cửa ngoài biên.

Vào cửa ngoài biên có thể mở được nghìn ức pháp tạng(3)     . Pháp tạng này cũng chẳng phải chỗ chứa giữ. Kiên Ý, Như Lai ở trong các pháp tạng mà nói pháp nên gọi là ngoài biên. Lại có các sắc tạng, thọ, tưởng, hành, thức tạng nữa. Tạng đây chẳng phải chỗ chứa giữ, cũng không phải tạng tự tại mà đó là các chỗ chứa lấy chữ 31 (A)      làm lối vào. Lúc bấy giờ Kiên Ý bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn, cửa này thật là sâu thẳm! Phật bảo: này Kiên Ý! Ta không nghĩ sâu hoặc cạn. Bạch Thế Tôn: Phật có thuyết pháp chăng? Này Kiên Ý, không như phàm phu tham chấp có thuyết mà tùy kẻ trí giải bày, không nói ra. Tại sao? Vì không thể thuyết cái tướng các pháp được, chỉ có người trí biết rõ thôi. Nếu người phàm phu có biết thì chấp vào văn tự, nên Phật nói văn tự, ngôn ngữ chẳng phải là ngôn ngữ. Phật lại bảo Kiên Ý rằng: tất cả các pháp tịnh như ánh sáng mặt trời, tùy nơi chiếu soi mà vào tận những nơi không biên giới. Này Kiên Ý, tất cả các pháp đều có thể chiếu sáng, có thể soi tỏ trí huệ vậy. Kiên Ý, tất cả các pháp không bị chướng ngại, như hư không. Kiên Ý, tất cả các pháp không bị chướng ngại, như hư không. Kiên Ý, theo kiến chấp hai pháp nên Như Lai dùng mắt vô ngại để quán xét. Kiên Ý, ấy là pháp nhãn vậy.

Phật dùng pháp nhãn này mà thấy tất cả các pháp không còn có tướng chướng ngại. Này Kiên Ý, đó gọi là các pháp không chướng ngại môn. Nếu có thiện nam, tín nữ nào muốn vào cửa này thì những lời nói đều có lợi ích, không bị chướng ngại, đều làm cho rõ nghĩa thú, nói lên được nghĩa sâu không còn tham chấp. Lại này Kiên Ý, các pháp không dơ, không nhiễm, không lìa. Kiên Ý, pháp không có chỗ nương tựa nên không thể nhận. Kiên Ý, pháp vô cùng tận không có gốc ngọn. Này Kiên Ý, có nói ra bằng văn tự hay ngôn ngữ thì nên biết rằng không có văn tự, cũng như không có ngôn ngữ. Kiên Ý, làm sao vào cửa văn tự ấy? Chỉ nói pháp không chướng ngại là vào rồi. Kiên Ý, vào như thế là chẳng vào, là nhập được pháp tánh. Kiên Ý, Như Lai nói các môn tam muội là thế nào? Này Kiên Ý, có một tướng tam muội và các tướng tam muội. Một tướng tam muội là có vị Bồ Tát nghe ở một thế giới nào có Phật đang thuyết pháp, Bồ Tát đem hình vị Phật ấy để phía trước, hoặc ngồi đạo tràng chứng vô thượng Bồ Đề, hoặc chuyển pháp luân, hoặc cùng đại chúng bao quanh mà thuyết pháp. Dùng hình Phật như thế giữ cho tâm không loạn niệm để nhiếp phục các căn, nhất tâm niệm Phật không rời; cũng nghĩ tới tướng thế giới của Phật mà vị Bồ Tát ấy đối với hình Như Lai, cũng như hình của thế giới ấy đều hiểu là không tướng. Thường thực hành pháp như thế, quán xét như thế chẳng rời. Tượng Phật lúc đó ở ngay trước Bồ Tát mà thuyết pháp. Lúc bấy giờ Bồ Tát khởi niệm cung kính muốn nghe pháp, tùy theo sự tin hiểu sân cạn, lại càng thêm tôn sùng kính ngưỡng Như Lai hơn.

Bồ Tát ở nơi tam muội ấy nghe Phật thuyết các pháp đều là tướng tan hoại. Nghe xong liền thọ trì, Bồ Tát từ tam muội đứng dậy, vì bốn chúng mà diễn nói pháp ấy. Này Kiên Ý, ấy gọi là nhập một tướng tam muội vậy. Lại này Kiên Ý, Bồ Tát trụ trong tam muội ấy có thể tiêu hủy hình Phật kia, cũng như tự làm hoại luôn chính mình. Dùng tướng hoại diệt ấy hủy luôn các pháp. Vì hủy các pháp nên nhập vào một tướng tam muội. Từ tướng tam muội đứng dậy có thể vì bốn chúng mà thuyết rõ pháp ấy. Kiên Ý, ấy là phương tiện vào một tướng tam muội. Lại nữa Kiên Ý, Bồ Tát nhờ Phật tượng mà nghĩ thế này: tượng đây từ đâu đến? Ta đem tượng đi đâu? Liền biết tượng Phật không từ đâu đến, cũng không thể đem đi đâu cả. Lúc đó Bồ Tát nghĩ rằng: tất cả các pháp cũng đều như thế: không từ đâu đến, cũng không đi đâu. Bồ Tát thực hành và suy nghĩ như thế chẳng bao lâu chứng được pháp nhẫn vô ngại. Khi được pháp nhẫn rồi nghĩ  tới sở tri của chư Phật, tới các pháp nhiệm mầu đều hiện ra ở trước. Dùng pháp nhiệm mầu ấy được biện tài vô ngại, nên tuy giảng pháp mà chẳng thấy pháp. Này Kiên Ý, trong đời quá khứ Như Lai có trí tuệ vô ngại, cũng như trong các thân tướng, trí huệ ấy không chướng ngại. Cũng trong quá khứ

Như Lai không tạo các mối buộc, cũng như biết rõ nên chẳng duyên theo niệm nhớ tưởng. Kiên Ý, Bồ Tát cũng như thế, trụ trong tam muội, tuy thuyết pháp mà không thấy có pháp để thuyết. Bồ Tát trụ trong tam muội ấy chuyên tâm tu tập, tùy theo nhân duyên được nghe tới vị Phật thứ hai đem hình để ở trước, hoặc ngồi đạo tràng mà chứng vô thượng Bồ Đề hay chuyển pháp luân, hoặc giữa đại chúng vây chung quanh để thuyết pháp. Bồ Tát cũng thọ trị Phật pháp lần thứ hai mà vẫn không bỏ tượng Phật gốc; cũng như thấy Phật mà Bồ Tát đủ duyên với đức Phật thứ hai, đem hình để ở trước để nghe thuyết pháp. Kiên Ý, ấy cũng gọi là nhập một tướng tam muội. Lại nữa Kiên Ý, Bồ Tát dùng hình Phật để tu tập nên được tự do muốn thấy chư Phật đều có thể thấy hiện ra ở trước. Kiên Ý, cũng như tâm tỳ kheo được tự tại quán xét mọi sắc tướng màu xanh hiểu là cả thế giới đều một tướng màu xanh. Người kia chỉ nghĩ đến một màu xanh duy nhất, xét các pháp trong ngoài đều là một màu xanh. Vì trong cái duyên ấy được lực tự do tự tại vậy. Kiên Ý, Bồ Tát cũng như thế, tùy chỗ nghe danh chư Phật ở thế giới nào liền đem hình Phật và thế giới ấy để hiện ra ở trước. Bồ Tát khéo tu tập nghĩ tưởng tới Phật, quán các thế giới toàn là Phật. Nhờ lực khéo quan sát như thế mà hiểu rõ được các duyên đều là một duyên, là Phật duyên trong hiện tại. Như thế gọi là được một tướng tam muội.Kiến Ý bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn: dùng phương tiện gì được tam muội ấy?

Phật bảo Kiên Ý: đối với duyên niệm Phật, thành khẩn niệm không loạn, không lìa duyên, ấy gọi là tam muội môn. Kiên Ý, lấy một duyên ấy mà hiểu rõ các pháp, thấy mọi pháp tướng đều như nhau, ấy là một tướng tam muội. Bồ Tát trụ trong tam muội ấy, cũng như nhập pháp môn này mà cho rằng tất cả lời nói đều là lời của đức Phật. Tất cả thân tướng đều là thân Như Lai, luôn luôn không xa lìa. Lại này Kiên Ý, Bồ Tát nghe danh chư Phật hoặc hai, ba, bốn, năm hay mười, hoặc 20, 30, 40, 50 hoặc trăm nghìn vạn hay hơn số đó, một lúc chuyên niệm hết, cũng như các thế giới, số chúng đệ tử đều hiện ra ở trước với lòng tôn kính. Cũng nghĩ tới Phật đầy đủ thân hình kỳ diệu tướng tốt hiện ra ở trước với lòng cung kính tôn trọng; cũng như lấy mỗi một trong 32 tướng đại nhân và các tướng hạnh không dối, tướng sư tử hùng mãnh, vô kiến đảnh tướng, tướng quán tượng vương, tướng thủ đại quang. Dùng sự hiểu biết quán xét vô số tướng như thế, cũng như lấy tướng Phật, tướng thế giới, đem sự hiểu biết quán xét vô lượng các tướng thanh tịnh ấy; cũng lấy chúng đệ tử của Phật đem sự hiểu biết quán xét vô lượng các tướng ấy. Lúc đó Bồ Tát nghĩ  rằng chư Phật có nhiều như thế từ đâu lại, ta phải đem đi đâu; liền biết chư Phật và xét chính thân mình không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Quán xét như thế là biết tin hiểu như vậy. Lúc đó Bồ Tát nghĩ thế này: trong các việc đó không một pháp nào cố định nên gọi là Như Lai. Lúc quán sát như thế biết tất cả pháp đều không, không chủ tể một tướng hay không tướng. Dùng cửa vô tướng này vào tất cả mọi pháp. Hiểu rõ như thế là thông suốt tất cả các pháp chỉ có một tướng. Này Kiên Ý, Bồ Tát chuyên niệm Phật duyên vào một chỗ, ấy gọi là các tướng tam muội môn. Kiên Ý, nếu Bồ Tát nhập tam muội này thông suốt các pháp đều một tướng vô tướng, ấy gọi là các tướng tam muội. Bồ Tát trụ trong tam muội ấy chỗ thấy, biết không phải là Như Lai; cũng như chẳng thấy, chẳng biết gì Như Lai cả. Chỗ thấy, chỗ biết không phải là pháp, cũng không thấy được pháp. Có sở tri kiến là đệ tử của Phật mà chẳng thấy, chẳng biết được chúng đệ tử Phật. . Chỗ thấy, chỗ biết ấy không phải thuyết pháp; cũng như chẳng thấy, chẳng thuyết pháp là gì. Có chỗ tri kiến thì không phải là duyên, cũng chẳng thấy duyên. Chỗ tri kiến không phải là biện, cũng chẳng thấy biện. Những cái ‘bị thấy’ thì chẳng phải là cõi Phật, cũng chẳng thấy được cõi Phật. Những cái bị trông thấy không phải thế giới, cũng chẳng thấy được thế giới. Những cái bị trông thấy không phải chúng hội, cũng chẳng thấy được chúng hội. Không một pháp nào chẳng thuyết mà không bị thuyết. Không pháp nào chẳng hiện, cũng không thấy chỗ hiện. Hiểu rõ như thế cũng như không hiểu; phân biệt rõ cũng như không phân biệt. Không pháp nào chẳng hoại, cũng như không bị hoại. Không pháp nào chẳng xuất, cũng như không bị xuất hiện. Không pháp nào chẳng soi sáng, cũng như không bị soi sáng. Này Kiên Ý, đó là cửa tam muội của chư Bồ Tát. Người nào vào cửa này trong các pháp được trí vô ngại. Quán sát như thế là vô ngại nhãn, trong đó không tham chấp gọi là pháp nhãn. Kiên Ý, Bồ Tát dùng tam muội ấy nên biện tài vô ngại.

Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật, bạch đức Thế Tôn: có bao nhiêu vị Bồ Tát đời sau đạt được tam muội này để được biện tài vô lượng vô biên? Đời sau Bồ Tát đạt được tam muội có thể được biện tài vô ngại những gì? Kiên Ý, nếu Bồ Tát đời sau ở trong chúng tỳ kheo được nghe tam muội ấy thì nên biết rằng các vị đã đạt được tam muội rồi, nên được biện tài vô ngại. Nếu người nào thường tu tập tam muội được đắc thành môn tam muội này, cũng như được biện tài vô ngại. Kiên Ý, cửa này có thể mở để chứa tám trăm pháp, như trong hiện tại ở cõi Phật A Súc chư Bồ Tát thường dùng cửa này. Kiên Ý, trong một  cửa thu nhiếp tất cả các pháp môn của tam muội môn, gọi là trùng cú môn (4)     . Vì thế, Kiên Ý, người nào theo như pháp muốn nhập tam muội môn, trùng cú môn nên thân cận hỏi các bậc thiện tri thức, các thực hành thế nào? Quán sát ra sao? Tu tập thế nào? Nên theo chỗ chỉ dạy đúng pháp mà tu hành. Kiên Ý, nếu có đủ bốn pháp biết đó là bậc thiện tri thức. Những gì là bốn?

1)       Khiến cho người khác vào các thiện pháp

2)       Che dấu tất cả các pháp bất thiện

3)       Làm cho người trụ trong chánh pháp

4)       Thường tùy thuận giáo hóa chúng sanh.

Người nào đủ bốn pháp như thế là bậc thiện tri thức vậy.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Nên gần thiện tri thức

hay che các việc ác

ưa nói điều Phật khen

người ấy nên thân cận.

Tùy Phật đạo giáo hóa

sanh pháp thiện cho người

an trụ trong chỗ nghe

được tăng thêm trí huệ.

Pháp gần cần nên gần

pháp xa phải nên lìa

Các pháp ác lánh xa

tu điểm Phật ngợi ca.

Nếu muốn được biện tài

và đầy đủ trí huệ

nên sớm tu thiền định.

Thường theo thiện tri thức

như chỗ dạy tu hành

đúng pháp không tin thần.

Tự hiểu được pháp lành

cũng nên vì người thuyết

thâm tâm hành thiện pháp

Xa lìa lời nịnh hót

thường gần thiện tri thức

tu hành theo đúng pháp

Gần được thiện tri thức

phải xa lìa kẻ ác.

Đa văn mới có được

tam muội mới chứng nên.

Lại này Kiên Ý, nếu có được bốn pháp thì biết là người thiện tri thức. Những gì là bốn?

1)       Khéo biết dạy dỗ

2)       Khéo tu tập đạo

3)       Biết chỉ giáo điều sai lầm

4)       Biết sửa đường sai quấy

Này Kiên Ý, có được bốn pháp ấy nên biết đó là bậc thiện tri thức vậy.

Lúc đó đức Thế Tôn bèn nói bài kệ rằng:

Biết dạy dỗ tu đạo

Biết lỗi lầm sai trái

Biết rõ được như thế

trụ trong pháp vô ngại.

Này Kiên Ý, lại cũng có bốn pháp nên biết là người thiện tri thức. Những gì là bốn? Biết đất, biết người, biết nói, biết làm. Thế nào là biết đất? Theo người mà biết đất. Thế nào là biết người? Theo chỗ thực hành mà biết người trong đất đa dục, đa sân, đa si, hay trong đất định dục, định sân, định si. Người thì ở đất định dục, định sân, định si, kẻ thì trụ trong đất định dục sân, định dục sân si, người kia ở trong đất dục, sân, si. Nếu chúng sanh ở trong ba địa bất thiện ấy ta đều có thể biết được. Đã biết nên theo chỗ trụ địa ấy mà thích hợp giáo hóa, tùy theo các dục lạc của Bồ Tát đều biết hết. Này Kiên Ý, nếu người nào thành tựu được bốn pháp trên, nên biết đó là bậc thiện tri thức. Này Kiên Ý, lại có bốn pháp nên biết được tướng người thiện tri thức. Những gì là bốn?

1)       Khéo giữ gìn lời nói

2)       Làm cho người trụ trong pháp nhiệm mầu

3)       Thường tùy thời giáo hóa

4)       Tùy lúc nghỉ ngơi

Lúc đó đức Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:

Biết tùy người thực hành

các địa sai biệt hẳn.

Biết tùy người dạy bảo

nên chúng thành tựu cả

Thuyết pháp điều phục là

khiến trụ pháp nhiệm mầu.

Tùy thời quở trách đa

cũng tùy thời nghỉ ngơi.

Tâm lành nói ra lời

không nhận việc phi thời

Người trí như thế đó

tùy nên theo hoặc bỏ

Này Kiên Ý, lại có bốn pháp nên biết tướng người thiện tri thức, thì có thể làm cho người khác tu pháp tam muội. Những gì là bốn?

1) Làm cho chúng đệ tử xuất gia thực hành hạnh xa lìa

2) Khiến cho người nhập vào quán pháp mầu nhiệm

3)  Làm cho an trụ trong thiền định, trong mọi duyên mà không bị ngăn ngại

4) Xa lìa các tướng.

Này Kiên Ý, có bốn pháp ấy nên biết được là bậc thiện tri thức. Phật nói bài kệ:

Như người khen xuất gia

và ở chỗ vắng xa

Khiến đệ tử chiến thắng

ấy thiện tri thức đa

khiến trụ nghĩa đệ nhứt(5)    

ở trong vi diệu pháp

trụ thiền định vô tướng

chính danh thiện tri thức.

Lại nữa này Kiên Ý, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp thì có thể tu tập tam muội. Những gì là bốn?

1)       Xa lìa tự tâm

2)       Thuận theo ý thầy

3)       Lìa bỏ các duyên (mối buộc)    

4)       Tu pháp tam muội thường chuyên cần tinh tấn, quyết định không lui sụt.

Muốn đạt được tam muội ấy phải ưa ở nơi thanh tịnh, xa lánh những nơi ồn náo. Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp ấy có thể tu môn tam muội này.

Kiên Ý, Bồ Tát còn có bốn pháp làm cho sớm đạt được tam muội. Những gì là bốn?

1)       Khéo giữ hình ảnh Phật cho đến trong giấc mộng cũng thấy chư Phật.

2)       Khéo giữ hình ảnh thuyết pháp cho đến trong giấc mộng cũng thấy được nghe pháp.

3)       Vì chúng sanh nói pháp không biết mỏi mệt, được các pháp nhẫn sâu xa để biết mọi pháp đều hoại diệt.

4)       Thực hành định không nương tựa, tùy định để lìa tâm.

Kiên Ý, Bồ Tát có bốn pháp chóng đạt được tam muội như thế. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:

Người ấy chẳng rời

hình tướng Thế Tôn.

Thường ôm hình Phật

chẳng rời trước mặt.

Luôn được thấy Phật

băm hai tướng tốt.

Nghe Phật thuyết pháp

giữ tướng thật ấy

chắc chắn bền xa

trong pháp nhẫn hòa

nương nơi thiền định

tâm ưa lìa xa

Chẳng diệt pháp ấy

hoại liệt pháp thảy.

Các pháp chẳng pháp

người ấy ưa thích

các tướng quán sát

không điểm phân biệt.

Tin hiểu pháp thật

đều là thân Phật

ngôn từ chẳng chấp

không theo lời người

Tự biết tướng đây

do người nói ra.

Tu nhẫn nhục hòa

chính danh kẻ trí.

Sớm đạt tam muội

tri thức gần gủi

tu pháp Phật khen

giáo hóa chúng sanh

trụ sâu định pháp.

Kiên Ý Bồ Tát

nếu đủ bốn pháp

thì việc tu hành

tam muội chóng thành.

Những gì là bốn?

1)       Khéo biết tướng các duyên

2)       Khéo phân biệt các duyên

3)       Biết các duyên thường thay đổi

4)     Khéo biết bổn hạnh(6)    

Đủ bốn pháp như thế chóng thành tựu thông suốt được định.

Lúc bấy giờ đức thế Tôn nói bài kệ rằng:

Bồ Tát đa văn thêm trí tuệ

Tâm vị tha nói ra tam muội

pháp lành chư Phật được nghe thấy

nên vì người truyền trao giảng dạy.

Do quán thân Phật như tướng thật

là pháp tu tam muội nghiêm mật

trong thân tướng trang nghiêm của Phật

thâm tâm niệm tưởng tướng sai biệt:

thân tướng và băm hai tướng tốt

hình tướng, sắc tướng, quang minh tướng

diện mạo, lông mi, tướng bạch hào (7)    

nhơn tôn tướng ấy niệm nghĩ thường

hiển bày các tướng tại mục tiền

Luôn luôn quán sát tướng sai biệt

cũng như mỗi phần của sắc thân

chẳng phải một tướng là thân Phật

chú tâm phân tích các Phật thân

Tâm vốn vô hình bổn tánh thanh.

Liên tục tùy duyên niệm đổi thay

thuận duyên các tướng phát hiện ra.

Biết rõ tâm tướng lại qua không dừng

là hiểu pháp duyên sanh diệt luôn

Pháp phát sanh do niệm phân biệt

nếu không phân biệt là an lạc.

Khéo biết tâm tánh tướng chuyển đổi

cũng biết các duyên là huyễn thôi.

Biết pháp thế gian như lửa đốt

rõ thế rồi tâm không hoảng hốt.

Nghĩa các pháp đều như thế cả

tức biết các tướng Phật biến hóa

không cố chấp tướng lạ hình Phật

Biết các thế giới đều không thật.

Trong mọi duyên không ôm tướng chấp

biết được thân tâm luôn chuyển dời.

Pháp như thế rõ ràng niệm quán

chóng được tam muội hằng soi sáng

hiện thần thông mỗi khi thuyết giảng

nói những điều chánh đáng chẳng sai

làm chúng sanh mở khai tâm thiện

đạt pháp mầu vi diệu thậm thâm.

Này Kiên Ý, Bồ Tát có bốn pháp nên thành tựu được tam muội, nên vì người khác mà giảng giải. Những gì là bốn?

1)       Có được tam muội rồi nên chuyên cần tinh tấn không dừng nghỉ, ngày đêm thường đi kinh hành. Lúc muốn ngồi thiền trước hết phải nghĩ tới Phật đang ngồi tòa đạo tràng ở trước mặt, đang bố thí pháp cho chúng sanh không tiếc.

2)       Đối với người thuyết pháp xem như thấy đức Thế Tôn

3)       Phân tích tự thân không nương pháp, đem cái không nương ấy thuyết cho chúng sanh hiểu rõ.

4)       Bồ Tát thực hành như thế, nghĩ như thế, duyên như thế, ở yên nơi pháp tòa, bố thí pháp rộng khắp nên được tam muội, hoặc có Bồ Tát từ pháp tòa đứng dậy liền được tam muội.

Lại nữa này Kiên Ý, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp, là đạt được tam muội. Những gì là bốn?

1)       Bồ Tát vì người mà xuất gia tu hạnh viễn ly, lìa bỏ những nơi ồn náo.

2)       Chỉ chứa đủ ba y, lìa tâm tham chấp. Ở chúng tại gia và chúng xuất gia không tạo các mối buộc.

3)       Xa hẳn những lỗi quấy phi pháp

4)       Được pháp nhẫn sâu xa, ưa thích vắng lặng.

Kiên Ý, Bồ Tát thành tựu bốn pháp ấy liền được tam muội.

Này Kiên Ý, nếu Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp cũng được tam muội vậy. Những gì là bốn?

1)       Bồ Tát tại gia giữ gìn năm giới, mỗi ngày chỉ ăn một bửa

2)       Nương nơi chùa tháp, học rộng nghe nhiều

3)       Thấu triệt các luận thuyết, cũng như thân cận các bậc thiện tri thức

4)       Khéo biết đem pháp tam muội ra giáo hóa.

Này Kiên Ý, Bồ Tát tại gia nhờ thành tựu bốn pháp ấy nên đạt được tam muội.

Lại này Kiên Ý, nếu Bồ Tát tại gia hay xuất gia thành tựu bốn pháp sau đây đạt được tam muội. Những gì là bốn?

1)       Hoàn toàn giữ giới thanh tịnh trong mọi sinh hoạt không còn nghi ngờ

2)       Nhờ tam muội, không tham tiếc thân mạng, không nương pháp

3)       Tùy chỗ nghe, đem tam muội ấy ra giáo hóa

4)       Ở cõi người niệm tưởng đức Thế Tôn

Lúc tu niệm Phật tam muội như thế lìa được tâm keo kiệt (8)     .

Này Kiên Ý, nếu Bồ Tát tại gia hay xuất gia có được bốn pháp trên đạt được tam muội.

Kiên Ý, nếu người phát tâm Đại Thừa muốn được tam muội nên tu bốn pháp lợi ích sau đây. Những gì là bốn?

1)       Nên quán thân bất sanh, bất tịnh

2)       Nên quán thọ bất sanh, là khổ

3)       Nên quán tâm bất sanh, vô thường

4)       Nên quán pháp chẳng sanh, vô ngã.

Kiên Ý, Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy trợ lực cho tam muội này.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Bồ Tát nên tu tập

chỗ Phật khen niệm xứ

Nơi tỳ kheo hành xử

hay được tam muội này.

Cần phải phân tích thân

cũng chẳng ham nương tựa

Do tâm không nương tựa

nên đạt được tam muội.

Trong tâm pháp với ‘thọ’

cũng không nơi nương tựa.

Pháp khó nghĩ  bàn ấy

đạt được tam muội này.

Cần tu tập tứ thiền (9)    

và bốn pháp chánh cần.

Không nương tựa pháp nào

nên được tam muội này.

Với bốn như ý túc

và bốn trí vô ngại

là pháp phải học hỏi

chớ sanh tâm giải đãi.

An trụ trong giới thảy

gần thiện tri thức dạy.

Người nói tam muội ấy

tưởng như thấy Thế Tôn.

Đa văn là căn bổn

từ trong tam muội đến.

Tùy chư Phật đã nói

tu như lời chỉ giáo.

Đấy là mắt sáng tạo

pháp nhãn không gì cao

không một chướng ngại nào

để chỉ giáo chúng sanh.

Căn bản từ các kinh

đa văn pháp phát sanh

Bồ Đề từ đây thành.

Thế nên tu học thường

Phật hiện khắp mười phương.

Bốn trí vô ngại tưởng

phát ra từ nơi đó.

Tu học cần kiên cố

Bồ Tát được như thế

đạt tam muội Phật nói.

Người ấy lúc nói pháp

biện bác không cùng tận

nên đối với các pháp

thấu rõ tướng chân thật.

Như biển không tăng giảm

nên không ai đội nổi.

Nếu được tam muội rồi

không chỉ dạy cho người

cũng như lúc nghe pháp

chẳng xét người khác thuyết

trời, rồng, quỉ, long vương

dạ xoa, khẩn na la

chúng nhơn, phi nhơn thảy

Quán xét Bồ Tát nói

trụ trong tam muội ấy.

Tâm chúng sanh rõ thấu

biết điều chúng ưa muốn

để tùy nghi giảng bày.

Ta trong kinh pháp này

nói đến chư Phật thảy

Vì trụ trong tam muội

nên biết rõ danh tự

cũng như biết chư Phật

diễn nói đủ các pháp

tùy theo tâm nghĩ suy

tức thì đều liễu tri

Phật Thế Tôn các vị

chúng đệ tử tu trì

trụ trong tam muội này

thảy đều nghe biết cả.

Rõ biết Phật, thế giới

việc trang nghiêm như thế

cũng biết tuổi thọ mạng

nhờ rõ được tam muội.

Biết các kiếp, số tuổi

cùng nhựt nguyệt, thời tiết

mười phương trong trời đất

chư Phật lưỡng túc tôn

thông suốt không gì hơn

Cũng biết các cõi Phật

và cả chư Thế Tôn

đều có tên sai biệt

tam muội khéo tu tập

nên thảy đều thấy biết.

Cũng biết chư Thế Tôn

cùng các chúng đệ tử.

Vì họ nói pháp ngữ

tất cả đều thông đạt.

Các pháp diệu thâm mật

chỗ thực hành chư Phật.

Tam muội khéo tu tập

thảy đều thấy biết hết

Ở trong đời vị lai

vô lượng chư Thế Tôn

tên gọi và giòng dõi

tất cả đều biết rõ

cũng như biết tuổi thọ

cùng chúng đệ tử cả

kinh pháp đã nói ra

đều có thể biết suốt.

Biết chư Thế Tôn Phật

mỗi vị tịnh trang nghiêm

chư Phật diệt độ xong

giáo pháp trụ bao lâu

định trong tam muội sâu

Việc này đều rõ thấu

đa văn muốn mong cầu

nên tu tam muội nầy.

Nhân tập tam muội ấy

các nghĩa thú hiểu thấu

Nên biết tam muội này

nhập Phật trí ban đầu

làm lợi lạc muôn loài.

Trí tuệ Phật sáng soi

nhờ từ đó phát sanh

vô lượng các phước lành.

Nếu người phát tâm thành

cầu Bồ Đề đạo Thánh

cúng dường Phật quá khứ

cùng các chúng đệ tử.

Cúng mỗi vị Phật đủ

và các hàng đệ tử.

cõi ba nghìn bỏ cả

châu báu ở đại thiên

dùng của báu như trên

đầy đủ một kiếp tròn

đều cúng dường không tiếc.

Chư Phật và Thánh triết

trong đời vị lai tiếp

và cả chư Thế Tôn

cũng tận tâm cúng dường

cùng đệ tử các Ngài

Kiên Ý nên biết rằng

người ấy có phước duyên

cầu Phật vô thượng pháp

được trí bất khả thuyết.

Người cầu Phật chí quyết

tu tập tam muội pháp.

Từ tam muội ấy đạt

được đa văn cao tột.

Đa văn đạt hoàn tất

thuyết rộng cho chúng nhờ

Phước đây hơn phước kia

khó có thể suy lường

Phước báu khó hạn lượng

làm trí huệ tăng trưởng.

Tu pháp tam muội tướng

không nương Phật cúng dường.

Nếu đem hoa, dầu, hương

đồ ăn mặc, thuốc thang

Chư Phật nguyện cúng dường

ấy không tướng chân thật.

Như Lai ngồi đạo tràng

chứng được vi diệu pháp.

Người nào ham tu học

ấy chân thật cúng Phật.

Như người cầu đạo giác

muốn thấy được chư Phật

cần tu pháp nghiêm mật

sớm đạt tam muội này.

Nếu nghe tam muội đây

sanh tâm hoan hỷ ngay

chúng sanh kia chính là

từng thấy Phật hằng sa...

Lại này Kiên Ý, nếu người thiện nam, tín nữ cầu Phật đạo, cúng dường trang trí chùa tháp Phật đầy đủ được bốn đại nguyện thanh tịnh. Những gì là bốn?

1)       Được sắc thân thanh tịnh số một

2)       Sanh ra đời thường được lìa nơi chướng nạn

3)       Bền lòng giữ gìn thiện pháp

4)       Thường thấy chư Phật có lòng tin vững chắc, nên chóng đạt được vô thượng

Bồ Đề, truyền bá giáo pháp nhiệm mầu sâu rộng. Đó là bốn pháp.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Kẻ trí thường cúng dường

chư Phật, tạo chùa tháp

chư thánh hiền xưng tán

được bốn pháp vô hạn

thường sanh nơi không nạn

hay thấy được chánh chân

chư Phật thường thấy luôn.

Thấy Phật tâm tịnh thanh

được tin sâu vững bền

bất động như Tu Di

quyết định được Phật trí

chóng thành vô thượng đạo.

 

35 - Phẩm PHÓ CHÚC thứ ba mươi lăm

Lại này Kiên Ý, nếu có thiện nam, tín nữ nào phát tâm Đại thừa hoặc lúc Phật còn tại thế hay đã diệt độ mà đem các thứ hương hoa, chuỗi anh lạc cúng dường Phật. Do nhân duyên đó nên đầy đủ tám phước báu

1)       Được sắc thân đầy đủ

2)       Tài vật đầy đủ

3)       Quyến thuộc đầy đủ

4)       Trì giới đầy đủ

5)       Thiền định đầy đủ

6)       Đa văn đầy đủ

7)       Trí huệ đầy đủ

8)       Chỗ mong cầu đầy đủ. Đó là tám loại phước đức đầy đủ

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

 

Nếu người cầu Phật đạo

cúng dường chùa tháp miếu

đời đời được phước báu.

Ông nên lắng nghe kỹ

thường đầy đủ sắc thân

người ấy thanh tịnh tâm.

Phước đức đại giàu sang

được gặp thiện quyến thuộc

cùng tu trong giới luật

nên thiền định thâm nhập

được trí huệ đa văn

sâu rộng như đại dương.

Nếu mong cầu của cải

đều được thành tựu cả

được tôn quí trong đời

ruộng tốt vào bậc nhất.

nhờ căn lành đời trước

được băm hai tướng tốt

phước tướng chợt hiện ra

trang nghiêm cả thân thể

cứ mỗi tướng như thế

xinh đẹp tốt trang nghiêm

Nơi mỗi các tướng kia

có tám mươi tia sáng.

Trong mỗi một tia ấy

chiếu soi thật rõ ràng

tám mươi vẽ đẹp thanh

những tia sáng kết thành

do nhân duyên thiện nghiệp

và do nguyện phát sanh.

Tùy theo nguyện khác biệt

mà được tướng chân thật

Nơi mỗi lòng bàn chân

có tướng tốt nghiêm trang

Nhờ thần lực, phước đức

Ông rất mực lóng nghe.

Trong lòng mỗi ngón chân

tướng tốt chiếu hiện ra

có ánh sáng chói lòa

ẩn tàng ở trong đó

ánh sáng chiếu rọi xa

như gặp được ngọc ngà

sáng ấy như trăng tỏa

chóp Tu Di lơ lững.

Tên Kiên tập có tướng

tám mươi ức tia sáng

Mỗi tia có tên khác

cũng có sức sáng riêng.

Ta từ một tia viền

hiện ra nghìn loại sắc

vây quanh cõi đại thiên

xuống trần làm Phật sự.

Nếu ta phóng quang đủ

chỗ thiện nghiệp sáng tỏ

thế giới có lớn nhỏ

dứt sạch hết phiền não.

       Ánh sáng ấy hiện vô số Phật

đi khắp mười phương các cõi nước

làm Phật sự để được độ sanh

lực thần thông biến thành như thế

Ta có tam muội tỏa khắp nơi

dùng tam muội thấy hết thế giới.

Tam muội này tên Tu Di Tướng

tia sáng thiện pháp thường hiện ra

Thủ Lăng Nghiêm tên là tam muội

hơn hết thảy môn này cao vọi

nhờ tịnh tâm nên được như vậy

thấu rõ mười phương không chướng ngại.

Có người thấy Phật hiện diệt độ

hoặc Phật hiện đang nhập vào thai

có người thấy thế không khiếp hãi

Ngài dạo đi tự tại tâm an

hoặc thấy Phật ngồi tòa đạo tràng

mà cho rằng ta đang thành Phật

hoặc thấy ta hiện chuyển pháp luân

hay thấy ta tu Bồ Tát hạnh

Các vị quán chiếu trong tam muội

Phật trụ ở trong được tự tại.

Có kẻ biết ta thọ một kiếp

hoặc nửa kiếp có người rõ biết

Kẻ thấy ta thọ một tiểu kiếp

hoặc hai, ba, bốn hay hơn thế.

Kẻ thấy ta thọ một ức năm

Người lại thấy hơn, kẻ ít hơn

còn cõi Diêm Phù Đề chúng nhơn

biết ta thọ mạng tám mươi năm

hoặc thấy ta thọ một ngày đêm

hay kẻ biết ta sống lâu thêm

và chúng cõi tam thiên đại thiên

rằng: ta thọ ngày đêm cõi trời

Ta biết họ tâm vui phơi phới.

Tùy chúng ưa thích lợi pháp ban

tùy nơi cần thị hiện rõ ràng.

Mỗi người tự cho rằng ta thuyết

tâm hoan hỷ tin chắc hiểu liền

Thần thông lực vô biên Phật hiện

làm việc đó hiển nhiên ta sử

cả bọn phàm phu đều cuồng nộ

việc Như Lai trong số đã làm

Các ngươi giả thấy đâu dám biết.

Nếu Bồ Tát rõ thiệt ta hành

là người thay thế chuyển pháp luân.

Những người nói pháp đều ưa thích

mong sao biết hết chỗ ta hành.

Nếu không biết thì trí khó thành.

Nói như thế mong manh vô cớ

nghe pháp rồi rất dễ thối tâm

Ta nhân đó nói ‘vô sở thuyết’

Người nào hay biết trí rộng khắp

là kẻ tâm không hề thối thác.

Bình đẳng trong hết thảy các pháp

là người tùy thuận chỗ ta làm.

Kiên Ý nên biết các kinh văn

đời vị lai không ai thọ trì

Duy tám vị Bồ Tát hội này

Nay chắp tay đang đứng trước ta.

Kiên Ý nên biết họ chính là

người biết rõ pháp ta sâu rộng

đứng hàng đầu pháp hội trong đây

Soi đuốc tuệ mở bày Phật pháp

dạy chúng sanh Bồ Tát thiện tâm.

Vì chư Phật một lòng xưng tán

như nay họ đang đứng trước ta.

Phật quá khứ chính là các vị

bậc Thế Tôn số lượng hà sa.

Những người hiện hữu ở trước ta

cả năm trăm từ tòa đứng dậy

chấp tay đồng cúi lạy bạch thưa

nguyện nghe Phật hộ pháp kế thừa.

Kiên Ý chính là người trong số

tám mươi vị Bồ Tát thuở xưa

cùng lo ủng hộ Phật pháp nữa.

Thế Tôn, con trong đời vị lai

thọ trì Phật pháp hành đúng thuyết

nên trong đời trược loạn xấu ác

rộng lưu truyền chánh pháp khắp nơi

Thế Tôn Ngài tìm tới thọ ký

rồi bay lên không bảy dặm xa

tám mươi ức người cả thọ lạc

mỗi người tự biết được thọ ký.

Bấy giờ Phật bảo A Nan kỹ:

ông trong đời ác chí về sau

Có thọ trì được các kinh không?

Đáp: thưa Thế Tôn, con bất kham

Phật biết nên hỏi Ca Diếp thêm:

sau ta diệt độ ông có thể

thọ trì kinh pháp được như thế?

Đáp: thưa Thế Tôn, con bất kham.

Ta hay nắm giữ ba nghìn cõi

biển cả, núi rừng khắp đó đây.

ngoài ra hết thảy đều trong tay

Đời ác sau không ai hộ pháp

Tỳ kheo nay phần nhiều tệ ác

không theo đúng giáo pháp Thế Tôn

huống gì sau khi ta diệt độ

kinh điển thâm huyền ai tín thọ?

Chắc chắn lời ta dự thế này:

các ông quờ quạng không trí huệ

làm sao có thể dạy chúng tôi?

Người lợi căn tức thời luận tỏ

Thế Tôn, những người tệ ác đó

thích tranh luận ngoại đạo, sách đời

xa lìa thiền định sâu mầu nhiệm

mà tham việc đắm nhiễm thế gian

lòng dục nhiều lại càng không đủ

tham thức ăn ngon, cầu lợi dưỡng.

Ta không sao cứu bọn ác nổi

thấy như thế ta thêm bối rối.

Lúc một mình ta chỗ thanh vắng

các trời Thích, Phạm đến hỏi rằng:

nay Thế Tôn nói pháp phải chăng?

Khiến chúng sanh vào thẳng Thánh đạo

có tỳ kheo kia được vô lậu

hay có thần thông đến giác ngạn  (bờ giác ngộ)    

Ta nghe như thế tâm hỷ hoan

trả lời trời Thích rằng, quái dị

ác thế đời sau, Thích, Phạm Thiên

đến chỗ ta kêu khóc rống lên:

Đại Đức nên biết pháp sắp diệt.

Ta nghe thế lòng sầu não nuột

không thể nào nói tuốt tội duyên

cũng không thể nào giữ được kinh

Cũng khó mà có thể chứng minh.

Tỳ kheo đời ác hình khó nói

Lúc ấy thiên thần dõi khóc kêu.

Bấy giờ Phật bảo theo Ca Diếp:

ta biết trước rằng ông không thể

thọ trì, hộ vệ pháp Như Lai

Chúng đệ tử Thanh Văn các Ngài

không thể thọ trì kinh này được

Duy chỉ Bồ Tát nhờ Phật lực

mới thọ trì được pháp này thôi.

Đời ác sau có thể sanh nghi

Nay ta phải trừ đi cho người.

Cớ sao kinh này trước vốn không

chúng tỳ kheo đồng lòng tự tạo

hoặc thấy kinh đây nhiều vô lượng

đem đọc tụng mà tâm run sợ

Vì kinh sâu rộng, sanh tán loạn

ai hay đọc tụng nghĩa rốt ráo?

Có người thấy ông hỏi đạo ta

cũng nghe ta vì ông nói qua.

Người ấy trong đời xấu ác sau

nghe kinh này chóng mau hoan hỷ

Phật nói pháp hộ trì như thế

vô lượng chúng phát tâm Bồ Đề

Những chúng sanh này đều nghĩ rằng

Ta trong đời sau nghe pháp hẳn

phải cung kính sánh bằng Thế Tôn

Một lòng cầu Phât trí thậm thâm

cúng dường xá lợi và chùa tháp

các loại trang nghiêm tạo tượng hình.

Lúc bấy giờ A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo hở vai bên mặt chắp tay quì gối sát đất bạch Phật rằng: bạch Thế Tôn, nên gọi kinh này tên là gì? và phải thọ trì như thế nào? Phật bảo A Nan: kinh này tên là Nhiếp Chư thiện căn, cũng gọi là Y chỉ công đức kinh, cũng gọi là an ủi tâm chư vị Bồ Tát, cũng gọi là chỗ thưa hỏi của Bồ Tát, cũng gọi là đoạn hết nghi ngờ cho chúng sanh kinh, nên thọ trì đúng như thế.

Phật nói kinh xong Bồ Tát Huệ Mạng, A Nan, Kiên Ý cùng chư thiên, long thần, càn thát bà, a tu la, nhơn và phi nhơn...tất cả đại chúng đều lấy làm đại hoan hỷ tin nhận lời Phật dạy.

 

Chú thích:

(1)     Chư hành: các hành, có nghĩa là dời đổi từ chỗ này đến chỗ khác. Các pháp hữu vi do nhân duyên mà sanh ra, dời đổi trong ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Các pháp hữu vi có rất nhiều ở nơi tâm hoặc ở nơi cảnh, cũng đều gọi chung là chư hành.

(2)     Kim cang: cứng rắn như chất kim cang khó gì có thể làm nao núng được, lửa cũng không làm chảy được. Có bộ kinh Kim ang là dụ cho nghĩa này.

(3)     Pháp tạng: kho tàng giáo pháp bao hàm những pháp đức Phật đã thuyết

(4)     Trùng cú môn: câu trùng lặp như cửa nhiều lớp chồng khít lên nhau, giống thể văn kệ tụng có nhiều câu trùng ý lặp đi lặp lại nhiều lần cho hành giả dễ thâm nhập lý đạo.

(5)     Đệ nhất nghĩa: ý nghĩa vào bậc nhất. Những kinh pháp do chư Phật và Bồ Tát thuyết để giáo hóa chúng sanh tu hành chánh đạo, thuộc hai lãnh vực: chơn đế và tục đế. Chơn đế hay đệ nhất nghĩa đế là giáo lý cao siêu của hàng thánh giả, bậc xuất gia tu trì đạt đạo giải thoát, nên cũng gọi là thắng nghĩa đế.

(6)     Bổn hạnh: hay bản hạnh là hạnh gốc hoặc chánh hạnh của người tu học Phật. Lập bổn hạnh là phát nguyện căn bản, cố đeo đuổi tới cùng không bỏ.

(7)     Tướng bạch hào: tướng lông trắng giữa chặn mày của đức Phật. Đó là một trong 32 tướng tốt của Ngài. Chỉ có Phật mới có được tướng tốt này.

(8)     Tâm keo kiệt: lòng bỏn sẻn, nhỏ mọn, tính từng li từng tí miễn sao có lợi cho mình là được.

(9)     Tứ thiền: bốn phép tu thiền định là sơ thiền, có thể xuất thần và thác sanh lên những tầng trời Phạm thiên, Phạm chúng, Phạm phụ hay Đại phạm; nhị thiền: sanh lên những tầng trời Thiểu Quang,Vô Lượng Quang, Quang Âm thiên; tam thiền: thuộc cõi Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh và Biến Tịnh thiên; tứ thiền: có sức định thần siêu thoát khỏi cảnh Tiên ở cõi dục, và cõi sắc.

Dịch xong ngày 10 tháng 7 năm 1990

(18 - 5 nhuần năm Canh Ngọ)    

Pháp Bảo Tự - Sydney - Úc đại lợi - Trọng đông.

Tỳ kheo Thích Bảo Lạc