Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Sa môn Thích Trí Minh
Khái thuật tiểu sử Hòa Thượng Thích Trí Minh
1. Thân thế, dòng dõi
Hòa Thượng Thích Trí Minh, pháp hiệu là Huệ Định, tự Giải Không, pháp danh Tâm Hy do Bổn Sư của ngài đặt. Riêng pháp hiệu Trí Minh là Pháp Sư thượng Trí hạ Tịnh, vốn là hòa thượng của chùa Vạn Đức ban cho. Thế danh của Hòa Thượng là Đặng Lợi, tự Ngọc Chấn, sinh năm 1921 tại xã Phước Bình, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Phụ thân của Hòa Thượng là cụ Đặng Hiển, tự Quang Minh, lúc trẻ là xã trưởng, một chức vụ cao cấp trong làng. Đến lúc về già, được các hương chức và nhân dân trong vùng suy tôn lên chức Thủ Sắc. Theo tục lệ miền Trung, người được suy tôn lên chức vị Thủ Sắc phải là người có đức hạnh, cao niên, và gia tộc phải thuộc thành phần nghiêm chính và liêm khiết, để đại diện dân chúng phụng thờ các vị Thần, Thánh trong lành, danh từ địa phương gọi là các “sắc thần”, cho nên chức vụ này gọi là Thủ Sắc.
Mẫu thân Hòa Thượng nhũ danh là Nguyễn thị Hà, tự Trinh Thuận, cũng là một bậc nữ lưu đoan chính. Hòa Thượng là con thứ bảy trong gia đình (Ngài là con trai út, sau Ngài là người em gái út).
2. Cuộc đời
Cuộc đời tu hành của Hòa Thượng có thể tóm lược thành các giai đoạn sau đây:
a. Xuất gia
Năm 18 tuổi, Hòa Thượng xuất gia tại chùa Sắc Tứ Long Khánh, thị xã Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Bổn Sư của Hòa Thượng là Đại Lão Hòa Thượng thượng Chánh hạ Nhơn, bạn thân của Tổ Phước Huệ chùa Thập Tháp, thành Bình Định, thầy của Hoàng Thái Hậu - mẹ hoàng đế Bảo Đại. Khi ở ngôi già-lam này, Hòa Thượng làm thị giả cho Bổn Sư của ngài suốt ba năm và học giáo lý Phật pháp. Trong thời gian này, ngoài phần học giáo lý Phật pháp và hai thời khóa tụng hằng ngày, Ngài chỉ học thuộc lòng bốn quyển Luật Trường Hàng, chờ đợi có lúc tổ chức Giới Đàn khóa luật để thọ giới Sa Di.
Năm 1942, tại chùa Hưng Khánh, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, có mở Giới Đàn, Hòa Thượng đã thọ giới Sa Di tại đây.
b. Thời kỳ tu học Phật pháp
Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1942 đến 1950. Ròng rã suốt 9 năm, Hòa Thượng đã trải qua 5 ngôi Phật Học Viện, suốt từ giải đất miền Trung “đất cày lên sỏi đá”, vào đến tận miền Nam “ruộng đồng thẳng cánh cò bay”. Với tinh thần tinh tấn dõng mãnh, Hòa Thượng đã quyết lòng tiến bước trên con đường học đạo.
Năm 1946, Hòa Thượng về tu học tại Phật Học Viện Phật Quang, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, cũng tại nơi này, Hòa Thượng cùng cố viện trưởng viện Hóa Đạo là Thích Thiện Hoa và một số chư Tăng khác đến chùa Kim Huê, tỉnh Sa Đéc, đảnh lễ cung thỉnh Đại Lão Hòa Thượng Viện Chủ Kim Huê khai đàn thí giới. Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa và Ngài thọ giới Tỳ Kheo và Bồ Tát tại đây. Những ngôi Phật học viện ngài đã trải qua trong thời kỳ này là:
- Lưỡng Xuyên Phật Học Viện thuộc tỉnh Trà Vinh.
- Phật Quang học viện thuộc quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ.
- Liên Hải Phật Học Viện, thuộc xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, tỉnh Gia Định (nay là chùa Vạn Phước).
- Báo Quốc Phật Học Viện, tỉnh Thừa Thiên.
- Từ Đàm Phật Học Viện, tỉnh Thừa Thiên.
c. Hành Phật sự
Năm 1950, cả 3 Phật học viện Liên Hải, Mai Sơn và Ứng Quang (tức chùa Ấn Quang ngày nay) hợp nhất tại chùa Sùng Đức. Hòa Thượng về đây để cùng làm công tác Phật sự với chư Tăng, gồm có cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, giám đốc Phật Học Viện Ấn Quang, Thượng Tọa Huyền Dung, Thượng Tọa Quảng Minh.
d. Thời gian chuyên tu
Bắt đầu từ năm 1952 cho đến nay, Hòa Thượng đã hoàn toàn dứt bặt mọi ngoại duyên, cam nhận cuộc đời ẩn tích mai danh, chuyên tu tịnh nghiệp. Suốt gần 42 năm, tấm áo cà sa đã trải qua không biết bao nhiêu nỗi thăng trầm gian khổ của con đường tu hành.
Hòa Thượng đã rày đây mai đó, khi thì vào thâm sơn cùng cốc, lúc lại về chốn làng mạc hoang vắng tiêu sơ. Cuộc đời tu hành phiêu bạt, nối tiếp suốt giòng thời gian âm thầm lặng lẽ. Ngài khước từ mọi danh vọng, chức vị mà lẽ ra, với cương vị một cao tăng đạo pháp, đức hạnh kiêm toàn như Ngài thừa sức nắm giữ.
Hòa Thượng chỉ tha thiết với hoài bão duy nhất là đem tất cả tâm lực hướng về đấng Từ Phụ A Di Đà, cầu mong khi xả báo thân, Ngài sẽ được vãng sanh về nước An Dưỡng. Hòa Thượng muốn chứng minh cho mọi người thấy sự mầu nhiệm nơi lời hạnh nguyện bất diệt của đức Từ Phụ A Di Đà, đồng thời, cũng muốn nêu tấm gương trong sạch, thanh cao của một vị Bồ Tát. Với lòng từ bi vô lượng, Ngài muốn tất cả đệ tử của Ngài, cũng như Phật tử gần xa, noi theo tấm gương tu hành, bất chấp mọi gian lao, không nài bao thử thách của kẻ đã quyết chí đi theo con đường giải thoát của chư Phật.
Đức hạnh cao quý của Hòa Thượng, bất cứ đồ đệ hay Phật tử nào được phước duyên kề cận đều không thể nào phủ nhận Ngài là vị chân tu, đã sống một cuộc đời hết sức thanh bần, giản dị: Một tịnh thất đơn sơ, chỉ với đôi mái lá chan hòa mưa nắng, bốn bức vách ghép bằng những thân cây còn nguyên dạng, thật thô sơ. Manh áo hoại sắc bạc màu in dấu ấn thời gian qua những mảnh vá trên đôi vai mỗi ngày một còng xuống, theo tuổi hạc tháng năm chồng chất. Lòng khát khao giải thoát với niềm tin sâu dày đối với Phật pháp, thể hiện một cách sâu sắc qua lời cầu xin Tam Bảo chứng minh gia hộ, khi Ngài tự thuật cuộc đời mình:
“Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Từ Phụ A Di Đà Phật.
Cúi xin mười phương Tam Bảo, Bổn Sư Thích Ca, Từ Phụ A Di Đà Phật bất xả từ bi, chứng minh gia hộ con: Bồ Tát giới tỳ kheo Thích Trí Minh, thừa từ lực của Tam Bảo và Bổn Sư Thích Ca, Từ Phụ A Di Đà Phật, tự thuật sơ lược cuộc đời con. Những lời tự thuật này chỉ xin tóm lược một phần trong trăm phần khoảng đời từ thuở còn ở thế tục cho đến nay đã quá thất tuần”.
Ý nguyện tha thiết được vãng sanh của Ngài đã thể hiện rõ ràng khi giải thích về Pháp danh của mình:
“Pháp hiệu của tôi chính là Huệ Định, tự Giải Không, pháp danh Tâm Hy là do Bổn Sư của tôi ban cho, còn pháp hiệu Trí Minh là do Pháp Sư thượng Trí hạ Tịnh ban cho. Vì khi tùng học với Pháp Sư tại Phật học viện Phật Quang (Cần Thơ), tôi nhận thấy Pháp Sư là một bậc tài đức kiêm toàn, nên tôi cầu Ngài làm Y Chỉ Sư cho tôi, nhưng Ngài từ khước và chỉ nguyện kết làm huynh đệ, trong lúc sống đồng tu hành, đồng làm Phật sự, khi xả báo thân này, đồng vãng sanh Cực Lạc thế giới, nên Ngài tặng tôi pháp hiệu Trí Minh”.
Ngoài tấm lòng tha thiết, ý nguyện quyết tâm trực chỉ Tây Phương, Hòa Thượng còn là một vị tu hành gìn giữ giới hạnh thật nghiêm túc, luôn thể hiện một phong thái từ ái, khiêm nhường. Có thể nói, suốt thời gian ngày cũng như đêm, Ngài không sót một thời khóa tu hành nào, nếu không muốn nói, Ngài tận dụng hết cả thời gian của mình để chuyên tu Tịnh nghiệp.
Trong lúc hoàn cảnh Ngài thật đơn độc, sức khỏe ở vào giai đoạn suy thoái trầm trọng. Tu cho mình, Ngài không bao giờ quên tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong biển trầm luân sanh tử, nhất là vào thời điểm Phật pháp đang ở vào giai đoạn mạt pháp, Hòa Thượng càng quan tâm sâu sắc, lo lắng tận cùng cho cơ nghiệp Phật giáo, dù Hòa Thượng không trực tiếp tham gia các hoạt động của giáo hội.
Mục tiêu chính yếu của Ngài là xây dựng những nhân tố hoàn thiện, hoàn lương trong giới đệ tử của Ngài, cũng như tất cả Phật tử hai chúng xuất gia và tại gia. Hòa Thượng nhận thấy tình trạng suy thoát của Phật giáo đồ đang ngày càng nguy ngập, chánh pháp của Như Lai ngày càng không được xiển dương đúng mức, nhất là Giới Luật của Phật, một nền tảng duy nhất và căn bản cho những người muốn thực hiện sự giải thoát chân chính, đã không được giới Phật tử ngày nay xem trọng.
Nỗi lo âu trước hiểm họa diệt vong của nhân loại cùng sự suy tàn của Phật giáo đã khiến Hòa Thượng quên đi tuổi già mắt mờ, tai yếu, thân thể đau ốm triền miên; Ngài đã dồn hết tâm lực để phiên dịch bộ sách “Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký” do Pháp Sư Thích Diễn Bồi, một cao tăng của Trung Quốc thuyết giảng. Suốt thời gian phiên dịch, với bao công trình gian khổ, bao thử thách cam go, Ngài đã chiến thắng tuổi già, chiến thắng ma bệnh, vượt mọi thử thách, để hoàn thành bộ sách trong hoàn cảnh hết sức khó khăn nghiệt ngã: chỗ ở không ổn định, không người hầu cận chăm sóc chu đáo.
Chúng ta hãy nghe lời tâm sự chân thành, đầy xúc cảm của Thầy khi nói về thời gian chuyên tu của mình, với một tinh thần hết sức khiêm nhường khả kính:
“Nói đến chuyên tu, nơi đây lòng tôi hổ thẹn muôn phần. Tại sao thế? Vì ý nghĩa chuyên tu là bặt dứt muôn duyên, và có người hỗ trợ để có thể nhất tâm tu niệm cho được thành tựu một pháp môn nào. Chẳng hạn như pháp môn Thiền hay Niệm Phật. Nhưng ngược lại, tôi luôn bị muôn duyên ràng buộc, làm cho thân tâm không an. Vì trong thời gian cộng tác với chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, để làm các Phật sự nói trên, báo thân của tôi mang nhiều tật bệnh, nên đối với các Phật sự tôi hoàn toàn bất lực. Lòng quá buồn đau, tôi tìm chỗ ẩn tu, cầu sớm được xả bỏ báo thân để về quê hương Cực Lạc. Ý muốn dù như thế, nhưng sự thực hành là cả một vấn đề trăm ngàn phần khó khăn. Vì hoàn cảnh tôi cô thân đơn độc, linh đinh rày đây mai đó, lại không người giúp đỡ.
Thế nên, trong suốt thời gian từ năm 1952 đến năm 1994 là 42 năm, trong thời gian ấy, dù mang danh Viện Chủ ngôi già-lam Mai Sơn, xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, nhưng sự thật là việc chùa tôi hoàn toàn không biết đến, vì mải rày đây mai đó… Thân tôi chẳng khác nào chiếc lục bình lênh đênh trên sông lớn… nhất là trong lúc dịch bộ kinh “Phạm Võng Bồ Tát Giới Giảng Ký” này. Về nội chướng thì thân bệnh khổ triền miên, đôi mắt lại bị cườm, nên không thấy rõ. Còn về ngoại chướng thì thôi không thể nói… Tuy nhiên, tôi rất cảm động hồng ân Tam Bảo đã minh gia, nên bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký đã được thành tựu. Và dù chịu nhiều gian truân khổ sở, nhưng bản thân tôi vẫn cố vững bước trên con đường giải thoát và tiếp tục cuộc hành trình…”
Với những dòng sơ lược về tiểu sử của Hòa Thượng, người viết bài này chỉ là một đệ tử tại gia của Thầy. Nhưng với tấm lòng ngưỡng mộ tấm gương tu hành cao quý, cũng như lòng tận tụy hy sinh vì đạo pháp của Thầy, chúng tôi ước mong những lời dịch thuật vàng ngọc của Hòa Thượng qua bộ kinh “Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký” sẽ được sự tiếp nhận trong tinh thần tôn kính, tha thiết và ân cần của những Phật tử hữu duyên với Phật pháp, hữu duyên với Thầy, một lòng chuyên nhất, đem tất cả tâm tư, chí nguyện hướng về con đường giải thoát chân chính.
Chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho tất cả Phật tử, những vị nhiệt tâm vì đạo pháp, có đầy đủ thiện duyên lãnh hội và tuân hành triệt để những lời pháp vô giá, để không phụ lòng từ bi của chư Phật, của Pháp Sư Diễn Bồi, người trực tiếp giảng các giới của bộ kinh này, và nhất là đối với Hòa Thượng Thích Trí Minh, vị thầy tôn kính, đã dầy công phiên dịch từ Hán văn sang Việt văn, bằng những lời lẽ đầy cố gắng, để phù hợp với trình độ của mọi giới Phật tử.
Lẽ tất nhiên, chúng tôi nghĩ rằng bản dịch này không thể nào đáp ứng yêu cầu của mọi tầng lớp Phật tử với nhiều trình độ khác nhau: những người bình dân sở học còn hạn chế, cũng như đối với quý học giả kiến thức uyên thâm, văn từ điêu luyện. Dịch giả đã cố gắng hết sức mình trong công việc phiên dịch này, một công trình đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, mà với điều kiện sức khỏe yếu kém, dịch giả khó lòng khắc phục.
Ngoài ra, công việc phiên dịch nếu muốn hoàn hảo, đòi hỏi dịch giả phải là người có trình độ chuyên môn thật cao, kiến thức về ngôn ngữ thật rộng. Đôi lúc cần phải có điều kiện tìm hiểu sâu về đặc điểm của nền văn hóa các dân tộc, nơi nguyên tác được hình thành, cũng như nơi sử dụng ngôn ngữ mà dịch giả đang phiên dịch. Như thế mới có thể chuyển dịch toàn bộ tư tưởng của nguyên tác, đồng thời vẫn tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, mà qua bản dịch, độc giả không còn cảm thấy ranh giới giữa các ngôn ngữ. Nói như vậy để mong tất cả quý độc giả, cùng chư Phật tử cảm thông cho tấm lòng Hòa Thượng. Ngài chỉ có một hoài bão duy nhất là muốn chấn hưng lại cơ đồ Phật giáo đang bị lung lay tận gốc, trước tình trạng giới luật không được các tín đồ Phật giáo tôn trọng và tuân hành nghiêm túc như hiện nay.
Ngài muốn cho bánh xe pháp lưu chuyển đến mọi nơi; dòng pháp nhũ của Phật rót vào tận tâm hồn những chúng sanh còn mải chìm đắm trong đêm dài tăm tối, dẫy đầy giết chóc, tràn ngập đau thương. Chung quy cũng là vì ánh đạo vàng của Phật không còn được rạng ngời trong lòng chúng sanh hiện đại, những con người chỉ biết mải miết đeo đuổi mộng mưu bá đồ vương, lao mình vào biển lửa chiến tranh, để mong tìm cầu hạnh phúc trong vật chất xa hoa hoặc bóng hình lợi danh hư ảo.
Bằng tất cả sức lực tồn tại trong tấm thân già nua mà phút vô thường không bao giờ hẹn trước, Hòa Thượng đã dồn hết vào công trình dịch thuật này.Thầy đã hy sinh quá nhiều cho đạo pháp, tận lực vì chúng sinh, nỗ lực kết lại chiếc bè pháp để đưa rước khách hữu duyên. Trong những tháng năm còn lại của cuộc đời, Ngài vẫn không nguôi lòng từ mẫn đối với chúng ta, luôn giúp toàn thể chúng sinh cơ hội trở về quê hương vĩnh cửu. Đó chính là nước Cực Lạc thanh lương, giải thoát của đức Từ Phụ A Di Đà.
Thành tâm cảm thán:
THƯỢNG đức ngàn thu rực ánh vàng,
TỌA Thiền, niệm Phật hướng Tây Bang,
TRÍ lành tận lực phiên kinh báu,
MINH tuệ dốc lòng độ chúng sanh,
THANH tịnh tâm thành dương Phật pháp.
TU hành chí quyết đáo Tây Phương.
TỊNH am vùi lấp mùi chung đỉnh
NGHIỆP đạo hoằng khai rạng Thích Tràng.
Mùa Thu Giáp Tuất, 1994
Đệ tử cẩn bút
Liên Hoa
Phàm lệ của dịch giả:
Lệ Ngôn
1. “Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký”: Đề mục bộ kinh này có chín chữ. Bảy chữ trước ở đây xin gác qua, vì trong phần giải thích đề mục kinh, và đề mục phẩm có nói rõ, nên ở đây chỉ nói qua hai chữ “giảng ký”. Giảng là do Pháp Sư Diễn Bồi y trong Bồ Tát Giới Bổn, tức là năm mươi tám giới (58) gồm có 10 giới trọng (10) và bốn mươi tám giới khinh (48) (Ở đây chỉ nói qua 58 giới, là thuộc về phần giới tướng, còn phần trước và sau, không nói, vì không cần).
Năm mươi tám giới (58) này chính là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã nghe đức Lô Xá Na giảng ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng, Khi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật hạ sanh nơi cõi Diêm Phù Đề này đã tụng lại. 10 giới trọng, 48 giới khinh này dù đã từ Phạn văn phiên dịch thành Hán Văn, nhưng không dễ gì hiểu cho tường tận được. Nên Pháp Sư y trong Tam Tạng thánh giáo và chỗ chánh tri chánh kiến của mình tu học mà giảng giải kinh văn một cách rành rẽ, rõ ràng, để cho hai chúng Phật tử xuất gia cũng như tại gia, những vị đã thọ giới Bồ Tát, hiểu rõ mà hành trì. Sau khi giảng, có đệ tử của Pháp Sư ghi lại, nên mệnh danh là Giảng Ký.
2. Bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký này gồm có hai phần:
- Kinh văn
- Lời giảng
Trong khi tôi phiên dịch từ Hán văn ra Việt văn thì chỉ phiên dịch phần của Pháp Sư giảng. Còn phần kinh văn thì hoàn toàn y theo bản giới bổn Việt văn của Hòa Thượng Vạn Đức (Pháp Sư Thích Trí Tịnh) đã phiên dịch. Tôi không phiên dịch lại. Tuy nhiên cũng có những chỗ cần thay đổi vì muốn cho phù hợp với phần giảng giải của Pháp Sư. Những chỗ ấy có mở và đóng ngoặc đơn (...); xin chư thượng đức cũng như quý Phật tử tại gia thọ Bồ Tát giới, khi đọc thì rõ.
Về lý do tôi không dịch lại phần kinh văn, có hai nguyên nhân:
- Bản dịch của Hòa Thượng Vạn Đức đã lưu hành từ lâu. Trong giới Phật tử thọ Bồ Tát Giới, xuất gia cũng như tại gia, thọ trì, tụng kinh khi làm lễ Bố Tát trong mỗi nửa tháng đã thuần thục. Vì thế, tôi phiên dịch lại cũng thành thừa.
- Bản dịch của Hòa Thượng chẳng những lưu hành từ lâu, lại được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt công nhận là bản dịch xứng đáng và có giá trị. Điều ấy như trong quyển kinh Phạm Võng lược giảng nghi thức tụng giới Bồ Tát thuyết minh như sau:
“Trong đây nói ngài Cưu Ma La Thập dịch từ văn Phạn ra văn Hán, hồi đời nhà Dao Tần. Trong mục lục của Tạng thì để rõ là có những vị nhuận bút, vị nào chép văn, vị nào dịch nghĩa. Như vậy có nghĩa là kinh này chắc chắn là có bổn chánh bằng văn Phạn, đã kết tập từ xưa, truyền qua Tàu, rồi ngài Cưu Ma La Thập mới dịch ra văn Hán. Và từ nơi quyển chánh văn chữ Hán, tôi dịch ra quyển chữ Việt đây.
Trước khi tôi dịch ra bổn này, ở Việt Nam, cũng có vài vị Thượng Tọa đã dịch. Nhưng các vị trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt thấy rằng cần phải có bản dịch chỉnh đốn hơn để cho chư Tăng cũng như các vị cư sĩ thọ giới Bồ Tát có bổn để tụng, để bố-tát, cho nên yêu cầu tôi dịch; thành ra mới có bổn này. Lúc đó, Hòa Thượng Huệ Quang đang làm Pháp Chủ trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
Sau khi phiên dịch xong, tôi đệ trình lên giáo hội, và giáo hội đã triệu tập một ban để kiểm duyệt. Sau đó, giáo hội đã nhận định bản dịch của tôi có phần giá trị xứng đáng, có thể lưu hành, giúp cho hàng tăng giới cũng như tại gia thọ Bồ Tát Giới, có thể thọ trì và tụng niệm”.
Vì lẽ đó, tôi nói rằng bản dịch này do Hòa Thượng Huệ Quang, Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, chứng minh.
3. Khi đọc những bộ kinh, luật, luận; nếu co phần chú giải, phải luôn nắm vững phần chánh văn mới dễ lãnh hội. Dù phần giải thích ngắn hay dài đến đâu, cũng chỉ nhằm vào chánh văn mà giải thích, không bao giờ ra ngoài ý chánh văn. Đọc bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký này cũng vậy, quý đại sĩ phải luôn ghi nhớ chánh văn của giới bổn.
Sự giải thích kinh văn bộ Giảng Ký này có hai cách:
- Trước nêu kinh văn rồi sau mới giải thích. Phần này rất dễ phân biệt lời giải thích với kinh văn.
- Đem kinh văn xen trong phần giải thích, để làm sáng tỏ phần Phật dạy. Lối này hơi khó hiểu, và quý đại sĩ nào không đọc bổn Hán văn, đối với lời giải thích khó mà phân biệt. Vì thế, khi dịch phần giải thích lối này, với những chữ hay những câu thuộc phần kinh văn đều có mở và đóng ngoặc kép “...” để quý đại sĩ phân biệt được kinh văn, không phải lời chú giải.
4. Về sự xếp đặt kinh văn của bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký này, trước tiên nêu đề mục của mỗi giới và kinh văn, rồi sau mới giải thích.
Khi giải thích cũng thế, nghĩa là trước giải thích đề mục, sau mới giải thích kinh văn. Về phần giải thích đề mục của mỗi giới không nhứt định. Có giới giảng rất rộng từ 2 đến 3 trang, có giới giảng ít hơn. Nên biết dù nhiều hay ít, các phần giảng này cũng chỉ ở trong phạm vi đề mục, không quan hệ gì đến kinh văn.
Xong phần đề mục của mỗi giới, đến phần giảng kinh văn, các phần này luôn được mở đầu bằng câu “Đức Phật đối với đại chúng dạy rằng: “...” Khi đọc cứ lưu ý như vậy, thì khỏi có sự lộn xộn giữa đề mục và kinh văn.
5. Bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký này chỉ bắt đầu giải thích từ câu: “Nhĩ thời Thích Ca Mâu Ni Phật tùng sơ hiện Liên Hoa Đài Tạng Thế Giới...” (Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ lúc sơ khởi, hiện thân nơi thế giới Liên Hoa Đài Tạng), chứ không y theo trong bộ Giới Bổn tụng giới mỗi nửa tháng, trước tiên bắt đầu từ câu: “Nhĩ thời Lô Xá Na Phật vị thử đại chúng, lược khai bá thiên hằng hà sa bất khả thuyết pháp môn trung tâm địa như mao đầu hử”. Sự việc ấy trong phần giải thích có nói rõ nguyên nhân.
Lời Pháp Sư Diễn Bồi nhân dịp khai giảng kinh Phạm Võng
Kính thưa quý vị Pháp sư!
Quý ni sư!
Quý cư sĩ và thiện tín!
Hôm nay, nhằm tháng Giêng, Phật lịch 2512, tôi ở đây vì quý vị giảng kinh Kim Cương. Đáng lẽ quyển kinh đã được giảng xong sớm, nhưng vì Bồ Đề Lan Nhã là đạo tràng hoằng hóa, quý vị cao tăng thường đến rất đông để thỉnh cầu khai thị. Vì muốn các vị không phải nhọc công tham phỏng, hành cước các nơi, mà vẫn có thể thâu hoạch được những lời chỉ giáo hữu ích của quý thiện tri thức, cho nên tôi phải đình giảng kinh Kim Cương một cách bất ngờ, mãi đến kỳ A Di Đà Phật thất năm rồi, mới kết thúc được toàn bộ. Thế là trước sau, khóa giảng kéo dài gần trọn hai năm.
Giảng kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật xong, bổn ý của tôi là định tiếp tục giảng phẩm pHổ Hiền Hạnh Nguyện trong kinh Hoa Nghiêm. Nhưng vì có nhiều vị muốn nghe kinh Phạm Võng, để đối với Bồ Tát giới có chỗ liễu giải rõ ràng. Vì thế, Phổ Hiền Hạnh Nguyện phẩm phải bị đình lại, và chỉ khai giảng vào chiều thứ Bảy mỗi tuần tại Bát Nhã giảng đường.
Còn nơi Bồ Đề Lan Nhã này, tôi tuyên thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa Phẩm để thỏa mãn ý nguyện của quý vị. Và do sự giảng kinh Phạm Võng Bồ Tát Tâm Địa này, sẽ kích thích quý vị phát tâm Bồ Đề, thực hành Bồ Tát đạo, đồng hướng về quả tối cao vô thượng Bồ Đề.
Đồng thời, lần giảng kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn này, lại còn có một điểm thâm ý đặc biệt bên trong. Đó là đối với kinh Kim Cang đã giảng trước đây, tư tưởng lý luận của kinh ấy thuộc về lý Không. Nếu không hiểu được Không lý thì quả là nguy hiểm vô cùng.
Tổ Long Thọ có dạy: “Tín giới vô cơ, vọng tưởng ức thủ nhất không, thị vị tà không” - (người tu hành lòng tin đối với giới pháp không có nền tảng, vọng tưởng ức đoán, chấp thủ một khía cạnh Không, là thiên không, như vậy chính là tà không).
Nên biết lý chân không Bát Nhã là tức không, tức giả, tức trung. Nếu thiên chấp một bên không, ấy thuộc về ngoan không, thì nguy hiểm vô cùng.
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại. Do đó, giới hạnh của Phật tử phải nghiêm trì, không nên xem thường và cũng chính là để giúp trừ khử cái tệ hại “vọng tưởng ức đoán, chấp thủ một bên không” như Tổ đã dạy.
Cho nên quý vị nào nghe qua kinh Kim Cương, lại nghe tiếp kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn này, tôi tin chắc rằng quý vị ấy sẽ được sự thọ dụng vĩ đại!
Chương I: Tiền đề khái thuyết (những điều khái quát đầu tiên)
A. Giới học vi Phật pháp đích căn bổn (Giới học là căn bản trọng yếu của Phật pháp).
Giới luật học của Phật giáo trong hai phái Nam, Bắc truyền có những điểm bất đồng rõ rệt:
- Về Phật giáo Nam Truyền chỉ có giới học của Thanh Văn, hoàn toàn không có giới học của Bồ Tát, đối với giới này, thất chúng Phật tử mỗi chúng đều thọ riêng.
- Trái lại, về Phật giáo Bắc Truyền chẳng những có giới học của Thanh Văn, lại có giới học của Bồ Tát, trong đó Tam Tụ Tịnh Giới của giới Bồ Tát thì thất chúng Phật tử đều chung thọ.
Phật giáo Bắc tông hay Nam tông đối với giới luật học, dù có điểm bất đồng như vậy, nhưng đều nhận chân giới học là căn bổn của Phật pháp. Cho nên bất luận Phật giáo đồ Nam Tông hay Bắc Tông, đối với giới pháp mình đã bẩm thọ, hoàn toàn không được xem thường. Vì sao vậy? Vì học Phật, cần lấy Giới Luật làm cơ sở đầu tiên. Một hành giả có chí hướng cầu Phật pháp, nếu không nghiêm trì tánh giới pháp Phật đã chế lập một cách hoàn chỉnh, thì người ấy vẫn y nhiên đứng ở ngoài cửa mà chưa được vào trong nhà, cũng không được lên chốn lầu cao của Phật Pháp.
Thế nên căn cứ vào Tiểu Thừa mà thuyết minh: “Giới thị chánh thuận giải thoát chi bổn”, nghĩa là: Giới pháp là căn bản chính, thuận theo con đường giải thoát. Căn cứ vào Đại Thừa mà thuyết minh: “Giới vi vô thượng Bồ Đề chi bổn”, có nghĩa: giới là cội gốc của quả Vô Thượng Bồ Đề. Vì lý do ấy, lẽ đương nhiên, muốn được chân chính giải thoát và chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ Đề, vẫn còn phải nương nơi trí tuệ vô lậu, mà cơ sở tối sơ, phải nói là Giới Học.
Tại sao vậy? Bởi nhờ sự hạn chế của Giới Học, khiến cho tâm niệm của hành giả tuyệt đối không được dong ruổi theo ngoại cảnh, nhờ đó mà nội tâm dần dần được an tịnh. Bấy giờ, từ trong tâm cảnh an định, trí huệ vô lậu sẽ được khai phát. Sau đó, lại phải vận dụng huệ kiếm Bát Nhã chặt đứt dây vô minh từ vô thỉ, mới được lên ngồi giường giải thoát, mới được an tọa trên tòa Bồ Đề.
Nên kinh dạy: “Nhơn Giới sanh Định, tùng Định phát Huệ”, nghĩa là: nhờ giữ Giới mà được Định tâm, từ định tâm khai phát trí huệ. Đích thực là một tuần tự bất di, bất dịch, không ai có thể vượt bực được.
Do đó, có thể thấy rõ Trí Huệ ở tầng tối cao, cố nhiên là trọng yếu, và Giới Luật tuy ở tầng nền tảng thấp nhất, nhưng lại càng trọng yếu hơn. Nếu như Giới Luật ở tầng nền tảng không được củng cố thì Thiền Định ở tầng giữa, Trí Huệ ở tầng cao đều không thể xuất hiện trong tâm của hành giả.
Giờ đây, tôi (Pháp Sư giảng giới) xin thỉnh vấn một điều: Mục đích chính của quý vị (chỉ chung giới Phật tử xuất gia và tại gia) học Phật, có phải muốn được giải thoát không?
Nếu như thừa nhận là phải, thì quý vị đối với Giới Học cần phải giữ gìn nghiêm cẩn, nhiên hậu mới có thể được giải thoát theo đúng chỗ quý vị mong cầu.
Có phải mục đích chính của quý vị học Phật là muốn chứng quả vị Bồ Đề vô thượng không?
Quả như quý vị thừa nhận là phải, thì đối với Giới Học, quý vị cần phải thủ trì nghiêm cẩn, nhiên hậu, mới có thể được chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, theo chỗ mong muốn của mình.
Giả như không phải như thế, nghĩa là đối với Giới Học, quý vị có chỗ khuyết phạm, thì chẳng những đối với thắng lợi xuất thế, không thể mong được kết quả, mà chính với công đức cõi Nhơn Thiên, quý vị cũng vẫn vô phần. Thế nên, chư Phật mười phương ba đời xuất hiện ở thế gian, không vị Phật nào không cực lực suy tôn giới pháp một cách cẩn trọng. Lịch đại Tổ Sư Tây Thiên cũng như Đông Độ, không Ngài nào chẳng đem giới pháp ân cần giáo hóa hậu sanh.
Nên kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp thuyết minh: “Nhứt thiết chúng sanh, sơ nhập Tam Bảo hải, dĩ Tín vi bổn. Trụ tại Phật gia, dĩ Giới vi bổn”. Nghĩa là tất cả chúng sanh khi mới vào trong bể Tam Bảo, phải dùng lòng tin sâu dày làm gốc. Khi đã an trú trong nhà Phật, thì dùng Giới làm cội gốc.
Tại sao vậy? Vì Giới là khởi điểm để hướng thượng, hướng thiện, hướng quang minh, hướng lên đường giải thoát. Thế nên không cho phép hành giả bất luận xuất gia hay tại gia có một chút xem thường.
Vì thế, khi đức Bổn Sư sắp tịch diệt, do tâm Đại Bi, Ngài đinh ninh dạy các đệ tử: “Sau khi ta diệt độ, các ông phải nhất tâm tôn kính Giới Luật, phải xem Giới Luật như thầy của các ông”.
Ở đây, không khỏi có người hỏi rằng: Tại sao giới pháp lại có tính trọng yếu như thế?
Giải đáp điều này, xin dẫn lời thuyết minh trong kinh Đại Niết Bàn như sau:
- Giới là thềm thang của tất cả pháp lành, cũng là cội gốc của tất cả thiện pháp; như quả đại địa là cội gốc của tất cả thảo mộc phát sanh.
- Giới là một đấng đạo sư tối cao của các thiện căn; là vị thương chủ dẫn dắt đàn thương nhân.
- Giới là thắng tràng của tất cả các thiện pháp; như thắng tràng của Thiên Đế Thích.
- Giới có công năng đoạn trừ vĩnh viễn tất cả ác nghiệp và tam ác đạo; như các dược thảo có công năng trị liệu tất cả các thứ ác bịnh.
- Giới là tư lương trên đường hiểm sanh tử, giới là chiếc áo giáp đồng, là cây gậy thần trừ diệt ác tặc kiết sử.
- Giới là một thần chú tối linh, diệt trừ rắn độc phiền não. Giới là cây cầu để qua khỏi hạnh nghiệp tội ác.
Kinh văn quá minh bạch, không cần phải nói thêm nhiều. Căn cứ theo đó, có thể khẳng định rằng: Bất luận tu tập thiện nghiệp hay đoạn trừ ác pháp; bất luận mong thoát ly khổ não hay cầu được giải thoát an lạc; bất luận đoạn phiền não nghi hoặc hay chứng chơn thường, đối với giới pháp, đều phải có tánh cách quyết định. Nếu không có Giới thì tất cả việc nói trên đều không thành tựu.
Như thế tại sao có thể nói là Giới không trọng yếu? Lại vì sao có thể đối với giới pháp dám sanh tâm khinh thường?
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Muốn thấy đuợc Phật tánh, chứng Đại Niết Bàn, quyết định phải có tâm thâm tín, kính trọng, tu trì tịnh giới. Nếu người nào thọ trì kinh này mà hủy phạm tịnh giới, người ấy là quyến thuộc của ma, không phải là đệ tử của ta. Ta cũng không cho người ấy thọ trì, đọc tụng kinh này”.
Đối với việc thọ trì, đọc tụng kinh điển Đại Thừa, hành giả thu hoạch được công đức vĩ đại. Hơn nữa, công đức thọ trì kinh điển Đại Thừa mà hành giả thu hoạch được, nếu so với người đem thất bảo bố thí, thì gấp bội hơn không biết mấy lần. Điều ấy cứ xem trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật thì rõ.
Lại nữa, việc thọ trì, đọc tụng kinh điển Đại Thừa, ở các kinh Đại Thừa đồng nhất trí tán thán, nên thông thường hàng Phật tử đa số đều thọ trì, đọc tụng kinh điển Đại Thừa. Nhưng y chiếu theo lời Phật dạy trong kinh Niết Bàn dẫn trên, thì thọ trì kinh điển, cố nhiên là điều tốt, nhưng phải dùng thân tâm thanh tịnh mà thọ trì.
Nói rõ hơn, là phải lấy việc tu trì tịnh giới mà đọc tụng. Nếu chỉ thọ trì kinh điển mà không xem trọng tịnh giới của Như Lai, thậm chí hủy phạm tịnh giới thì đức Phật không nhận người này là Phật tử chơn chánh, mà là quyến thuộc của ma vương. Đức Phật chẳng những không do vì việc người ấy thọ trì kinh Niết Bàn mà hoan hỷ, lại còn không cho người ấy thọ trì kinh này.
Chúng ta hãy suy tưởng thái độ của Phật, thì biết rằng thọ trì tịnh giới là trọng yếu biết dường nào! Sao lại có thể không vâng giữ một cách nghiêm cẩn?
Trong kinh Nguyệt Đăng Tam Muội, lại dạy rõ về điểm trọng yếu của Giới Pháp như vầy:
Tuy hữu sắc tộc cập đa văn
Nhược vô giới trí do cầm thú,
Tuy xử ty hạ thiểu văn kiến,
Năng trì tịnh giới danh thắng sĩ.
Dịch:
Dù có sắc tộc và đa văn,
Nếu không giới trí như cầm thú,
Tuy hạng tầm thường, ít kiến văn,
Nghiêm trì tịnh giới là thắng sĩ.
Xin giải thích rõ bài kệ trên như sau:
Một cá nhân ở đời, sự cao thấp về địa vị không phải căn cứ vào chủng tộc tôn quý, cũng không phải vì họ có sắc tướng đoan nghiêm, hay nhằm vào sự bác học đa văn của họ, mà hoàn toàn căn cứ nơi đức hạnh của người ấy cao thượng hay không. Thông thường, nói theo thế tục là đức hạnh, trong Phật pháp gọi là tịnh giới. Dù là một người thông thường hay một hành giả tu học Phật pháp, giới hạnh đích xác là vô cùng trọng yếu.
Vì thế, nếu không có giới hạnh và trí huệ, dù chủng tộc người ấy cao quý đến mức nào, sắc tướng đoan nghiêm đến mức nào, học vấn quảng bác đến đâu, căn cứ vào quan niệm Phật pháp mà xét, thì kẻ ấy so với cầm thú nào khác gì mấy. Ngược lại, nếu tu trì tịnh giới làm một con người có đạo đức cao thượng, dù ở vào địa vị thật thấp kém, dù kiến văn cạn hẹp, hiếm hoi, nhưng vẫn có thể được suy tôn là bậc thắng sĩ trên thế gian. Giá trị của con người đó, mọi người đều cung kính tôn trọng. Cho nên, giới hạnh là căn bản làm người.
Hành giả tu học Phật pháp, đặc biệt là người xuất gia tu Đại Thừa, cần phải làm cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt, Chánh Pháp được cửu trụ ở thế gian.
Khi đức Phật còn tại thế, đầu tiên Ngài chế định Giới Luật, đem pháp giới nhiếp phục chúng Tăng. Bản hoài của Đức Phật chính là mong muốn làm sao cho Tăng đoàn hòa vui thanh tịnh. Tăng đoàn cần phải gánh vác trách nhiệm trọng đại ấy. Nhưng trách nhiệm trọng đại ấy có gánh vác được hay không, điều trọng yếu không gì khác hơn là hành giả có tu trì tịnh giới hay không?
Nếu như mọi Phật tử xuất gia đều nghiêm trì pháp giới thanh tịnh, thực hành pháp Lục Hòa Kính, thì mới có thể làm cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt, Chánh Pháp được cửu trụ mãi nơi thế gian. Nên trong kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Thọ trì oai nghi giới pháp được đầy đủ, thực hành pháp Lục Hòa Kính, khéo léo ngự trị đại chúng, tâm không lo buồn, hối hận, thuận theo chánh pháp của Phật, không trái lời Phật dạy. Thế nên có thể làm cho ngôi Tam Bảo không đoạn tuyệt và chánh pháp do đó được cửu trụ trong thế gian”.
Hành giả Đại Thừa lấy việc cầu Phật Quả làm mục đích tối cao, mà thành Phật nhất định sẽ được tướng phước báo của bậc đại nhân, tức là ba mươi hai hảo tướng của đức Phật. Nhưng nguyên nhân được ba mươi hai tướng, không phải do nhân duyên sai biệt nào khác, chính là do ở nơi tu trì tịnh giới mà được. Nếu không theo đúng phép tu trì tịnh giới, chẳng những không được ba mươi hai tướng phước báo của bậc đại nhân, mà đến cả cái thân người hạ tiện cũng không thể có được.
Trong Đại Trí Độ Luận cũng từng thuyết minh: “Nếu người nào muốn cầu sự lợi ích vĩ đại, quyết phải nghiêm trì tịnh giới như yêu quý của báu, như ái hộ thân mạng. Tại sao thế? Vì giới pháp là nơi cư trú của tất cả pháp lành”.
Trong kinh luận nói lên sự lợi ích vĩ đại, đương nhiên là chỉ cho quả vị Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên chẳng những chư hành giả Thanh Văn thừa cần phải nghiêm cẩn vâng giữ giới pháp, mà chính bậc Bồ Tát Đại Thừa càng cần phải vâng giữ nghiêm mật hơn.
Giới là cội gốc xuất sanh tất cả pháp lành công đức và cũng là cội gốc đắc Niết Bàn, chứng Bồ Đề. Nên Giới là chỗ chung cùng đồng vâng giữ của hành giả trong ngũ thừa.
Chúng ta nếu không muốn đi trên con đường Phật Pháp thì thôi, nếu như muốn đi trên con đường Phật pháp, thì cần phải theo đúng như pháp, giữ gìn tịnh giới cho nghiêm cẩn.
Kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp dạy: “Tiến nhập Phật gia, dĩ Giới vi bổn”. Nghĩa là khi mới bước vào nhà Phật, phải lấy Giới Pháp làm cội gốc. Do đó, không cho phép bất cứ một hành giả nào tu học Phật pháp mà còn có chỗ vi phạm giới luật.
Bộ Giới Học Yếu Thuật dạy rõ: “Từ chỗ thiển cận mà nói thì Giới Học của Phật pháp là quy luật, luân lý, đạo đức của nhân sinh, là chuẩn tắc của con người, sở dĩ gọi là con người. Nếu đi vào chỗ thâm sâu mà giảng, giới pháp của Như Lai là đào tạo nhân cách cho đến chỗ viên mãn, cứu cánh Phật Quả”.
Người tu hành học Phật pháp từ khi phát tâm đối với Tam Bảo, bước vào cửa Phật, mãi đến lúc hoàn thành Phật quả, đều có thể nói là có giới tướng trong suốt giai đoạn xa xôi ấy (thông thường trong kinh Phật dạy một người từ khi mới phát Bồ Đề tâm, cho đến lúc viên thành Phật quả, phải qua hằng hà sa số kiếp, chính là chỉ cho giai đoạn xa xôi ấy). Thế nên, nghiêm trì tịnh giới đầy đủ thật là hạng mục (1) hành đạo. Ngừời tu trong Phật giáo Đại Thừa cần phải có đủ, không thì không thể đạt đến mục đích dự kỳ của hành giả ngũ thừa. Do đó, có thể thấy rằng dù giới học có những sai biệt, nhưng thật sự rất là nhất quán.
Đại Thừa Phật giáo phải lấy sự phát tâm Bồ Đề làm căn bản. Tức là lấy tâm Bồ Đề làm giới thể của Đại Thừa Bồ Tát Giới. Nếu như không phát tâm Bồ Đề thì dù có nghiêm trì tịnh giới, cũng chỉ là giới của thế tục.
Cho nên Hoằng Nhứt Luật Sư dạy: “Ngũ giới, bát giới tuy thuộc Tiểu thừa, nhưng hàng Phật tử muốn bẩm thọ giới phẩm ấy, cần phát tâm đại Bồ Đề, không nên độc thiện nhứt thân, nghĩa là chuyên tu thiện pháp để cầu giải thoát cho riêng bản thân mình, riêng thụ hưởng cảnh tịch diệt. Dù rằng, Khai, Giá, Trì, Phạm không khác với Thanh Văn, nhưng sự phát tâm khởi hạnh đồng với đại sĩ, mong tất cả thanh tín nên cố gắng”.
(thanh tín: thiện nam tín nữ)
Đây là lời khích lệ của Hoằng Nhứt Luật Sư, hy vọng rằng mỗi Phật tử đều nên thực hành Bồ Tát Đại Thừa. Thực là lời dạy có giá trị, mỗi Phật tử học Phật phải nên xem trọng!
Chí hướng Đại Thừa cốt ở lợi tha, nếu không phát tâm Bồ Đề thì không thể nào mang sự lợi ích phổ biến rộng rãi cho khắp chúng sanh. Cho nên, Bồ Tát vì muốn lợi ích chúng sanh, nếu có thể không rời Bồ Đề nguyện, thì mới gọi là tịnh giới đầy đủ vậy!
B. Thinh Văn Giới dữ Bồ Tát Giới dị đồng (Điểm dị đồng của giới Thanh Văn và Bồ Tát)
Hành giả tu học Phật pháp, căn cứ theo kinh từ trước đến nay, phân làm 2 loại: Hàng Thanh Văn thì phát tâm chán lìa và hàng Bồ Tát thì phát tâm Bồ Đề. Bất luận chỗ phát tâm của hành giả thuộc Đại Thừa hay Tiểu Thừa (Thanh Văn thuộc Tiểu Thừa, Bồ Tát thuộc Đại Thừa) khác nhau như thế nào, nhưng cả hai vẫn đồng có giới hạnh riêng để tự tu trì.
Sự sai biệt của hai hạng hành giả nói trên như thế nào?
Đây là một vấn đề chúng ta cần phải thấu triệt. Quan niệm thông thường cho Biệt Giải Thoát Giới của thất chúng Phật tử thuộc về giới hạnh tu trì của hàng Thanh Văn; Tam Tụ Tịnh Giới là giới hạnh tu trì của hàng Bồ Tát. Đứng về mặt đại thể, đây là biểu thị sự sai biệt giữa hai giới Thanh Văn và Bồ Tát. Nhưng nói một cách quả quyết, nghiêm cẩn và tường tận hơn, thì điểm dị đồng giữa hai giới Thanh Văn và Bồ Tát lại phải căn cứ vào nhiều phương tiện để luận đàm. Các phương diện đó bao gồm tám chủng loại sau đây:
1. Thông Giới dữ Biệt Giới (thông giới và biệt giới)
* Thanh Văn giới thuộc về Biệt Giới: những giới mà thất chúng Phật tử từng hạng bẩm thọ riêng, như:
- Ngũ Giới là Giới của các Phật tử tại gia bẩm thọ.
- Thập Giới là Giới của Phật tử xuất gia sa-di, sa-di-ni.
- Sáu học pháp là Giới của Thức-xoa-ma-na.
- Cụ Túc Giới là Giới của tỳ kheo, tỳ-kheo-ni.
Đệ tử Phật sở dĩ được phân làm thất chúng là do nơi sự bẩm thọ giới pháp bất đồng phát sinh ra. Chiếu theo chỗ thọ giới pháp khác nhau của thất chúng Phật tử mà phân biệt, thì chẳng những có từng lớp cạn sâu trong từng giới, mà còn phân ra những giới dành cho nam, nữ Phật tử riêng thọ. Điều này do bởi chính Đức Phật chế ra khi còn tại thế, chế lập đầu tiên. Ngài vì muốn thích ứng với hoàn cảnh xã hội cũng như tâm cơ sanh chúng đương thời, nên chế giới ngăn cấm Phật tử không được hành động như thế này hay thế khác.
* Bồ Tát Giới thuộc về Thông Giới: Bất cứ Phật tử nào có tín tâm đối với Phật đều có thể thọ. Chỉ đặc biệt là phải có một điều kiện duy nhất: phải phát tâm Bồ Đề, bất luận tại gia hay xuất gia; già, trẻ, lớn, nhỏ, nam, nữ v.v... Đó là điểm cốt yếu cho những ai muốn bẩm thọ Bồ Tát Giới.
- Như người nào trước kia thọ Ngũ Giới, về sau phát tâm Bồ Đề thọ Bồ Tát Giới, thì gọi là Bồ Tát Ưu Bà Tắc hoặc Bồ Tát Ưu Bà Di.
- Như người trước kia thọ Thập Giới, về sau phát tâm Bồ Đề thọ Bồ Tát Giới, thì gọi là Bồ Tát Sa Di hoặc Bồ Tát Sa Di Ni.
- Như người trước kia thọ Cụ Túc Giới, về sau phát tâm Bồ Đề thọ Bồ Tát Giới, thì gọi là Bồ Tát Tỳ Kheo hoặc Bồ Tát Tỳ Kheo Ni.
Căn cứ vào việc mọi hành giả theo Phật pháp, khi đã phát tâm Bồ Đề, đều có thể thọ Bồ Tát Giới, nên gọi là Thông Giới.
2. Nhiếp Luật Nghi Giới dữ Tam Tụ Tịnh Giới (Nhiếp Luật Nghi Giới và Tam Tụ Tịnh Giới)
* Thanh Văn Giới mà thất chúng Phật tử riêng thọ, thông thường gọi là Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Công dụng duy nhất của giới này cốt ở sự “phòng phi chỉ ác” (phòng ngừa tất cả những việc sai quấy mà ngăn dứt tất cả tội ác), cho nên đều dạy chúng ta những sự việc nào không nên làm. Hành giả nếu đúng như pháp tuân giữ, sẽ riêng được giải thoát. Cho nên Nhiếp Luật Nghi Giới còn được gọi là Biệt Giải Thoát Giới.
* Ngoài Nhiếp Luật Nghi Giới, hành giả Thanh Văn còn có Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới (còn gọi là Tịnh Lự Luật Nghi và Vô Lậu Luật Nghi).
- Biệt Giải Thoát Giới chứng đắc từ nơi sự bẩm thọ, trong khi Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới không phải do nơi bẩm thọ mà chứng đắc. Đây là sự khác biệt của ba loại giới nói trên.
- Biệt Giải Thoát Giới thuộc về thi-la của cõi Dục Giới.
- Định Cộng Giới thuộc về thi-la của cõi Sắc và Vô Sắc Giới.
Dù có sự sai biệt như vậy, nhưng đồng thuộc về nghiệp hữu lậu trong tam giới. Đạo Cộng Giới thuộc về thi-la vô lậu, không thuộc về nghiệp trong tam giới. Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới dù có những đặc điểm riêng, nhưng cùng đồng tôn chỉ khuyên răn xa lìa tội ác. Cả hai giới này đều gọi là “tùy tâm chuyển giới” (giới tùy theo tâm mà chuyển biến).
Khi tâm của hành giả ở trong trạng thái Định, tương ứng với cảnh Định, hoặc lúc tâm tương ứng với Vô Lậu Thánh Đạo; khi ấy, hai nghiệp thân, ngữ của hành giả tùy thuận theo sự tương ứng đó mà phát sanh tác dụng “phòng phi chỉ ác” một cách tự nhiên.
Tác dụng này là do khi hành giả ở trong Định và Vô Lậu Đạo mà phát sanh. Dù có công hiệu như vậy, nhưng phỏng sử một khi xuất định, hoặc giả khi tâm duyên theo cảnh khác thì tác dụng “phòng phi chỉ ác” cũng tùy theo đó mà mất đi lập tức.
Cho nên Định Cộng Giới, Đạo Cộng Giới và cả Biệt Giải Thoát Giới (luật nghi do bẩm thọ mà chứng đắc) bị chuyển biến suốt đời. Đây lại có thêm một điểm tương đồng giữa ba giới.
Ngoài Nhiếp Luật Nghi Giới, Đại Thừa Bồ Tát Giới lại còn có Nhiếp Thiện Pháp Giới và Nhiêu Ích Hữu Tình Giới.
- Nhiếp Thiện Pháp Giới: hành giả thọ giới Bồ Tát không phải chỉ không được làm tất cả những điều ác là đủ; vì như vậy mới chỉ thể hiện ở mặt tiêu cực. Hành giả còn phải cố gắng tu tập các thiện pháp. Đây mới chính là thể hiện mặt tích cực.
Ấn Thuận Đại Sư có dạy: “Người học Bồ Tát đạo để mong cầu thành Phật quả, không phải có một việc là xa lìa và không làm các pháp nhiễm ô, rồi cho là xong chuyện. Nói thí dụ như một khu vườn chẳng những cần phải dọn dẹp, nhổ và phát cỏ cho sạch sẽ; lại còn cần trồng những thực vật hữu dụng. Cho nên Bồ Tát cần phải học rộng tất cả những Phật pháp, viên thành tất cả công đức, thì mới có thể thực hiện được sự tích cực phi thường”.
Dù hành giả Thanh Văn bẩm thọ Luật Nghi Giới, không phải là hoàn toàn không cần tu tập tất cả thiện pháp, nhưng vẫn không giống với sự rộng học tất cả Phật pháp của hành giả Bồ Tát.
- Nhiêu Ích Hữu Tình Giới: biểu thị sự việc hành giả Bồ Tát lấy việc hóa độ chúng sanh làm chủ đích. Vì Bồ Tát phát tâm hóa độ chúng sanh, nếu không thực hành việc độ sanh thì đâu thể gọi là Bồ Tát?
Bồ Tát đã lấy việc nhiếp hóa chúng sanh làm căn bản, lẽ đương nhiên chính bản thân mình phải làm mô phạm cho chúng sanh. Nếu như bản thân Bồ Tát không tu giới hạnh, thử hỏi thì làm sao được sự tín nhiệm của chúng sanh?
Cho nên nếu lấy sự hóa độ chúng sanh làm hạnh nguyện thì cần nghiêm giữ giới pháp không được vi phạm.
Có người cho giới Thanh Văn là quá nghiêm cẩn, mỗi chút mỗi vi phạm. Vì thế rất khó giữ gìn cho trọn vẹn, nhưng giới Bồ Tát trái lại rất khoan dung; vả lại, đại sĩ không câu chấp tiểu tiết. Bấy giờ mọi người đua nhau nguyện tu học Đại Thừa Bồ Tát, đều tự cho mình là hành giả đã an trụ trong Bồ Tát hạnh. Khi làm những điều bất hợp pháp, bị người khác chỉ trích là luật nghi không hoàn chỉnh, lại lấy cớ ta đây là Bồ Tát để đáp lại kẻ chỉ trích mình, không biết đó chính là điều tuyệt đối sai lầm.
Chân chánh và thẳng thắn mà nói, Bồ Tát nếu muốn làm sư phạm cho nhơn thiên, điều kiện trước nhất cần thọ trì là Nhiếp Luật Nghi Giới. Vì Nhiếp Luật Nghi Giới chẳng những là cội gốc của Nhiếp Thiện Pháp Giới mà còn là cơ thạch cho Nhiêu Ích Hữu Tình Giới (cơ là nền tảng, thạch là đá; nghĩa là nền tảng xây bằng đá, mượn để thí dụ cho Nhiếp Luật Nghi Giới là một nền tảng rất cứng chắc cho Nhiêu Ích Hữu Tình và Nhiếp Thiện Pháp Giới).
Bồ Tát nếu không khéo hộ Nhiếp Luật Nghi Giới, thì chẳng những với Nhiếp Thiện Pháp Giới không thể sanh khởi, mà luôn cả Nhiêu Ích Hữu Tình Giới cũng hoàn toàn không thực hiện được. Vì thế, hành giả Bồ Tát đối với Tam Tụ Tịnh Giới, cần phải xem trọng ngang nhau. Có như thế, mới thể hiện rõ điểm đặc sắc của Đại Thừa Bồ Tát Giới.
3. Tùng sư thọ giới dữ bất tùng sư thọ giới (thọ giới nơi thầy và không thọ giới nơi thầy)
Thọ giới mà đắc giới có một pháp thức nhất định, nhưng giới Thanh Văn và Bồ Tát đều có chỗ bất đồng. Thất chúng Phật tử Thanh Văn thừa muốn thọ giới, đại thể mà nói, đều phải có thầy truyền trao giới pháp.
Như chúng tại gia thọ trì Ngũ Giới, phải thọ từ nơi một đại đức xuất gia. Điều này trong nhiều kinh điển và luận Câu Xá đều nói như vậy. Trường hợp nhất định không tìm không có sư tôn truyền thọ giới pháp, có thể đặc biệt cho phép tự phát nguyện bẩm thọ. Việc này trong Luật Tứ Phần và Đại Trí Độ Luận quy định như vậy. Đây chẳng qua là phương tiện ngoại ngạch, bất đắc dĩ.
Như thế, nếu gặp trường hợp có sư tôn truyền trao giới pháp, thì tuyệt đối không được áp dụng ngoại lệ tự phát nguyện bẩm thọ. Đến như chúng tại gia thọ Bát Quan Trai Giới, cũng phải ở trước ngũ chúng xuất gia mà bẩm thọ, lại còn phải tìm một vị giới sư suốt đời không ăn phi thời làm thầy truyền giới.
Trường hợp không thể tìm được vị sư tôn như thế, Phật tử có thể ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát tự phát thệ thọ giới.
Đối với chúng xuất gia thọ giới Sa Di và Sa Di Ni, phải có hai thứ giới sư truyền giới. Trường hợp đặc biệt thọ giới Cụ Túc, phải có đủ tam sư thất chứng. Đây là nghi thức tối quan trọng.
Vấn đề từ Thập Sư thọ giới Cụ Túc dành cho những nơi Phật pháp thịnh hành, Tăng chúng đông đảo. Trái lại, đối với những vùng biên địa hẻo lánh, Tăng chúng không đông, không có phương tiện quy tụ đầy đủ Thập Sư truyền giới, có thể giảm bớt phân nửa, chỉ cần 5 vị: bốn vị làm chúng Tăng, một vị làm Yết Ma sư tác pháp để truyền trao giới phẩm. Đây là chánh thuyết của Tỳ Bà Sa Luận, Chánh Lý Luật v.v... Đức Đạo Tuyên Luật Sư cũng căn cứ theo thuyết này.
Tóm lại:
Giới Thanh Văn quyết định phải thọ giới pháp từ nơi thầy với các nghi thức quy định bắt buộc.
Về giới Bồ Tát, phần nghi thức được quy định như thế nào?
Điều này trong kinh Bồ Tát Bổn Nghiệp Anh Lạc dạy rõ có 3 phẩm thọ giới: thượng, trung, và hạ phẩm.
- Thượng phẩm: Từ nơi Đức Phật mà thọ giới. Điều kiện này rất khó thực hiện. Trong kinh Phật dạy: “Một là giới tử lúc thọ giới, ở trước chư Phật, Bồ Tát mà bẩm thọ. Đây thực sự là Thượng Phẩm Giới”.
- Trung phẩm: Từ nơi những đệ tử của Phật mà bẩm thọ. Trong kinh Phật dạy: “Hai là sau khi Phật, Bồ Tát nhập diệt. Trong vòng một ngàn dặm, nếu có vị Bồ Tát nào đã thọ giới trước thì phải thỉnh làm Pháp Sư, dạy bảo, truyền trao giới pháp cho mình. Trước tiên, phải thành kính đảnh lễ dưới chân Pháp Sư, thứ đến tác bạch như vầy: ‘Kính thỉnh tôn giả làm thầy truyền trao giới pháp cho con’. Giới tử đắc giới ấy gọi là Trung Phẩm giới”.
- Hạ phẩm: Sự thọ giới trong trường hợp không gặp Phật xuất thế, hoặc đã nhập diệt, trong vòng ngàn dặm cũng không có đệ tử của Phật để làm thầy truyền giới, Phật tử có thể ở trước hình tượng Phật bẩm thọ. Trong kinh Phật dạy: “Ba là sau khi Phật, Bồ Tát nhập diệt, trong vòng nghìn dặm, không có Pháp Sư làm thầy truyền trao giới pháp thì nên ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát, hồ quỳ chắp tay tự thệ nguyện thọ giới. Nên tác bạch như vầy: Đệ tử... kính bạch thập phương chư Phật và đại địa Bồ Tát, con nguyện thệ học tất cả giới của tất cả Bồ Tát. Đây là hạ phẩm giới”.
Ấn Thuận Luật Sư thuyết minh: “Trường hợp thậm chí không có hình tượng Phật để tự thọ giới thì y cứ theo trong kinh Phổ Hiền Quán dạy: Giới tử có thể quán tưởng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật làm hòa thượng, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm Yết Ma A Xà Lê, Di Lặc Bồ Tát làm Giáo Thọ A Xà Lê, vẫn có thể thọ giới được”.
Theo kinh Phạm Võng này chỉ có hai cách thọ giới:
- Tự thệ thọ giới: Đây là trường hợp trong vòng mấy ngàn dặm, không có Pháp Sư truyền trao giới pháp. Giới điều thứ 23 trong 48 giới khinh, tuyên thuyết minh bạch như vầy: “Dục dĩ hảo tâm thọ Bồ Tát Giới thời, ư Phật, Bồ Tát hình tượng tiền, tự thệ thọ giới, đương dĩ thất nhật, Phật tiền sám hối, đắc kiến hảo tướng tiện đắc giới. Nhược bất đắc hảo tướng, ưng nhị thất, tam thất, nãi chí nhất niên, yếu đắc hảo tướng. Đắc hảo tướng dĩ, tiện đắc Phật, Bồ Tát hình tượng tiền thọ giới. Nhược bất đắc hảo tướng, tuy Phật tượng tiền thọ giới, bất danh đắc giới”.
(Nếu Phật tử sau khi Phật nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ Tát, thì đối trước tượng Phật cùng tượng Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới. Nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ Tát, sám hối trong bảy ngày. Nếu thấy được hảo tướng là đắc giới. Nếu chưa thấy được hảo tướng thì sám hối 14 ngày, 21 ngày hay đến cả năm, cầu cho được thấy hảo tướng. Khi được thấy hảo tướng rồi, thời được đối trước tượng Phật, Bồ Tát mà thọ giới. Như chưa thấy hảo tướng, thời dầu có đối trước tượng Phật thọ giới, vẫn không gọi là đắc giới).
- Từ thầy thọ giới: Đây là trường hợp có thể thỉnh được vị Pháp Sư truyền trao giới pháp. Cũng theo giới điều hai mươi ba dạy tiếp rằng: “Nhược tiên thọ Bồ Tát giới Pháp Sư tiền thọ giới thời, bất tu yếu kiến hảo tướng. Hà dĩ cố? Thị Pháp Sư chư sư tương thọ cố, bất tu hảo tướng. Thị dĩ Pháp Sư tiền thọ giới thời tức đắc giới, dĩ sanh chí trọng tâm cố tiện đắc giới”.
(Nếu khi đối trước vị Pháp Sư đã thọ giới Bồ Tát thì không cần thấy hảo tướng. Vì sao vậy? Vì vị Pháp Sư là chư sư truyền giới cho nhau, nên không cần hảo tướng. Hễ đối trước vị Pháp Sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, do vì hết lòng kính trọng nên đắc giới).
Với hai trường hợp thọ giới đã nói rõ ở trên, Ấn Thuận Luật Sư trịnh trọng dạy như vầy: “Nếu không có Phật xuất thế, cũng không có đệ tử Phật, thì có thể ở trước tượng Phật hoặc quán tưởng Phật mà thọ giới, nhưng nếu có đệ tử Phật thì vẫn cần phải từ nơi đệ tử của Phật mà bẩm thọ giới mới là thích hợp”.
4. Thanh Văn Giới thị tân đắc dữ Bồ Tát giới thị huân phát (Giới Thanh Văn thuộc về tân đắc và giới Bồ Tát thuộc về huân phát)
Giới pháp Thanh Văn xuất gia hay tại gia đều phải trải qua nghi thức thọ giới mới đắc giới thể. Giới thể này trước vốn không có mà khi thọ giới mới được, nên gọi là “tân đắc”. Cũng chính vì tính chất mới được này nên có thể có hai tình trạng xảy ra nơi Phật tử thọ giới là “đắc giới”, rồi lại có thể “thất giới”. Hai tình trạng có thể dẫn đến sự thất giới là:
- Phạm căn bản trọng giới (vi phạm những giới cấm quan trọng): Bất luận hình tướng bên ngoài thể hiện giống hệt một Phật tử chân chính đến mức độ nào (Phật tử ở đây bao gồm hai chúng), nếu giới thể đã bị mất thì người Phật tử đó đã mất hẳn đặc chất của người Phật tử.
- Nhất kỳ sanh mạng kết thúc (thời gian mạng sống đã đến lúc chấm dứt): Nguyên vì giới thể Thanh Văn thuộc về “tận hình thọ”, nghĩa là khi thời gian thọ mạng của người thọ giới tồn tại, giới thể tất nhiên theo sanh mạng mà chuyển sanh. Một khi sanh mạng băng hoại, giới thể tự nhiên cũng theo đó mà tiêu mất. Như vậy, có đắc giới tất nhiên sẽ có thất giới.
Với quan điểm này, Ấn Thuận Đại Sư thuyết minh: “Các học giả Thanh Văn có người cho giới thể là Vô Biểu Sắc, hoặc có người cho là Bất Tương Ưng Hành Pháp”.
Gần đây, quý sư trong giới xuất gia thuộc hệ phái Đại Thừa, cho là công năng tự tâm sở trong tâm tương tục, cũng thuộc về “tân huân”. Quan niệm như thế có phần không đúng. Vì Đại Thừa Bồ Tát Giới là pháp sẵn đủ của tự tâm, là pháp sẵn có, không phải sau khi thọ giới mới có được giới pháp đó.
Trong kinh Bồ Tát Bổn Nghiệp Anh Lạc có thuyết minh: “Giới phẩm của tất cả hàng Bồ Tát, bất luận phàm hay thánh, đều lấy tự tâm làm thể, vì tâm vô tận nên giới thể cũng vô tận”.
Phần văn trường hàng mở đầu kinh này cũng nêu rõ: “Quang minh kim cương bửu giới thị nhứt thiết Phật bổn nguyên, nhứt thiết Bồ Tát bổn nguyên, phật tánh chủng tử. Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Nhứt thiết ý thức sắc tâm thị tình, thị tâm, giai nhập Phật tánh giới trung”.
Nghĩa là: “Giới pháp kim cương quang minh quý báu này chính là bổn nguyên của tất cả chư Phật, bổn nguyên của tất cả Bồ Tát, cũng là chủng tử của Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả ý thức sắc tâm, là tình, là tâm, đều vào trong phạm vi Phật tánh”.
Bồ Tát Giới là pháp sẵn đủ trong tâm của tất cả chúng sanh. Chẳng những không cần đợi duyên chế lập, mà còn có sẵn công năng “phòng phi chỉ ác”, công năng “từ bi lợi vật”, công năng “vô biên công đức thanh tịnh định huệ” v.v... Nhưng sở dĩ phải thọ giới trở lại trong hiện tại, chẳng qua là làm cho giới đức sẵn đủ ấy huân phát và tăng trưởng mạnh mẽ. Giới Phật tánh thường trụ lấy tâm làm giới thể, nên sau khi phát tâm thọ giới, chẳng những trong đời hiện tại không bị mất giới, mà khi sanh mạng kết thúc, giới thể cũng vẫn tồn tại.
Bồ Tát Giới là giới tột cùng đời vị lai, nếu Phật tử thọ trì không thất giới thì mãi mãi cho đến khi chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, giới thể đều tương tục, không gián đoạn. Dẫu sau khi sanh mạng kết thúc, tái sanh trở lại không ghi nhớ được việc mình đã thọ giới ở đời quá khứ. Nếu hiện tại phát tâm thọ giới trở lại, trường hợp này gọi là duyên tăng thượng, tuyệt đối không được gọi là “tân đắc”. Đến như trong đời hiện tại, giả sử phạm trọng giới, dù cũng có thể gọi là thất giới, nhưng nếu đúng theo pháp sám hối, thì có thể thọ giới trở lại.
Cho nên kinh nói: “Giới Bồ Tát có pháp thọ mà không có pháp xả; có phạm nhưng không mất giới, vì là giới thể cùng tột đến đời vị lai vậy”. Điều này Ấn Thuận Luật Sư nhấn mạnh như sau: “Bồ Tát từ khi mới phát tâm nhẫn lại, giới đức trong tự tâm mỗi ngày dần tăng trưởng. Hiện tại trở lại thọ giới, cũng chẳng qua là nương theo ngoại duyên để huân phát, làm cho sự huân trưởng ấy được thành thục mà thôi”.
Cho nên giới Bồ Tát đúng như trong kinh này thuyết minh: “Thị chư Phật chi bổn nguyên, hành Bồ Tát đạo chi căn bổn, thị đại chúng chư Phật tử chi căn bổn” (Nghĩa là: “Tâm địa đại giới này là bổn nguyên của chư Phật, là căn bản của người hành đạo Bồ Tát, là căn bản của đại chúng Phật tử”).
Bất luận là chúng sanh ở trong hình thái nào, chỉ cần hiểu rõ lời Pháp Sư thuyết giới, đều được phép thọ giới.
5. Thanh Văn Giới bất khả văn độc dữ Bồ Tát Giới khả dĩ văn độc (Giới Thanh Văn không được đọc và nghe, trong khi giới Bồ Tát có thể nghe hoặc đọc)
Giới Tỳ Kheo Thanh Văn y cứ theo luật Phật chế định, có quan hệ điều văn của Ngũ Thiên, Thất Tụ, nên hàng Phật tử tại gia chưa thọ giới Cụ Túc, tuyệt đối không được phép xem giới, đọc giới và nghe giới.
Việc này trong Luật Văn có dạy rõ ràng: “Một lúc nọ, chúng Tăng làm lễ Bố-tát, có người lén nghe tụng giới, bị Hộ Pháp Thiện Thần đánh đuổi”. Nhưng đối với giới Đại Thừa Bồ Tát khi chưa thọ giới, tuy không được tham dự bố-tát, tụng giới, nhưng nghe giảng ý nghĩa của giới pháp hay xem, đọc, hoặc nghiên cứu ý nghĩa của giới bổn thì có thể được, không bị cấm chỉ tuyệt đối.
Vì thế, sau khi tôi tuyên bố giảng kinh Phạm Võng, có những Phật tử hỏi: - Con chưa thọ Bồ Tát Giới, Pháp Sư có thể cho con tham dự được không? Tôi trả lời: - Đương nhiên là được.
Nhưng nếu khi giảng giới tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, dù quý vị nào có tâm thành khẩn muốn nghe, tôi cũng không chấp thuận. Còn giảng kinh Đại Thừa Phạm Võng Bồ Tát Giới, tôi rất mong muốn quý vị đến nghe thật đông, càng đông càng tốt. Chẳng những không vi phạm giới luật mà còn có nhiều lợi ích. Vì do sự nghe giảng ấy, quý vị sẽ được kích phát tâm Bồ Đề và huân phát Phật Tánh vốn đã có sẵn trong mỗi quý vị.
6. Thanh Văn đích giới điều dữ Bồ Tát đích giới điều (Giới điều của Thanh Văn và giới điều của Bồ Tát)
Giới điều của thất chúng Phật tử Thanh Văn thừa đều khác biệt, không giống nhau như:
- Ngũ Giới của hàng Phật tử nam, nữ tại gia.
- Thập Giới của Phật tử xuất gia: sa-di, sa-di-ni.
- Và những giới điều tối cực nghiêm cẩn, chu mật của hàng tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
Thông thường giới tỳ-kheo gồm 250 giới, nhưng trong Luật Tăng Kỳ thì chỉ có 218 giới, luật của Nhứt Thiết Hữu Bộ xưa truyền lại cho là 260 giới. Về số mục, điều văn của hai bộ Luật nói trên có nhiều điểm bất đồng, nhưng phần đại thể vẫn giống nhau.
Có đoạn thuyết minh rõ như vầy: Giới tỳ-kheo phần đại lược thì có hai trăm năm mươi giới, phần trung bình thì ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Giới tỳ-kheo-ni phần đại lược gồm ba trăm bốn mươi tám giới, phần trung bình gồm tám vạn oai nghi, mười hai vạn tế hạnh.
Nếu nói rộng ra thì giới của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni đều là vô lượng vô biên vì tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni lúc thọ giới đều được pháp giới vô lượng vô biên, số lượng đồng với cảnh hư không khắp pháp giới, không một pháp nào không trọn vẹn, đầy đủ, nên mệnh danh là giới Cụ Túc.
Còn như giới Bồ Tát thì:
- Kinh Phạm Võng quy định là mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh.
- Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói là sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh.
- Kinh Du Già Bồ Tát Giới nói là bốn giới trọng, năm mươi mốt giới khinh.
Lại có nhiều kinh khác như kinh Bồ Tát Thiện Giới, kinh Bồ Tát Địa Trì v.v... giảng nói các giới nhiều ít rất khác nhau, nhưng về phần căn bản trọng giới vẫn giống nhau.
Vì sự kiện ấy, Ấn Thuận Luật Sư nhấn mạnh: “Thông thường thọ giới là bẩm thọ mỗi một giới điều như trong kinh văn đã dạy. Nhưng kỳ thật, thọ giới là phát khởi công năng “phòng phi chỉ ác” trong nội tâm, quyết không chỉ thu hẹp trong giới hạn của điều văn. Vì thế, hàng Phật tử bất luận xuất gia hay tại gia, xin đừng ngộ nhận những gì trong Giới Luật không đề cập đến thì quý Phật tử đều hành động được”.
Tại sao vậy? Đơn cử giới uống rượu, tất cả hàng Phật tử từ cư sĩ đến tỳ-kheo đều phải thọ trì nghiêm cẩn. Nhưng trong Luật không quy định việc cấm hút thuốc, cũng không cấm chỉ các loại độc phẩm như nha phiến, hải lạc nhơn (một loại thuộc ma túy) v.v... Do đó, có người cho rằng Đức Phật không có chế giới cấm hút thuốc thì cứ việc hút không tổn hại gì. Thật là sai lầm! Họ không biết rằng, khi Đức Phật còn tại thế, không có những ác tập (tập quán xấu) về độc phẩm như hút thuốc, nghiện nha phiến v.v... cho nên đức Phật không chế giới này.
Căn cứ vào việc Đức Phật cấm uống rượu vì rất có hại cho thân tâm mà nói thì những thức độc phẩm kia đương nhiên cũng phải cấm chỉ, không được hút. Việc chế định bằng văn tự rõ ràng của Giới Luật chẳng qua chỉ thích ứng theo thời cơ mà chọn lấy những thứ trọng yếu để nêu lên làm quy lệ mà thôi.
Đến như Bồ Tát giới trong các kinh giải nói nhiều ít không đồng, cũng là do nơi ý nghĩa ấy. Do vậy, chúng ta đối với Giới Luật của Đức Như Lai đã chế định, cần phải vận dụng một cách linh động, hoạt bát, không nên chấp nhặt một khía cạnh, rồi cho rằng: “Những gì Đức Phật không cấm ngăn thì bây giờ cũng không cần ngăn cấm, những gì Đức Phật đã chế chỉ cũng không cần canh cải”. Cần phải có sự thích nghi với thời gian, địa phương. Nên nhận chân những gì không nên làm thì không nên cố ý làm, để tránh những ảnh hưởng xấu trong mọi cảm quan xã hội đối với Phật giáo.
Quan niệm của các hạng nhân sĩ trong xã hội đặc biệt chú trọng là: “Phật giáo đồ phải có đức hạnh”; cho nên hàng Phật tử, nhất là chúng xuất gia, cần phải tuân thủ giới hạnh thật nghiêm cẩn.
7. Thanh Văn đãi duyên chế dữ Bồ Tát Giới bất đãi duyên chế (Giới Thanh Văn đợi đúng thời duyên Đức Phật mới chế lập, còn giới Bồ Tát không cần đợi thời duyên):
Về phương diện ngôn từ giáo hóa chúng sanh, chẳng những duy có Đức Phật là người có thể tuyên thuyết, mà còn có năm hạng người có thể tuyên thuyết. Về vấn đề chế giới (chế định Giới Luật khinh, trọng), duy chỉ có Đức Phật chế lập, ngoài ra không ai có thể chế lập được. Cho nên giới Thanh Văn và giới Bồ Tát đều do Đức Phật đích thân chế định.
Tuy rằng tất cả đều từ Đức Phật chế định, nhưng pháp thức chế lập có điểm bất đồng. Như trường hợp giới Thanh Văn cần đợi đủ nhân duyên mới chế lập, nghĩa là: nhân vì có những sự phạm giới của tín đồ, Phật mới tùy theo hình thức và mức độ tội trạng mà chế giới, để răn dạy đệ tử về sau không được tái phạm. Nếu vi phạm ở mức độ không thể dung thứ, cần phải trị phạt nghiêm khắc.
Trái lại, Bồ Tát Giới không như vậy! Nghĩa là, không cần phải đợi có thật phạm giới mới chế định Giới Luật mà Đức Như Lai nhứt thời đốn chế (nghĩa là: Khi Đức Như Lai thành Đạo, liền chế định giới Bồ Tát ngay lúc đó).
Văn trường hàng nối tiếp sau phần văn kệ tụng mở đầu kinh này thuyết minh: “Nhĩ thời, Thích Ca Mâu Ni Phật sơ tọa Bồ Đề thọ hạ, thành Vô Thượng Chánh Giác, dĩ sơ kiết Bồ Tát Ba-la-đề mộc-xoa” (Lúc bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật mới thành đạo Vô Thượng Chánh Giác, Ngài ngồi dưới gốc Bồ Đề, bắt đầu kiết giới Bồ Tát ba-la-đề mộc-xoa).
Kinh văn nói rõ Đức Phật vừa thành Vô Thượng Chánh Giác thì bắt đầu kiết giới Bồ Tát. Đó chẳng phải là một chứng minh rất rõ về việc đốn chế hay sao?
Tại sao giới Bồ Tát nhứt thời đốn chế, mà không đợi nhân duyên phạm giới?
Theo lý mà giải, việc ấy có quan hệ với cơ nghi chúng sanh. Vì Bồ Tát là đại căn cơ, không cần những vấn đề nhỏ nhặt thế nọ, thế kia; cho nên Đức Phật dụng pháp đốn chế. Còn Thanh Văn là tiểu căn cơ, nếu không đợi nhân duyên riêng biệt mà chế lập, thì họ sẽ khó tiếp thọ, nên Đức Phật phải dụng pháp biệt chế.
Về phương diện sự tướng mà nói, chư Cổ Đức nêu ra ba lý do:
- Bồ Tát đủ tín tâm sâu nhiệm: Vừa nghe đức Như Lai chế Đại Thừa giới liền tiếp thọ, không trái nghịch và cũng không cảm thấy có bất cứ sự kinh lạ nào. Trái lại, tín tâm của Thanh Văn còn nông cạn. Nếu Đức Như Lai đồng một lúc vì họ đốn chế, họ sẽ không thể nào thừa nhận được. Lại còn cảm thấy rất khó khăn trong việc tu học Phật pháp, thậm chí thối thất dũng khí hành đạo!
- Bồ Tát phải đi khắp nơi hóa độ chúng sanh nên không thể từng giây phút theo hầu bên Phật. Khi gặp những sự tình không đúng giới pháp, không thể tức khắc bẩm bạch lên Đức Phật để cầu Đức Phật giải quyết, hay phán đoán điều ấy có hợp giới pháp hay không. Cho nên giới Bồ Tát phải nhất thời đốn chế. Trong khi Thanh Văn là chúng thường tùy của Phật, luôn hầu cận bên Phật. Mỗi khi có những sự kiện trái với đức hạnh, lập tức chư vị có thể bạch Phật để Ngài quyết đoán. Cho nên giới Thanh Văn cần phải đợi có trường hợp phạm giới mới chế lập.
- Giới Bồ Tát đã chế lập trong kinh này thật sự phát khởi từ nơi Đức Phật Lô Xá Na. Đức Lô Xá Na vì Diệu Hải Vương Tử muốn thọ Bồ Tát Giới, và chư Đại Sĩ đương thời hiện diện ở pháp tòa, nên đã tuyên thuyết, chế lập 10 giới trọng, 48 giới khinh này.
Đó là những nguyên do giới Bồ Tát nhất thời đốn chế; giới Thanh Văn thì căn cứ vào từng trường hợp phạm giới của đệ tử mà Đức Phật tùy chế, nói rõ hơn là đợi có nhân duyên mới chế giới.
Tóm lại:
- Giới Bồ Tát căn cứ vào Lý Thiện mà chế lập, gọi là giới “Phật tánh thường trụ”.
- Giới Thanh Văn căn cứ vào Sự Thiện mà chế lập, gọi là “hộ thế cơ hiềm giới” (hỗ trợ tâm niệm, chấn chỉnh nhân cách người tu hành để tránh sự sanh tâm báng bổ của người thế gian).
- Giới BồTát chủ đích là trở về Bản Tánh.
- Giới Thanh Văn cốt yếu tránh xa sự chê bai, dị nghị của thế nhân.
Đây là sự bất đồng về y chỉ trong sự chế lập giới pháp của Đại Thừa và Tiểu Thừa vậy.
8. Thanh Văn dữ Bồ Tát thọ giới ưng hữu đích tư chất (giảng về tư chất thọ giới cần thiết của Thanh Văn và Bồ Tát)
Thọ Luật Nghi Giới của Thanh Văn thừa chẳng những có những quy luật nghiêm mật và không phải bất cứ người nào cũng đều được thọ giới. Nhất là việc thọ giới của hàng đệ tử xuất gia thì vấn đề tư chất của những vị ấy càng được chú trọng một cách nghiêm cẩn đặc biệt.
- Chẳng hạn những người bản thân có những thứ bệnh bạch lại (hủi, cùi, lác trắng), ung thư, điên loạn v.v...
- Hoặc là sáu căn không toàn vẹn (như người một mắt, sứt môi...), tàn tật, xấu xí.
- Hoặc là người hoàng môn nhị hình (2).
- Hoặc là người làm nô bộc cho người (trừ trường hợp được chủ nhân ưng thuận thì không thuộc phạm vi hạn chế).
- Hoặc là phi nhơn và súc sanh v.v...
Những hạng người kể trên, chẳng những không đủ tư cách thọ giới Tỳ-kheo mà luôn cả tư cách để thọ giới Sa-di cũng không được. Trái lại, giới Bồ Tát không có những hạn chế nghiêm khắc như vậy.
Trong kinh Anh Lạc giảng dạy: “Lục đạo chúng sanh thọ đắc giới, đản giải ngữ đắc giới bất thất” (Tất cả chúng sanh trong lục đạo đều được thọ giới, chỉ cần hiểu được lời nói của Pháp Sư thì đắc giới không mất).
Trong phần văn tụng của kinh này cũng thuyết minh:
Nhứt thiết hữu tâm dã,
Giai ưng nhiếp Phật giới.
Dịch:
Tất cả những người có tâm thức,
Đều nên nhiếp thọ Giới Luật.
Cũng trong kinh này, văn trường hàng lại nói rõ hơn: “Nếu người thọ giới Bồ Tát này, không luận là quốc vương, thái tử, các quan chức hay tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, không luận là chư thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ dân, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ hay hàng nô tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ thần, thần Kim Cương hay loài súc sanh, nhẫn đến kẻ biến hóa, hễ ai nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp Sư thời đều được thọ giới và đều gọi là thanh tịnh thứ nhất”.
Y chiếu theo Đại Thừa Giới Kinh thuyết minh thì bất cứ loại chúng sanh nào trong lục đạo, bất luận tư chất thế nào, chỉ cần hiểu được lời nói của Pháp Sư thuyết giới, đều có tư cách để thọ giới của Phật, không giảm biệt những căn cơ nào.
Trường hợp này so với những quy định thọ giới Tỳ Kheo bên Thanh Văn thừa, đích thực là khoan dung hơn nhiều. Thọ luật nghi giới bên Thanh Văn, chẳng những kẻ hoàng môn, nhị hình ở trong cõi Nam Thiệm Bộ Châu không thể thành tựu luật nghi, mà chính những người chánh thường (sáu căn đầy đủ), thân tướng đoan nghiêm ở Bắc Câu Lô Châu cũng không thể thọ Biệt Giải Thoát Giới, vì đời sống của những người ở châu ấy quá sung mãn, nên không thể thọ Biệt Giải Thoát Giới (giới Thanh Văn).
Tư cách thọ giới Bồ Tát dù nói là rất phóng khoáng, chỉ cần những loại chúng sanh hiểu được lời của Pháp Sư truyền giới thì đều được thọ giới. Nhưng cần phải có chủng tánh Bồ Tát, phát tâm Bồ Đề, có tâm hạnh thù thắng, mới có thể cảm được tịnh giới Bồ Tát.
C. Phạm Võng Giới Kinh đích truyền lai ngã quốc (kinh Phạm Võng chính thức truyền đến nước của tác giả)
Trong phạm vi những khu vực Đại Thừa Phật giáo lưu hành, tất cả Phật tử đều phải thọ Luật Nghi giới. Riêng hai chúng xuất gia tỳ kheo và tỳ kheo ni tuyệt đối phải thọ giới Bồ Tát. Những hành giả khác trong ngũ chúng, nếu ai phát Bồ Đề tâm thọ giới Bồ Tát, đều có thể thọ Tâm Địa đại giới này. Hơn nữa, từ trước đến nay, các Phật tử đều y theo kinh Phạm Võng này để thọ giới Bồ Tát. Cho đến gần đây, Thái Hư đại sư đề xướng giảng giải kinh Ưu Bà Tắc Giới, mới có sự phân biệt trong việc truyền trao giới Bồ Tát:
- Hàng Phật tử tại gia thọ giới Bồ Tát thì y theo kinh Ưu Bà Tắc, thọ sáu giới trọng, hai mươi giới khinh.
- Chúng Phật tử xuất gia, thọ giới Bồ Tát thì y theo kinh Phạm Võng thọ mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh.
Phạm Võng Giới Kinh nhờ đó lưu hành rất rộng ở Trung Quốc, và được chư đại đức nhiều thời đại rất mực tôn trọng. Nhưng vì vấn đề văn tự truyền dịch cũng như lịch sử truyền dịch thiếu sự minh bạch, kỹ lưỡng nên về sau không ít học giả nghi kinh Phạm Võng là ngụy tạo. Do đó sự hoằng thông kinh Phạm Võng bị ảnh hưởng rất lớn. Vì lý do ấy, bây giờ nên giải thích thế nào về vấn đề truyền nhập kinh Phạm Võng sang Trung Quốc?
Trước khi nói về vấn đề truyền dịch kinh này, tôi thiết nghĩ trước tiên, nên thuyết minh về:
* Sự truyền dịch Bồ Tát Luật tạng
Theo tương truyền của chư thượng đức cổ đại: Vào triều nhà Lương, ngài Chơn Đế tam tạng Pháp Sư lúc sắp đến Trung Hoa hoằng truyền Phật pháp, ngài từng suy nghĩ phải mang Bồ Tát Luật Tạng theo.
Nhưng lúc ngài vừa đem bộ Luật Tạng lên thuyền thì thuyền sắp bị đắm xuống biển. Mọi người trong thuyền lúc bấy giờ đều kinh sợ, cho rằng vì đồ vật quá nhiều, nên vội vã lấy bớt ra. Nhưng dù bớt ra bao nhiêu, thuyền vẫn cứ như sắp đắm.
Đến cuối cùng khi lấy Bồ Tát Luật tạng đem ra thì thuyền nhẹ tênh lướt sóng, không còn hiện tượng sắp chìm đắm nữa. Chơn Đế tam tạng mục kích sự kiện này, lòng ngài buồn vô hạn, không thể dằn được, Ngài than rằng: “Giới Luật Bồ Tát vô duyên với đất Hán như thế ư!”
Nếu như truyền thuyết trên là sự thật, thì chẳng những Chơn Đế tam tạng có cảm tưởng đáng buồn, mà chính chúng ta hiện tại cũng có cảm giác bi thống vô hạn. Do đó nên biết sự lưu truyền Bồ Tát Giới không phải là dễ!
Lại có một truyền thuyết nữa như sau:
Ngài Đàm Vô Sấm tam tạng Pháp Sư đến Trung Hoa. Lúc ngài ở tại châu Tây Lương, hoằng truyền Phật pháp, có quý sa môn Pháp Tấn v.v... từng hết lòng thỉnh cầu Đàm Vô Sấm tam tạng truyền trao giới pháp Bồ Tát và khao khát được ngài phiên dịch Bồ Tát Giới Bổn để nương theo đó mà trì tụng, phụng hành. Nhưng Đàm Vô Sấm tam tạng chẳng những không tiếp nhận lời thỉnh cầu của chư sa môn Pháp Tấn, lại còn thốt ra những lời hàm chứa nhiều ý khinh miệt: “Thử quốc nhơn đẳng tánh đa giảo hoạt, hựu vô cương tiết, khởi hữu kham vi Bồ Tát lợi khí” (Nghĩa là: Những người trong nước này đa số là hạng người tâm tánh giả dối, quỷ quyệt, không có tánh cương trực khí tiết, làm sao có thể kham nhẫn thực hành pháp khí của Bồ Tát đạo!)
Thế nên mặc cho quý sa môn Pháp Tấn khổ lụy cầu khẩn thế nào, trước sau Đàm Vô Sấm tam tạng vẫn quyết không bằng lòng truyền trao Bồ Tát giới cho các vị này. Chư sa môn Pháp Tấn không còn cách nào hơn, chỉ đem tâm tối cực thành kính, khẩn thiết ở trước tượng Phật ai khẩn, lập thệ thỉnh cầu pháp giới.
Do nơi tinh thần thành khẩn của quý ngài đã đến mức cùng tột, nên vừa đúng một tuần, các Ngài mộng thấy đức Di Lặc Bồ Tát đích thân vì các ngài truyền trao giới pháp. Sau khi truyền giới Bồ Tát xong, đức Di Lặc lại đem bộ Bồ Tát Giới Bổn trao cho quý sa-môn. Các ngài ghi nhớ đọc tụng rất rõ ràng.
Sau khi tỉnh mộng, các ngài đặc biệt đến ra mắt Đàm Vô Sấm tam tạng. Khi Đàm Vô Sấm vừa trông thấy tướng mạo khác hẳn với trước đây của các ngài, Pháp Sư biết đó là những bậc pháp khí Đại Thừa nên vô cùng hân hoan bảo rằng: “Hán độ diệc hữu nhơn hĩ!” (Đất Hán cũng có người đủ pháp khí Đại Thừa). Ngài không đợi sự cầu thỉnh của quý sa môn, tự động dịch quyển giới bổn ra Hán tự.
Thật là một sự trùng hợp không thể nghĩ bàn, vì quyển giới bổn của Ngài Đàm Vô Sấm phiên dịch so với văn nghĩa của quyển Giới Bổn mà đức Di Lặc trao cho quý sa môn trong giấc mộng rốt ráo giống hệt nhau.
Bộ Địa Trì Giới Bổn hiện đang lưu hành trong kinh tạng gọi là Bồ Tát Địa Trì Kinh. Thật ra, Bồ Tát Địa Trì Kinh là tên phiên dịch khác của Du Già Luận Bồ Tát Tâm Địa. Nhưng chỉ có điều là giới bổn của Huyền Trang Pháp Sư phiên dịch, sự tường lược có chút sai khác mà thôi.
Trên đây là nói về sự liên quan giữa các Đại Thừa Giới Bổn. Ở Ấn Độ vẫn sẵn có Bồ Tát Quảng Luật, nhưng vì chưa truyền đến Trung Quốc, nên Đại Thừa Bồ Tát Luật Nghi ở Trung Quốc không hoàn bị bằng luật nghi của Thanh Văn thừa.
Năm bộ luật của Thanh Văn Thừa:
- Đàm Vô Đức.
- Tất Bà Đạ.
- Ca Diếp Di.
- Sa Di Tắc.
- Bà Ta Phú Đa.
Muốn biết rõ phải tham khảo trong Đại Luật Tỳ Kheo sớm đã truyền đến Trung Quốc từ trước. Những mối quan hệ này, thiết tưởng không cần nói nhiều. Phần chủ yếu cần đề cập chi tiết và rõ ràng là sự phiên dịch của kinh Phạm Võng khi được truyền đến Đông Độ.
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn từ trước đến nay đều nói Huyền Trang Pháp Sư phiên dịch. Sự việc này được các nhà chép kinh đồng ghi nhận, dường như không có điều gì nghi hoặc, nếu không muốn nói là rất thâm tín.
Nhưng căn cứ vào Pháp Kinh Sở Biên Soạn Chi Chúng Kinh Mục Lục (bộ sách ghi chép mục lục các kinh), thì vào triều đại nhà Tùy, niên hiệu Khai Hoàng thứ 14 (Tây lịch 594), kinh Phạm Võng bị liệt vào hạng các luật đáng nghi hoặc, lại có nơi cho: “Chư gia cụ lục, đa nhập nghi phẩm”, nghĩa là: Các nhà ký lục ngày xưa phần nhiều liệt kinh Phạm Võng vào loại kinh luật đáng nghi ngờ.
Chính vì lẽ đó nên về sau, một số học giả nghi kinh Phạm Võng không phải do đức La Thập Pháp Sư chính tay phiên dịch. Từ mối nghi ngờ về dịch giả, tiến đến sự nghi kinh Phạm Võng là ngụy tạo. Những vấn đề quan hệ đến quyển kinh, thiết tưởng không nên nói nhiều để tránh cho vấn đề càng thêm phức tạp. Vì sự việc ấy rốt ráo như thế nào, xin đợi hàng học giả khảo chứng.
Căn cứ vào chư thượng đức trong nhiều thời đại đã y cứ theo kinh Phạm Võng truyền giới Bồ Tát, cho nên chúng tôi hiện nay cũng công nhận kinh Phạm Võng này chính từ đức La Thập Pháp Sư phiên dịch.
* Việc La Thập Pháp Sư phiên dịch kinh Phạm Võng như sau:
Tương truyền kinh Phạm Võng ở Ấn Độ có mười vạn bài tụng, nếu y theo kinh văn dịch hết ra thì có tất cả một trăm hai mươi quyển, sáu mươi mốt phẩm. Khi đức La Thập Pháp Sư dịch kinh này, chỉ dịch một phẩm thứ mười, thuyết minh về Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm.
Phiên dịch xong, Ngài lại cho chép ra tám mươi mốt bộ để lưu thông nơi đời. Việc này trong bài tựa kinh Phạm Võng lại ghi: “Triều Hậu Tần tại Trường An, Thích Tăng Triệu thuật”. Nhưng sự thật không phải Thích Tăng Triệu thuật, mà chỉ nói rằng:
“Cho nên niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ ba, gió thuần hòa thổi đến Đông Độ” (Câu này ám chỉ chánh pháp Như Lai truyền đến Đông Độ).
Bấy giờ, Thiên Tử hạ chiếu, kính thỉnh Pháp Sư Cưu Ma La Thập nước Thiên Trúc, đến ở chùa Thảo Đường, nơi Trường An, để cùng các sa môn Nghĩa Học, hơn ba ngàn vị Pháp Sư, tay cầm bản Phạn văn, miệng thì phiên dịch, giải thích tất cả hơn năm mươi bộ. Trong đó, có kinh Phạm Võng gồm một trăm hai mươi quyển, sáu mươi mốt phẩm, và Bồ Tát Tâm Địa Phẩm, là phẩm thứ mười trong kinh này, chuyên thuyết minh những công hạnh của Bồ Tát.
Lúc bấy giờ, quý sa môn Đạo Dung, Đạo Ảnh v.v... tất cả gồm ba trăm vị, đều thọ giới Bồ Tát. Mỗi người đều có tụng phẩm Tâm Địa này để làm chỗ thù hướng cho tâm mình. Cho nên thầy trò tâm ý khế hợp, đồng nhau kính cẩn, tả phẩm Tâm Địa này, tất cả tám mươi mốt bộ để lưu truyền trong nhân gian”.
Căn cứ vào đoạn văn tự thuật trong kinh Phạm Võng vừa dẫn trên thì thấy đó là một bằng chứng hiển nhiên chứng tỏ chính Pháp Sư La Thập phiên dịch bộ kinh này, không một luận thuyết nào có thể bác bỏ được. Có thể nói đó là một bằng chứng vững vàng như núi, không một thế lực nào có thể xô ngã được. Thế mà hàng học giả không xem kỹ lời tựa trong kinh đã nói, lại cho rằng do ngài Tăng Triệu thuật, đến nỗi khiến cho mọi người hoài nghi, cho rằng kinh Phạm Võng không phải chính tay đức La Thập dịch.
Kinh Phạm Võng hiện nay có hai quyển: Thượng và Hạ.
Có người cho rằng: “Quyển thượng không phải do La Thập Pháp Sư dịch, việc ấy miễn tranh luận. Quyển Hạ mới chính là Pháp Sư La Thập dịch và cần phải hết lòng tin chắc”. Đây chẳng qua là một cách nói dung hòa, cũng là một dụng tâm duy trì giới pháp. Nhưng nếu khảo sát thật sự trên lịch sử thì thuyết dung hòa này đúng hay không? Chúng ta nên có thái độ dè dặt, và hãy đợi khi nào có tài liệu khả dĩ tin tưởng được, sẽ xét lại sau.
Lại còn có sự tương truyền rằng kinh Phạm Võng là do đức La Thập phiên dịch từ trước đến nay gọi: “Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm”, cũng có nơi bỏ bớt chữ Giới mà gọi: “Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa phẩm”.
Bồ Tát Tâm Địa Phẩm này lại chia làm hai phẩm: Thượng và Hạ.
- Theo kinh văn, phẩm Thượng do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ở cung trời Đệ Tứ Thiền kình tiếp (4) tất cả đại chúng, đồng đi về cung Tử Kim Cương Quang Minh ở thế giới Liên Hoa Tạng. Nơi đó, đức Phật Lô Xá Na ở trên đài Liên Hoa, đối trước ngàn trăm ức Phật, Phật Thích Ca và Hoa Quang Vương Đại Trí Minh Bồ Tát, rộng giảng ba mươi tâm, pháp Thập Trụ v.v... cùng với pháp môn Thập Địa. Do nơi thuyết giả và thọ giả đều là Thánh Nhơn, nên đối với căn cơ của phàm phu, đương nhiên là khó khế hợp được phần giảng pháp này.
- Phẩm Hạ là do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, sau khi thọ trì pháp môn Tâm Địa do đức Lô Xá Na giảng (đã nói ở bên trên), từ thế giới Liên Hoa Tạng ẩn thân, rồi ở nơi 10 chỗ khác thị hiện thành Phật thuyết pháp. Đức Phật ngồi ở dưới cội Bồ Đề nơi cõi Diêm Phù Đề, tại thế giới Ta Bà này, tụng lại giới pháp Bồ Tát, gồm mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, mà đức Phật Lô Xá Na đã kiết giới và giảng giới. Hiện nay, chúng tôi đang giảng kinh văn phẩm Hạ. Xưa gọi là “Phạm Võng Kinh Lô Xá Na Phật Sở Thuyết Thập Trọng, Tứ Thập Bát Khinh Giới”; ý ấy cũng chính là do sự tích này.
Kinh này do chính đức La Thập Pháp Sư phiên dịch, từ trước đến nay đã lưu truyền như vậy. Phần lịch sử của dịch giả, thiết tưởng cũng nên giới thiệu sơ lược nơi đây.
Căn cứ theo bộ Trung Quốc Phật Giáo Sử, đức La Thập Pháp Sư đến Trung Quốc nhằm lúc mùa Đông, triều Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thỉ thứ ba (Tây lịch 401). Ngài ở tại Trường An đến niên hiệu Hoằng Thỉ thứ mười lăm (Tây lịch 413), tháng Tư năm ấy, Pháp Sư viên tịch. Pháp sư đã ở tại Trung Quốc hoằng truyền chánh pháp, giáo hóa chúng sanh chỉ trong thời gian hơn 10 năm. Trong thời gian ngắn ngủi ấy, công trình phu dương (5) thánh giáo và phiên dịch rộng rãi các diệu điển của Pháp Sư thực là một ảnh hưởng hết sức vĩ đại đối với Phật giáo Trung Quốc.
Công đức này được thể hiện rõ trong hai câu điếu văn của Tăng Triệu Pháp Sư, khi đến phúng điếu đức La Thập, như sau:
Pháp cổ trùng chấn ư Diêm Phù,
Phạm luân tái chuyển ư Thiên Bắc.
Dịch:
Trống chánh pháp rung chuyển cõi Diêm Phù,
Xe phạm hạnh trở lại vận chuyển miền trời Bắc.
Sự hưng thạnh pháp duyên của đức La Thập đương thời có thể nói rằng xưa nay ít có pháp tịch nào có thể sánh kịp. Vì thế, khi đức La Thập vừa đến Quan Trung, tất cả tăng tài tuấn tú của Phật giáo quốc nội đương thời, đều vân tập đến dưới pháp tòa của Ngài để học hỏi và tùng sự phiên dịch kinh luận, đồng thời cộng tác việc hoằng hóa chánh pháp.
Kinh luận của La Thập Pháp Sư phiên dịch lấy “tánh không, Bát Nhã học” làm chủ yếu:
- Các kinh phiên dịch gồm có Đại Phẩm Bát Nhã, Tiểu Phẩm Bát Nhã, Pháp Hoa, Duy Ma, Tư Ích...
- Các luận phiên dịch gồm có Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận...
Đức Pháp Sư La Thập cùng tất cả môn nhân của ngài, những vị đã thấm nhuần giáo lý và được huân đào từ lâu, đều lấy Đề Bà Luận của Long Thọ Bồ Tát để xiển dương Trung Đạo Diệu Nghĩa, Bát Nhã Tánh Không. Chân nghĩa của Đại Thừa Phật pháp nhờ đó mới được tỏ rạng ở Trung Quốc.
Nên trong bộ Trung Quán Luận Giảng Ký giải rõ: “Sự dịch thuật của đức La Thập ảnh hưởng cho Đại Thừa Phật giáo ở Trung Quốc vô cùng sâu rộng, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều được thọ nhận ảnh hưởng của Ngài, nếu không có sự truyền dịch của đức La Thập thì Phật Giáo Trung Quốc hiện tại, quyết không được như thế...”
Chúng ta đối với thành tích dịch thuật của Ngài, cần phải từng giờ, từng phút tri ân không quên! Phụ thân của La Thập Pháp Sư tên Cưu Ma La Viêm, người nước Thiên Trúc. Mẫu thân ngài là Kỳ Bà công chúa, em gái quốc vương nước Quy Tư. Khi phụ thân của Pháp Sư đến Quy Tư, quốc vương nước này đem em gái gả cho. Sau khi kết hôn, bà đản sanh ra Pháp Sư. Ngài xuất gia lúc bảy tuổi, sau đó du học các địa phương ở Ấn Độ, việc này các kinh thường nói, ở đây miễn thuật lại.
D. Bổn kinh kinh đề - phẩm đề đích lược thích (lược giải thích đề mục kinh và đề mục phẩm Tâm Địa)
Kinh này gọi là “Phật thuyết Phạm Võng kinh”, chủ đích lấy Tâm Địa Giới Pháp làm phép tắc thân tâm cho hành giả. Cho nên cả đến các bậc chư thiên, chư tiên, biến hóa nhơn và Bồ Tát, cũng không thể tuyên thuyết. Duy chỉ có mỗi một mình đức Phật, là bậc đại giác thánh giả, mới có thể tự thân phu dương. Vì thế mà trên đề mục để là “Phật thuyết”.
Bồ Tát giới kinh ở đây chẳng những Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật hiện thuyết, mà chư Phật quá khứ cũng đã tuyên thuyết.
Chẳng hạn giới kinh của:
- Đức Câu Lưu Tôn Phật tuyên thuyết gọi là Cam Lộ Cổ.
- Đức Câu Na Hàm Mâu Ni Phật tuyên thuyết gọi là Pháp Cảnh.
- Đức Ca Diếp Phật tuyên thuyết gọi là Phân Biệt Không.
- Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên thuyết gọi là Phạm Võng.
Nói như thế để thấy rõ giới Bồ Tát này, chính bảy Đức Phật đồng phụng hành và dùng làm Nghi Quỹ (nghi thức phép tắc). Chúng ta là phàm phu không nên có tâm niệm xem thường.
Nếu nói kinh này do đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên thuyết là nói một cách đơn giản nhất. Vì bảy đức Phật đều trở lại truyền trì giới này, cho nên có nơi cho là đức Bổn Sư Thích Ca không phải là vị Phật bổn nguyên của Giới Kinh. Chẳng qua, Ngài vì chúng ta mà tụng giới.
Có nơi nói quyển Thượng của bộ kinh này là do đức Phật Lô Xá Na tuyên thuyết, quyển Hạ là do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên thuyết. Có nơi nói kinh này do ba thân Phật đồng tuyên thuyết. Ba thân Phật thuyết pháp nghĩa là: Đầu tiên, y nơi Căn Bổn Trí của Pháp Thân mà khởi Hậu Đắc Trí. Từ Hậu Đắc Trí hiện Báo Thân để làm vị chủ thuyết pháp. Kế đó, Báo Thân hiện ra ngàn hóa thân Phật Thích Ca và ngàn trăm ức Phật Thích Ca làm thính chúng.
Sau cùng, đức Phật Lô Xá Na lại bảo ngàn Phật Thích Ca và ngàn trăm ức Phật Thích Ca ở các thế giới làm vị chủ thuyết pháp. Hàng nhân, thiên, phàm thánh v.v... là thính chúng.
Ba thân Phật như thế bất luận ở thời gian nào, địa phương nào, đều có thể tùy thuận căn cơ bất đồng của các loại chúng sanh mà tuyên thuyết Phạm Võng Giới Pháp, năm mươi tám giới – trong trăm nghìn pháp môn. Vì thế, ba thân Phật về mặt ứng cơ, dù rằng có chỗ sai khác, nhưng về mặt bản thể vẫn tương đồng.
Y chiếu theo Tam Thân Phật giảng nói Tâm Địa Giới Pháp, chúng ta thấy có ba tầng lớp rõ ràng:
- Đức Lô Xá Na truyền pháp cho ngàn Phật Thích Ca thừa thọ.
- Ngàn Phật Thích Ca truyền pháp cho trăm ngàn ức Phật Thích Ca thừa thọ.
- Ngàn trăm ức Phật Thích Ca truyền pháp, tất cả chúng sanh đồng thừa thọ.
Cứ như thế mà suy diễn, triển chuyển xuống mãi, thì chúng sanh hiện tại truyền pháp, chúng sanh tương lai thứ lớp thừa thọ, miên viễn không cùng tận... nên gọi là Vô Tận Pháp Giới.
Về sự lưu truyền kinh Phạm Võng trên thế giới hiện thực của chúng ta đang cư trú, không ai còn có thể nghi ngờ. Vì chính thực là do đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thuật lại mới có. Cho nên đề mục của kinh là “Phật thuyết”.
Như thế, chúng tôi quyết định thừa nhận kinh này đích xác chỉ do đức Bổn Sư Thích Ca tuyên thuyết. Nếu như không phải là do đức Thế Tôn thuật lại, thì trên thế gian này, không bao giờ có kinh Phạm Võng lưu truyền. Và ngày hôm nay, chúng ta chẳng những không được nghe Tâm Địa giới pháp này là bổn nguyên của chư Phật, lại không có nhơn duyên gì để được nương theo tâm địa giới pháp này mà bẩm thọ Bồ Tát đại giới!
- Hai chữ “Phật thuyết” là chỉ cho người năng thuyết.
- Hai chữ “Phạm Võng” chỉ rõ nghĩa “sở thuyên” (thuyên giải), tức là nêu thí dụ để thuyết minh giới pháp.
Tâm địa giới pháp của chư Phật đồng tuyên dương, ngàn Thánh đồng thực hiện, cũng là huệ mạng của chư Phật, là bổn nguyên của tất cả chúng sanh.
Bổn nguyên tự tánh thanh tịnh nên gọi là Phạm.
Huệ mạng khắp truyền nơi trần sát nên gọi là Võng.
Trên đây là giải thích hai chữ Phạm Võng một cách đơn giản. Nhưng trên thực tế, lúc đương thời, đức Phật lấy mành lưới bảo tràng dùng để trang nghiêm bảo điện của Đại Phạm Thiên Vương ẩn dụ cho giới kinh Tâm Địa Pháp Môn này. Nói một cách đơn giản là dùng mành lưới của Đại Phạm Thiên Vương để dụ cho nghĩa Sở Thuyên.
Đức Phật sở dĩ nêu lên thí dụ này vì trong kinh văn thuyết minh: “Lúc đó, nhân khi xem mành lưới bảo tràng của Đại Phạm ThiênVương, Đức Phật vì đại chúng mà giảng kinh Phạm Võng, ngài dạy rằng: Vô lượng thế giới dường như là lỗ lưới. Mỗi thế giới đều khác nhau, khác nhau đến số vô lượng, giáo pháp của Phật cũng như vậy”. Chính nơi thí dụ Phạm Võng này hàm nhiếp nhiều ý nghĩa bên trong cho nên từ nơi thí dụ mà lập đề mục kinh.
Y cứ theo kinh Phạm Võng quyển thượng, Phạm Võng thì lúc đức Phật nói kinh Phạm Võng không phải ở cảnh giới nhân gian hiện thực này, mà Ngài ngự ở nội đình trong cung của Đại Phạm Thiên Vương. Vì đức Phận nhận thấy Tâm Địa giới pháp sắp giảng là pháp thậm thâm, bí mật, thanh tịnh, tối thắng, độc tôn, vô thượng, không thể ở trong cõi nhân gian này tuyên nói được nên đặc biệt, Ngài ngự ở nơi nội đình, trong cung của Đại Phạm Thiên Vương mà tuyên thuyết.
Chính vì vậy Ngài mới lấy từ Phạm Võng làm thí dụ. Mành lưới bửu tràng trong cung của Đại Phạm Thiên Vương mệnh danh là Nhơn Đà La Võng. Trung Hoa dịch là Thiên Xích Châu. Mành lưới xích châu của Đại Phạm Thiên Vương này có từng lớp. Cứ mỗi lớp mà tính, lại có đến nghìn lớp bên trong. Mỗi lớp đều có mười đường hồng quang. Những đường hồng quang ấy ưởng xạ lẫn nhau, màu sắc của các bảo châu chói sáng lẫn nhau, lớp lớp vô tận, không chướng ngại nhau.
Tại sao được như vậy? Lẽ đương nhiên đây là mối quan hệ Nhơn Quả. Vì đức Đại Phạm Thiên Vương ở trong nhân địa tu tập các công đức, nên phước báo được chiêu cảm, có phạm võng trang nghiêm. Đức Phật thấy trên mành lưới bảo tràng này màu sắc các tia trùng trùng chói suốt lẫn nhau. Hình tượng của nó giống như pháp môn sự lý kết chặt lẫn nhau. Vì thế, Ngài đặc biệt dùng vô lượng lỗ lưới của mành bảo tràng ấy để thí dụ:
- Cho sự an lập vô lượng thế giới trong mười phương cũng giống như vậy.
- Cho sự thi thiết vô lượng pháp môn trong mười phương cũng giống như vậy.
- Cho chư Bồ Tát trong mười phương y theo giới pháp tu chứng có vô lượng giai cấp khác nhau, cũng giống như vậy
- Cho chư Phật trong mười phương thọ dụng vô lượng cảnh giới, cũng giống như vậy
- Cho tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới có vô lượng tâm hạnh, cũng giống như vậy.
...Dù có nhiều thí dụ như trên, nhưng thực ra đó chỉ là biểu thị cho tự tâm của tất cả chúng sanh. Vì thế giới có vô lượng sai khác đều do nơi tâm hạnh của chúng sanh cấu thành.
Pháp môn của Đức Phật nói có vô lượng sai khác, thi thiết giai cấp của Thánh Hiền có vô lượng sai khác, không pháp nào chẳng phải là tùy theo sự cấu nhiễm trong tâm của chúng sanh có khinh, có trọng mà phương tiện an lập. Nếu như không có tất cả Tâm, nhọc chi Phật nói tất cả Pháp?
Dù Phật nói pháp môn có nhiều, nhưng đều là vốn ở trong tâm của chúng sanh, và cũng không ra ngoài thí dụ Phạm Võng.
Chúng ta nghe được Phật nói thí dụ này, nếu có thể vâng giữ Kim Cang Quang Minh Bửu Giới thì nước Thiền Định đứng lặng, gươm trí huệ sắc bén, xé rách các thứ lưới kiến chấp. Giới quang minh liền nơi đó có thể riêng hiển lộ, đấy là diệu dụng của việc trì giới.
Như trên đã giải thích, Phạm Võng có nhiều ý nghĩa. Nhưng lại còn có một thuyết nữa:
- Phạm Võng là tóm tắt về ngôn giáo của đức Như Lai.
Chữ Phạm ý nghĩa là thanh tịnh, để biểu thị ngôn giáo của đức Như Lai từ trong bể Đại Giác thanh tịnh mà lưu lộ ra, đều là có công năng chỉ đạo cho mọi người hướng thượng, hướng thiện, hướng quang minh, thân tâm được thanh tịnh, là ngôn giáo tối cực thanh tịnh trên thế gian. Nên bất luận loài hữu tình nào được tiếp thọ ngôn giáo ấy, đều có thể xa lìa tất cả cấu uế.
Chữ Võng là ý nghĩa gạn lọc, mò bắt, để biểu thị giáo pháp thanh tịnh của Đức Như Lai giống như cái lưới bắt cá người thế gian dùng bắt cá. Giáo pháp của Phật có công năng lựa lọc, mò bắt tất cả chúng sanh đang lặn ngụp trong bể khổ sanh tử, đem về cảnh giới Niết Bàn an ổn, không còn bị nổi chìm trong bể khổ sanh tử nữa.
Thí dụ này trong kinh Hoa Nghiêm thuyết minh như sau:
Trương đại giáo võng,
Cắng sanh tử hải
Lộc thiên, nhơn, long,
Chí Niết Bàn ngạn.
Dịch:
Bủa giăng màng lưới pháp Đại Thừa,
Trùm suốt khắp cả bể sanh tử,
Gạn bắt tất cả người, trời, rồng,
Đem về để trên bờ Niết Bàn.
Bài kệ này chứng minh rõ ràng giáo pháp của Phật như Phạm Võng rất quý báu vậy.
Cuối cùng, căn cứ vào giới pháp để thuyết minh hai chữ Phạm Võng. Phật pháp xưa nay thường nói “nghiêm trì giới cấm là phạm hạnh”, nên giới pháp chính là Phạm. Vì giới có công năng “phòng phạm chỉ ác” nên cùng một ý nghĩa thanh tịnh với chữ Phạm, nhưng đó là phân biệt mà nói.
Năm giới của chúng Phật tử tại gia đang giữ gìn, không được gọi là Phạm hạnh, tại sao vậy?
Vì quý Phật tử tại gia vẫn chưa tuyệt đối ly khai vấn đề nam nữ (theo việc kết hôn, vợ chồng chính thức thông thường là không ở trong phạm vi cấm chỉ). Còn giới điều của ngũ chúng Phật tử xuất gia riêng giữ gìn thì được công nhận là Phạm hạnh. Vì quý Phật tử xuất gia vâng giữ mười giới Sa Di và giới Cụ Túc của tỳ kheo, tỳ kheo ni; sự quan hệ giữa nam nữ hoàn toàn không cho phép có sự tiêm nhiễm. Tuyệt đối cấm chỉ vấn đề dâm dục, bởi lẽ dâm dục chính là cội gốc của sanh tử. Hành giả nếu có thể nghiêm trì tịnh giới tức là tu Phạm hạnh.
Kinh Tăng Nhất A Hàm thuyết minh: “Nhược hữu giới luật cụ túc nhi vô sở phạm, thử danh thanh tịnh, đắc tu phạm hạnh” (nghĩa là: “Nếu có người giữ giới luật đầy đủ, không vi phạm, thì người ấy được gọi là tu Phạm hạnh rất thanh tịnh”).
Căn cứ vào đấy, chúng ta có thể thấy nghiêm trì giới pháp thanh tịnh gọi là tu Phạm Hạnh.
Trên đây là căn cứ vào việc trì giới của hai chúng Phật tử tại gia và xuất gia để phân biệt. Bây giờ, hãy tiến lên một bước nữa, thuyết minh về sự trì giới của Thanh Văn và Bồ Tát.
Luật nghi giới Thanh Văn của hành giả thọ trì xem trọng hai nghiệp thân và khẩu, tuyệt đối không được vi phạm. Hễ khi nào hai nghiệp thân, khẩu thực hành đúng pháp, đúng luật thì được cho là giữ giới hạnh thanh tịnh. Trường hợp tâm ý khởi những vọng niệm không chính đáng thế nào chăng nữa thì cũng không thuộc vào trong hạn lệ của phạm vi ngăn cấm. Nếu khi nào bản thân thực sự giết người, miệng thực sự nói lời không thật, dối gạt người, đương nhiên là đã phạm giới.
Nhưng nếu nội tâm khởi một niệm giết người, tư tưởng muốn nói một câu dối gạt người, nhưng vì chưa thực sự giết người, chưa dối gạt người, như thế không thể gọi là phạm giới. Vì hành giả Thanh Văn thừa không phòng chỉ ác niệm của tâm ý, cũng không phá trừ các kiến giải, cho nên dù giữ gìn tịnh giới một cách nghiêm cẩn, nhưng xét một cách thâm sâu vào bên trong, vẫn không được gọi là Phạm hạnh.
Còn như Tam Tụ Tịnh Giới của Bồ Tát tuân giữ, chẳng những hai nghiệp thân khẩu tuyệt đối không được vi phạm, mà đến ý nghiệp của tự tâm phát khởi cũng không được trái phạm.
Nói một cách khác, trong lúc khởi tâm động niệm, cũng quyết không được vi phạm cấm giới của Như Lai. Như việc sát sanh, nếu chính thân mình giết hại sanh mạng của chúng sanh, tất nhiên phạm giới căn bổn sát sanh. Nếu nội tâm chỉ khởi một niệm muốn sát hại sanh mạng chúng sanh là đã vi phạm giới sát căn bổn.
Có người cho rằng Giới Bồ Tát chỉ căn cứ vào đại thể, không câu chấp tiểu tiết. Ý nghĩa này thực sự sai lầm vô cùng! Họ hẳn không biết rằng giới Bồ Tát nghiêm cẩn đến mức ngăn cấm ngay trong lúc khởi tâm động niệm những tư tưởng phi pháp. Nếu đem so sánh Luật Nghi Giới của Thanh Văn thừa, lại càng khó giữ gìn cho được thanh tịnh.
Kinh Đại Bảo Tích, Ưu Ba Ly tôn giả từng nói: “Phật vì Bồ Tát thừa giảng nói thâm tâm giới, vì Thanh Văn thừa giảng nói thứ đệ giới”.
Căn cứ vào đó đủ chứng minh Đại Thừa Bồ Tát giới rất xem trọng nội tâm thanh tịnh. Vì Bồ Tát giới căn cứ nơi tâm mà luận việc phạm tội. Cho nên hành giả Đại Thừa cần phải phòng hộ trong lúc khởi tâm động niệm.
Nếu có thể phòng hộ trọn vẹn ba nghiệp, phá trừ các kiến chấp, chứng nhập chân lý, thế mới được gọi là “chân phạm hạnh”. Đó là phân biệt rõ về nghĩa thế nào là Phạm Hạnh và không phải Phạm Hạnh.
Về ý nghĩa chữ Võng, căn cứ vào Giới để giải rõ, thì có thể phân biệt như sau:
- Căn cứ vào giáo pháp thì Võng là lựa lọc, mò bắt.
- Căn cứ về mặt Giới Luật thì Võng cũng đồng công năng lựa lọc, mò bắt.
Như Nhiếp Thiện Pháp Giới và Nhiêu Ích Hữu Tình Giới của Bồ Tát vẫn có công năng lựa lọc, mò bắt chính mình và tha nhân ra khỏi bể khổ sanh tử.
Nhiêu Ích Hữu Tình Giới lấy sự cứu tế chúng sanh làm cội gốc, vì Bồ Tát sở dĩ trở thành một vị Bồ Tát, danh phù hợp với thật, chính ở chỗ phải làm thế nào lợi tế hữu tình và lựa lọc, mò bắt tất cả chúng sanh trong bể khổ sanh tử đem ra. Một vị Bồ Tát đã phát Bồ Đề tâm, nếu như không tuân thủ giới điều này thật nghiêm cẩn, buông bỏ việc làm lựa lọc, mò bắt chúng sanh trong bể khổ sanh tử, chẳng những vi phạm tịnh giới của Bồ Tát, mà còn mất hẳn tư cách của Bồ Tát. Sở dĩ gọi là Bồ Tát là do ý nghĩa như vậy. Cho nên Nhiêu Ích Hữu Tình Giới có công năng lựa lọc, mò bắt chúng sanh giống như màng lưới.
Nhiếp Thiện Pháp Giới lấy sự rộng tu vô lượng thiện pháp làm chủ đích, tức là từ trong vệc tu tập vô lượng thiện pháp, hành giả có thể tự lựa lọc, mò bắt chính mình ra khỏi bể sanh tử. Đó là mục đích duy nhất. Nếu hành giả Bồ Tát không thể rộng tu vô lượng thiện pháp thì muôn đời vẫn nổi chìm trong bể khổ sanh tử, đâu còn khả năng lợi tế tất cả chúng sanh? Cho nên Nhiếp Thiện Pháp Giới có khả năng lựa lọc, mò bắt chính mình ra khỏi biển khổ sanh tử giống như màng lưới.
Riêng về Nhiếp Luật Nghi Giới đặc biệt ngăn cấm chúng sanh không cho tạo ác, khác nào dùng cái lồng để nhốt chim, không cho chúng mặc ý hoạt động. Chúng ta sở dĩ thường hành động trái phạm giới luật là do không dùng mành lưới Luật Nghi Giới để nhốt tâm chúng ta cho chắc chắn, để nhờ đó, chúng ta có thể hành động trong một phạm vi thích đáng, không vi phạm Giới Luật.
Lại còn một thuyết nữa, cho rằng “giới tướng Bồ Tát giới quá nhiều như trần sa, vi tế khác biệt, xen lộn, xuất nhập, khuất khúc, thật khó nhận thức được, nên dụ như mành lưới”. Mành lưới giới pháp này sẽ thúc đẩy hành giả đi trên con đường giải thoát, chứ không phải thúc phược (6) mình và người.
Bốn chữ “Phật thuyết Phạm Võng” là thuộc về Biệt Đề của kinh này. Nhưng phần Biệt Đề chỉ có hai chữ Phạm Võng, còn hai chữ “Phật thuyết” là Thông Đề, vì rất nhiều kinh, trong phần tựa đều mang hai chữ “Phật thuyết” ở phía trước như Phật thuyết A Di Đà Kinh, Phật thuyết Bát Đại Nhơn Giác kinh...
Phần cần giảng tiếp theo là chữ Kinh, thường được đặt ở phần rốt sau của tựa đề. Kinh là chữ thuộc về Thông Đề, vì nó mang tính chất phổ biến với tất cả kinh điển Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, Hiển Giáo và Mật giáo. Tất cả đại tạng giáo của đức Thế Tôn tuyên thuyết đều gọi là Kinh. Chữ Kinh ở Ấn Độ gọi là Tu-đa-la, Tu-đố-lộ, hay Tố-đát-lãm, Trung Hoa dịch là Khế Kinh.
Khế kinh theo nghĩa thông thường giải thích:
Thượng khế chư Phật chi diệu lý,
Hạ khế chúng sanh chi cơ nghi.
Nghĩa là: trên khế hợp với giáo lý của chư Phật, dưới thì khế hợp với cơ nghi của chúng sanh, nên gọi là Khế Kinh. Nhưng thông thường gọi vắn tắt là Kinh, ấy là bỏ bớt chữ Khế.
Thật ra, chữ Kinh mang ý nghĩa chữ Tuyến (sợi chỉ), có tác dụng xỏ xâu lại những vật rời rạc nhau. Chẳng hạn, những đóa hoa trên bàn đang rời nhau, không thể đeo vào cổ tay hay vòng lên đầu được, nếu dùng sợi chỉ xâu tất cả đóa hoa ấy lại, sẽ thành một vòng hoa, dùng làm đồ trang sức.
Ngôn giáo của Phật cũng như thế. Vốn là từ trong bể Đại Giác lưu lộ ra. Giảng xong là hết chuyện, nhưng nhờ sự biên tập và ghi chép lại của các đệ tử Phật, tập trung tất cả lời dạy của đức Phật đã tuyên thuyết, tổ chức lại cho có hệ thống, điều lý, quy củ hẳn hòi, thành ra một đại tạng kinh.
Các tạng kinh này được sắp xếp theo từng bộ, loại, khiến cho mọi người nói chung, giới Phật tử nói riêng, đều có thể thọ trì đọc tụng một cách tiện lợi, đặc biệt đối với ngôn giáo của Phật đã giảng, nhờ việc này mà không đến nỗi “người hành pháp không còn”, nên gọi là Kinh.
Căn cứ vào kinh Phạm Võng thì Tâm Địa giới pháp bao gồm mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, vốn khác biệt vì tính chất khinh và trọng. Nếu đem mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh của đức Phật đã nói, quán xuyến và nhiếp trì lại thành một bộ Bồ Tát Giới Kinh duy nhất, cũng như những hạt ngọc trong mành lưới của Đại Phạm Vương, vốn là những hạt ngọc rời rạc. Sở dĩ chúng trở thành mành lưới báu là do dùng chỉ xâu lại mới thành.
Trên đây, chữ Kinh đã được giải thích là Tuyến. Ngoài ra, có những danh từ để định nghĩa chữ Kinh như Dũng Tuyến, Thằng Mặc v.v... ở đây giảm bớt không đề cập nhiều, vì xét thấy không quan hệ lắm.
Về phần Đề Mục của phẩm, cần phải hiểu tại sao là gọi là Bồ Tát Tâm Địa Phẩm?
Theo kinh tạng từ trước đến nay, phẩm này là phẩm thứ 10, trong số 61 bộ Quảng Luật Bồ Tát. Đức La Thập khi dịch phẩm này đã chia ra thành hai quyển thượng và hạ:
- Quyển thượng giảng về giai cấp tu chứng, lý trí quán hạnh của Bồ Tát, nghĩa là gồm 30 tâm và Thập Địa.
- Quyển hạ giảng về Tâm Địa Giới pháp của Bồ Tát. Chính là mười giới trọng và 48 giới khinh.
Trước tiên, xin giải thích sơ lược danh từ Bồ Tát. Bồ Tát là chữ gọi tắt của tiếng Ấn Độ, nói đủ là Bồ Đề Tát Đỏa, Trung văn gọi là Giác Hữu Tình hoặc Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, cũng gọi là Khai Sĩ, hoặc Đại Dũng Tâm.
Kinh Đại Phẩm Bát Nhã thuyết minh: “Người này có Đại Đạo Tâm không thể nào làm hư hoại, cũng như kim cương (rất cứng chắc). Đầu tiên từ khi mới phát tâm đến cuối cùng thành bậc Đẳng Giác, đều gọi là Bồ Tát”.
Vì thế, quá trình của một vị Bồ Tát thật lâu dài. Trong quá trình dài xa ấy, trình độ tu chứng của một vị Bồ Tát được phân ra làm hai cấp cao, hạ khác nhau. Trong kinh cũng như vậy, Bồ Tát được phân chia thành nhiều giai cấp, địa vị sai khác như 30 tâm và Thập Thánh v.v...
Vì vậy, phàm người đã phát tâm Bồ Đề, tu hạnh Bồ Tát lợi mình, lợi người, lấy việc cầu thành Phật đạo làm mục đích, đều gọi là Bồ Tát. Đối với tất cả hành giả trong Phật pháp, Bồ Tát là bậc quý nhất, hành giả bên Nhị Thừa không thể bì kịp, nên trong kinh có câu: “Sơ phát dĩ vi nhơn thiên sư; thắng xuất Thanh Văn, Duyên Giác”. Nghĩa là: Người mới phát tâm Bồ Đề, đã là bậc thầy của nhân, thiên, vượt lên trên bậc Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác, chính là ý nghĩa này vậy.
Tiếp theo xin giải thích hai chữ Tâm Địa:
- Tâm Địa chính là chỉ thẳng vào vùng đất bổn nguyên của tâm tất cả chúng sanh.
- Cảnh giới chứng đắc của chư Phật là chứng ngay Tâm Địa này.
- Chỗ mê muội của chúng sanh cũng chính là sự mê muội ngay trong Tâm Địa này.
Cho nên đức Như Lai đã qua lại trong tam giới hơn tám nghìn lần, không lần nào lại không vì mục đích duy nhất: Phát minh bổn nguyên Tâm Địa cho tất cả chúng sanh. Vì vậy, Phật khuyên bảo tất cả chúng sanh nên y theo Tâm Địa này bẩm thọ bảo giới Phật Tánh, làm chỗ tu nhơn căn bản, hướng về Phật Quả tối cao mà thẳng tiến, cho nên mệnh danh là Tâm Địa.
Bổn nguyên Tâm Địa này là tâm của chúng sanh, nhưng không thể dùng tai nghe, mắt thấy được; cũng không thể dùng tâm thức mà suy tư được. Nếu nói lớn thì nó rất lớn, không có gì ra ngoài nó được. Nhược bằng cho là nhỏ thì nó rất nhỏ không thể chứa vật gì bên trong, rỗng rang, sáng suốt, vắng lặng, thường hằng, tuyệt danh, tuyệt tướng, vô cùng linh minh.
Tất cả pháp giới, tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình đồng nương nơi Tâm này. Tâm tánh thanh tịnh này của chúng sanh, xưa nay vẫn thanh tịnh, nhưng vì bị phiền não làm nhiễm ô, nên biến thành cảnh tượng tạp nhiễm. Những tạp nhiễm này chẳng qua là khách trần.
Hiện tại chúng ta chỉ cần nương nơi Tâm Địa giới pháp này, từ lúc sơ phát tâm chho đến bực Đẳng Giác đại sĩ, mà tu tập theo từng giai cấp, địa vị. Cứ lên mỗi giai cấp, địa vị, những ô nhiễm khách trần sẽ dần dần được tước bỏ khiến cho Tâm Địa giới được thành tựu kiên cố. Một ngày kia, chứng nhập quả vị Diệu Giác, giới thể được viên tịch, tất cả ác pháp được vĩnh viễn tịch trừ, muôn pháp lành được hoàn thành mỹ mãn, ấy chính gọi là Lô Xá Na Phật (7).
Như trong quyển thượng của kinh này thuyết minh: “Ngã dĩ bá kiếp tu hành thị Tâm Địa, hiệu ngô vi Xá Na” (Ta trải qua trăm ngàn a tăng kỳ kiếp tu tập tâm địa này, ta được hiệu là Lô Xá Na).
Đức Lô Xá Na sở dĩ được gọi như vậy, không phải ngẫu nhiên mà được, mà là do tu tập tâm địa này và được chứng đắc. Chư Bồ Tát trong nhân vị tâm địa này, muôn đức đều tu, chính là dùng bổn nguyên tâm địa giới làm diệu dụng duy nhất. Quả vị thù thắng nhờ đó phát sinh. Cũng như quả đại địa có công năng trưởng dưỡng tất cả vạn vật nên gọi là Tâm Địa.
Nếu phân chia mà nói, có người dùng 30 tâm để giải thích chữ Tâm; dùng Thập Địa để giải thích chữ Địa. Họ không biết rằng ba mươi tâm đều là chỗ đi quả của chư Bồ Tát. Không có 30 tâm thì không thể nào xuất sanh diệu quả thù thắng. Cho nên mỗi tâm đều có thể gọi là Địa.
Đến như thể tánh của Thập Địa, mỗi mỗi địa đều thống nhiếp vạn pháp, không địa nào chẳng phải là diệu tâm của Bồ Tát. Cho nên mỗi địa đều có thể gọi là Tâm.
Tóm lại:
Nếu muốn tu tập các pháp lành, tăng trưởng Bồ Đề tâm, chỉ có thể nương theo Kim Cương Quang Minh Bảo Giới sẵn có đủ trong Tâm Địa này, tu tập mới chứng đắc diệu quả thù thắng.
Cuối cùng, xin lược giải về ý nghĩa chữ Phẩm:
Chữ Phẩm nghĩa là thể loại, nghĩa là đem từng loại, từng thứ để tập hợp lại một chỗ mà giải thích rõ ràng, nên gọi là Phẩm.
Chú thích:
(1) Hạng mục: Hạng là phần phía sau của cổ, tục gọi là gáy hoặc ót; Mục là đôi mắt. Hai thứ trọng yếu của cơ thể con người, ám chỉ sự trọng yếu của tịnh giới.
(2) Hoàng môn nhị hình: Người bán nam bán nữ, làm thái giám trong cung vua nên gọi là hoàng môn.
(3) Kình tiếp: Kình là vác đồ vật đưa lên cao, ở đây dùng hai chữ “kình tiếp” để hình dung đức Bổn Sư lúc ấy dùng thần thông tiếp dắt đại chúng, chư Thiên, chư Bồ Tát v.v... Cũng như trong kinh Duy Ma Cật thuyết minh đức Bồ Tát Duy Ma Cật tiếp lấy toàn thế giới Hương Chúng của đức Bất Động Như Lai, luôn cả đức Phật và chư Đại Bồ Tát đem đến cõi Ta Bà này. Ngài cầm trên tay cả đại chúng mà xem giống như chỉ cầm một cái tràng hoa nhẹ nhàng.
(4) Phu dương: phu là bày ra, giăng ra; dương là làm dấy lên, cất lên, khen ngợi. Phơi bày, đăng ra làm cho mọi người đều thấy biết được để tán tụng, khen ngợi.
(5) Thúc phược: Thúc: buộc lại thành bó; phược: lấy dây mà buộc.
(6) Từ Lô Xá Na: Kinh Văn quyển Thượng có chép 2 đoạn:
Đoạn 1:
Đức Lô Xá Na tự thuật: “Ngã dĩ bá a tăng kỳ kiếp, tu hành tâm địa, dĩ chỉ vi nhơn. Sơ xả phàm phu, thành Đẳng Chánh Giác, hiệu vi Lô Xá Na” (Ta đã tu tập tâm địa, trải qua trăm a tăng kỳ kiếp, lấy tâm địa làm nhơn, ban sơ bỏ hẳn tâm phàm, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Do đó, ta được danh hiệu Lô Xá Na).
Đoạn 2:
Cũng chính đức Lô Xá Na tự thuật: “Ngã dĩ bá kiếp tu hành thị tâm địa, hiệu ngô vi Lô Xá Na” (ta đã trải qua thời gian trăm kiếp tu tâm địa này, hiện thời gọi ta là Lô Xá Na).
Trong Giới Bổn Việt văn dịch hai câu trên là: “Ta đã từng trăm a tăng kỳ kiếp tu tập tâm địa này, do đó ta được hiệu là Lô Xá Na”.
Dù là không phù hợp với kinh văn, vì đoạn này chỉ nói là “bá kiếp” chứ không nói “bá a tăng kỳ kiếp”, nhưng thật sự không phải sai, vì Hòa Thượng Vạn Đức căn cứ vào đoạn kinh văn bên trên. Sau đó, Hòa Thượng có chú thích ở số 11, trong phần chú thích.
1. Lô Xá Na: phiên âm từ tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Quang Minh Biến Chiếu, có hai nghĩa:
- Bên trong dùng trí quang chiếu nơi Chơn Pháp Giới. Đây là chỉ về sự tự thọ dụng thân để giải rõ.
- Bên ngoài dùng thân quang chiếu ứng đại cơ. Đại Cơ chỉ cho Đại Thừa Bồ Tát. Điều này chỉ về sự tha thọ dụng thân để thuyết minh.
Ngoài ra, còn một từ dịch chữ Lô Xá Na là Tịnh Mãn:
- Tịnh: tẩy trừ tất cả các ác pháp. Ứng theo nghĩa Quả Báo là ngăn chặn việc ác để thuyết minh.
- Mãn: Tất cả các công đức đều được thực hiện một cách trọn vẹn và đầy đủ. Ở đây căn cứ vào Quả Báo hiện hành mà thuyết minh.
Tịnh Mãn nghĩa là căn cứ phần lớn vào sự Tự Thọ Dụng mà mệnh danh. Quang Minh Biến Chiếu nghĩa là căn cứ vào nơi sự Tha Thọ Dụng để đặt hiệu.
2. Phân tích về sự sai biệt của hai từ “a tăng kỳ kiếp” và “bá kiếp” trong hai đoạn kinh văn nêu trên:
Đức Lô Xá Na tự thuật Ngài đã tu hành trải qua trăm a tăng kỳ kiếp. Cũng chính đức Lô Xá Na tự thuật là Ngài đã tu hành trải qua trăm kiếp.
Theo trong bộ “Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Tâm Địa”, phẩm hạ, phần sơ lược của Tổ Hoằng Tán vào triều nhà Minh, thì Tổ giải thích rằng:
- Ý thứ nhứt: theo kinh văn phần trước, đức Lô Xá Na tự thuật rằng Ngài đã trải qua trăm a tăng kỳ kiếp để tu tập pháp môn Tâm Địa.
Đoạn kinh văn phần sau cũng chính nơi Kim Khẩu của Ngài tự thuật, chỉ nói có trăm kiếp.
Tổ Hoằng Tán cho đây là có lẽ đức Lô Xá Na nói vắn tắt, nghĩa là muốn nói cho đủ phải là trăm a tăng kỳ kiếp.
- Ý thứ hai: Tổ Hoằng Tán cho rằng đức Lô Xá Na sau khi trải qua trăm a tăng kỳ kiếp tu hành viên mãn. Sau đó, lại phải trải qua trăm kiếp để tu nhân tướng hảo.
Nam mô A Di Đà Phật!
Dịch giả y theo các kinh, kính thuật những dòng chú thích vừa nêu trên, là có ý thành khẩn, muốn cho tất cả quý đại sĩ khi đọc bộ Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký này nếu là người trí thì nên tự suy tư với việc tu hành. Đối với pháp môn của Phật dạy, dù có 84.000 pháp môn, nhưng tóm tắt lại, không ngoài hai môn Tự Lực và Tha Lực.
- Về pháp môn Tự Lực, như đức Lô Xá Na tự thuật, Ngài đã tu hành trải qua trăm a tăng kỳ kiếp.
- Về pháp môn Tha Lực, tức là chỉ cho pháp môn Tịnh Độ, dùng Tín, Hạnh, Nguyện làm ba món tư lương. Nếu y theo kinh pháp đức Phật đã dạy mà thực hành, thì chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, sau khi xả báo thân, sẽ được vãng sanh về Cực Lạc thế giới. Khi đã được vãng sanh, liền vào ngôi Bất Thối Chuyển.
Chính trong kinh Phật thuyết A Di Đà, đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thân tuyên: “Nhược hữu chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không còn thối chuyển nữa).
Tu theo pháp môn Tịnh Độ này:
- Bực thượng căn, thượng trí thì được nhất tâm bất loạn.
- Bực hạ căn, hạ trí dù là nghiệp chướng sâu dày, nhưng nếu dùng tâm chí thành khẩn thiết, thâm tín phát nguyện mà niệm Phật thì cũng nhất định được vãng sanh.
- Cho đến người suốt đời tạo nghiệp, lúc lâm chung, được gặp thiện tri thức nhắc nhở, dạy bảo, chỉ xưng danh hiệu Từ Phụ A Di Đà Phật trong mười niệm cũng được vãng sanh. Khi đã vãng sanh rồi, đều vào ngôi Bất Thối Chuyển.
Nên trong kinh dạy: “Y theo pháp môn Niệm Phật mà tu trì thì rất dễ dàng như người đi thuyền, đã gặp nước xuôi, gió thuận, mà lại trương buồm lên thì lo gì đi không tới bến. Y theo pháp môn khác mà tu trì thì khác nào con kiến trèo lên ngọn núi cao nghìn trượng. Thật hoàn toàn vô hy vọng!”
Thưa quý đại sĩ!
Là người có trí, phải tự suy tư trong hai con đường: một rất dễ, hai rất khó, nên lựa chọn mà đi. Trong kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc bên trên đã thuyết minh về thuật ngữ “a tăng kỳ kiếp” là để nhấn mạnh ở trong vô số kiếp như thế, nếu người nào phát tâm Bồ Đề, thực hành Bồ Tát đạo, được gặp chư Phật thì mới có hy vọng đi trên đường giải thoát và thành Phật. Còn những người nào chưa ở trong số ấy thì hoàn toàn vô phận.
3. Thuật ngữ A Tăng Kỳ kiếp:
Chữ Kiếp là gọi tắt của tiếng Phạn, gọi đầy đủ là “kiếp-bà bát-đà”, Trung Hoa dịch là Đại Thời Phần. Do vì thời gian quá lâu, không thể dùng năm tháng thông thường để tính được.
Như trong kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp thuyết minh:
“Thí như dùng một tảng đá vuông vức, cạnh dài một dặm, hai dặm, cho đến bốn mươi dặm. Dùng một chiếc thiên y, nặng chỉ ba thù (đơn vị đo lường của Trung Hoa, tương đương với năm lượng). Lấy đơn vị thời gian của thế gian, cứ ba năm một lần, dùng chiếc thiên y ấy phất qua một cái. Bao giờ tảng đá này mòn hết thì chính là một tiểu kiếp.
Nếu đem tảng đá vuông vức, mỗi cạnh dài 80 dặm, dùng chiếc thiên y của trời Phạm Thiên nặng ba thù. Lấy đơn vị ở cõi trời Phạm thiên mà tính, cứ đúng ba năm một lần, dùng chiếc thiên y ấy phất qua một cái. Bao giờ tảng đá này mòn hết thì tính là một trung kiếp.
Nếu đem tảng đá vuông vức, mỗi cạnh dài 800 dặm, dùng chiếc thiên y ở cõi trời Tịnh Cư, nặng ba thù. Lấy đơn vị thời gian ở cõi trời Tịnh Cư mà tính, ba năm một lần, dùng chiếc thiên y ấy phất qua một cái. Bao giờ tảng đá này mòn hết thì tính là một đại ta tăng kỳ kiếp”.
Lưu ý:
Tiểu, trung, đại a tăng kỳ kiếp khác với tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp trong các kinh thường nói. Vì tiểu, trung và đại kiếp trong các kinh thường nói có thể tính đếm được.
Cứ 20 tiểu kiếp hợp lại thành một trung kiếp, 4 trung kiếp hợp lại thành một đại kiếp. Như vậy, cứ 80 tiểu kiếp là một đại kiếp. Niên số tính như sau:
1 tiểu kiếp = 1.680 vạn năm = 1.680 x 10.000 năm.
1 trung kiếp = 1.680 x 10.000 x 20 = 336.000.000 năm.
1 đại kiếp = 336.000.000 x 4 = 1.344.000.000 năm.
Luận về đơn vị thời gian tính bằng niên số thì hoàn toàn khác nhau giữa các cõi nhân gian, trờiPhạm thiên và trời Tịnh Cư.
Niên số ở nhân gian không cần đề cập vì mọi người đều biết.
Niên số ở cõi trời Phạm Thiên, tức là trời Sơ Thiền, thuộc về cõi Sắc, gồm có 3 tầng:
1) Tầng trời Phạm Chúng
2) Tầng trời Phạm Phụ
3) Tầng trời Đại Phạm.
Trong kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp chỉ nói Phạm Thiên tức là một trong ba tầng trời cõi Sơ Thiền. Muốn biết niên số ở cõi trời Phạm Thiên phải y cứ theo sáu cõi trời ở Dục Giới mà tính. Thọ mạng của chư Thiên nơi cõi trời Tứ Thiên Vương là năm trăm năm. Một ngày một đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương bằng nửa thế kỷ chốn nhân gian. Thọ mạng của chư Thiên nơi cõi Trời Đao Lợi đúng một ngàn năm. Một ngày đêm ở cõi trời Đao Lợi bằng một trăm năm ở thế gian. Cứ lấy các số tương ứng này nhân lên thì tính được thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tứ Thiên Vương và Đao Lợi.
Thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tha Hóa Tự Tại thứ sáu là ba vạn hai ngàn năm. Một ngày đêm ở cõi Trời Tha Hóa Tự Tại tính theo niên số ở thế gian dài đến một ngàn sáu trăm năm. Niên số này tăng gấp đôi ở mỗi tầng trời Phạm Chúng, Phạm Phụ và Đại Phạm thuộc cõi Sơ Thiền, nghĩa là:
Một ngày đêm ở cõi trời Phạm Chúng = 1.600 x 2 = 3.200 năm của thế gian.
Một ngày đêm ở cõi trời Phạm Phụ = 3.200 x 2 = 6.400 năm của thế gian.
Một ngày đêm ở cõi trời Đại Phạm = 6.400 x 2 = 12.800 năm của thế gian.
Cứ như vậy nhơn lên mãi sẽ suy ra được thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tịnh Cư.
Trời Tịnh Cư gồm có năm cõi:
- Vô Phiền Thiên.
- Vô Nhiệt Thiên.
- Thiện Kiến Thiên.
- Thiện Hiện Thiên.
- Sắc Cứu Cánh Thiên.
Năm cõi trời này trong kinh gọi là Ngũ Tịnh Cư thiên, là nơi của Đệ Tam Quả A Na Hàm thánh nhân cư trú.