Pháp môn dễ tu, dễ chứng,
hợp cả thời cơ
Thích Trường Lạc biên dịch
--- o0o ---
Trong bốn mươi chín năm thuyết pháp độ đời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy, nói rộng, vô lượng vô biên, vô số pháp môn phương tiện; nói hẹp với con số lượng cũng đến tám muôn bốn ngàn. Tất cả pháp môn ấy đều tùy theo căn cơ sai biệt của chúng sinh mà Phật nói, nên chẳng đồng: Hoặc lớn nhỏ, cao thấp, hoặc khó dễ, mau chậm, v.v... Tu với một pháp môn nào chẳng hạn, chúng sinh phải dùng tự lực rốt ráo mới được liễu sinh thoát tử và siêu phàm nhập thánh.
Ngoài vô lượng, vô biên vô số pháp môn tu tự lực, Đức Phật còn dạy thêm một pháp môn tu tự lực nương với tha lực; pháp môn này rất dễ tu, dễ chứng và hợp với tất cả thời cơ.
Đứng về mặt thế gian mà nói, ở ngoài đời, con người ta muốn sinh sống của dễ dàng, không ai lại chẳng chọn một công nghệ dễ làm và mau phát tài. Cũng thế, đứng về mặt đạo mà nói, người Phật tử muốn được giải thoát, không ai lại chẳng lựa một pháp môn dễ tu, dễ chứng mà tu. Bởi vì, ở trong thời kỳ mạt pháp này là thời kỳ rất khó tu, Phật tử cần phải biết pháp môn nào dễ tu, dễ chứng để hành trì.
Mỗi Đức Phật ra đời độ sinh, thời gian giáo hóa của mỗi Ngài đều chia ra làm ba thời kỳ:
1.- Thời kỳ Chánh pháp,
2.- Thời kỳ Tượng pháp,
3.- Thời kỳ Mạt pháp.
Thời kỳ Chánh pháp là lúc Phật còn tại thế; Ngài đi khắp chỗ cùng nơi giảng kinh cứu thế, thuyết pháp độ đời. Chúng sinh nào có phục đức nhân duyên lớn gặp Phật khai thị cho, thì liền chứng được quả thánh, ngàn người không sót một.
Thời kỳ Tượng pháp là sau khi Phật đã thâu thần nhập diệt, chúng sinh không còn diễm phúc gặp Phật nữa. Mặc dầu sẵn có ba tạng kinh điển của Phật lưu truyền, mà số tu đắc quả thành đạo chỉ riêng người căn tánh thuần thục, huệ nhiều, chướng ít được chứng ngộ mà thôi, nên chi sự tu hành của Phật tử ở thời kỳ Tượng pháp có phần khuy khuyết, không được toàn hảo như thời kỳ Chánh pháp.
Đến thời kỳ Mạt pháp, là sau khi cách Phật đã lâu đời, một nỗi kinh luật xiêu lạc, Chánh pháp thất truyền, lại thêm các nhà đại diện cho Phật chỉ đạo, bậc đại thiện tri thức khó gặp, mà người học đạo phần đông là hạng nghiệp nặng, chướng dày, nên chi sự tu hành số người chứng quả rất hiếm hoi, chẳng khác nào bông xoài khi mới đơm hoa thật nhiều, mà lúc kết trái còn rất ít.
Chúng ta ngày nay ở nhằm thời kỳ Mạt pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni. Sự tu hành của chúng ta khó bì, khó sánh với những người ở trong hai thời kỳ Chánh pháp và Tượng pháp. Lâm vào thời buổi khó khăn như vậy, chúng ta phải chọn một pháp môn nào dễ tu, dễ chứng để cho chúng ta đi thẳng thắn một lần đến bờ giác, kẻo một khi vô thường bỏ mất thân người rồi, muôn kiếp ngàn đời khó gặp lại.
- Căn cứ vào đâu mà biết thời kỳ Mạt pháp khó tu chứng?
- Thời kỳ Mạt pháp khó tu chứng tại sự đấu tranh kiên cố mà ra. Sự đấu tranh kiên cố của chúng ta đây xét lại khởi điểm của nó ở tâm chấp ngã và chấp kiến mà có.
Chấp ngã là chấp có đây có kia, chấp có người có ta. Còn chấp kiến là chấp có phải có quấy, chấp có hay có dở, chấp có hơn có kém, chấp có khôn có dại v.v... hễ cái gì trái ý mình, thì không vừa lòng, liền nổi sân si. Chính tại sự sân si này là cái nhân sinh ra các điều phần, cãi vã và tranh đấu. Đó là bằng cớ nghiệp nặng, chướng dày, si mê lầm lạc của chúng ta. Mà khi có phiền não, nghiệp chướng, thì tất nhiên không có trí huệ, rất khó tu chứng lắm vậy.
Đây chúng ta mới xét qua một ít nội chướng cũng đủ thấy nó trở ngại như thế nào rồi. Còn nếu bàn về ngoại duyên, như hoài cảnh riêng của từ cá nhân, từ gia đình hay tình thế của quốc gia, xã hội và thế giới, thì còn biết bao nhiêu là việc khó khăn nữa!
- Ở trong thời kỳ Mạt pháp khó tu chứng như vậy, chúng ta có nên ngã lòng hay không?
- Tuy nhiên, chúng ta không nên ngã lòng. Chúng ta phải bình tĩnh để sáng suốt giải quyết lần lần. Biết rằng chúng ta là những người ở trong thời kỳ Mạt pháp, chính là những kẻ đã lâm vào hoàn cảnh nghèo thời cơ lẫn phương tiện, thì đáng lẽ chúng ta phải phát tâm rộng lớn và kiên cố để tu hành.
Vả lại, trong bốn phương pháp độ sinh của chư Phật như:
1/ “Pháp thí độ chúng sinh”, tức là từ kim khẩu Phật nói ra mười hai phần kinh hóa độ chúng sinh.
2/ “Thân nghiệp độ chúng sinh”, tức là chư Phật dùng ba mươi hai tướng tốt với tám mươi vẻ đẹp và hào quang của các Ngài mà hóa độ chúng sinh.
3/ “Thần thông lực độ chúng sinh”, tức là chư Phật có vô lượng đức dụng thần thông đạo lực và các pháp biến hóa dùng để hóa độ chúng sinh.
4/ “Danh hiệu độ chúng sinh”, tức là chư Phật có vô lượng danh hiệu hoặc chung, hoặc riêng, nếu chúng sinh nào biết chuyên tâm xưng niệm hồng danh của Ngài, thì một ngày kia sẽ được gặp Phật hóa độ cho.
Trong bốn pháp độ sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mặc dầu ba pháp đứng đầu đã tuần tự trôi qua với thời gian dĩ vãng chỉ còn lại pháp độ sinh thứ tư là “Danh hiệu độ chúng sinh” cho chúng ta tu hành dễ dàng, thì gẫm lại chúng ta ở trong thời kỳ Mạt pháp này chưa đến đỗi là hoàn toàn vô duyên bạc phúc đâu! Vậy chúng ta phải phát tâm rộng lớn, nỗ lực tu hành kiên cố với pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh”, tưởng lại cái kết quả đời tu của chúng ta sau này cũng không đến đỗi không hy vọng được giải thoát.
- Kinh nào nói pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh”?
- Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: “Trong thời kỳ Mạt pháp, chúng sinh chỉ nương sức niệm Phật mà ra khỏi luân hồi”.
Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên chúng sinh nên trì danh hiệu Đức Phật A Di Đà để thoát cõi khổ, sinh về cõi an vui, đủ duyên lành tu hành mau chứng đạo quả Bồ đề.
Kinh A Di Đà, Đức Bổn sư Từ phụ nói: “Tất cả sáu phương thế giới: Đông phương, Nam phương, Tây phương, Bắc phương, Hạ phương, Thượng phương chư Phật và Bồ tát đều khen ngợi pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” và thường hộ niệm những người chuyên trì danh hiệu Đức Phật A Di Đà”.
Kinh Bửu Tích nói: “Đức Thích Ca Mâu Ni giảng pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” (pháp môn Trì danh niệm Phật) cho vua Tịnh Phạn với bảy vạn người tộc thuộc nghe đều phát tâm tu theo được siêu sinh về Cực lạc thế giới”
Nói tóm tắt, pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh”, tức là pháp môn “Trì danh niệm Phật” đều được nhiều kinh luận khác nói đến và tán thán công đức không thể kể xiết.
- “Trì danh niệm Phật” nghĩa gì?
- Chữ “Trì” nói đủ là “Trì cửu” nghĩa là giữ mãi không thay đổi.
Chữ Danh nói đủ là “danh hiệu” nghĩa là tên và hiệu.
Chữ Niệm nói đủ là “niệm niệm” nghĩa là nghĩ nhớ đến luôn.
Chữ Phật nói đủ là “Phật đà” nghĩa là người đã giác ngộ hoàn toàn với ba bậc giác: Tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn do sự tu hành.
“Trì danh niệm Phật” là một pháp môn chuyên tu của tông Tịnh độ (một tông trong mười tông của đạo Phật) bằng cách nghĩ nhớ đến danh hiệu Đức Phật A Di Đà không bao giờ xao lãng.
- Phải niệm như thế nào mới đúng ý nghĩa danh hiệu Phật?
- Phật là một danh từ tôn xưng những bậc giác ngộ hoàn toàn và được xem như hiện thân của các đức tính:
1.- Đại từ nghĩa là thường ban vui cho khắp cả chúng sinh một cách bình đẳng.
2.- Đại bi nghĩa là thường cứu khổ cho mọi loài mọi vật.
3.- Đại hùng nghĩa là luôn luôn hăng hái về sự cứu khốn phò nguy và xây dựng hạnh phúc cho chúng sinh không biết mỏi mệt.
4.- Đại lực nghĩa là mạnh dạn và cương quyết việc cứu tế chúng sinh không hề chán nản.
- Pháp môn niệm Phật có mấy cách?
- Trong Đại Tạng Kinh nói: “Pháp môn niệm Phật” có trên trăm cách, mà giản tiện để thuật lại thì có bốn pháp là:
1.- Thật tướng niệm Phật,
2.- Quán tưởng niệm Phật,
3.- Quán tượng niệm Phật.
4.- Trì danh niệm Phật.
Thật tướng niệm Phật là niệm Phật bằng cách tuyệt đối, là khế hợp với bản tâm chân như. Nghĩa là hành giả trong cảnh giới này không còn chấp một quan niệm nào, hoặc năng, hoặc sở, không còn danh tự, ngôn thuyết nào cho đến cái biết không này cũng thật không, tức là chánh định hoàn toàn song song với Thiền tông.
Cách niệm Phật này cao lắm, chỉ dành riêng cho những bậc thượng căn, thượng trí dùng mà thôi.
Quán tưởng niệm Phật là niệm Phật bằng cách tưởng tượng nhớ lại những tướng hảo của Phật mà mình đã chiêm ngưỡng.
Những người mới tu, hoặc trí kém không nên áp dụng cách này sớm, vì có hại cho phần não nhiều.
Quán tượng niệm Phật là niệm Phật bằng cách chiêm ngưỡng ngay tượng Phật, nhìn rõ từ nét, từ phần các tướng tốt của Phật. Cặp mắt phải chăm chú không xao lãng, còn trong trí cứ nghĩ rằng như mình đứng trước Báo thân của Phật thật mà khởi lòng cung kính, tin, nguyện.
Trì danh niệm Phật là niệm Phật bằng cách ghi nhớ danh hiệu của Phật. Để tỏ lòng cung kính như chúng ta thường niệm đủ là “Nam mô A Di Đà Phật”, hoặc là “A Di Đà Phật” mà trong Kinh Nhật Tụng của chúng ta thường thọ trì do Đức Bổn sư Thích Ca đã khuyên dạy.
Trong bốn cách vừa nói trên, xét kỹ, chỉ có cách thứ tư là “trì danh niệm Phật” là giản tiện và phổ thông nhất.
- Phải trì danh niệm Phật bằng âm thanh nào?
- Chúng ta có thể trì danh niệm Phật bằng:
1/ “Cao thanh niệm” nghĩa là niệm lớn tiếng. Cách này chúng ta có thể dùng mõ để phụ lực, hoặc giữ trường canh mà lấn áp tiếng động bên ngoài và đánh tan sự buồn ngủ của chúng ta.
2/ “Đê thanh niệm” nghĩa là niệm nhỏ tiếng. Nếu niệm lớn tiếng nghe hơi mệt, thì nên dịu lại để giữ tâm khỏi sự tán loạn, giải đãi.
3/ “Kim cang niệm” nghĩa là niệm chỉ nhép môi, động lưỡi mà không có ra tiếng như hai cách vừa nói trên.
4/ Mặc niệm” nghĩa là niệm âm thầm. Đến đây môi, lưỡi không còn động, chỉ dùng trí để nhớ câu niệm Phật mà thôi.
KINH NGHIỆM.- Chúng ta có thể dùng bốn cách trên đây mà thay đổi. Không nên cố chấp một pháp niệm nào nhất định. Nghĩa là nếu niệm thầm (mặc niệm) có hơi năng đầu, buồn ngủ, thì trở lại niệm lớn tiếng và tuần tự, hoặc đê thanh niệm, v.v...
Ngài Luật Hàng Pháp sư dạy chúng ta có thể trong khi dùng bốn cách “Trì danh niệm Phật”:
1.- Hoặc là niệm đủ sáu tiếng “Nam mô A Di Đà Phật”.
2.- Hoặc chỉ niệm bốn tiếng “A Di Đà Phật”.
3.- Hoặc cho câu niệm Phật theo hơi thở ra vào tùy theo sức mà niệm nhiều câu hay ít câu gọi là “Xuất nhập tức niệm”.
4.- Hoặc khi niệm Phật, luôn luôn trụ tâm nơi đỉnh đầu để tâm khỏi duyên cảnh khác mà bị tán loạn.
Ngoài ra, người niệm Phật phải chú trọng đến ý căn bản của mình, nghĩa là phải gom thâu tư tưởng lại mà đặc biệt để ý đến bốn điểm cần thiết:
1.- Phải kiên thành nghĩa là cung kính, thành khẩn, kỵ sự khinh mạn, không tôn kính.
2.- Phải thống thiết nghĩa là tỏ vẻ đau khổ, kỵ sự trống không, không thiết thực.
3.- Phải kiên chí nghĩa là ý chí vững vàng, kỵ sự gián đoạn, đứt khúc, không nối tiếp nhau.
4.- Phải chuyên nhất bấy giờ là chỉ theo một chiều, kỵ sự xen tạp lộn xộn.
Ý căn được kềm vào bốn điểm này thì các căn khác như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân khó duyên ngoại mà phát thức vọng động.
Muốn cho được kết quả chắc chắn, trong khi niệm, hoặc lớn tiếng, nhỏ tiếng, chúng ta còn phải luôn luôn kiểm điểm những việc như sau:
1.- Giữ miệng niệm cho rành rẽ.
2.- Kềm hai lỗ tai nghe cho rõ ràng.
3.- Giữ tiếng niệm cho trong trẻo, đều đều.
4.- Nhất là cái ý phải cẩn mật, kim chỉ cho thật khít khao mà dày dặn đừng để một tà niệm nào xen vào.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy chúng ta khi niệm Phật phải chăm chỉ, chẩm bẩm như mèo rình chuột, như viên tướng soái giữ cửa thành. Nếu được như thế, thì chúng ta sẽ thành công “Niệm Phật Tam muội” vậy.
- Niệm Phật có lợi ích gì cho mình và cho người không?
- Đức Thích Ca Mâu Ni nói: “Ta là Phật đã thành, còn chúng sinh là Phật sẽ thành”. Nói một cách khác, Đức Phật là người đã giác ngộ sự thật, còn chúng sinh là người sẽ giác ngộ sự thật ấy sau này, nếu biết tu hành chân chính. Vì vậy, hết thảy các hành động của Phật tử phải nhắm Phật làm mục tiêu gương mẫu; nghĩa là phải thực hành các đức tính cao cả của Phật vào đời sống hằng ngày của mình.
Thí dụ: Như một người chí sĩ hằng ngày tủ đến những đấng anh hùng để khích lệ chí hướng của mình đã làm gương cho mình noi theo, thì Phật tử cũng vậy, giờ phút nào cũng đều niệm Phật để hướng Phật làm gương cho mình, lấy sự hành động của Phật để chỉ huy đời sống của mình, hy vọng tạo thành mình trở nên một bậc đại từ, đại bi, đại hùng, đại lực v.v..., tức là thành Phật. Như thế là niệm Phật có ích lợi cho mình vậy.
Khi niệm đức tính đại từ bi của Phật, thì phải áp dụng những biện pháp thiết thực và khôn khéo để bảo vệ và giúp đỡ đời sống của mọi loài. Khi niệm đức tính đại hùng lực của Phật, thì phải cực đoan, quả cảm thực hành biện pháp vị tha, lợi tha dầu phải hy sinh tài sản và thân mạng của mình đi nữa cũng không từ. Như thế là niệm Phật có ích lợi cho người, cho vật, cho chúng sinh vậy.
- Như thế nào pháp môn danh hiệu độ chúng sinh là dễ tu?
- Pháp môn danh hiệu độ chúng sinh dễ tu là vì:
1.- Lúc nào niệm Phật cũng được cả:
a) Sớm mai niệm Phật được,
b) Trưa niệm Phật được,
c) Tối niệm Phật được,
d) Khuya niệm Phật được v.v... nghĩa là không hạn cuộc thì giờ.
2.- Chỗ nào niệm Phật cũng được cả:
1/ Trong chốn già lam:
a) Trước chánh điện niệm Phật được,
b) Sau nhà Tổ niệm Phật được,
c) Trong liêu thầy niệm Phật được,
d) Hai bên Đông lang, Tây lang niệm Phật được,
e) Trên gác chuông niệm Phật được,
g) Dưới gốc cây Bồ đề, gốc da, gốc duối niệm Phật được.
Tóm tắt, là niệm Phật không hạn định xứ sở.
2/ Trong nhà:
a) Trước bàn thờ Tam Bảo niệm Phật được,
b) Tại phòng khách niệm Phật được,
c) Tại phòng ăn niệm Phật được,
d) Tại phòng ngủ niệm Phật được,
đ) Sau nhà bếp niệm Phật được,
e) Trong phòng tắm niệm Phật được,
g) Trong phòng tiêu niệm Phật được,
h) Trong nhà sanh niệm Phật được.
Tóm tắt, bất kỳ chỗ sạch, chỗ dơ đều niệm Phật được hết. Nhưng mà nên lưu ý: Các nơi nào không được thanh tịnh, tinh khiết, thì phải mặc niệm nghĩa là niệm thầm, niệm trong tâm trí, niệm bằng ý tưởng.
3/ Ở chốn sơn lâm:
a) Trên đỉnh núi niệm Phật được,
b) Trong động, trong hang niệm Phật được,
c) Ngoài rừng, bụi niệm Phật được.
4/ Miền duyên hải:
a) Ngoài cồn, ngoài bãi niệm Phật được,
b) Trên doi, dưới vịnh niệm Phật được.
5/ Ở thôn quê:
a) Trong vườn, ngoài rẫy niệm Phật được,
b) Trong ao, đầm, ngoài đồng áng niệm Phật được.
6/ Ở thành thị:
a) Giữa chợ đông niệm Phật được,
b) Trong quán cháo, hàng cơm, lò bánh, tiệm nước, rạp hát niệm Phật được,
c) Ngoài bến xe, bến tàu niệm Phật được.
7/ Ở trường vận động:
a) Tại sân đấu cầu, đánh vợt niệm Phật được,
b) Tại hồ bơi lội niệm Phật được.
8/ Ở bãi chiến trường:
a) Trước họng súng, mũi gươm niệm Phật được,
b) Trên máy bay, dưới tàu lặn niệm Phật được,
c) Trong tiếng nổ của lựu đạn, quả bom niệm Phật được.
3.- Niệm Phật cách nào cũng được
Niệm Phật không nhất định phải một mực chắp tay cúi đầu, quỳ gối trước bàn thờ mãi, mà tha hồ đi, đứng, nằm, ngồi, bò, leo, chạy, nhảy v.v..., tùy theo hoàn cảnh. Niệm Phật cũng chẳng bắt buộc phải lớn tiếng, dài hơi luôn luôn, mà niệm mau, niệm chậm, niệm thầm, niệm có tiếng mõ, tiếng chuông, niệm vừa lần tràng (lần chuỗi), niệm đếm hơi thở ra vào (sổ tức niệm), niệm như thế nào tùy thời thay đổi, miễn là niệm niệm tiếp nối, đừng cho gián đoạn mới hy vọng đến cảnh giới “nhất tâm bất loạn”.
4.- Người hạng nào niệm Phật cũng được cả
a) Không hạn cuộc tuổi tác, kẻ bé măng sớm niệm càng hay, mà người già tàn tạ muộn niệm Phật cũng tốt.
b) Không hạn định nghề nghiệp: Người làm quan, làm thầy, làm thợ, cày ruộng, đi buôn, lập vườn, học trò, lính tráng v.v... người nào niệm Phật tâm lần sáng tỏ, không bê trễ công việc làm ăn, biết yêu nghề, biết trọng danh giá mình, không làm điều ám muội, ích kỷ hại nhân.
5.- Pháp môn tu nào cũng gồm đủ ở trong pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh”
Nhiều người tưởng rằng tu hành được thành đạo là nhờ có ăn chay, giữ giới, tụng kinh, trì chú, tham thiền, nhập định nhiều năm, chớ nghe nói niệm Phật được thoát khỏi sinh tử luân hồi ắt nghi ngờ; vì các người ấy chưa rõ pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” gồm tất cả các pháp, chưa nhận định niệm Phật tức là Giới, niệm Phật tức là Kinh giáo, niệm Phật tức là Thiền, niệm Phật tức là Phật.
Niệm Phật tức là Giới.- Chuyên trì các điều Phật cấm là giữ Giới để trị tam nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Còn chuyên trì danh hiệu của Phật là niệm Phật để trị thân tâm. Niệm Phật mãi thì thân an nhàn, tâm thuần thục. Tâm thuần thục là tâm rốt ráo; tâm rốt ráo là tâm rỗng không; ấy là niệm tánh (tánh niệm Phật). Niệm tánh với Giới tánh (tánh giữ Giới) nào có khác gì? Nên chỉ niệm Phật tức là giữ Giới vậy.
Niệm Phật tức là Kinh giáo.- Cả ba tạng kinh lớn đều bởi tâm mà ra. Nếu tâm không có Phật thì giáo vào đâu? Nhưng mà tâm ai lại không có Phật, chỉ vì mình không tự nhận đó thôi. Kinh giáo là cốt yếu cho người biết rõ lối tà mà bỏ đặng quay về đường chánh. Trì kinh mục đích để minh tâm kiến tánh; còn niệm Phật cốt yếu để trừ sạch các mối nghĩ nhầm đặng đi đến chỗ chánh niệm và chân niệm, tức là minh tâm kiến tánh, nên chi niệm Phật tức là Kinh giáo vậy.
Niệm Phật tức là Thiền, là Phật.- Lặng xem một câu thoại đầu gọi là Tham thiền. Ngồi yên xét hơi thở gọi là Tọa thiền. Tham với Tọa cả hai phương cũng đều là Thiền cả. Thiền, Phật rốt cuộc cũng là một Tâm. Thiền kia tức là Thiền của Phật; Phật kia tức là Phật trong Thiền, nên chi pháp môn niệm Phật không có trở ngại gì với pháp Tham thiền, không trái trấp gì với pháp Tọa thiền.
Vả lại lúc Tham thiền, nếu lấy sáu chữ Hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật” làm câu thoại đầu, niệm đi niệm lại quanh quẩn không rời, thì không cần Tham thiền mà cũng là Thiền rồi. Pháp Tọa thiền cốt nhất phải đến cõi chỉ còn một mối nghĩ cùng ứng với Tâm, rỗng rang như hư không thì đối với niệm Phật mà tới cảnh “Nhất tâm bất loạn” nào có khác gì? Nên chi niệm Phật tức là Thiền là Phật vậy.
QUYẾT NGHI.- Giả sử có người ngại rằng: Tu theo pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” tức là niệm Phật cầu sinh Tịnh độ Tây phương Cực lạc là “Tiểu thặng” có phải không?
- Pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” ở trong Kinh A Di Đà. Bộ kinh này thuộc về loại “vô vấn tự thuyết”, không ai hỏi, Phật tự nói. Kinh A Di Đà là kinh Đại thặng.
Vả lại, người muốn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ phải phát tâm đại Bồ đề (rộng lớn) trên cầu cho được quả Phật, dưới mong mỏi hóa độ chúng sinh. Phát tâm rộng lớn như vậy là tu Đại thặng.
- Người trọn đời làm ác, khi gần chết, chí tâm niệm Phật có được vãng sinh không?
- Được. Ngày xưa, ở Trung Quốc, đời nhà Đường có Trương Thiện Hòa chuyên làm thịt trâu bán độ nhật. Lúc chàng bệnh nặng gần chết, thấy nhiều con trâu hiện trước mắt đòi mạng. Trương Thiện Hòa sợ hãi lắm, bảo vợ mau mau lên chùa thỉnh thầy Tỳ kheo tới cứu độ chàng.
Thầy Tỳ kheo dạy rằng: Kinh Thập Lục Quán nói: “Nếu người nào trong khi sắp lâm chung có ác tướng địa ngục hiện ra, thì phải chí tâm xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, tức thì được vãng sinh”. Vậy ngươi hãy y theo lời kinh dạy mà làm ắt được siêu độ.
Trương Thiện Hòa vâng lời chí tâm niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Vừa niệm ít câu, Trương Thiện Hòa tự nói rằng: “Ta thấy Đức Phật từ phương Tây đến kìa, ta đi theo Ngài”. Nói dứt lời, Trương Thiện Hòa tắt thở.
- Đời nay có người nghe câu Thánh giáo trong kinh rằng: “Chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước Ta, đến cùng mười hơi niệm Phật, nếu ai không được vãng sinh, Ta không ở ngôi Chánh giác”, rồi người ấy cả đời không lo tu hành gì cả. Người nói như vầy: “Khi gần chết ta sẽ niệm Phật mười câu cũng không muộn gì”. Như vậy có nên hay không?
- Không. Mười niệm tương tục nói suông nghe không khó, nhưng mà bắt tay vào việc làm chẳng phải dễ. Vì cái tâm của con người lăng xăng như con ngựa hoang, cái ý thức của con người lung loạn như con vượn chuyền cây, nó cứ dong ruổi mãi theo lục trần không ngừng nghỉ. Hơn nữa, khi gần chết, có biết bao nhiêu thứ khổ bấu theo thân. Nếu bình nhật không tập niệmPhật cho quen, đến cơn hấp hối thì làm gì xong được.
Vậy mỗi người nên lượng xét lại mà lo khắc niệm Phật trước hay hơn.
Kinh giáo có câu: “Chớ đời đến già mới niệm Phật, mồ hoang biết mấy kẻ thanh niên”.
Nói tóm lại, pháp môn dễ tu, dễ chứng và hợp cả thời cơ là pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” thông thường gọi là pháp “Trì danh niệm Phật” mà sao gọi là dễ tu?
- Pháp môn Trì danh niệm Phật dễ tu vì:
1.- Lúc nào niệm Phật cũng được,
2.- Chỗ nào niệm Phật cũng được,
3.- Niệm Phật cách nào cũng được,
4.- Người nào niệm Phật cũng được,
5.- Pháp môn niệm Phật bao gồm tất cả các pháp môn tu khác.
Đức Thích Ca Từ phụ đã để dành sẵn một phương thần dược chữa bệnh sinh tử luân hồi cho bầy con thơ dại dột rơi rớt trong thời kỳ Mạt pháp này. Ngài đinh ninh khuyên dạy rằng: Chúng sinh chỉ nương pháp môn niệm Phật mà được ra khỏi luân hồi. Vì pháp môn niệm Phật có những công dụng đặc biệt mà các pháp môn khác không có.
Cho hay thân người khó gặp, Tịnh độ Tây phương lại dễ sinh! Vì Đức Phật A Di Đà có lời thệ nguyện rộng lớn rằng: “Nếu chúng sinh nào nghe danh hiệu Ta, khởi tâm chí thành, niệm từ một niệm đến mười niệm mà Ta không tiếp độ về nước Ta, thì Ta không làm Phật”.
May mắn thay! Hiện nay chúng ta có cái thân người lại được nghe pháp môn Dễ Tu thật là chúng ta có đầy đủ phước đức nhân duyên để sau này sẽ vãng sinh về Tây phương Cực lạc thế giới. Vậy chúng ta không nên chần chờ, lần lựa gì nữa mà không chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, kẻo một khi thân này mất rồi, thì muôn kiếp ngàn đời khó gặp trở lại được.
Nam mô A Di Đà Phật.
Về sự tu giải thoát, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật có nhiều pháp môn chỉ dạy từng bậc tu chứng từ phàm phu tiến lên Thánh hiền, từ Thánh hiền tiến lên Phật. Ngoài vô lượng pháp môn tu tự lực, Phật còn chỉ thêm một pháp môn tu tự lực nương tha lực rất viên đốn, rất huyền diệu, vì dễ thực hành mà thành công, dùng sức ít mà có hiệu quả, chính là pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” hay là “Trì danh niệm Phật”.
Với pháp môn này, mỗi người có thể tùy phận, tùy sức mà tu chứng. Không luận kẻ trí người ngu, không luận kẻ tăng, người tục, không luận người sang, kẻ hèn, không luận người già, kẻ trẻ, v.v... nói tóm tắt, tất cả các giới người trong xã hội đều có thể tu tập và chứng quả tốt cả.
- Nhờ đâu mà pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” tu dễ chứng?
- Pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” tu dễ chứng là nhờ có:
1.- Nhị lực,
2.- Tam nhân,
3.- Tam duyên,
4.- Tam nhân duyên, thất nhân duyên, ngũ nhân duyên.
NHỊ LỰC.- Nhị lực là hai sức mạnh: 1/ Tự lực và 2/ Tha lực.
Tự lực là sức mạnh của cá nhân, sức mạnh của riêng mình có.
Tha lực là sức mạnh của người khác, mà đây ám chỉ về sức mạnh của chư Phật và chư Bồ tát gia bị hay ủng hộ, hoặc là bố hóa hay cứu giúp chúng sinh.
Công năng của Tự lực.- Ở đời con người ta, phàm muốn nên công kia việc nọ, dầu cho công việc nhỏ nhặt đến bậc nào hay là dễ dàng đến đâu, ít nữa mình cũng phải phí sức mình ra làm mới được kết quả; ấy gọi là do Tự lực.
Công năng của Tha lực.- Nếu một công việc lớn lao, nặng nề quá, đem hết sức mình làm chẳng xuể, bất buộc mình phải cần đến sức người khác giúp đỡ thêm mới mong được thành tựu; ấy gọi là nhờ Tha lực.
- Phẩm và lượng của Tự lực và Tha lực khác nhau thế nào?
- Luận về phẩm của Tự lực thì giá trị của nó thật là quý. Đây, giả sử một người con thảo muốn báo hiếu cha mẹ lúc còn sinh tiền, tự mình phải ra tay nấu cơm, đun nước dâng lên cho hai thân dùng được no lòng ấm dạ; tự mình phải ra sức giặt giũ y phục cho cha mẹ thay đổi sạch sẽ hằng ngày; tự mình phải ân cần hầu hạ bên giường, quạt nồng ấp lạnh cho cha mẹ nghỉ ngơi ngon giấc. Nói tóm tắt, là đích thân mình đứng ra làm các việc cần thiết để phục vụ cha mẹ trong lúc tuổi già, thì lòng mình mới cảm thấy vui sướng chẳng có chi bằng! Hơn là mình phó thác cho tôi trái tớ gái trong nhà, quanh năm cùng tháng vẫn thay thế cho mình chăm nom từ miếng ăn, thức uống, săn sóc từ manh quần tấm áo, coi chừng từ giấc ngủ của cha mẹ mình. Thật ra cách phụng dưỡng ấy, tuy không thiếu sót về phần vật chất nào; nhưng mà lòng mình cũng thấy nao nao, chưa được thỏa mãn lắm, vì mình xét lại còn khuyết điểm một tinh thần là tình thương yêu mật thiết giữa con cái đối với cha mẹ. Bằng chứng thực nghiệm là ai có dịp hầu hạ cha mẹ một vài hôm trong lúc tuổi già ương yếu, mà tự mình đi sắc thuốc, hoặc đích thân mình bồng lên đỡ xuống cha mẹ trên giường bệnh, hoặc để tắm giặt giũ mùng mền, thay xiêm đổi áo cho cha mẹ khi đau ốm. Mình có làm được những việc ấy một cách tận tình rồi mới biết thưởng thức cái chân giá trị của Tự lực nó thật là quý báu vô cùng! Cũng như một em bé học lớp sơ đẳng trường tiểu học, tự mình viết được một bài văn cỏn con với lời lẽ ngây thơ mà có ý nghĩa, làm cho thầy giáo là người chấm bài của cậu học trò ấy rất hài lòng khen ngợi, hơn cậu học trò khác đồng thời đi tìm sách vở chép lại những bài kiểu mẫu của nhà văn sĩ trứ danh đã soạn.
Còn bàn về lượng của Tự lực thì thật là rất hiếm hoi! Đây trên thế gian này, người ta ai ai cũng cần phải ăn no, mặc ấm và ở yên mới sống. Nhưng nếu bắt buộc mỗi người đều phải tự mình ra công cày sâu, cuốc bẫm, gieo mạ, cấy lúa mới có cơm ăn, tự mình phải trồng bông, kéo chỉ, dệt vải, cắt may mới có áo quần mặc, tự mình phải đốn cây đẵn gỗ, dựng cột xây tường mới có nhà ở v.v... thì sức một người làm có hạn, không bao giờ kịp hết cả trăm công ngàn việc cần thiết ấy được.
Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta, tự mình không ra công trồng lúa cũng được cơm ngày ba bữa no nê, tự mình không ra công chăn tằm, quay tơ cũng có quần áo lòe loẹt, tự mình không ra công đào móng, đắp nền, trộn hồ, gánh gạch cũng được nhà cửa kín đáo ngăn mưa đón gió v.v... Mặc dầu biết rằng chúng ta có xuất tiền ra trả công thuê người, mua vật liệu, song cũng phải mang ân người. Nếu không nhờ Tha lực là sức của người khác đóng góp vào, thì chúng ta đâu được cái cảnh sung sướng là ăn no, mặc ấm, ở yên như thế ấy! Nên chi quyết định rằng lượng của Tha lực thật là rất trọng đại lắm vậy!
- Sự liên quan của Tự lực và Tha lực.- Tự lực và Tha lực có liên quan mật thiết không thể rời ra được. Vì thế mà người ngoài đời cũng như trong đạo không nên thiên chấp Tự lực hay Tha lực, mà phải dung hòa, phối hợp cả hai sức ấy lại áp dụng mới được kết quả tốt trong công việc sinh sống cũng như trong sự tu hành. Đại phàm con người biết tín nhiệm Tự lực và Tha lực, thì chẳng khác nào chim có hai cánh mới bay được dễ dàng, cũng như xe có hai bánh mới chạy được vững vàng; nếu chích một cánh, thì chim kia phải sa, đâu còn bay liệng tự do được nữa, cũng như nếu hỏng một bánh thì xe nọ phải ngả nghiêng nằm lì một chỗ.
- Nếu thiên chấp Tự lực, tự hào nơi sức mình có đủ khả năng chẳng cần đến Tha lực, phủ nhận sức của quần chúng, thì người thế gian sẽ thâu thập một kết quả nhỏ nhít và khó khăn trong việc sinh sống hằng ngày. Bởi vì Tự lực là sức của cá nhân lẻ loi, yếu ớt đối với Tha lực là sức của nhiều người hợp lại mạnh mẽ. Nếu tự cao, tự mãn với sức mình mà chẳng cầu đến sức Phật, sức Bồ tát, sức thầy sáng, bạn lành, thì người học đạo giải thoát khó bề tu hành chứng được quả thánh. Bởi vì sức của phàm phu ngu tục, đã phước mỏng lại thêm chướng dày sánh với sức Phật, Bồ tát phước đức vô lượng, vô biên, kém xa một vực, chẳng khác nào bọt nước phập phều trong biển cả. Nên biết, bọt nước tuy là bé bỏng mà chu du được khắp cùng trong biển mênh mông, do vì nó nhờ sức thủy triều lôi cuốn trong lúc luân lưu xuống lên vòng quanh đại hải. Nếu không nhờ lực lượng của nước khi lớn khi ròng đưa đi, thì làm sao bọt nước lưu thông khắp cả đó đây trong biển dễ dàng! Vậy thì, người tu hành không nên phủ nhận “Tha lực” là sức Phật và Bồ tát mà thiên chấp “Tự lực” là sức của mình mà khó nỗi thoát ra khỏi ải sinh tử luân hồi, chẳng khác nào bọt nước nếu phủ nhận lực lượng thủy triều, thì không xê xích đi đâu được hết.
- Còn thiên chấp “Tha lực” thì sao?
- Nếu thiên chấp “Tha lực” mà phủ nhận “Tự lực”, thì người thế gian không làm công việc gì cả. Dụ như đứa con của một thầy giáo ỷ lại rằng cha mình hay chữ mà chẳng chịu ra công học tập, thì tự nhiên nó phải dốt. Cũng như người tôn giáo, người Phật tử nếu phủ nhận sức mình, cứ một mực đặt tín nhiệm vào Đức Phật, thì không làm sao chứng được quả Phật.
- Nếu dùng “Tự lực” nương với “Tha lực” thì kết quả sẽ được thế nào?
- Nếu dùng “Tự lực” nương với “Tha lực”, thì kẻ ngoài đời sẽ thâu hoạch được kết quả tốt đẹp trong công việc làm của mình. Dụ như một đứa con đã siêng năng, cần mẫn mà lại có cha mẹ chia sớt gia tài và bà con, anh em giúp thêm cả công lẫn của nữa, thì đứa con ấy chắc chắn được phát tài. Còn người trong đạo, vừa dùng sức mình vừa nương sức Phật, sức Bồ tát mà tu, thì quyết định người Phật tử ấy sẽ được vãng sinh về Tây phương Cực lạc thế giới gặp Đức Phật A Di Đà, nghe pháp “Vô sanh” chứng ngôi “Bất thối” và sẽ làm Phật kiếp vị lai. Như ngài Huệ Viễn với những người trong hội Liên xã có đến 123 vị ở Lô Sơn hằng ngày lo phát triển các việc lành và đem hết sức mình ra chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà cầu “Tha lực” đới nghiệp vãng sinh, khi lâm chung đều được Phật phóng hào quang đến tiếp dẫn tất cả về Tây phương Cực lạc thế giới.
Xứng lý mà nói, nếu chỉ cần giác ngộ bản tâm phá tan màn lưới vô minh, vượt khỏi vòng sông ái dục để chứng quả Niết bàn, thì gọi là nương sức mạnh của mình. Người do “Tự lực” mà tu chứng quả Thánh là những bậc đại trượng phu, những bậc thượng căn, thượng trí. Chính là các bậc đại Bồ tát và Thanh Văn ở trong thời kỳ Chánh pháp. Chí như đến thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp căn khí con người đã kém sút, tuy có tu mà không ngộ, hoặc có ngộ mà không thuần. Vì soi chiếu vào trong thì in tuồng thanh thoát mà khi đối cảnh bên ngoài cũng chưa khỏi mê mờ. Như không mê mờ đi nữa, cũng chẳng qua là cuộc hạn mà thôi. Đến như bậc Bồ tát chưa chứng “Vô sanh nhẫn” còn có cái mê cách ấm (cái mê khi thay đổi thân ngũ ấm), bậc Sơ quả (Tu Đà Hoàn) còn phải trải qua bảy lần sinh tử ở cõi Dục giới vẫn chưa khỏi cảnh tối nhập thai. Huống chi là hạng bát địa phàm phu làm sao khỏi theo dòng sinh tử. Thế thì nương “Tự lực” mà tu thật là rất khó xuất trần lao lắm. Vì một phen mê lầm rồi thì trăm thứ đều mê. Tai hại thay!
Bởi cớ, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật mới tùy phương tiện dạy pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” để cho người ở thời kỳ Mạt pháp nương “Tha lực” mà tu hành mới chắc chắn thành đạo.
TAM NHÂN HAY TAM TƯ LƯƠNG
Tam nhân là ba nguyên nhân. Nguyên nhân là yếu tố căn bản để được kết quả.
Tam tư lương là ba món tư lương. Tư lương là những gì có thể giúp đỡ đời sống của con người. Nhất là trong những cuộc hành trình như du lịch, tản cư chẳng hạn, v.v...
Tư lương là thứ phải được đặc biệt sắp sửa đàng hoàng. Bởi vì con người cần phải sống để làm cho đời họ tiến hóa thêm lên, đồng thời lại cần phải vì người mà giúp đỡ, nâng cao đời sống đại đồng được bớt khổ.
Thí dụ: Như người học sinh Việt Nam, sau khi nhận thấy ở xứ sở mình không đủ điều kiện để thỏa mãn sự học theo ý muốn, hoặc vì xã hội rối ren, hoặc vì nền giáo dục quốc gia kém khuyết, v.v... nên vừa nghe người giới thiệu ở một nước khác có đủ điều kiện tốt cho người học sinh ấy học tập thành tài, là người học sinh ấy nghe theo và quyết định xuất dương du học. Rồi nào quần áo, sách vở, nào tiền bạc, cơm gạo v.v... người học sinh ấy lo sắm đủ để lên đường. Như thế là người học sinh ấy đã dự bị đủ “Tư lương” đi ra nước ngoài học tập.
Nhưng đó chẳng qua là câu chuyện thế gian mà thôi. Còn “Tư lương” về mặt đạo giải thoát của pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh là những tinh thần cần thiết có một sức mạnh chuyển đổi được cả một đời hiện tại của Phật tử chúng ta và có thể đưa chúng ta ra khỏi các thống khổ ở thế gian ô trược để sau này sẽ sinh sang một giữ an vui và giải thoát.
Những “Tư lương” của pháp môn “niệm Phật cầu vãng sinh”, theo Kinh A Di Đà, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật dạy có ba món là: 1.- Tín, 2.- Nguyện, 3.- Hạnh.
- TÍN là gì?
- Tín nghĩa là tin. Nó là đầu mối, là bước trước nhất để vào đạo tín là chỗ phát sinh các công đức. Bởi vậy trong Khế kinh có phân biệt sáu thứ Tín: 1.- Tín tự, 2.- Tín tha, 3.- Tín nhân, 4.- Tín quả, 5.- Tín sự, 6.- Tín lý.
“Tín tự là tin tưởng mình có khả năng sửa đổi tâm tánh mình như: Sửa đổi ý nghĩ, lời nói, việc làm từ dở ra hay, từ quấy ra phải, từ dữ ra lành, từ xấu ra tốt, từ mê ra giác v.v... và cố gắng phát triển.
“Tín tha” là tin lời Phật nói: “Chúng sinh đều sẵn có bản tánh sáng suốt, có thể tu hành tiến hóa đến địa vị Phật như Ngài”. Và tin ở sự hộ niệm thầm kín của Phật, của Bồ tát nếu lòng thành mình cảm đến.
“Tín nhân” là nhận thức tu nhân hiện tại như thế nào thì đời sau sẽ kết quả như thế ấy. Thí dụ như chuyên tu niệm Phật, thì thế nào cũng được vãng sinh.
“Tín quả” là nhận thức rằng cái quả không phải tự có, chính phải suốt nguồn nhân.
Thí dụ như anh A và anh B là hai anh em ruột, mà anh A thì giàu, còn anh B lại nghèo, mặc dầu hai người đều chí thú làm ăn. Vì chỗ tạo nhân đời trước của hai người sai khác: Anh A đã từng tu hạnh bố thí nên ngày nay được giàu; anh B đã không gây nhân bố thí mà lại bỏn sẻn nữa nên hiện giờ nghèo.
“Tín sự” là như tin lời Phật nói: “Cách Ta bà mười vạn ức cõi Phật, có thế giới Cực lạc Tây phương”.
“Tín lý” là nhận xét, tuy nhiên thế giới Cực lạc Tây phương ấy vẫn không ngoài nhất tâm thanh tịnh của mình.
Nói đến TÍN, không phải Đức Phật bắt buộc chúng ta phải tin ngay lời của Ngài đâu; mà Phật bảo chúng ta nghe cho kỹ, rồi suy nghĩ cho cùng, nếu nhận định lời Ngài nói là đúng, thì mới tin, bằng không thì thôi. Vậy thì, tính cách tin này không có nghĩa quên mình mà chạy theo lời nói của kẻ khác. Trái lại, nó còn đề cao tinh thần tự chủ, đánh tan óc mê tín, dị đoan, thần quyền mà phát khởi nhiều đức tính tốt khác sẵn có của chúng ta. Như thế gọi là “Tự tín”.
Tuy biết rằng Tự tín là vấn đề then chốt, nhưng nếu không do Đức Phật chỉ dạy, thì chúng ta cũng khó biết được. Do đó, đã là Phật tử, chúng ta không vì lý do gì mà không tin Phật? Ví dầu có điều Đức Phật đã nói mà chúng ta chưa đạt được, chưa chứng được, hay chưa thấy được với con mắt thịt của chúng ta, chưa nhận được với sự suy nghĩ nông cạn của chúng ta, thì những điều đó vẫn bất di bất dịch. Chẳng hạn, như trong Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca bảo rằng kinh này là pháp khó tin, thảo nào chúng sinh lại chẳng lắm kẻ chưa tin!
Bây giờ chúng ta hãy tạm so sánh những việc gần nhất để hiểu và tin theo lời của Phật đã nói Tây phương Cực lạc. Thí dụ như chúng ta thấy trong một thành phố chúng ta ở, nhà cửa thật nhiều, nhưng đại khái có nhà tốt đẹp, sạch sẽ, rộng rãi, mà cũng có nhà xấu xa, nhơ nhớp, chật hẹp. Trong những nhà ấy, có gia đình sung sướng, vui vẻ, mà cũng có gia đình khổ sở, buồn rầu. Còn xa, khỏi xứ Việt Nam, cũng có xứ dân cư lạc hậu và những xứ dân cư văn minh.
Đây xin nhắc lại vài chuyện để làm bằng:
1.- Trước khi Kha Luân Bố chưa tìm châu Mỹ, nào ai đã tin có thế giới mới?
2.- Sau khi Phan Thanh Giản đi sứ bệnh nước Pháp về nói những cái văn minh bên nước ấy, như đèn điện không dùng dầu mà thắp lại cháy sáng tỏ như ban ngày, thêm giữa gió mưa đèn ấy cũng không tắt; còn cái xe đạp có hai bánh trước sau ngay một chiều mà người cỡi xe đạp chạy bon bon không ngã. Các quan tại triều đình Huế không ông nào tin.
Và bây giờ, nếu chúng ta thử nói với các em ở cồn đảo suốt đời không ra khỏi quê hương, rằng có những xứ người ta xài tiền bằng vàng và người xứ ấy ở tại nhà mà bắt được tin tức các nước khác, chắc rằng các em ấy sẽ bảo nhau chúng ta nói gạt.
Nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà, kể về y báo, chánh báo đối với người chưa tin cũng bị ở trong tình trạng bi quan này.
Hoặc có người nói: “Tôi có tin Tịnh độ Di Đà mà chỉ là Tịnh độ duy tâm, Di Đà duy tánh mà thôi”.
Nói như thế là nói lý, tưởng rằng người đã tỏ vẻ thông minh, cao kiến; nhưng kỳ thật, người ấy vướng phải bệnh “kiến thủ” mà không hay, vì chưa nhận được lý tâm tánh là thế nào. Xét ra nếu Lý rời Sự thành lý suông, mà Sự rời Lý là sự mê tín. Trong đạo Phật bao giờ Sự, Lý cũng đi đôi, thể với tánh lúc nào cũng hòa hợp. Biết rằng tự tâm ta thanh tịnh là Tịnh độ, tự tánh ta sáng suốt là Di Đà, nhưng ngoài tâm tánh cũng vẫn có một cõi Tây phương Cực lạc; một Đức Phật A Di Đà đúng với sự thật là Sự, Lý viên dung, ấy cũng như tinh thần với vật chất rất liên quan mật thiết vậy.
Tóm lại đoạn này, người Phật tử tu tập pháp môn niệm Phật, trước hết phải giữ một lòng tin cho kiên cố, nhưng không phải cố chấp, tin cho chí quyết, nhưng không phải lý thuyết, tin những điều chân chính, hợp lý mà không tin một cách mê muội những việc dị đoan. Nghĩa là lòng tin ấy phải có đủ mấy nghĩa này: Tự, Tha, Nhân, Quả, Sự, Lý một cách sáng suốt.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy ; “Tin là nguồn của đạo, là mẹ đẻ của các công đức. Tin có thể thêm lớn căn lành, có thể thành tựu đạo quả Chánh giác”.
Vậy chúng ta phải bảo vệ lòng tin cho vững, nếu chúng ta thật tâm muốn giải thoát. Vì đó là một thứ “tư lương” cần nhất trước hết, mà trong Kinh A Di Đà Đức Bổn Sư Thích Ca đã cặn kẽ dạy.
- NGUYỆN là gì?
- Nguyện là thề quyết làm việc gì cho đến kết quả mới thôi. Như chúng ta sau khi nghe nói cõi Tây phương Cực lạc là nơi vui sướng, giải thoát, có Đức Phật A Di Đà sẵn sàng tiếp dẫn chúng sinh, dĩ nhiên chúng ta phát lòng thệ nguyện mãnh mẽ tu tịnh nghiệp cầu sinh Tịnh độ.
Nói như thế chắc không khỏi có người vội phê bình rằng thuyết Tịnh độ là bi quan, chán đời và từ cái bi quan, chán đời ấy sẽ làm cho con người yếu hèn chăng?
- Xét kỹ lại, đối với thế gian này cũng đáng bi quan lắm chớ! Vì như sự thật đã thấy phần nhiều con người ít sống theo tư cách của con người. Nào là con cháu ngỗ nghịch với cha mẹ, ông bà, nào là vợ chồng oán hận giết dốc lẫn nhau không biết gớm, nào là anh em một nhà mà lại nồi da xáo thịt v.v... Nói tóm, phần nhiều vì “chấp ngã” mà sống xa đạo đức, sống thuần theo phàm tình để vừa theo dục vọng. Do đó, trên thế giới này không mấy khi an ổn và thật vui được. Ai cũng vì một lẽ phải riêng của mình mà quên cái lẽ phải chung đi. Bởi thế, càng sửa đổi lòng người càng táo bạo, quỷ quyệt, độc ác, càng sửa đổi thế giới càng điên đảo, hỗn loạn. Lắm lúc người lấy khổ làm vui, lấy dơ làm sạch, lấy quấy làm phải, v.v... Như thế bảo sao chúng ta không bi quan, không chán đời.
Nhưng thế này, bi quan theo đạo Phật là bi quan để nhận thật bề trái của cuộc đời, của bản thân để thức tỉnh, để kích thích lòng thương đối với nhân loại. Sự chán đời của đạo Phật không phải là lối chán đời hủy mình, bỏ liều, ích kỷ, mà trái lại chán đời để không bị nhiễm theo đời hầu gây tạo một trí huệ sáng suốt đủ phương pháp cứu đời cho hợp lý.
Một bằng chứng chắc chắn là người Phật tử, nhất là người tu tịnh nghiệp, ngày nào cũng thệ nguyện rằng:
“Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chân minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo”
Chướng là tất cả những cái gì có thể làm hại cho mình và di họa đến người khác, mà miếng mồi nuôi lớn nó, chính là những cảnh vật ở thế gian. Nếu không chán nó, nhàm nó, nguyện lìa bỏ nó, thì chắc rằng không bao giờ có được cái trí huệ siêu xuất thế gian. Mà thiếu trí huệ ấy lòng từ bi cũng sai lạc đi, thì làm thế nào thực hành theo công hạnh Bồ tát là giáo hóa thế gian, cải tạo thế gian một cách chân chính thiết thiệt.
Ở tại cõi này, đồng thời tự tu và độ người là quý lắm rồi, nhưng cũng tương đối một phần nào thôi, không thể bỏ bổn phận được. Nhưng nếu không khéo, thì cả mình và lẫn người đều sai lạc và đắm chìm trong bể khổ. Do đó, Đức Thích Ca Từ phụ đã cặn kẽ khuyên chúng ta phải phát nguyện sinh về cõi Cực lạc của Đức A Di Đà dễ tu và dễ chứng quả Phật hơn. Và nếu mỗi người nghe như vậy, thì có lo gì thế giới này sẽ không ai cứu độ!
Bởi thế, chúng ta cần phải nguyện sinh Cực lạc Tịnh độ một cách thiết tha mạnh mẽ. Vì ở đấy, theo lời Đức Bổn Sư Thích Ca đã bảo trong Kinh A Di Đà thì tất cả đều vui vẻ, không bị hoàn cảnh thân, tâm làm thối chuyển đời sống của bậc Thánh nhân tu hành cho tới khi nào chứng quả Phật hoàn toàn.
Nguyện là sức mạnh để chứng thật lòng tin trước kia là chắc chắn. Nguyện có công năng kích phát sự thực hành và còn làm bánh lái cho con thuyền của chúng ta không lạc nẻo quanh co. Đức Phổ Hiền là một vị Đại Bồ tát mà còn phát nguyện vãng sinh, lời lẽ còn ghi trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Mã Minh sau khi tạo xong Luận Khởi Tín còn nguyện về Tây phương Cực lạc.
- HẠNH là gì?
- Hạnh là công hạnh nghĩa là sự thực hành, sự áp dụng đúng theo lời nguyện.
Nếu pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” chỉ có Tín, Nguyện, thì không trách gì người ta sẽ bảo là một lối ỷ lại Tha lực, thần quyền, chẳng khác nào thằng giáo, đồng thời nó tự mâu thuẫn với giáo lý của Phật. Và có Tín, Nguyện suông, chẳng khác nào thuyền kia có mũi, có lái mà chẳng có chèo, xe nọ có đủ bộ phận mà không ai điều khiển. Bởi cớ đó dầu muốn dầu không, người Phật tử cầu vãng sinh về Cực lạc thế giới cần phải thực hành y theo lòng tin và chí nguyện của mình; cũng như muốn đi thuyền từ chỗ này đến chỗ kia, chúng ta phải ra tay chèo chống.
TAM DUYÊN
Tam duyên là ba duyên. Duyên là điều kiện phụ thêm để giúp sự kết quả được dễ dàng. Tịnh độ môn lập ra thuyết minh niệm Phật có ba duyên công lực là:
1.- Thân duyên.- Chúng sinh bắt đầu tu hành, thì:
a) Miệng thường xưng niệm danh hiệu Phật, Phật liền nghe vì tiếng niệm Phật của chúng sinh thấu cảm đến lòng từ bi của Phật.
b) Thân thường lễ kính Phật, Phật liền thấy.
c) Tâm thường niệm Phật, Phật liền biết đó.
Như thế nghĩa là ba nghiệp của chúng sinh và ba nghiệp của Phật không tách rời vậy.
2.- Cận duyên.- Chúng sinh nguyện thấy Phật, Phật liền ứng niệm mà hiện đến trước mắt.
3.- Tăng thượng duyên.- Chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật thì trong mỗi niệm trừ được tội lỗi từ nhiều kiếp; khi chết, Phật và Thánh chúng đều đến rước, không bị các tà nghiệp ràng buộc (Định thiện).
TAM NHÂN DUYÊN
Không luận là người chuyên tu, chuyên niệm, nếu ai có thể đủ ba điều kiện sau đây, vẫn được vãng sinh Cực lạc thế giới, nhưng vào bậc thấp “Hạ bối”.
1.- Giả sử không thể tạo các công đức, thì phải phát tâm Bồ đề vô thượng.
2.- Một mặt chuyên ý cho đến chừng mười niệm mà niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà.
3.- Đem tâm chí thành nguyện sinh về nước An lạc.
THẤT NHÂN DUYÊN
Người tu tịnh nghiệp, muốn toại nguyện vãng sinh về bậc “Trung bối”, trong Kinh Vô Lượng Thọ có dạy phải đủ bảy nhân duyên:
1.- Phát tâm Bồ đề vô thượng.
2.- Một mực chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà.
3.- Có làm lành, giữ trai giới nhiều.
4.- Xây tháp, dựng tượng.
5.- Cúng dường bậc Sa môn.
6.- Treo phan, đốt đèn, rải hoa, xông hương.
7.- Đem các công đức trên hồi hướng về Cực lạc thế giới, thì về sau có thể trụ vào bậc “Bất thối”.
Điều quan hệ là phải giữ được “Nhất tâm bất loạn”.
NGŨ NHÂN DUYÊN
Người tu Tịnh độ muốn toại nguyện vãng sinh về bậc “Thượng bối”, trong Kinh Vô Lượng Thọ có dạy phải đủ năm nhân duyên:
1.- Bỏ nhà, lìa dục, làm vị Sa môn.
2.- Phát tâm Bồ đề vô thượng.
3.- Một mực chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà.
4.- Tu các công đức.
5.- Nguyện quyết sinh về nước An Lạc.
Điều quan hệ là phải giữ được “Nhất tâm”.
Ngoài ra còn một hạng, ngoài ba cấp vừa kể ở đoạn trên, người tu Tịnh độ mà còn nghi hoặc, nhưng biết tội phước chỉ được sinh về “Biên địa” ở cõi Tịnh độ.
Tuy nhiên, sự vui ở cõi “Biên địa” này bằng ở Trời Đao Lợi.
QUYẾT NGHI
- Nói rằng chỉ có pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” là dễ tu, dễ chứng, thì tất cả vô lượng pháp môn khác đều khó tu và khó chứng là tại làm sao?
- Vì vô lượng pháp môn khác chỉ dùng Tự lực mà tu chớ không nương Tha lực. Và tu Tự lực từ địa vị phàm phu vượt lên quả Phật thật rất khó khăn, rất lâu dài. Phải là bậc đại căn, thượng trí có đại kiên cố lực mới được; còn bậc tiểu căn, hạ trí không bền chí, thì chẳng tài nào tu được, nên gọi là rất khó. Lại nữa, vì phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp làm hạnh Bồ tát mới được chứng quả Phật, nên gọi là rất lâu dài.
Thì đây trong “Tịnh độ Thập nghi luận” nói:
Những người tu Phật ở thế giới này mà cứ dùng lấy sức mình thôi, thì thật chưa thấy ai được sinh về Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà, nên trong Kinh An Lạc nói: “Bắt đầu từ địa vị phàm phu đủ thứ phiền não ràng buộc, chưa biết Tam Bảo là gì và cũng chưa biết thiện ác nhân quả là chi, ban sơ phát Bồ đề tâm, lấy đức tin làm cội gốc mà trụ ở nhà Phật và lấy giới hạnh làm nền tảng, tu bỏ thân đời này làm thân đời khác, tiếp tục luôn luôn, giới hạnh không khi nào khuy khuyết, trải qua một kiếp, hai kiếp, ba kiếp mới lên bậc “Sơ phát tâm trụ”. Lại y cứ như vậy tu hành lần lên Thập tín nối nhau mãikhông hở dứt chút nào mà mãn một muôn kiếp mới lên đến bậc “Chánh tâm trụ” thứ sáu. Nếu do đó mà tăng lên, thì đến bậc “Bất thối trụ” thứ bảy.
Thế thì lấy sức mình mà tu phải trải qua nhiều thời gian lâu dài, nhưng cũng chưa được sinh về Tây phương Cực lạc thế giới của Đức Phật A Di Đà. Còn tu theo pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” dung hòa Tự lực với Tha lực, phối hợp sức mình với sức Phật, sức Bồ tát mà tu từ địa vị phàm phu vượt lên quả Thánh thật rất dễ, rất mau. Vì là vừa phát các hạnh lành vừa nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà là đủ, nên gọi rằng mau. Và vì từ một ngày nhẫn đến bảy ngày, hay là từ một hơi niệm Phật đến mười hơi niệm Phật mà được “nhất tâm bất loạn” trong lúc sắp lâm chung liền được siêu thoát cõi phàm trần nhập vào nước Phật, nên gọi là rất mau.
Sách Tịnh độ Thập nghi luận cũng nói: “Những người tu Phật nếu tin chắc sức mình với sức Phật A Di Đà có cái nguyện lực đại bi nhiếp thọ những chúng sinh niệm Phật, rồi tức thì phát Bồ đề tâm tu pháp “Trì danh niệm Phật” nhàm chán cái thân trong ba cõi, khởi làm những hạnh bố thí, trì giới và trong khi làm được một hạnh tốt nào cũng đều hồi hướng về Tây phương Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, thì đến lúc lâm chung chắc chắn nhờ cái nguyện lực của Phật cơ cảm tương ưng lẫn nhau mà được vãng sinh trong một đời khỏi phải trải qua nhiều kiếp.
Hồi hướng có ba cách:
1.- Hồi tự hướng tha.
2.- Hồi tiểu hướng đại.
3.- Hồi sự hướng lý.
Hồi tự hướng tha là đem công đức của mình mà xoay về cho người khác, nghĩa là không ích kỷ để thọ hưởng một mình.
Hồi tiểu hướng đại là chuyển hóa những tâm tánh nhỏ nhặt riêng biệt thành những chí nguyện cao cả, đại đồng, phổ biến.
Hồi sự hướng lý là kết quy tất cả những động tác bên ngoài về bản tâm của mình, nghĩa là thể nhận rằng tất cả sự vật đều từ tâm mà có và đều gom về bản thể của tâm. Thế thì làm Phật được là do tâm, mà làm chúng sinh cũng là do tâm. Tâm, Phật, chúng sinh ba thứ không sai biệt. Giờ đây chúng ta niệm Phật cũng do tâm, Phật hay chúng sinh chỉ như là bề trái, bề mặt của bàn tay thôi. Hễ niệm chúng sinh thì phải làm chúng sinh và chúng sinh chắc chắn phải ở cõi phàm chịu khổ sở. Còn trái lại, nếu niệm Phật thì sẽ làm Phật và Phật thì ở cõi Thánh được an vui giải thoát. Thánh với phàm và Ta bà với Cực lạc không ngăn ngại người, chỉ có lòng người ngại thánh phàm thôi, nên chi có câu rằng:
Lênh đênh trong cõi Diêm phù
Khéo tu thì nổi (siêu), vụng tu thì chìm (đọa)
Tóm lại, về phần dễ chứng của pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh” nhờ có hai sức mạnh: Tự lực và Tha lực, ba món Tư lương: Tín, Nguyện và Hành, ba duyên: Thân duyên, Cận duyên và Tăng thượng duyên với ba nhân duyên hoặc bảy nhân duyên hay năm nhân duyên.
Tự lực là sức của mình, còn Tha lực là sức của Phật và Bồ tát. Mỗi sức đều có công năng hiệu quả đặc biệt. Nhưng nếu Phật tử thiên chấp một sức, thì sự tu hành phải khuy khuyết, khó thành tựu được quả “Vô thượng Bồ đề”. Bởi thế chúng ta chẳng những cậy nơi sức của mình tín ngưỡng mà tỏ thấu chân lý của sự vật và thực hành cái mục đích của mình mà thôi; lại còn phải mong nhờ đến sức của Phật và Bồ tát mới chứng được quả “vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, như chúng sinh phải nương nhờ nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà được vãng sinh Tịnh độ dễ dàng.
Tín là để phát khởi lòng nghĩ sự hồi đầu của con người đối với pháp môn niệm Phật sau khi đã suy xét kỹ lưỡng.
Nguyện là tỏ vẻ ham muốn, ngưỡng mộ và chính nó là một sức mạnh để thúc đẩy lòng tin ấy được lớn thêm và vững vàng.
Hành là bắt đầu vào thực tế để chứng tỏ lòng tin và nguyện trước kia không phải là lý thuyết suông ngõ hầu đạt được kết quả theo như ý muốn đã tin, đã nguyện.
Nhưng có điều rất quan hệ là làm sao cho sự thực hành kia luôn luôn được kềm giữ cho quay về một nơi khỏi bị tản mác để tăng cường sức mạnh trước kia cho thỉ chung như nhất. Đồng thời lại còn phải khởi lên tấm lòng rộng rãi hơn, lợi ích hơn để cho bao nhiêu công đức của chúng ta vừa mới tạo nên được đem ứng dụng trên tinh thần tự lợi lợi tha xứng đáng. Làm được như thế, tức là chúng ta hồi hướng.
Đức Phật Thích Ca là vị Giáo chủ cõi ngũ trược ác thế chỉ cách đưa chúng sinh ra khỏi cõi Ta bà đau khổ. Còn Đức Phật A Di Đà là vị Giáo chủ cõi Tây phương thế giới đón chờ tiếp dẫn chúng sinh về cõi Cực lạc an vui. Tất cả lòng từ bi của hai Ngài đã bộc lộ rõ ràng cho chúng sinh thấy trong công hạnh độ sinh tợ như một ông cha hùng dũng hy sinh vào nhà lửa để kêu gọi, dẫn dắt bầy con ngây dại ham chơi và một bà mẹ hiền từ thắt lòng héo ruột đang đứng chờ ở ngoài cửa để tiếp độ đám con ấy. Nhưng than ôi! Chúng sinh ham chơi quá, mê nghịch ngợm quá! Nhiều khi chúng trở lại xua tay phỉ báng lời cha, không thèm đoái hoài đến mẹ. Nhà gần cháy hết, thân chúng cũng sắp tàn, sức chúng hầu kiệt. Thế mà chúng còn kháng cự, khinh lờn, lý thuyết và cậy mình để chờ hảo hoạn thiêu thân.
Thế mà lòng từ bi của Đức Phật vẫn không giảm. Với cái sức nhiếp thọ mạnh mẽ của Ngài, nếu chúng sinh thật lòng tín, nguyện và hành, thì không bao giờ bị bỏ rơi.
May mắn thay! Trong đám chúng sinh ham chơi quá, mê nghịch ngợm quá, lại còn có đám Phật tử chúng ta: Kẻ xuất gia và người tại gia biết vâng lời ông cha giáo hóa (Đức Thích Ca) và bà mẹ tiếp dẫn (Đức A Di Đà). Hằng ngày chúng ta vừa ráng sức mình ngăn ngừa các việc ác, lại rộng làm các điều lành, ấy là chúng ta dùng tự lực mà tu. Đồng thời chúng ta lại chuyên niệm danh hiệu Phật không ngớt. Ấy là chúng ta biết dung hòa Tự lực và Tha lực, biết phối hợp sức mình với sức Phật lại để mà tu. Sự học đạo và hành đạo của chúng ta rõ ràng là phải đường lối. Vậy cứ y theo chiều hướng ấy mà phấn khởi tu hành càng ngày càng thêm tinh tấn để gây tạo một cái đà có suc lớn, có trớn mạnh đưa chúng ta thẳng thắn một nước về Tây phương Cực lạc thế giới lúc lâm chung để nghe Đức A Di Đà thuyết pháp “Vô sanh” chứng ngôi “Bất thối” hầu có làm Phật kiếp vị lai.
Nam mô A Di Đà Phật
Về thân bệnh, sách y dược nói: “Thuốc trị trúng bệnh, bệnh lành là thuốc hay”.
Về tâm bệnh, Khế kinh nói: “Pháp môn tu hợp thời cơ là pháp môn tuyệt diệu”.
Thật sự, thuốc trị thân bệnh, không có thứ nào dở, mà dở là tại y sĩ đặt không trúng ngay bệnh của người đau. Cũng thế, pháp môn tu của Phật dạy pháp nào tu cũng được chứng ngộ, mà không chứng ngộ là tại thầy truyền giáo dạy không hợp thời cơ của người tu học đó thôi.
- “Thời cơ” là gì?
- Chữ “Thời” nói đủ là thời gian. Ấy là ngày giờ không cùng tận nó cứ lưu chuyển mãi không ngừng với ba trạng thái:1.- Thời quá khứ là ngày giờ đã qua.
2.- Thời hiện tại là ngày giờ đương nay.
3.- Thời vị lai là ngày giờ sẽ đến.
Chữ “Cơ”, nói đủ là căn cơ. Ấy là cái gốc khi nói về thảo mộc, cái trình độ, tài năng và đức hạnh khi nói về con người.
Hai chữ “Thời cơ” nghĩa là cơ hội vừa đúng ở buổi ấy.
- Như thế nào gọi là chỉ đạo hợp thời cơ và không hợp thời cơ?
- Muốn cho mau hiểu, thì sau đây là một thí dụ có ghi chép trong kinh nói cách chỉ đạo hợp thời cơ và bất hợp thời cơ.
Kinh nói: “Một lần kia, ngài Xá Lợi Phất lãnh trách nhiệm dạy hai thầy Tỳ kheo trẻ tuổi hai pháp môn Chỉ quán khác nhau. Thầy thứ nhất tu “Bất tịnh quán”, thầy thứ nhì tu “Sổ tức quán”
Hai thầy Tỳ kheo đã nhiều năm siêng năng tu tập, nhưng không thâu thập được kết quả gì hay. Chán nản quá, hai thầy Tỳ kheo bèn đem sự tình thành thật bạch lên Đức Phật.
Đức Thế Tôn xét căn cơ của hai thầy biết rõ: Một thầy, khi trước, còn ở ngoài đời, có làm nghề thợ rèn, nay đi tu, bắt tập môn “Bất tịnh quán” như thế là không hợp thời. Một thầy nữa, lúc chưa xuất gia, đã làm nghề khiêng thây người chết, bây giờ vào đạo, bắt tập môn “Sổ tức quán”, như thế là không hợp cơ.
Đức Phật liền dạy hai thầy Tỳ kheo ấy phải đổi pháp hành: Thầy đã làm thợ rèn phải tu “Sổ tức quan” là pháp quán đếm hơi thở mới hợp thời, do vì trước kia, thầy đã từng thụt ống bễ cho không khí ra vào quạt lửa; còn thầy đã làm nghề chôn tử thi phải tu “Bất tịnh quán” là tu pháp quán thân thể không sạch sẽ mới hợp cơ, bởi vì trước kia, thầy đã từng ghê gớm mùi hôi tanh của mấy thây chết.
Quả nhiên, sau một thời gian đổi pháp môn tu tập, theo lời chỉ dạy của Đức Phật, cả hai thầy Tỳ kheo trẻ tuổi đều thành công, chứng quả “Thanh Văn”.
Như thế, vấn đề “thời cơ” đối với người Phật tử trong khi chọn một pháp môn tu của Phật đã dạy, thật là rất quan trọng lắm vậy.
Xứng lý mà nói, ĐẠO lúc nào cũng hợp thời, vì ĐẠO là bản thể của vạn vật, nguồn sống chung của muôn loài, thì thời gian nào Đạo lại chẳng hợp thời? Giả dự chúng ta rời bản thể ra trong khoảnh khắc, lìa ĐẠO trong giây lát coi chúng ta có khỏi bị khuynh phúc liền không?
- Chắc chắn là không khỏi khuynh phúc. Vì cớ nào? Vì nếu chúng ta không y theo ĐẠO mà xử thế, thì đời sống của chúng ta phải bị điêu đứng ngay. Lý do là mỗi khi xa lìa ĐẠO rồi, thì ý nghĩ, miệng nói, thân làm, nhất nhất đều sai lầm, tức là bị tội lỗi. Thân tâm chúng ta khi ấy không còn an vui, tự tại được nữa. Bởi thế, thành nhân có lời dạy rằng: “ĐẠO không thể rời ra một chốc lát nào được”.
Tuy nhiên, về sự hóa ĐẠO, truyền giáo phải biết thời cơ. Vì cớ mà Phật, Bồ tát và các Tổ có lúc phải tạm nín im một thời gian trên con đường hoằng pháp lợi sinh của Ngài. Dự như:
1.- Đức Thích Ca đóng thất ở nước Ma Kiệt.
2.- Ngài Duy Ma Cật đóng thất ở thành Tỳ Da.
3.- Đức Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma trọn chín năm ngồi xoay mặt vào vách chùa Thiếu Lâm.
4.- Ngài Lục Tổ Huệ Năng ngót mười lăm năm ẩn dật sau khi đắc pháp chân truyền, là tại cơ duyên chưa đến, chớ không phải ĐẠO chẳng hợp thời.
- Cơ duyên là như thế nào?
- Cơ duyên nói cho đủ là “cơ hội” và “nhân duyên”.
“Cơ hội” là buổi thích đáng để làm việc.
“Nhân duyên” là nhân cái này mà sinh ra cái kia, ví như có hột giống mới sinh ra được quả gọi là nhân; vật kia theo vật nọ là thành, ví như cái bình theo đất sét mà thành gọi là duyên.
“Cơ duyên” là “cơ hội” và “nhân duyên” hòa hợp.
Hai chữ “cơ duyên” là điểm trọng yếu mà Đức Giáo chủ thường nhắm để giảng đạo trọn một đời hoằng dương chánh pháp của Ngài. Như:
1.- Vì thấy căn cơ chúng sinh bất đồng, có kẻ trí người ngu, kẻ đại căn người tiểu trí, vì thấy cấp bậc chúng sinh sai biệt, có kẻ thượng lưu, trung lưu và hạ lưu nên giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng tùy theo mà chia ra làm năm thặng, ba thặng, hai thặng, một thặng chẳng hạn và phân ra làm bốn giáo, tám giáo không chừng.
2.- Vì rõ cơ duyên mà chương trình thuyết pháp của Ngài ngót nửa thế kỷ phải phân làm năm thời nói kinh và thời kỳ hóa đạo của Ngài cũng tùy theo đó mà chia ra làm ba thời kỳ giáo hóa.
Năm thặng là: 1.- Nhân thặng, 2.- Thiên thặng, 3.- Thanh văn thặng, 4.- Duyên Giác thặng, 5.- Bồ tát thặng.
Ba thặng là: 1.- Tiểu thặng, 2.- Trung thặng, 3.- Đại thặng.
Hai thặng là: 1.- Tiểu thặng, 2.- Đại thặng.
Một thặng là Phật thặng cũng gọi là Tối thượng thặng.
Bốn giáo là: 1.- Tạng giáo, 2.- Thông giáo, 3.- Biệt giáo, 4.- Viên giáo.
Tám giáo là bốn giáo pháp hóa nghi: 1.- Đốn, 2.- Tiệm, 3.- Bí mật, 4.- Bất định, cộng với bốn giáo hóa pháp: 1.- Tạng, 2.- Thông, 3.- Biệt, 4.- Viên, thành tám giáo.
Năm thời nói kinh là:
1.- Thời Hoa Nghiêm, 2.- Thời A Hàm, 3.- Thời Phương Đẳng, 4.- Thời Bát Nhã, 5.- Thời Pháp Hoa và Niết Bàn.
Ba thời kỳ giáo lý là:
1/ Thời kỳ giáo lý thứ nhất, Phật dùng duyên sanh xác định là thật có, nên nói TÂM, CẢNH đều có để phá cái chấp về tự tánh thần ngã của ngoại đạo.
2/ Thời kỳ giáo lý thứ hai, Phật nói CẢNH không TÂM có để lần hồi Phật phá trừ chỗ chấp của Nhị thặng về lý duyên sanh thật có, mà nói lý ấy chỉ giả dối in tuồng như có mà thôi; vì Nhị thặng sợ về chỗ chân không nên phải để giả hữu lại (như tuồng có) mà dìu dắt họ.
3/ Thời kỳ giáo lý thứ ba Phật nói TÂM với CẢNH đều không mới đến chỗ rốt ráo của Đại thặng, nên nói duyên sanh ấy là tánh không, một mực bình đẳng, viên dung cả hai Đế không ngại.
3.- Vì biết trước phước đức của chúng sinh, một khi cách Phật lâu đời, càng ngày càng mỏng, nên mỗi Đức Phật đều chia thời gian giáo hóa của các Ngài ra làm ba thời kỳ giáo hóa với bốn phương pháp độ sinh.
Ba thời kỳ giáo hóa là:
1/ Thời kỳ Chánh pháp.- Lúc Phật còn tại thế, người nào gặp Phật hóa độ thì được chứng quả thánh ngay, không sót một ai hết.
2/ Thời kỳ Tượng pháp.- Sau khi Phật nhập Niết bàn rồi, chỉ riêng những người căn tánh thuần thục, huệ sâu, chướng nhẹ mới được chứng ngộ mà thôi.
3/ Thời kỳ Mạt pháp.- Sau khi cách Phật lâu xa, phần đông chúng sinh bị nghiệp nặng, chướng dày, nên số người tu hành được chứng ngộ rất ít.
Bốn phương pháp độ sinh là:
1/ “Pháp thí độ chúng sinh”, tức là từ kim khẩu Phật nói ra mười hai loại kinh hóa độ chúng sinh.
2/ “Thân nghiệp độ chúng sinh”, tức là chư Phật dùng ba mươi hai tướng tốt với tám mươi vẻ đẹp và hào quang của các Ngài mà hóa độ chúng sinh.
3/ “Thần thông lực độ chúng sinh”, tức là chư Phật có vô lượng đức dụng thần thông đạo lực và các phép biến hóa dùng để hóa độ chúng sinh.
4/ “Danh hiệu độ chúng sinh”, tức là chư Phật có vô lượng danh hiệu, hoặc chung, hoặc riêng, nếu có chúng sinh nào biết chuyên tâm xưng niệm hồng danh của Ngài, thì một ngày kia sẽ được gặp Phật hóa độ cho.
Mỗi pháp môn tu đều hợp với mỗi căn cơ.
Thật sự, chúng sinh có nhiều tâm bệnh nên pháp dược của Phật phải tùy theo số bệnh mà có nhiều môn tu; cũng như thân thể con người ta thường đau nhiều chứng nên y dược phải chế ra nhiều thứ thuốc. Mà đã tùy bệnh chỉ bày phương thuốc, thì dầu pháp dược hay y dược, mỗi thứ đều trị mỗi chứng mà thôi.
Thí dụ: Trong y dược có “đại hoàng”, “bã đậu” tánh nhuận trường, thì dùng chữa bệnh táo kiết; còn “càng khương”, “phụ tử” tánh ôn nhiệt, thì dùng trị bệnh hàn lương. Không thể lấy “càng khương”, “phụ tử” mà chữa bệnh táo kiết được; làm như thế chẳng khác nào muốn tắt lửa mà lại chế thêm dầu. Cũng thế, trong pháp dược có pháp tu “đốn ngộ” để dạy bậc thượng căn, đại trí thành công tức khắc; và pháp môn “tiệm tu” để dắt dẫn hạng người hạ căn, tiểu trí đi từ từ trên con đường tu hành lần hồi cũng đến mức thành công. Không thể dùng pháp môn tu “đốn ngộ” mà dạy người hạ căn, vì có sẵn tánh độn tệ, người làm sao đủ sức lãnh hội nổi!
Như thế thì biết rằng giữa lương y với bệnh nhân cũng như giữa nhà giảng đạo với người tìm tu hai bên đều có liên đới quan hệ lắm. Vậy thì, khi thân thể đau, bệnh nhân muốn trị lành mạnh, phải tìm lương y, bác sĩ ký thác bổn mạng. Và người bệnh phải khai hết, không giấu giếm từ chi tiết tình hình bệnh biến chuyển trong thời gian đã qua với hiện nay, để cho lương y, bác sĩ nhận chắc đau chứng gì mà đặt trúng phương thuốc trị. Cũng thế, khi bị phiền não phức tạp ưu sầu quá, người tâm bệnh muốn cầu pháp dược giải khổ, phải tìm minh sư, thiện hữu. Còn làm ông thầy chỉ đạo phải để ý từ li, từ tí về trình độ học lực, căn tánh, nghề nghiệp với sự phát tâm của người muốn học đạo ra thể nào, trước khi thâu nhận làm đệ tử. Nhờ có dò xét kỹ lưỡng mới biết người ấy thuộc về hạng nào để chọn một pháp môn hợp với căn cơ dạy cho người tu được kết quả tốt đẹp.
Tuy nhiên, trong y dược và pháp dược cũng có một vài trường hợp đặc biệt là: “Y dược” có thuốc bá chứng và “Pháp dược” có pháp môn tu hợp tất cả thời và nhiếp tất cả căn cơ.
Trong y dược, các thầy thuốc nghĩ đến tình cảnh những người nghèo ở xa thẳm, hẻo lánh, mỗi khi đau ốm, đi rước một ông thầy về uống thuốc thật là hết sức khó, nên mới chế ra một thứ thuốc đặc biệt trị đủ thứ bệnh, gọi là “thuốc bá chứng”. Thuốc này đỡ khổ cho kẻ bệnh nghèo và nhất là ở “xa tít mù khơi”. Cái sáng kiến chế ra thứ thuốc bá chứng của các ông dược sư thật đáng khen!
Trong pháp dược, Đức Phật nghĩ thương xót chúng sinh trong thời kỳ Mạt pháp, nghèo phước đức, nghèo trí huệ, nghèo nhân duyên, nghèo thời cơ lẫn phương tiện, làm sao mà tu hành thành đạo được, nên mới nói ra một pháp môn tu đặc biệt hợp tất cả thời và nhiếp tất cả căn cơ để cứu độ những chúng sinh nào có kết duyên lành với Ngài. Pháp môn này thuộc về phương pháp độ sinh thứ tư của Phật là “Danh hiệu độ chúng sinh”, tên nó là “Trì danh niệm Phật”. Ấy là một pháp môn không ai hỏi mà Phật tự nói.
Môn pháp dược này cũng như “thuốc bá chứng” ở trong y dược vậy. Nó có một công dụng thù thắng là cứu thoát chúng sinh ở đời Mạt pháp tu ra khỏi ải sinh tử luân hồi, bằng cách đưa chúng sinh về Tây phương Cực lạc thế giới của Đức Phật A Di Đà ở đó tu thêm cho dễ, đến khi chứng được ngôi “Bất thối Bồ tát” và bổ xứ làm Phật.
Đến chỗ này, chúng ta mới thấy rõ tâm từ bi của Đức Phật đối với chúng sinh ở đời Mạt pháp rộng lớn vô cùng, chẳng biết dùng lời chi tán thán cho vừa, cho xứng!
- Thế nào gọi là pháp môn “Trì danh niệm Phật” hợp tất cả thời và nhiếp tất cả căn cơ?
- Đứng về phương diện thời gian mà nói, trong một ngày đêm chia ra làm sáu thời, mà thời nào niệm Phật cũng được, sớm mai, trưa, xế, chiều, tối, khuya không hạn cuộc thời nào cả.
Đứng về phương diện xứ sở mà nói, chỗ nào niệm Phật cũng được, ở chỗ thanh vắng cũng như chỗ ồn ào, ở chỗ tinh khiết cũng như chỗ nhơ uế không hạn cuộc vị trí.
Đứng về phương diện tuổi tác mà nói, kẻ trẻ tuổi cũng như người tuổi già đều niệm Phật được cả.
Đứng về phương diện oai nghi mà nói, lúc tới lui, qua lại, đi đứng, nằm ngồi, trong bốn oai nghi ấy con người đều niệm Phật được cả.
Đứng về phương diện âm thanh sắc tướng mà nói, khi có khóa lễ bái sám công cộng hay lúc trong người thấy hôn trầm, tán loạn, thì cần niệm Phật lớn tiếng dài hơi có nhịp nhàng với chuông mõ; còn khi tâm mình bình tĩnh, ý mình vắng lặng cứ âm thầm niệm Phật, không tiếng người cũng không tiếng chuông mõ. Cũng được phép niệm Phật không đèn nhang, không y áo khi bị hoàn cảnh bắt buộc như lúc bị ngồi tù, nhốt khám, hay khi ra bãi chiến trường.
Đứng về phương diện căn cơ mà nói, người trong ba bậc chín cấp: Thượng, trung, hạ lưu, đại căn, tiểu căn, thượng trí, hạ trí, lợi căn, độn căn, đủ căn, thiếu căn đều niệm Phật được cả.
QUYẾT NGHI
- Nói rằng: Pháp môn Trì danh niệm Phật hợp tất cả thời cơ, vậy trong ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp có ai tu theo pháp môn ấy mà được siêu thoát luân hồi không?
- Trong thời kỳ Chánh pháp, Kinh Bảo Tích nói: “Phụ vương của Phật chắp tay bạch với Phật rằng: Tu hành cách nào sẽ được đạo của chư Phật? Đức Phật đáp: “Hết thảy chúng sinh đều tức là Phật. Vậy phụ vương phải chuyên cần tinh tấn niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà ở Tây phương Cực lạc thế giới, thì sẽ thành Phật đạo”.
Phụ hoàng vâng lời thành tâm niệm Phật liền được vãng sinh. Sau trong tộc thuộc của vua Tịnh Phạn cả thảy mấy vạn người cũng nhờ tu theo pháp môn niệm Phật mà được siêu thăng.
Ở thời kỳ Tượng pháp, khi Phật giáo ở Ấn Độ truyền sang Trung Hoa, đời Đông Tấn có Đại sư Huệ Viễn quy tập cả tăng lẫn tục cộng chung một trăm hai mươi ba người phát nguyện chuyên tu tịnh nghiệp đều được vãng sinh tất cả với các điềm lạ: Ngài Huệ Viễn niệm Phật chín năm thấy Phật đến rờ đầu ba lần thọ ký. Các vị khác có vị biết trước ngày giờ vãng sinh, có vị thấy Phật phóng hào quang đến tiếp dẫn, có vị nghe tiếng nhạc trời với mùi hương lạ trước khi lâm chung.
Trong thời kỳ Mạt pháp này, ở nước Việt Nam ta cũng có nhiều Phật tử tu pháp môn niệm Phật được kết quả tốt trong lúc cuối cùng, song tiếc vì ít ai lưu tâm nhật ký làm bằng để nêu gương khuyến khích.
Tôi còn nhớ cách ba mươi năm nay, các báo chí ở Sài Gòn có đăng tin ông Cả Thời, một tín đồ họ Thích chuyên tu niệm Phật, ở làng Hạnh Thông Tây, tỉnh Gia Định biết ngày giờ chết của ông trước một tháng. Và đến ngày ông chết, trước mười lăm phút, ông đi từ giã hết thảy người nhà để đi đến chỗ ông định cất xương. Ấy là một cái lu lớn có sơn phết và đặt sâu xuống đất từ lâu, con cái của ông đều biết. Ý của ông muốn: Khi gần bỏ xác, ông ngồi kiết già niệm Phật chờ vãng sinh và cũng được để y như vậy mà lấp đất, nên đâu đó ông đã sắp đặt sẵn sàng.
Lúc ông Cả Thời từ giã bà con để đi chầu Phật, con cái trong nhà không mấy tin, vì thấy ông không có đau ốm chi hết. Nhưng chúng cũng để ý theo rình coi thử. Ông cả đánh diêm quẹt lên rọi đường đi trước, sắp con nhẹ bước theo sau cách xa xa. Đến sinh phần, ông dở nắp lu vào trong ngồi niệm Phật lớn tiếng dài hơi một chập. Bỗng đâu trên không trung có lằn ánh sáng giáng ngay chỗ ông ngồi. Vắng tiếng niệm Phật của ông Cả, các con theo rình đốt đèn lên xem, thì thấy ông đã hóa ra người thiên cổ.
Những người tu pháp môn niệm Phật được vãng sinh từ xưa đến nay thật rất nhiều, ai muốn rõ thêm sự tích có chứng nghiệm chắc chắn, thì xem Tập Vãng Sinh của Đại sư Liên Trì và sách Tịnh độ Thánh hiền của Bành cư sĩ.
Tóm lại, về phần hợp thời cơ của pháp môn “Danh hiệu độ chúng sinh”, tức là pháp môn niệm Phật là một pháp dược tuyệt diệu gồm thâu tất cả các môn tu, chuyên trị tất cả tâm bệnh của chúng sinh cũng như thuốc bá chứng là một thứ y dược trị đủ các thứ thân bệnh của con người. Pháp môn niệm Phật được công nhận siêu việt hơn tất cả các pháp, lý do nó có công năng độ được ba bậc, chín cấp chúng sinh bất cứ thời kỳ nào, mà nhất là ở thời kỳ Mạt pháp, càng cách Phật lâu đời, chúng sinh bị nghiệp nặng, chướng dày, nếu không tu theo pháp môn niệm Phật, thì khó thành đạo lắm.
Đức Bổn sư Thích Ca Từ phụ đã biết trước về đời Mạt pháp, chúng sinh khó tu khó chứng với pháp môn đốn ngộ như pháp Tham thiền minh tâm kiến tánh thành Phật tức thời, nên Ngài tự giảng Kinh A Di Đà, nói ra một pháp môn khó tin là “Trì danh niệm Phật” cầu đới nghiệp vãng sinh về Tây phương Cực lạc thế giới ở đó tu hành dễ thành tựu quả “Vô thượng Bồ đề”.
Chư đại Bồ tát như đức Văn Thù, đức Phổ Hiền v.v... cũng công nhận ở nước của Đức Phật A Di Đà tu mau thành đạo nên đều phát nguyện sinh về Tây phương Cực lạc. Và chư Tổ trong mười tông: 1.- Câu Xá tông, 2.- Thành thật tông, 3.- Luật tông, 4.- Pháp Tướng tông, 5.- Tam Luận tông, 6.- Thiên Thai tông, 7.- Hoa Nghiêm tông, 8.- Mật tông, 9.- Thiền tông, 10.- Tịnh độ tông, đồng tán thán pháp môn “Trì danh niệm Phật” của Đức Thích Ca dạy để làm bằng khuyến khích chúng ta nên phát tâm chánh tín tu theo.
- Vậy Phật tử Việt Nam chúng ta nghĩ thế nào?
- Chắc chắn chúng ta đều dư biết: Phải vâng lời Phật, noi gương các ông Bồ tát và nghe theo lời khuyên bảo của chư Tổ lo chuyên tu niệm Phật. Hơn nữa, Phật giáo truyền sang nước Việt Nam ta chỉ có ba tông: Luật tông, Thiền tông, Tịnh độ tông là được nhiều người tu theo.
Nam mô A Di Đà Phật
BỐN MƯƠI HAI PHÁP TRÌ DANH NIỆM PHẬT^
Những người chuyên tu tịnh nghiệp cần biết rõ bốn mươi hai pháp Trì danh niệm Phật để hành trì cho hợp thời cơ mới hy vọng được kết quả “nhất tâm bất loạn”.
1.- “Hộ ý căn trì danh”: Trì danh niệm Phật hộ được ý căn.
Một khi mình đã dụng tâm niệm Phật, thì những điều dữ, điều lành không cần tưởng đến, dầu việc cần thiết đi nữa cũng dẹp lại một bên, đừng để nó chướng ngại tâm niệm Phật của mình.
Phải nghĩ như vầy: Tâm niệm bị ngoại duyên ràng buộc là cơ quan dụng sự toàn nơi ý địa; nếu mình chăm chú niệm Phật đến chỗ tâm địa quang minh, thì ý địa sẽ hóa thành “Diệu quan sát trí”, tức là pháp “Trì danh niệm Phật hộ ý căn” có năng lực chuyển phàm thành thánh.
2.- “Giới khẩu nghiệp trì danh”: Trì danh niệm Phật giữ được nghiệp miệng.
Khi mình niệm Phật thì bao nhiêu những lời hung ác, miệng mình không nói đến; nếu rủi ro lỡ lời bất nhã, thì mình phải hối hận liền, tự trách mình là người biết niệm Phật sao còn thô tục, rồi cất tiếng niệm Phật lớn để đánh thức tâm mình bài trừ miếng dữ.
3.- “Đoan thân trì danh”: Trì danh niệm Phật thân phải đoan chính.
Mình đã đích thân niệm Phật thì những lúc đi, đứng, nằm, ngồi, tới, lui, qua, lại phải cho đoan chính. Hễ thân đoan chính thì tâm mới được thanh tịnh.
4.- “Quá châu trì danh”: Trì danh niệm Phật bằng cách lần chuỗi.
Miệng vừa niệm Phật một câu “Nam mô A Di Đà Phật” thì tay lần qua một hột chuỗi. Đó là dụng ý mượn xâu chuỗi để kềm chế tâm mình không cho tán loạn.
5.- “Cao thanh trì danh”: Trì danh niệm Phật cất tiếng cho cao.
Lúc nào vọng tưởng loạn khởi, thần chí hôn trầm, thì phải cất tiếng lớn lên niệm Phật, tức thì cảnh giới đổi mới. Bởi vì tâm của mình nhận được tiếng mình niệm Phật tỏ rõ, thì bao nhiêu những tiếng vu vơ tự nhiên tiêu tan.
6.- “Đê thanh trì danh”: Trì danh niệm Phật nhỏ tiếng.
Khi nào thân thể mỏi mệt mình hạ hơi, xuống giọng niệm Phật nhỏ tiếng, đến lúc sức khỏe phục hồi mình sẽ niệm lớn tiếng.
7.- Kim cang trì trì danh”: Trì danh niệm Phật bằng cách “Kim cang trì”.
Lúc nào thân tâm mình không thích hợp với hoàn cảnh, nhân vật ở chung quanh nó làm chướng ngại sự niệm Phật của mình, thì mình chỉ nhích môi lưỡi niệm Phật không ra tiếng và cứ niệm như vậy mãi, bền chí không quên.
8.- “Mặc nhiên trì danh”: Trì danh niệm Phật một cách im lặng.
Nếu mình không chịu niệm Phật lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Phật lần chuỗi cho đến niệm Phật nhích môi lưỡi mình cũng gọi là trước tướng, thì có cách niệm không nhích môi lưỡi và không phát ra tiếng, chỉ buộc tâm vào một chỗ, niệm trong tâm, rồi đem cái nghe trở vào mà nghe tâm niệm. Niệm như vậy cho lâu thì sẽ được “Niệm Phật tam muội”.
9.- “Điều tức trì danh”: Trì danh niệm Phật với sự điều hòa hơi thở.
Lúc niệm Phật mình ngồi im lặng, quán cái chót mũi, điều hòa hơi thở ra vào, cứ một hơi thở là một câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật” không quá gấp cũng không quá hưỡn, để cho tâm với hơi thở nương nhau mà ra vào. Trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm mãi. Sau khi nhiếp tâm được lâu rồi, thì hơi thở với sự niệm hai cái đều quên, tức là thân tâm mình với hư không chẳng khác. Trì niệm như vậy đến khi công phu thuần thục, tức nhiên tâm nhãn khai thông, thì một ngày kia tam muội hiện tiền, ấy là “Duy tâm Tịnh độ”.
10.- “Tùy phận trì danh”: Trì danh niệm Phật với cách tùy phận.
Khi niệm Phật mà mình thấy hôn trầm, thì mình đi kinh hành mà niệm, khi loạn động thì mình ngồi ngay thẳng mà niệm, hoặc giả đi, ngồi đều không hạp, thì mình quỳ, đứng hay nằm nghiêng bên phía tay phải niệm cũng được. Nhưng câu niệm Phật sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” đừng cho một niệm nào quên, thì tự nhiên hàng phục được tâm ma.
11.- “Đáo xứ trì danh”: Trì danh niệm Phật khi đi đến chỗ nào.
Niệm Phật không nệ là chỗ nào, chỗ sạch sẽ, chỗ nhơ bẩn, chỗ vắng vẻ, chỗ rộn ràng, chỗ vui, chỗ buồn mình cũng cứ hồi quang phản chiếu mà tự nghĩ rằng “bao nhiêu cảnh giới ấy từ vô thỉ đến nay, mình đã trải qua đến tram, ngàn, muôn ức lần rồi, nó vẫn không lạ, duy có một điều “Niệm Phật vãng sinh” là điều mình chưa làm được nên bị luân hồi mãi. Vậy ngày nay mình chẳng quản niệm được hay niệm không được, mình chí quyết làm sao cho cái tâm niệm Phật của mình đến chết cũng không quên. Bởi vì quên cái tâm niệm Phật, thì bao nhiêu tạp niệm thiện ác kia sẽ kéo nhau đến làm cho mình thọ khổ lụy với nó, nên chỉ trong lúc đại, tiểu tiện lợi hay lúc sinh đẻ mình cũng vẫn niệm không kể sạch dơ; hễ càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm, càng buồn càng niệm, như đứa trẻ kêu mẹ không sợ mẹ giận. Nếu sợ mẹ giận mà chẳng dám kêu, thì đứa con ắt lạc mẹ, chớ làm sao gặp mẹ được.
12.- “Hữu định vô định trì danh”: Trì danh niệm Phật có định giờ và không định giờ.
Mỗi ngày hai buổi, sớm tối niệm Phật có chừng đến chết cũng không thêm bớt; ấy là niệm Phật có định giờ. Còn mấy buổi khác, nếu thong thả thì niệm nhiều, bận việc thì niệm ít; ấy là niệm Phật không định giờ.
13.- “Đối tượng, ly tượng trì danh”: Trì danh niệm Phật đối trước tượng và không đối trước tượng.
Trong lúc đứng trước tượng Phật mình cứ một lòng tin tưởng tượng Phật là vị chân Phật, chớ không nghĩ là Phật đồng, Phật gỗ, Phật đất, Phật giấy mà sinh lòng phân biệt. Còn như trong lúc không có tượng Phật, thì mình phải ngồi cho đoan chính, xoay mặt về hướng Tây, khởi niệm tưởng cái ánh quang minh của Đức Phật A Di Đà trụ trên đầu mình, chữ nào câu nấy đều chẳng lạc không, thì ác nghiệp tự nhiên tiêu.
14.- “Man trung trì danh”: Trì danh niệm Phật lúc bận rộn.
Trong lúc rộn việc, mình liệu bề niệm Phật được một câu thì niệm một câu, niệm được mười câu thì niệm mười câu.
Ông Bạch Lạc Thiên dạy: “Đi cũng niệm A Di Đà, ngồi cũng niệm A Di Đà, dầu rộn như tên bắn, đạn ria cũng không rời niệm A Di Đà”.
15.- “Nhàn trung trì danh”: Trì danh niệm Phật lúc thong thả.
Rảnh việc được giờ nào, phút nào, thì nên niệm Phật thêm giờ phút nấy. Bởi vì ở đời có nhiều người cực khổ, làm ăn không hở tay, muốn cầu một chút thong thả cũng chẳng được thay, có đâu rảnh mà tu hành. Ngày nay mình được thong thả lại được nghe thêm pháp niệm Phật là may mắn lắm! Vậy mình nên phấn khởi tinh thần chuyên tâm niệm Phật.
16.- “Tôn quý trì danh”: Trì danh niệm Phật phaùi tôn quý.
Phước đời nay là do công hạnh tu hành đời trước nên chi những bậc tôn quý vinh hiển phần nhiều là những vị cao tăng đại đức đời trước chuyển thế lại. Song phải biết cái vinh hoa ấy tuy có mà chẳng bền, nếu mình cứ mê đắm theo sự sung sướng về nhục dục mà tạo ác nghiệp, thì ắt phải trầm luân. Chi bằng mình phát tâm làm việc Phật pháp, tạo chỗ thờ Phật để hằng ngày tụng niệm, in kinh ấn tống, đúc tượng Phật cho người chiêm ngưỡng, gặp ai cũng khuyên bảo niệm Phật; vì mình theo bậc tôn quý nói ra nhiều người kính nể nghe theo, và mình phải cương quyết vãng sinh cho được để làm khuôn mẫu cho người khác bắt chước.
17.- “Ti tiện trì danh”: Trì danh niệm Phật phái ti tiện.
Những người ti tiện đem thân làm nô lệ cho người là cực khổ, nếu không sớm tìm phương pháp giải thoát, thì về sau lại càng khổ hơn nữa. Thế thì phải ráng niệm Phật cho nhiều để ươm giống Bồ đề kết duyên lành với Phật.
18.- “Tịnh tế trì danh”: Trì danh niệm Phật im lặng kỹ lưỡng.
Những người trí xảo phần đông hay điên đảo, vậy phải để lòng im lặng niệm Phật kỹ lưỡng. Nếu người trí huệ niệm Phật thì thiên hạ bắt chước niệm theo nhiều cho đến kẻ tu ngoại đạo cũng quay đầu trở lại, vì cái thanh danh của trí huệ đủ khai phát lòng người.
19.- “Lão thiệt trì danh”: Trì danh niệm Phật chắc thiệt.
Những người không cầu danh lợi, chẳng khoe tài năng, một lòng chân thiệt niệm Phật tu hành rất là ít có, nên chi sự chắc thiệt là một con đường đi thẳng đến Tây phương Cực lạc; vì đã chắc thiệt thì ngoài sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật ra, không còn một mảy chi vọng tưởng nữa.
20.- “Hỷ khánh trì danh”: Trì danh niệm Phật lúc vui mừng.
Những người đương ở trong cảnh vui mừng mà biết xét rằng cái vui mừng ấy không bền, nên nhân lúc vui mừng lại phát tâm niệm Phật để nhờ ánh sáng của Phật gia bị cho mình nhân cảnh thuận trừ bỏ ác niệm được nhiều, thì những phước duyên thường đưa đến cho mình vừa ý tu thêm mãi, đến khi chết được vãng sinh về cõi Tịnh độ, thật vui sướng vô cùng!
21.- “Hứa nguyện trì danh”: Trì danh niệm Phật với cách hứa nguyện.
Gốc của sự vãng sinh là “Trì danh niệm Phật”. Nhưng cái oai quang của Phật không thể nghĩ bàn cho nên niệm danh hiệu của Phật để cầu điều lành thì được như ý muốn. Vậy thì, thay vì cầu thần vái quỷ, thì nên hứa nguyện niệm Phật là tốt hơn. Kinh nói niệm Phật có mười điều lợi ích:
1.- Ngày đêm thường được các vị Đại lực thần tướng các cõi trời ẩn hình ủng hộ.
2.- Thường được đức Quán Thế Âm Bồ tát và các vị Bồ tát khác ủng hộ.
3.- Đức Phật A Di Đà thường phóng ánh quang minh mà nhiếp thọ người niệm Phật.
4.- Các loài ác quỷ, rắn và thuốc độc không thể hại được.
5.- Những nạn nước, lửa, đao binh và những hoạnh tử, uổng tử với lao ngục đều khỏi bị cả.
6.- Những tội đã phạm ngày trước thảy đều tiêu và cũng khỏi oan báo.
7.- Ngủ chiêm bao thì thấy điềm tốt và có khi thấy được thân Phật.
8.- Tâm mình thường vui và làm việc gì cũng được kết quả tốt.
9.- Thường được mọi người kính trọng.
10.- Đến lúc gần chết, tâm bình tĩnh niệm Phật, tự mình thấy Phật và Bồ tát phóng quang tiếp dẫn mình.
22.- “Giải thích trì danh”: Trì danh niệm Phật giải ác niệm.
Bao nhiêu điều nghịch cảnh hiện tiền của mình đều do túc duyên đưa đến, mình không nên nhân nghịch cảnh ấy mà khởi ác niệm thêm nữa. Mình phải an lòng, chí tâm niệm Phật mãi, thì lâu ngày chầy tháng cảnh duyên ấy cũng xoay đổi trở lại; vì Phật có vô lượng trí huệ, phước đức gia bị cho mình.
23.- “Quý phận trì danh”: Trì danh niệm Phật biết hổ thẹn.
Ở trong cảnh ngộ đau khổ mà cứ buồn rầu tên xiết mãi là người không rõ Phật tánh, nên chi đã buồn thì phải nghĩ thế nào cho mình và người đều được khỏi khổ. Biết rằng Phật hay thương xót chúng sinh, mình dụng “Bi tâm” niệm Phật để cầu đến lượng từ bi của Ngài tế độ, thì sự niệm Phật ấy đáng khẩn thiết lắm. Mình phải sinh lòng hổ thẹn về sự tu hành của mình chậm trễ, rồi mỗi khi tưởng đến Phật mình hết sức buồn tủi, như vậy sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” của mình niệm chữ nào cũng tha thiết dễ cảm đến Phật và Bồ tát.
25.- “Cúng dường trì danh”: Trì danh niệm Phật với pháp cúng dường.
Trong những ngày lễ vía Phật, nếu mình chỉ dùng đèn, nhang, bông, trái, tùy phận cúng dường thì chỉ có “Tài cúng” mà thôi. Vậy mình phải dùng thêm “Pháp cúng” của tâm mình thì công đức được thù thắng hơn.
26.- “Báo đáp trì danh”: Trì danh niệm Phật báo ân.
Người đời dùng tâm thành kính đối với trời đất, dùng tâm trung hiếu đối với quê hương, cha mẹ, theo pháp thế gian cũng là phải, vì hợp phong tục; nhưng xét lại chưa phải là sự báo ân đúng chánh pháp. Vậy chúng ta phải dùng cái tâm niệm Phật để đền bốn ân trọng kia mới xứng đáng. Mỗi khi niệm Phật, chúng ta nguyện đem công đức niệm Phật vì cả bốn ân mà hồi hướng về Tây phương Tịnh độ. Làm như vậy tức là chúng ta đã gieo hột giống Kim Cang cho những người ăn của chúng ta rồi, thì đời sau các người ấy chắc có lúc được gội nhuần giáo pháp của Phật mà siêu thăng.
27.- “Bố thí trì danh”: Trì danh niệm Phật với cách bố thí.
Khi thấy ai ở trong hoàn cảnh khốn khổ như đau ốm, đói khát, rách rưới, thì trước hết mình giúp đỡ thuốc men cho người uống, cơm cháo cho người ăn, áo quần cho người mặc, rồi sau mình dùng lời lành, lẽ chánh khuyên người niệm Phật. Đó là mình dùng tài thí của cái khổ nhất thời và dùng pháp thí cứu cái khổ lịch kiếp. Hai phương pháp bố thí mình làm được hoàn toàn.
Còn như thấy người và vật ngộ nạn mà sức mình không phương cứu nổi, thì mình thành tâm niệm Phật để an phần thần thức cho người bị nạn. Hoặc gặp phải năm đại bệnh, đại thích, suốt đêm mình trì niệm danh hiệu của Phật, thì có thể tiêu được oan lệ. Bởi vì một câu neo với sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật” của mình chí thành thấu đến tất cả mười phương pháp giới, chúng sinh đều được phần lợi ích, thì cai công đức bố thí ấy không thể nghĩ bàn.
28.- “Tâm niệm tâm thính trì danh”: Trì danh niệm Phật bằng cách tâm niệm tâm nghe.
Tâm mình nhớ đến danh hiệu Phật rồi mới khua động lưỡi; lưỡi khua động rồi đem về tâm; lưỡi động thành tiếng, tai lại tự nghe. Nếu trì danh niệm Phật được tâm niệm tâm nghe, thì con mắt không ngó bậy, lỗ mũi không ngửi bậy, thân cũng không hành động bậy, tức là Phật tánh của mình nhờ sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” mà trở lại làm chủ nhà mình.
29.- “Thanh trung trì danh”: Trì danh niệm Phật trong tiếng niệm.
Nếu tiếng niệm Phật đã thuần thục, thì trong sáu trần chỉ còn một trần là thanh trần mà thôi. Khi ấy sự tác động của sáu căn đều ký thác cho lỗ tai, thân không phân biệt, mũi chẳng rõ mùi, con mắt không biết mở nhắm, hai món viên thông của đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí cũng tức là một, không chi chẳng viên, không chi chẳng thông; căn tức là trần, trần tức là căn, căn trầntức là thức; mười tám giới đều dung hòa làm một giới.
Muốn áp dụng pháp niệm Phật này, phải có một khoảnh đất trống sạch sẽ, đi quanh theo phía tay phải một vòng rồi chậm rãi cất tiếng niệm Phật lớn, lần lần niệm như vậy trong ba vòng, tiếng niệm của tâm mình thấu lộ ra ngoài bao trùm cả mười phương. Đó là an trụ thân tâm thế giới ở trong tiếng niệm Phật mà cũng là đem thân tâm của mình an trụ ở trong tiếng niệm Phật mà niệm Phật. Cái thắng cảnh này có thể diệt trừ được các thứ nhơ bẩn của tâm.
30.- “Quang trung trì danh”: Trì danh niệm Phật trong ánh sáng.
Tiếng nói là tiếng của tâm, ánh sáng cũng là ánh sáng của tâm. Hễ tiếng của tâm quanh lộn ở đâu thì ánh sáng của tâm phóng ra ở đó. Nếu mình an trụ ở trong tiếng của tâm mà niệm Phật, tức là mình an trụ ở trong ánh sáng mà niệm Phật.
31.- “Cảnh trung trì danh”: Trì danh niệm Phật trong gương.
Chân tâm ví như cái gương tròn lớn, sáng suốt không gì ngăn che, hết thảy chúng sinh và Phật ba đời mười phương đều là bóng ở trong gương cả, nên chỉ “Trì danh niệm Phật” ở trong tiếng tức là ở trong ánh sáng, mà ở trong ánh sáng tức là ở trong gương.
32.- “Bất đoạn trì danh”: Trì danh niệm Phật không dứt.
Mỗi ngày hai buổi, buổi mai và buổi chiều, lúc bận việc cũng như lúc rảnh rang, ở chỗ sạch sẽ hay chỗ nhơ bẩn đều một lòng chăm chú niệm Phật. Giả sử trong khi tiếp chuyện với khách, cái tướng niệm bề ngoài có gián đoạn đi nữa cũng chẳng qua gián đoạn thanh niệm, chớ không thể gián đoạn tâm niệm. Niệm Phật đến cảnh giới như thế thì dễ thành tam muội lắm vậy.
33.- “Bất tạp trì danh”: Trì danh niệm Phật không xen vọng tưởng.
Niệm Phật trừ được vọng tưởng là dứt hết tạp niệm tức nhiên chánh niệm phát hiện.
34.- “Cô thân trì danh”: Trì danh niệm Phật của người cô thân.
Những người không còn cha mẹ, chẳng có vợ con, thì không việc gì ràng buộc, nhân hoàn cảnh ấy mà niệm Phật thì dễ bề giải thoát hơn mọi người khác.
35.- “Kiết kỳ trì danh”: Trì danh niệm Phật kỳ hạn.
Niệm Phật có kỳ hạn từ bảy ngày. Pháp niệm Phật này có hai cách:
1/ Niệm Phật có kỳ hạn một mình thì phải sắm đủ cơm khô, nước trong, dầu, đèn, giường, mùng. Người xuất gia thì ở riêng trong liêu hay cất một cái thất trong vườn chùa mà ở. Còn người tại gia thì ở riêng một căn nhà dọn sạch sẽ hay làm một cái thất gần nhà tùy ý.
Trong chỗ ở niệm Phật chỉ vừa dọn một bàn thờ Phật và để giường ghế nằm ngồi. Trọn bảy ngày phải ăn ngọ, chăm chú niệm Phật, tụng kinh, xem luận, không được nghĩ đến việc khác, nhất là không giao tiếp với một người nào.
2/ Niệm Phật có kỳ hạn đông người, thì phải rước một vị Hộ thất sư, lập ra quy điều nghiêm ngặt. Đến ngày khởi thất, những món ăn, thức uống, nhang, đèn, bông, trái do ông Hộ thất sư chiếu biện đủ cả. Bắt đầu từ đó các vị đồng thất kia phải y theo quy đều đã định: Giờ nào lễ sám, niệm Phật, giờ nào ăn, giờ nào nghỉ, giờ nào thọ trì trong bảy ngày đúng theo quy điều đã lập.
36.- “Tụ hội trì danh”: Trì danh niệm Phật lúc tụ hội.
Trong khi nhiều người tụ hội lại làm ban niệm Phật, phải sắp đặt có trật tự. Như lúc niệm Phật thì một người dẫn câu xướng lên trước, mấy người kia niệm theo sau; cứ niệm một tiếng thì gõ mõ một tiếng, tiếng nào mõ nấy cho đều, không lộn xộn mà loạn động tâm đi.
37.- “Thành tựu tha nhân trì danh”: Trì danh niệm Phật thành tựu cho người.
Hoặc ở một chỗ niệm Phật cầu nguyện cho người, hoặc đồng với người ở một chỗ niệm Phật có kỳ hạn, hoặc đem pháp môn niệm Phật giảng cho người biết, hoặc phá cái nghi niệm Phật giùm cho người, hoặc khuyên người bền chí niệm Phật, v.v...
Nhất là người sắp lâm chung, mình đi đến hộ niệm, khiến cho người sắp chết nhớ sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật” vừa nhớ vừa niệm, làm cho người giữ được chánh niệm và vãng sinh.
Đó là thành tựu pháp huệ mạng cho người vậy.
38.- “Nạn trung trì danh”: Trì danh niệm Phật khi có nạn.
Trong lúc có tai nạn như giặc nổi dậy khắp xứ, bệnh truyền nhiễm lan rộng cùng nơi có người phát tâm niệm Phật cầu tiêu tai. Một người niệm thì một người được an, nhiều người niệm thì nhiều người được an. Bởi vì trong khi phát tiếng niệm Phật thì đã có ánh sáng quang minh của Đức A Di Đà trụ ở trên đảnh người, thì tự nhiên có các vị thiện thần ủng hộ cho khỏi tai nạn.
39.- “Mộng trung trì danh”: Trì danh niệm Phật lúc chiêm bao.
Những người niệm Phật nguyện lực kiên cố và công phu thuần thục cái niệm ban ngày đã khắn khít, thì ban đêm lúc chiêm bao cũng nhớ niệm Phật luôn. Đó là một triệu chứng về sự vãng sinh chắc chắn cần phải tiếp tục niệm mãi, không nên thối chuyển.
40.- “Bệnh trung trì danh”: Trì danh niệm Phật lúc bệnh hoạn.
Khi có bệnh, người ốm nên nghĩ rằng: “Bệnh là cái máy của sự chết, mà cái chết là cái ải của Thánh, phàm, tịnh, uế, do đó mà sai biệt, nên cho tịch khi đau ốm phải để tâm nhớ Phật bội phần, niệm danh hiệu Phật và tưởng cảnh Tây phương Cực lạc mãi, cũng như kẻ ở đất khách nhớ cha mẹ, nhớ làng nước, nhớ quê hương, một mực khoan khoái muốn về, không có chút gì bận lòng”.
Nếu nghĩ được như thế, thì đến lúc mạng chung, chắc có ánh sáng của Phật đến rước làm cái chí nguyện vãng sinh của mình được thỏa mãn.
41.- “Lâm chung trì danh”: Trì danh niệm Phật lúc sắp chết.
Những người niệm Phật lúc sắp chết phải dự tính rằng: “Chết là sự trọng yếu cuối cùng của đời người, nếu không nhớ niệm Phật thì cái đời tu hành của mình đã luống công mà cái khổ luân hồi cũng không thể nào tránh khỏi”.
“Lại cái thân tứ đại giả hợp của con người là vô thường. Thêm cõi Ta bà của con người ở là nhơ uế. Cái thân đã không bền, cái cõi lại không sạch, không đủ làm cho mình quyến luyến. Thế mà ngày nay mình chết, bỏ cái thân huyễn hóa để bắt cái thân liên hoa hóa sinh, từ cái cõi khổ ngũ trược ác thế mà về được cõi Cực lạc Tây phương chẳng khác nào mình đổi áo cũ rách mà lấy áo mới lành, thì có chi sung sướng bằng!”.
Nếu dự tính được như vậy, thì lúc sắp chết, tâm chẳng còn thương tiếc xác thịt và chẳng còn quyến luyến cõi đời, mà giữ được chánh niệm, thì được trực vãng Tây phương Cực lạc thế giới dễ dàng.
42.- “Phát nguyện sám hối trì danh”: Trì danh niệm Phật cần phải phát nguyện sám hối.
Những người niệm Phật phải có đủ ba điều cần thiết: “Tín, Hạnh, Nguyện”.
TÍN.- Trước hết phải tin lời Đức Thích Ca nói: “Từ cõi Ta bà này đi thẳng qua hướng Tây cách xa mười vạn cõi Phật, có một thế giới kêu là Cực lạc. Cõi ấy do hạnh nguyện vô lượng vô biên thanh tịnh với Đức Phật A Di Đà tạo thành, cũng như cõi Ta bà này do nơi vọng nghiệp nhơ bẩn của chúng sinh gây tạo ra vậy.
Kế đó ta tin Đức Phật A Di Đà là ông Giáo chủ ở cõi Cực lạc, xưa có lời thệ nguyện tiếp dẫn những chúng sinh niệm Phật trong mười phương về nước Ngài để hưởng cái vui lâu dài, cũng như Đức Thích Ca là ông Giáo chủ ở cõi ngũ trược ác thế này, xưa kia cũng thệ nguyện hiện thân thuyết pháp để hóa độ những chúng sinh có thiện căn ra khỏi cõi khổ sinh tử luân hồi.
Sau ta tự tin ta cũng có đủ trí huệ như Phật, song vì ta mê, Phật giác mà thành ra ta với Phật khác xa, nếu một ngày kia ta đoạn trừ hết vọng tưởng mê chấp rồi, thì ta với Phật không hai. Khi ấy, Phật tức ta, ta tức Phật.
HẠNH.- Khi ta đã tin chắc chắn rồi, thì ta phải thực hành theo sự tin ấy. Như ta đã tin Đức Phật A Di Đà có đủ thệ nguyện tiếp dẫn chúng sinh, thì hằng ngày ta phải chí tâm niệm danh hiệu Ngài mong cầu Ngài cứu độ. Ta đã tin nơi ta có thể làm Phật, thì thường bữa ta phải nhất tâm niệm Phật để diệt trừ vọng tưởng điên đảo.
NGUYỆN.- Trong khi ta thực hành theo cái của ta đã tin, thì ta cần phải phát nguyện lớn, lúc hiện tiền này sau bỏ báo thân được nhờ công đức của Phật mà được vãng sinh về Cực lạc thế giới, nghe pháp Vô sanh của Phật dạy, chứng quả Bất thối và được bổ xứ làm Phật để hóa độ chúng sinh.
Nhờ có nguyện lớn làm hướng đạo cho TÍN và HẠNH sự tu hành của ta mới đạt mục đích. Nếu có TIN và HẠNH mà không có NGUYỆN thì cũng như người tin chắc bên bờ kia có cảnh vui sướng, lo sắm ghe thuyền sẵn sàng mà lòng lại dần dà không chịu xuống ghe thuyền đi, thì làm sao qua đến bờ kia được, nên chi những người đã tin tu pháp môn niệm Phật cần phải phát nguyện mới được.
Song khi phát nguyện rồi, ta cần phải chí tâm sám hối những tội lỗi của ta đã làm; vì tội nghiệp do thân, khẩu, ý của ta tạo ra từ vô thỉ đến nay rất nhiều không kể hết. Vậy mỗi ngày, đối trước Tam Bảo, ta nên niệm Phật phát cầu xin sám hối. Như thế, tội nghiệp của ta càng ngày càng tiêu mà phước lại càng ngày càng lớn nhờ đó cái nguyện niệm Phật cầu sinh của ta không bị trở ngại, trong chín phẩm sen vàng ở ao bảy báu trên Tây phương Cực lạc thế giới thế nào ta cũng có được một.
Ngài Cổ Am Thiền sư nói: “Người ở bậc nào tu pháp môn Trì danh niệm Phật cũng đều có ứng nghiệm: Đương lúc sống thì phước duyên thêm nhiều, khi chết tội hết, nghiệp tiêu và được vãng sinh về Tây phương Cực lạc thế giới”
Chư Tổ cũng thường nói: “Người tu pháp môn niệm Phật” cầu đới nghiệp vãng sinh về cõi Tịnh độ cũng như cỡi thuyền buồm xuôi gió và thuận nước, chẳng nhọc sức mình chèo chống mà tự nhiên mau đến vậy”.
Nam mô A Di Đà Phật.
PHÁP TU NIỆM PHẬT TAM MUỘI ^
Dịch theo quyển Tu niệm Phật tam muội phương tiện đàm của Đường Đại Viên.
TỰA
Tôn chỉ nhà Phật là đoạn tuyệt học căn, hòa bình thế giới, nên khiến chúng sinh hữu lậu tu pháp vô lậu được từ biển khổ sinh tử lên bờ Bồ đề.
Ở trong thời kỳ mạt pháp, vì thấy chúng sinh nghiệp dày, chướng nặng, căn lành vùi lấp, những người hoài bão tâm đại từ bi, muốn đem Phật pháp cứu độ người đời, thì lại tùy thuận diễn giảng những pháp phương tiện hữu lậu.
Những tưởng chuyển được chúng sinh, nào dè đâu phải bị chúng sinh chuyển lại. Vì tại nơi tùy thuận chúng sinh mà những sự ăn, uống, đi, ở, làm lụng của người gánh vác sứ mạng của Phật dường như đều thủ pháp hữu lậu hết. Cho đến cả sở học cũng muốn bỏ luôn nữa!
Thấy tình cảnh như vậy, soạn giả (Đường Đại Viên) bồi hồi, lo ngại một nỗi, mặc dầu tuyên diễn rành rẽ tất cả giáo pháp hay là truyền bá hết thảy tôn lý, vị tất chúng đã làm theo, chưa chắc gì được phổ cập lợi tha. Nhân có suy xét như vậy, tôi mới phát ra một lý tưởng: Muốn được gồm cả “tự tha lưỡng lợi”, ở chỗ thanh vắng hay nơi ồn ào cũng đều làm được, thì chỉ có pháp môn niệm Phật mà thôi.
Nhưng, một nỗi lo cho cuộc thế đa đoan dễ sinh vọng động làm cho giải đãi, chẳng được thành công đắc quả, nên tôi soạn Pháp môn phương tiện này, chia ra mười bốn chương, trước diễn giải pháp “Quán tưởng tam muội”, pháp “Niệm Phật tam muội”, cho đến pháp “Diệt chướng tam muội”.
Nếu hành giả kiết giới đàn để niệm Phật, thì ắt thành tựu dễ dàng. Còn như rõ thấu lý ấy mà phát tâm chánh tín, mặc dầu chưa kiết giới đàn, cũng được tùy ý tam muội.
Quyển “Niệm Phật tam muội” này, chỗ nào văn nghĩa còn sơ sót, xin các hàng đại thiện tri thức bổ chính cho.
Soạn giả: ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN
Dịch giả: THÍCH TRƯỜNG LẠC
CHƯƠNG I
VÀO NHÀ (Nhập thất)
Kinh Pháp Hoa nói: “Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”.
Nhà Như Lai đây là có nghĩa từ bi, áo Như Lai đây là có nghĩa nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như Lai đây là có nghĩa tất cả pháp đều không.
Muốn tu pháp Niệm Phật Tam muội thì hành giả phải kiết giới đàn.
Trước hết là “Vào nhà”. Mà hễ vào nhà chúng sinh, thì chỉ có tranh danh đoạt lợi, nên chi dầu có trốn lên núi, lánh vào non để khỏi ồn ào, náo nhiệt đi nữa, rồi cũng không chịu nổi với lối ở lâu trong cảnh vắng, sau chán nản đâm ra lười biếng. Còn lấy cái thân tứ đại giả hợp này làm nhà, thì lại thêm nhiều điều phiền não. Chi bằng lấy cái tâm làm nhà, thì mới là cái nhà “vô tướng”.
Niệm Phật, trước hết phải phát tâm đại từ bi, coi tất cả chúng sinh như con dại, không đem lòng sát hại, mà vẫn bình đẳng cứu độ khiến cho chúng sinh đều đặng thành Phật.
Cùng ở một nhà đại từ bi của Như Lai thì quả gần bên Phật. Như thế tức là ĐỊNH của “Tam học”.
Hễ vào nhà thì phải dùng y phục che thân thể. Mà thế thường đồ tốt thì sinh ham, đồ xấu lại bắt chán. Ham và chán hay luôn loạn cái tâm đi. Bởi vậy phải dùng thử áo “Tâm niệm” mới đoạn trừ tất cả chướng ngại. Như gặp sự cường bạo chướng ngại, thì lấy nhu hòa mà thù đáp; nếu gặp sự khi thị chướng ngại, thì thù đáp bằng nết tốt nhẫn nhục. Mặc được áo nhu hòa nhẫn nhục của Như Lai, thì tất cả điều chướng ngại sẽ hóa ra món trợ đạo; tuy phải trải qua nhiều nỗi gay go vẫn không biến đổi. Như thế, tức là GIỚI của “Tam học”.
Đã vào nhà, mặc áo, thì phải có chỗ ngồi. Mà trong bốn oai nghi “ngồi, nằm, đi, đứng” thường thay đổi lẫn nhau, thì cái tâm cũng có thể gián đoạn, mặc dầu kiết già phu tọa trên giường thiền, nên chi có ngồi thiền, thì phải quán tất cả “pháp không”. Không chẳng những là không sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không sáu căn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà thôi, cho đến tất cả những danh lợi dục lạc của pháp thế gian cũng không; không luôn cả đại từ bi, nhu hòa, nhẫn nhục của pháp xuất thế gian nữa.
Quán cái chỗ ngồi tất cả “pháp không” như vậy rồi, thì thật ra chưa ngồi cũng đã ngồi, ví như chưa ngồi cũng như chưa lìa chỗ ngồi. Thế là còn chi chưa chịu phải pháp “thiền thâm diệu vô thượng” nữa ru? Như thế tức là HUỆ của “Tam học”.
Vào nhà Như Lai thì phải nguyện từ đây luôn luôn không bỏ hạnh đại từ bi. Mặc áo Như Lai thì phải nguyện từ đây luôn luôn không lìa nết nhu hòa nhẫn nhục. Ngồi tòa Như Lai thì phải nguyện từ đây luôn luôn mỗi niệm đều quán tất cả “pháp không”.
Tu “Tam học”: Giới, Định, Huệ tinh tấn luôn luôn, thì thân của mình không khác với Phật mười phương ba đời.
Cái tâm niệm Phật được như vậy, thì gọi là “tức tâm tức Phật”. Cái tâm quán tưởng Phật được như vậy cũng gọi là “tức tâm tức Phật”. Quyết lấy đó làm cơ sở pháp niệm Phật Tam muội, thì chắc được pháp Niệm Phật Tam muội rốt ráo vậy.
CHƯƠNG II
XÉT TIẾNG NIỆM
Nếu lập cơ sở như vừa nói trên kia, thì nên quán cái niệm ấy sinh bởi tâm hay bởi miệng? Nói rằng sinh bởi miệng, thì ắt tượng đất, tượng gỗ, hình đồng kia cũng có niệm vì có miệng. Bằng không thì niệm ấy sinh bởi tâm, chớ nào phải bởi miệng. Trước kia chưa cử động, miệng, lưỡi chưa phát tiếng, thì nên biết niệm ấy khởi sinh nơi tâm rồi truyền sang miệng mà có thanh âm, vậy mới là hoàn toàn một niệm.
Lại phải quán niệm ấy, nguyên bởi tâm truyền sang miệng, cũng như sóng với nước. Sóng cả ngàn muôn vẫn cùng đồng một thể với nước, thì một niệm, mười niệm, cả ngàn muôn vẫn cùng đồng một thể niệm, mặc dầu là cái ngôi phận dã vọng của sắc tâm.
Một niệm như kia cũng không khác gì với một niệm tích tụ cả ngàn muôn năm; thế tức một niệm muôn năm. Lại nữa, như sóng tuy thật là nhiều cũng đồng một thể nước; nên chi cái niệm muôn năm tuy thật chẳng khá nghĩ lường, nhưng niệm trước không khác niệm sau; thế tức là muôn năm một niệm.
Ngộ được một niệm muôn năm, thì biết một tiếng niệm Phật diệt cả tội trọng sinh tử tám mươi ức kiếp. Rõ thấu muôn năm một niệm, thì biết từ trước khởi sinh tất cả vọng niệm phải đọa vào ba đường ác với ngày nay thường thường niệm Phật cho đến khi thành Phật vẫn không lìa một niệm lúc tối sơ. Cũng thí như gà ấp trứng, chuyền cái ôn độ không cho gián đoạn, thì hành giả hãy tỏ thấu một niệm, trân trọng một niệm, giữ gìn một niệm. Cái công phu niệm Phật, mỗi niệm đều tiếp nối luôn luôn, không để hở, không ngừng nghỉ, tức thì cùng tột cõi vị lai.
CHƯƠNG III
TƯỚNG CHÂN THẬT
Nếu người muốn rõ biết,
Tất cả Phật ba đời,
Hồi quang tánh pháp giới,
Tạo nghiệp bởi tâm thôi.
Kinh Hoa Nghiêm.
Bất luận cảnh giới nào, tất cả hành giả không lìa tánh pháp giới. Hết thảy cảnh giới phi Phật cũng đều có thể quán là cảnh giới Phật, bởi vì Phật ba đời đều do tâm tạo. Bấy giờ dựa theo tánh pháp giới để mà quán tất cả pháp, thì cảnh giới nào cũng đều do tâm đạo.
Hành pháp môn phương tiện, phàm những cái mắt thấy hay không thấy đều giả tá làm Phật A Di Đà; những cái tai nghe hay không nghe đều giả tá làm tiếng niệm Phật; bao nhiêu những cái ngửi, nếm, đụng chạm sắc pháp của mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều giả tá như thế cả. Giả tá cho đến cõi Ta bà làm thế giới Cực lạc, chúng sinh sáu đường làm những bậc thượng thiện nhân, ao báu, gió, nước, chim, cây cũng tùy quán tùy hiện. Lần lần thuần thục, thì sự tiếp xúc của sáu căn lìa khỏi sáu trần, tức đã bắt đầu xa cõi Ta bà gần nơi Tịnh độ. Vậy mới thuần đến cách thâu nhiếp của sáu căn, tịnh niệm thường tiếp tục như Kinh Lăng Nghiêm đã bảo. Ban đầu quán tướng uế đổi ra tướng tịnh gọi là hữu tướng; kế đó cũng diệt cả tướng tịnh, chẳng những diệt tướng uế, tức tâm thể yên lặng gọi là vô tướng, mà cũng diệt luôn cả vô tướng, vắng lặng hiện tiền mới gọi Thật tướng. Như vậy, niệm ấy mới tương ưng cùng Phật.
CHƯƠNG IV
TÙY HỶ
Mười điều phát nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, công đức tùy hỷ thuộc về hàng thứ năm.
Phàm thấy người làm các công đức, mà phát tâm hoan hỷ, thì công đức ấy ta sẽ có phần trong đó nên gọi là công đức tùy hỷ.
Ta niệm Phật hoặc khuyên người niệm Phật, hoặc thấy người niệm Phật, mà phát tâm vui mừng khen ngợi đều có phần công đức cả. Bằng như có tiếng người niệm, mà chưa ắt là tiếng niệm Phật, hoặc đấy sinh tiếng mắng nhiếc ta, hoặc chẳng phải tiếng người như chim, thú, nước, gió... làm cho ta vui hay buồn. Đối với người chưa niệm Phật, ắt sinh các món chướng ngại. Ta nay niệm Phật nên xem tất cả tiếng của người và chẳng phải người ấy đều là tiếng niệm Phật, chẳng dấy sinh hào ly phân biệt, đây là lành, dữ, đó là người cùng chẳng phải người. Các tiếng ấy đều dùng làm tiếng giúp ta niệm Phật, thay ta niệm Phật, ta nên vui mừng tùy hỷ.
Quán như thế ấy, mới lần lần vào chỗ đại nguyện của ngài Phổ Hiền Bồ tát.
CHƯƠNG V
NIỆM PHÁP
Cách thức niệm Pháp không có nhất định. Tùy theo những người có duyên với pháp nào thì cứ lựa trong các kinh, luận mà làm theo. Cho nên không thể nhất định là phải đứng theo pháp Ban châu Tam muội, hay là phải ngồi theo pháp Nhất hạnh Tam muội, như thế rất khó, mặc dầu là bậc đại tinh tấn đi nữa, chi bằng đứng, ngồi đều làm hết cả hai là tiện hơn.
Pháp trì danh trong Kinh A Di Đà, pháp quán trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ đều chuyên một môn, ước như làm cả hai pháp càng tốt, mà nhất là pháp trì danh thì lại phổ cập hơn.
Những pháp trì danh của tôi đã soạn như: Truy đảnh niệm Phật: Niệm Phật đến chỗ rốt ráo; Phản văn niệm Phật: Niệm Phật hồi quang phản chiếu và mấy chục pháp niệm Phật của bổn sư Ấn Quang diễn giảng đều rất thiết cận và dễ làm theo.
Còn kiết giới đàn trường kỳ, thì những hạng sơ cơ dễ sinh lười biếng lắm; chi bằng thủ tiêu, kiết một kỳ thất, lần lần thêm hai thất, ba thất, cho đến cả tháng, cả năm.
Cái tâm đã hết lười biếng, thì cũng nên cấm khẩu, đừng nói chuyện nhiều. Không cấm khẩu, thì niệm Phật không được thuần thục, không luận kiết giới đàn trường kỳ hay đoản kỳ.
Bớt bớt một câu chuyện,
Thêm niệm Phật một tiếng,
Giết chết các vọng tâm,
Tức pháp thân ứng hiện.
Giác Minh Diệu Hạnh
Không bớt câu chuyện, niệm Phật không nhiều; niệm Phật không nhiều, vọng niệm không chết; vọng niệm không chết, pháp thân thế nào sống được?
CHƯƠNG VI
CỐ GẮNG TINH TẤN
Phải niệm Phật luôn luôn quyết cho tới khi thành tựu.
Người đánh cờ không hay lạnh, nóng, quên hết thì giờ cũng vì mắc tranh thắng bại. Người đánh bạc bỏ cả ăn ngủ cũng vì ham tiền tài. Người đắm sắc bị lửa dục đốt rụi cả xác thịt lẫn tinh thần cũng vì say mê hoa nguyệt. Rất đỗi một phen vọng động theo cuộc vui một lúc, mà những người tạo nghiệp tà ấy còn hàng phục dễ dàng con ma ngủ, huống chi ta đã phát tâm về việc lớn sống chết cầu sinh về Tịnh độ được an vui cả vô lượng kiếp, há lại chẳng được hay sao?
Hơn nữa, những pháp thế gian mà người ta dám phí hết cả sức lực và tinh thần để làm từ tháng kia qua năm nọ cũng không nản chí với cái điều vì dân vì nước, vì chủ nghĩa, vì danh dự, vì quyền lợi, vì sinh hoạt của bậc anh hùng nghĩa sĩ, sĩ, nông, công, thương, huống chi ta là người cầu đạo xuất thế gian lại không tinh tấn được hay sao?
Thoảng như làm lâu mỏi mệt muốn dấy tâm lười biếng, thì nên quán tưởng chúng sinh ở địa ngục kia không một ngày nào được ngừng nghỉ mối lửa thiêu đốt rụi xác, tuyết lạnh nứt da, giường sắt, cột đồng đọa đày, vùi dập! Sự thống khổ ở nơi ấy, một ngày bằng biết mấy muôn năm.
Nếu không tinh tấn niệm Phật, thì sẽ không tránh khỏi cái khổ ấy đâu. Mình chưa cứu mình được, có lý nào lại cứu người được bao giờ.
Phải phát tâm hy sinh cả thân mạng cầu cho gặp Phật nghe pháp để độ mình và cứu người.
CHƯƠNG VII
KHÔNG BỎ LÃNG
Những pháp hữu vi của thế gian đều không ngoài cái công lệ sinh diệt. Có sinh diệt thì không được vĩnh viễn kế tục nhau. Mà hễ không vĩnh viễn kế tục nhau, thì ngày nay niệm Phật, mà ngày mai lại không niệm Phật, thời này niệm Phật, mà thời khác lại không niệm Phật. Kế tục nhau từ sát na cho đến cả tháng hằng năm cũng sẽ còn có gián đoạn. Mà hễ có gián đoạn, thì lại càng dễ sinh ra lười biếng lắm.
Đức Khổng Tử đứng trên bờ xem nước chảy, nói: “Ngày đêm nước chảy không ngừng nghỉ, Đạo cũng như thế ấy luôn”.
Bây giờ nên quán tánh nước ngày đêm không ngừng nghỉ; hoặc quán cái tiếng reo khi chảy để kế tục cái niệm của ta. Quán nước chảy không ngừng là bổn tánh, hoặc có khi ngừng là bởi sự trở ngại của đất, đá ngăn đón. Cái niệm không ngừng cũng bổn tánh, hoặc có lúc ngừng là bởi sự ngăn ngại của vọng tưởng đó thôi. Nhưng đất, đá có thể đưa đón cái tánh nước chảy mà không thể ngăn đón cái tánh nước chảy được. Vọng tưởng có thể ngăn ngại cái tướng niệm Phật mà không hề ngăn ngại cái tánh niệm Phật được bao giờ.
Tánh niệm Phật thường tồn, tức là Phật tánh thường tồn. Thế thì, niệm Phật cùng không niệm Phật cũng tự Như, kiết giới cùng không kiết giới vẫn không ngừng nghỉ.
CHƯƠNG VIII
HÀNG PHỤC LŨ MA
Giữa hạn kỳ kiết giới, nhờ dụng công rốt ráo nên thường hay phát sinh cái huệ hiểu biết viết thi, làm kệ mau như nước chảy.
Hám Sơn Đại sư nói: “Đó là bệnh thiền, chớ nên để cho nó phóng túng. Hãy biết trước kia bảo châu đã mất, nay tìm lại được, không chi đáng mừng; không nên viết, không nên làm, mặc dầu rành hiểu thi, kệ”.
Có khi lại thấy tướng hảo quang minh của Phật, cũng chớ nên mừng. Vì đó là duy tâm biến tướng, như bóng trong gương, có chi rằng lạ: Gương đóng bụi thì lu, lau sạch bụi thì hiện.
Mỗi khi gặp những cảnh giới trên kia đều nên quán: “Pháp vốn bình đẳng, không có hơn kém”, nên cho là bình thường, tức như: “Tâm bình thường tức là Đạo, mới có thể hàng phục tất cả lũ ma”.
Nếu cứ tự ý đặt thi, làm kệ, thì rất dễ sinh tâm, được một ít đã cho rằng đủ mà phát khởi con ma ngã mạn cống cao. Thấy tướng hảo quang minh sinh tâm vui mừng, thì mất cả chánh niệm, khiến cho phát khởi con ma hoan hỷ. Người tu niệm nên biết.
CHƯƠNG IX
TRỪ VỌNG NIỆM
Không được nhất tâm niệm Phật là bị xen lẫn các vọng niệm. Mà khởi sinh vọng niệm là bởi năm căn đối với năm trần gây ra nhiễu động căn của ý; hay là căn của ý vọng động mà dắt dẫn năm căn, mặc dầu không đối với năm trần.
Bởi thế cho nên muốn đoạn vọng tưởng cần phải đoạn căn của ý. Mà muốn đoạn căn của ý, phải giả tá quán trước kia đã đoạn diệt năm căn không còn dùng đến nữa. Lúc tưởng đến sắc, thì quán căn của mắt đã đoạn không cần dùng xem sắc. Khi tưởng đến thanh âm, thì quán căn của tai đã đoạn, không dùng nghe thanh âm, thì căn của ý sẽ yên tịnh, không khởi động; cho đến mũi, lưỡi, thân cũng quán như thế ấy cả.
Lại một pháp môn phương tiện: Lúc vọng niệm khởi lên thì nên quán chính mình đương niệm Phật ở tại ao sen thất bảo, cách xa thế giới này mười muôn ức cõi Phật, dầu có vọng niệm những cảnh giới ấy cũng không ích gì! Như thế, cũng là một pháp môn để trị bệnh vọng tưởng.
CHƯƠNG X
CHÁNH NIỆM
Vọng niệm cũng ở trong chánh niệm mà ra, nên ngoài chánh niệm ra hẳn không chi là vọng niệm. Cho nên mỗi lần vọng niệm khởi sinh, không cần bài trừ, mà chỉ biết đó là vọng niệm, nên lập tức sinh tâm chánh niệm. Sinh tâm chánh niệm thì vọng niệm tức thì tự phải tiêu diệt, nên không cần phải bài trừ.
Hãy quán cái tánh của vọng niệm vốn không, đó là pháp “Không Quán”. Đã được pháp “Không Quán”, không do thấy Phật mà khởi sinh ma hoan hỷ cống cao, cũng không thấy Phật mà khởi sinh ma ưu sầu. Chỉ bình thường tiếp tục chánh niệm, không sinh tâm tưởng gặp Phật hay là tưởng không gặp Phật. Như thế là cảnh giới chánh niệm.
CHƯƠNG XI
GIẢI TRỪ SỰ NGỜ VỰC
Có khi muốn gặp Phật mà không gặp được thì chớ nên vì sự không gặp mà khởi sinh điều lo rầu. Bởi sao vậy? Bởi sắc tức là không, không tức là sắc, theo Kinh Bát Nhã Tâm Kinh nói. Chỉ được cái tâm không thì hẳn không chi là hai: Thấy sắc thân Phật cũng không thấy sắc thân Phật.
Cũng có khi còn ngờ vực nghĩa Kinh Kim Cang: “Nhận sắc tướng là Phật, nhận âm thanh là Phật, thì lạc vào nẻo tà, không rõ tự tánh là Phật”. Mà sợ nỗi niệm Phật thấy Phật là sắc tướng, là thanh âm, là nẻo tà thì hãy quán sắc tướng, thanh âm đều không: “Không tức Phật”.
Nên hiểu rằng: Chẳng phải do nơi sắc tướng, thanh âm mà thấy Pháp thân Phật hay là không do nơi sắc tướng, thanh âm mà chẳng thấy Pháp thân Phật. Thế nên không cầu thấy Phật thì niệm Phật không thiết, còn chăm cầu thấy Phật lại sinh vọng niệm; mà chỉ phải mỗi niệm cầu thấy Phật cũng như không cầu, mỗi niệm không thấy Phật cũng như thấy.
CHƯƠNG XII
HIỂU VÀ HÀNH
Pháp môn niệm Phật Tam muội không ngoài sự hiểu và hành.
Soạn ra các đoạn trước kia, sở dĩ muốn hành giả hiểu lý cho thấu đáo để làm theo cho khỏi lạc nẻo sai đường. Nếu chỉ biết văn cho thông, hiểu nghĩa cho rõ mà gọi là liễu ngộ, rồi không cần gì là thực hành, thì hại đạo lắm, chẳng khác nào kể các món ăn trơn, đếm của báu suông vậy thôi!
Còn như trong lúc thực hành mà diệt sạch sành sanh những điều tri giải, không còn chút tí gì lưu ở nơi tâm, mặc dầu đã hiểu lý rốt ráo, cứ một mực “Không tâm” niệm Phật, trì cái hành, diệt cái hiểu mới là tương ưng với pháp niệm Phật. Nếu còn dính mắc cái tri giải hẳn thật không chứng ngộ pháp Tam muội.
Hai điều “Hiểu biết” và “Làm theo” (giải hành), những người ơ hờ thường dễ hiểu lầm. Mà hiểu lầm thì hại to, sai một ly, đi một dặm; nghĩa là sai một mảy may, cách xa một trời một vực.
CHƯƠNG XIII
HỢP CƠ DUYÊN
Gọi Tịnh độ tức là để đối với uế độ. Cũng như đối với bệnh mà dùng thuốc: Muốn trị bệnh bón, bệnh kiết, thì dùng đại hoằng, bã đậu; muốn chữa bệnh hàn lương, thì dùng càn cương, phụ tử.
Ở thế giới Ta bà này đủ cả năm thứ trược:
1.- Kiếp trược là kiếp có nhiều uế trược.
2.- Kiến trược là kiếp có sự hiểu biết tà vạy uế trược.
3.- Phiền não trược là nhiều điều phiền não uế trược.
4.- Chúng sinh trược là phải chịu quả báo chúng sinh khổ não uế trược.
5.- Mạng trược là mạng sống ngắn ngủi uế trược, đủ cả mười tội ác: Tham, sân, si, sát, đạo, dâm, vọng... Ác trược đã nhiều như thế kia, nếu không giảng pháp môn Tịnh độ, thì làm sao mà cứu cho được.
Tất cả những pháp môn khác vốn không tương ưng với cơ duyên quốc độ này, mặc dầu đều được giải thoát sinh tử. Thế thì, những hàng đại thiện tri thức nên hoãn lại các pháp kia để thực hành pháp Tịnh độ ngõ hầu cứu vãn cái gặp cháy mày!
Đã rõ danh nghĩa của Tịnh độ, tịnh thì không tạp, mà tạp thì tất phải trược, tuy gồm có pháp lành, cũng như dùng cây lưu ly khuấy nước trong thì trở thành đục, mất cả tánh thanh tịnh. Cho nên Thiện Đạo Hòa thượng phát minh cái thuyết: Tu tịnh nghiệp có hai thể: 1.- Chuyên tu, 2.- Tạp tu. Chuyên tu thì mười phần vãng sinh trọn vẹn. Tạp tu thì trăm phần không được một hai.
Chỉ có quyển “Tây phương xác chỉ” của Giác Minh Diệu Hạnh chú trọng cái pháp chuyên tu, thì người tu pháp Tam muội nên nhận đó là “chỉ nam” (địa bàn).
CHƯƠNG XIV
CHỨNG NGHIỆM THÀNH TỰU
- Hoặc có người hỏi: Không cần gặp Phật, thế nào đắc pháp Tam muội? Rốt ráo không chi được, thế nào biết đó là Tam muội?
- Niệm Phật là nhân của Tam muội, Tam muội là quả của niệm Phật, nhân ngay hẳn quả ngay. Bằng cứ y theo pháp mà niệm Phật, công phu niệm Phật thuần thục, thì thấy Phật cũng tốt, không thấy Phật cũng tốt.
Nếu niệm Phật không y theo pháp, hoặc công phu chưa thuần thục, mà có sở đắc thì tức đó là ma, còn không sở đắc thì đó là mê. Bổn tánh con người tức là Phật mà chưa được thành Phật, bởi vì nhiều kiếp đến giờ bị những nghiệp hoặc vọng tưởng nên mới khởi sinh tất cả tạp tánh: Tham, sân, si, sát, đạo, dâm, vọng, v.v... Cũng như đã chặt đứt cả tay chân, không thể liền lại; công phu niệm Phật thuần thục thì đối cảnh trần duyên không hề một mảy manh động cái tâm tham, sân si...
Như thế ấy, trong đạo pháp nhà Phật gọi “thật chết”: Diệt tâm trần tục, “thật sống”: Giác ngộ.
Giác Minh Diệu Hạnh nói: “Giết chết cái vọng tâm, tức Pháp thân ứng hiện”. Thế thì, pháp Tam muội hà tất phải tìm ở đâu!
Tất cả những thần thông diệu dụng, cảnh giới của hành giả chứng ngộ mỗi mỗi không đồng nhau. Thoảng như có đắc pháp nên vui mừng mà chẳng nên khoe khoang thổ lộ; vui mừng quá sẽ lạc nẻo ma, mà khoe khoang thổ lộ hẳn phải thất bại, nên chi phải thận trọng, phải thận trọng!
Nam mô A Di Đà Phật
Dịch giả THÍCH TRƯỜNG LẠC
--- o0o ---