Tại sao Đức Phật có hiệu là BHAGAVÃ (Thế-Tôn)?
Bởi Ngài là:
- Bậc có Phần (Bhãga)
- Bậc Phân Chia (Bhãgi)
- Bậc Cảm Thắng (Jaya)
- Bậc Đã Diệt Tận (Bhagga)
- Bậc Đại Phước-Đức (Bhãgyavã)
- Bậc có Hạnh-Phúc (Bhagi)
- Bậc Năng Lai Vãng (Bhaji)
- Bậc Đã Dứt Nẻo Tam-Giới (Bhavãnam Antakariti).
Tiếng Bhagavã (Thế-Tôn) là một danh-từ dùng để phát biểu sự tôn kính và lòng sùng bái của chúng sanh đối với Đức Phật vì Ngài là bậc tối-thượng hơn cả chúng sanh và có những ân-đức cao quí không ai bì.
Bậc có phần.
Đức Phật là bậc có phần. Phần đây, ý nói phần thiện quí báu cao thượng là 30 Pháp Ba-La-Mật mà Ngài đã đào-tạo trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp quả địa-cầu, có năng-lực đem lại sự an vui cho Ngài và cả chúng sanh trong thế-gian và xuất thế-gian.
Bậc phân chia.
a) Ngài phân chia cho chư tăng tứ vật dụng (y-phục, vật thực, chỗ cư ngụ và y-dược) do thí chủ cúng dường Ngài.
b) Ngài phân chia hương vị của giáo-lý là các Pháp đem lại sự lợi-ích và cứu-cánh giải-thoát cho chúng sanh.
c) Ngài phân chia các Pháp từng phần, từng loại cho rõ ràng minh bạch, ví dụ: 3 phần là Pháp Thiện, Pháp Ác, Pháp không Thiện không Ác; 4 loại là Tâm Vương, Tâm Sở, thuộc về thế-gian và xuất thế-gian v.v... Ngài phân tách các Pháp ấy ra: Uẩn, Bản Chất, Căn, Trần, Diệu-Đế, Duyên-Khởi v.v...
Bậc cảm thắng.
Sau khi thành đạo, chứng Chánh-Đẳng Chánh-Giác, Ngài đem Giáo-lý truyền bá cho chúng sanh thấm-nhuần những Pháp vi-diệu cứu khổ. Có hàng chúng sanh phát tâm chán nản thế sự phù du, cắt ái ly-gia sống cuộc đời phạm-hạnh của Tăng-già. Có hạng trở nên có đức tin trong sạch, tín thành Tam-Bảo. Tăng đồ và thiện-tín trong Giáo-Pháp của Ngài rất là đông-đảo không kể xiết.
Một lẽ nữa, trên con đường châu du thuyết pháp tế-độ quần sanh, nhiều lúc có bọn ngoại đạo quyết tâm cật-vấn tranh-luận với Ngài, nhưng Ngài không bao giờ nao-núng e-ngại, điềm tĩnh bắt bẻ lập luận sai lầm của chúng và giảng giải cho họ thấy rõ đâu là nẻo chánh, đâu là đường tà. Chỉ mình Ngài mới có Trí-Tuệ thậm thâm, đầy đủ oai-lực cảm thắng bọn ngoại đạo kích bác Ngài. Nhiều khi sau buổi tranh luận, có người tự thấy mình lầm lạc đi bấy lâu nay, phát tâm qui y Tam-Bảo và trở nên môn-đệ của Ngài.
Bậc đã diệt-tận.
Ngài đã tàn phá, diệt tận tất cả phiền-não trọng-đại và vi-tế, có tham, sân, si là nguồn-cội. Hoặc nói một cách khác, Ngài đã chiến-thắng và diệt trừ Ngũ-Ma (Pancamara) khi còn ngự dưới cội bồ-đề trước khi thành đạo.
5 hạng Ma-Vương là:
1) Khandha mãra: Ngũ-Uẩn Ma-Vương
2) Kilesa mãra: Phiền-Não Ma-Vương
3) Abhisankhãra mãra: Pháp Hành Ma-Vương
4) Devaputta mãra: Chư-Thiên Ma-Vương
5) Maccu mãra: Tử-Thần Ma-Vương.
Ngũ-Uẩn Ma-Vương: Chính vì có thân Ngũ-Uẩn này, nên chúng sanh mới có những sự thống-khổ và cũng vì lầm-lạc chấp rằng: trong thân Ngũ-Uẩn này có ta, cho Sắc Uẩn là ta, là của ta, là thân ta...
Và vì chấp thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn cũng như thế ấy, nên các sự khổ-não mới phát sanh lên được. Cả năm điều chấp (Ngũ-Uẩn) Upãdãnakkhandha ấy ví như năm tên đạo-tặc theo dính chúng sanh để chờ có dịp hãm-hại, nên gọi là Ngũ-Uẩn Ma-Vương.
Phiền-não Ma-Vương: Phiền-não có 10 hoặc 1500.
10 phiền-não (Kilesa) là: Lobbha (Tham), Dosa (Sân), Moha (Si), Màna (Ngã-Mạn, Cống cao), Ditthi (kiến-thức Tà-kiến), Vicikicchã (Hoài-nghi về Nhân-quả), Thina (Tâm do-dự, uể-oải), Uddhacca (phóng Tâm), Arihika (không hổ thẹn tội lỗi), Anottappa (không ghê sợ tội lỗi).
Về 1500 phiền-não, xin xem phía trước, phần tiếp theo hiệu ARAHAM (Ứng Cúng).
10 phiền-não kể trên là nguồn cội các pháp ác hằng làm cho chúng sanh nóng nảy, khổ sở không ngừng trong kiếp hiện tại và vị lai và phải bị trầm luân mãi mãi trong vòng sanh tử luân hồi, nên gọi là phiền-não ma-vương.
Pháp hành Ma-Vương:
Hành vi tạo tác do Thân, Khẩu, Ý, dầu ác hay thiện đều gọi là pháp hành.
Pháp hành ác (Apunnàbhisankhara) có 12: 8 nhân tham lam (Lobha mùla), 2 nhân sân hận (Dosa mùla) và 2 nhân si-mê (Moha mùla).
Pháp hành thiện (Punnàbhisankhara) có 17: 8 hành thiện về Dục-giới (Kãmàvacara Kusala), 5 hành thiện về Sắc-giới (Rùpãvacara Kusala) và 4 hành thiện Vô-sắc-giới (Arupãvacara kusala).
Các pháp hành ác và hành thiện trên đây đều gọi là Ma-vương. Vì pháp hành ác thường xúi dục, xô đẩy chúng sanh tạo những nghiệp dữ, phải chịu khổ trong kiếp hiện tại và bị sa-đọa trong 4 đường ác-đạo. Còn pháp hành thiện thì thường rủ-ren chúng sanh làm những việc phúc thiện (bố-thí, trì-giới, tham-thiền, v.v...) cho hưởng nhân thiên phước báu, hết làm trời đến làm người v.v..., xoay vần mãi trong ba cõi không được ra khỏi vòng sanh-tử luân-hồi.
Chư-Thiên Ma-Vương:
Có một hàng Chư-Thiên ganh-ghét những người lành, cứ theo ngăn cản không cho làm những điều thiện. Cầm đầu hạng Chư-Thiên ấy gọi là Ma-Vương (Mãra) thường ở một nơi riêng-biệt trong cõi trời Tha-Hóa-Tự-Tại (Paranimmitavasavatti). Chính Ma-Vương này đã đến khuấy rối và cám dỗ Đức Phật nơi cội bồ-đề, nhưng bị Ngài cảm thắng do nhờ pháp thập-độ nhất là pháp bố-thí ba-la-mật.
Lợi-khí của Chư-Thiên Ma-Vương là 3 tấm lưới: lưới tình-dục (Ràja), lưới sân-hận (Dosa), lưới ái-dục Ngũ-Trần (Tanhã). Chúng sanh nào bị sa vào 3 tấm lưới ấy rồi, luôn luôn phải chịu khổ-sở đau-đớn dầu cố vùng vẫy cũng không sao thoát khỏi, ví như loài phi cầm tầu thú đã dính mắc trong lưới của thợ săn rồi không dễ gì thoát thân được.
Tử-thần Ma-Vương:
Gọi là Ma-Vương, vì sự chết có quyền-lực cắt-dứt tuổi thọ chúng sanh. Không có cái khổ nào lớn bằng cái khổ chết. Dầu không muốn xa-lìa những nhân-vật thương yêu trìu mến, dầu Tâm còn những tham luyến tiền của sản-nghiệp, song khi tử-thần đã đến, thì vua chúa hay thường dân, sang cả hay bần-cùng, trí hay ngu, ai ai cũng không thể cưỡng lại được tử-thần.
Đức Phật đã chiến-thắng và diệt-trừ cả 5 hạng Ma-Vương ấy nên Ngài được hoàn-toàn giải-thoát.
Bậc đại-phước-đức.
Ngài là bậc Đại-Phước-Đức vì hai lẽ:
1) Sắc Thân Hoàn Mỹ: đầy-đủ 32 tướng tốt và 80 tướng phụ.
2) Đức Hạnh Toàn Thiện: Ngài đã thực-hành trọn đủ các pháp thiện và diệt tận các pháp không dư sót.
Có hạng chúng sanh ngưỡng-mộ sắc thân hoàn-mỹ, phát tâm có đức tin trong sạch nơi Ngài. Có hạng tin-tưởng nơi đức-hạnh toàn-thiện, ly gia cắt ái trở thành môn-đệ và vâng lời giáo-huấn của Ngài.
Cả hai hạng chúng sanh ấy, sau khi tin-tưởng Ngài rồi, đều được giảm bớt khổ-não trong tâm và tùy theo thiện duyên và sự tinh-tấn, được hưởng hạnh-phúc thế-gian và xuất thế-gian.
Bậc có hạnh-phúc.
Ngài là bậc có 6 hạnh phúc sau đây:
1) Có khả lực đè nén, chế ngự tư-tưởng không cho tâm ác phát sanh lên.
2) Đã thực-hành trọn đủ các pháp thiện, thế-gian và xuất thế-gian.
3) Danh-tiếng quí-trọng vang-lừng khắp Tam-giới không ai sánh bằng.
4) Sắc thân rực rỡ như vàng ròng, hào quang tủa khắp khiến cho chúng sanh vui thích khi nhìn Ngài.
5) Khi ước mong điều chi hay cần dùng vật chi riêng cho Ngài và cho người khác đều được như ý-nguyện.
6) Có Chánh-tinh-tấn là cố-gắng trong 4 điều (tứ-chánh-cần), khiến các hàng chúng sanh thán phục tôn kính.
Bậc năng lai-vãng.
a) Ngài năng lai-vãng nơi thâm sơn cùng cốc là nơi thanh vắng xa tiếng ồn-ào, để tham-thiền nhập-định.
b) Ngài năng lai-vãng các pháp hành thế-gian là các pháp thiền-định về Sắc-giới và Vô-sắc-giới, các pháp Minh-sát theo 3 tướng Vô-thường, Khổ-não, Vô-ngã và 8 thánh-đạo thánh quả và Niết-Bàn.
Bậc đã dứt nẻo Tam-giới.
Ngài đã dứt nẻo Tam-giới. Ý nói: cuộc hành trình của Ngài từ bao A-tăng-kỳ kiếp trong Tam-giới đến kiếp hiện tại đã đến mức cùng rồi, vì nhân sanh ái-dục đã hoàn toàn diệt tắt, thì bánh xe luân hồi cũng ngừng xoay. Nói một cách khác, Ngài đã siêu xuất ra khỏi Tam-giới và không còn tái sanh lại nữa.
Do nhờ những ân-đức quí trọng vừa kể trên, nên Đức Phật có hiệu là BHAGAVA (Thế-Tôn).