NGHI THỨC CẦU AN

01 Tháng Sáu 20165:17 SA(Xem: 31735)
NGHI THỨC CẦU AN

NGHI THC

CU AN

(Tụng Kinh Phổ Môn)

--- o0o ---

 

NIỆM HƯƠNG

 

TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN:

Án lam tóa ha. (3 lần)

 

TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN:

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

 

PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN-NGÔN:

Án nga nga nẳng tam bà phạt phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG

Giới hương, định hương, và huệ hương

Giải thoát, giải thoát, tri kiến hương

Sáng ngời, chiếu khắp mười phương

Hiện tiền Tam Bảo, năm nương cúng dường.

Nam-mô hương cúng dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, o)

 

CẦU NGUYỆN

Hôm nay, đệ tử chúng con cung đối trước tam bảo, nguyện trì tụng Phổ Môn Kinh Chú, xưng tán Hồng Danh, tu hành công đức, ngưỡng nguyện mười phương Tam Bảo, từ bi gia hộ …. (quý danh hay đệ tử chúng đẳng), phiền-não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, cùng hết thảy chúng sanh, một thời đồng chúng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. (o)

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận. (o)

 

QUÁN TƯỞNG PHẬT

Phật, chúng sanh: tánh thường rỗng                                                           lặng.

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo, hào quang sáng ngời,

Trước bảo tòa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (o)

 

 

ĐẢNH LỄ

       Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (o)

       Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Đương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Đại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Đại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (o)

       Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Đại-từ Đại-bi A-Di-Đà Phật, Đại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Đại-Thế-Chí Bồ-tát, Đại-nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Đại-hải-chúng Bồ-tát.                                                              (ooo)

                        

 

TÁN DƯƠNG CHI

Cành dương nước tịnh nhiệm mầu

Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau

Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh

Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn

Cam lồ rưới khắp trần gian

Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.

 

       Nam-mô Thanh-Lương-Địa Bồ-tát. (3 lần, o)

 

CHÚ ĐẠI-BI

       Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần, o)

       Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

       Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

 

       Đại từ đại bi thương chúng sanh

       Đại hỷ đại xả cứu muôn loài

       Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
       Đệ tử chí tâm xin đảnh lễ.

       Nam mô Thập phương Thường trú Tam Bảo (3 lần)

 

KHAI KINH KỆ

--- o0o ---

Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,

Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 (3 lần, o)

 

Nam-Mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần, o)

 

 

 

 

 

 

PHẬT NÓI KINH PHÁP HOA PHẨM PHỔ MÔN THỨ HAI MƯƠI LĂM

--- o0o ---

Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”. (o)

Phật bảo Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát! " Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát. (o)

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát nầy, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát nầy được như vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát nầy liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tấp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao gậy của người cầm liền bị gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏi.

Nếu Quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát, thì các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.

Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc này”.

Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam mô Quán- Thế-Âm Bồ-Tát!” Vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi.

Vô Tận Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần cao lớn như thế.

Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ Tát, liền được ly dục.

Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm, liền được lìa lòng giận.

Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm liền được lìa ngu si.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai, phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần như thế.

Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (o)

Vô-Tận-Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân đó có nhiều chăng?

Vô-Tận-Ý thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều". Phật nói: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận. (o)

Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế".

Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: " Thế Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?" (o)

Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân Duyên giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên giác mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thanh văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Phạm- vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-Tại-Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng-quân mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tiểu vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư sĩ mà vì đó nói Pháp.

Người đáng dùng thân Tể-quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng-giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân đồng-nam, đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Chấp Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

Quán-Thế-Âm đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô-úy, cho nên cõi Ta-bà nầy đều gọi Ngài là vị Thí-vô-úy".

Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ Tát”. Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho Ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng:" Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí nầy". (o)

Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc nầy".

Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ Tát: " Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nầy và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó. (o)

Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta bà.

Lúc đó Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằng: (o)

Thế-Tôn đủ tướng tốt!

Con nay lại hỏi kia

Phật tử nhân duyên gì?

Tên là Quán-Thế-Âm?

Đấng đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp Vô-Tận-Ý:

Ông nghe hạnh Quán-Âm

Khéo ứng các nơi chỗ

Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn đức Phật

Phát nguyện thanh tịnh lớn.

Ta vì ông lược nói

Nghe tên cùng thấy thân

Tâm niệm chẳng luống qua

Hay diệt khổ các cõi. (o)

Giả sử sanh lòng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Do sức niệm Quán-Âm

Hầm lửa biến thành ao.

Hoặc trôi dạt biển lớn

Các nạn quỉ, cá, rồng

Do sức niệm Quán-Âm

Sóng mòi chẳng chìm được. (o)

Hoặc ở chót Tu di

Bị người xô rớt xuống

Do sức niệm Quán-Âm

Như mặt nhật treo không

Hoặc bị người dữ rượt

Rớt xuống núi Kim-Cang

Do sức niệm Quán-Âm

Chẳng tổn đến mảy lông.

Hoặc gặp oán tặc vây

Đều cầm dao làm hại

Do sức niệm Quán-Âm

Đều liền sanh lòng lành.

Hoặc bị khổ nạn Vua

Khi hành hình sắp chết

Do sức niệm Quán-Âm

Dao liền gãy từng đoạn. (o)

Hoặc tù cấm xiềng xích

Tay chân bị gông cùm

Do sức niệm Quán-Âm

Tháo rã được giải thoát

Nguyền rủa, các thuốc độc

Muốn hại đến thân đó

Do sức niệm Quán-Âm

Trở hại nơi bổn nhân. (o)

Hoặc gặp La-sát-dữ

Rồng độc các loài quỉ

Do sức niệm Quán-Âm

Liền đều không dám hại.

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quán-Âm

Vội vàng bỏ chạy thẳng.

Rắn độc cùng bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quán-Âm

Theo tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm nổ sét đánh

Tuôn giá, xối mưa lớn

Do sức niệm Quán-Âm

Liền được tiêu tan cả.

Chúng sanh bị khổ ách

Vô lượng khổ bức thân

Quán-Âm sức trí diệu

Hay cứu khổ thế gian

Đầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Các cõi nước mười phương

Không cõi nào chẳng hiện.

Các loài trong đường dữ:

Địa-ngục, quỉ, súc-sanh,

Sanh, già, bệnh, chết khổ

Lần đều khiến dứt hết.

Chơn-quán thanh-tịnh-quán

Trí-huệ-quán rộng lớn

Bi-quán và từ-quán,

Thường nguyện thường chiêm                                                        ngưỡng

Sáng thanh tịnh không nhơ

Tuệ nhật phá các tối

Hay phục tai khói lửa

Khắp soi sáng thế gian.

Lòng bi răn như sấm

Ý tứ diệu dường mây

Xối mưa pháp cam lồ

Dứt trừ lửa phiền não

Cãi kiện qua chỗ quan

Trong quân trận sợ sệt

Do sức niệm Quán-Âm

Cừu oán đều lui tan.

Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm

Phạm-Âm, Hải-Triều-Âm

Tiếng hơn thế gian kia,

Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sanh nghi

Nơi khổ não nạn chết

Hay vì làm nương cậy.

Đủ tất cả công đức

Mắt lành trông chúng sanh

Biển phước lớn không lường

Cho nên phải đảnh lễ.

 

Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ Tát Đạo-Nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít”. (o)

Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn nầy, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô thượng chánh-đẳng chánh-giác. (o)

 

PHT NÓI KINH DIU PHÁP LIÊN HOA PHM PH MÔN

 

CHƠN NGÔN VIẾT

       Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)

 

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN:

Án, ma ni bát di hồng. (7 lần)

 

XƯNG THÁN ĐỨC QUÁN ÂM

       Phổ Môn thị hiện

       Cứu khổ nhân sinh,

       Thuyền từ lướt sóng,

       Bốn biển điêu linh

       Trùng dương vọng tiếng hồn kinh,

Quán Âm ứng hiện, chúng sinh thoát nàn.

 

       Nam-mô Thánh Quan Tự Tại Bồ-tát Ma-Ha-Tát. (3 lần, o)

 

KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế”.

“Này Ông Xá Lợi Phất, “tướng không của mọi pháp” không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong “chân không” không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.

Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (3 lần, o)

 

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

 

Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Đát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. (3 lần, o)

 

 

 

 

NGUYỆN AN LÀNH

Nguyện ngày an lành, đêm an lành

Đêm ngày sáu thời đều an lành

Tất cả các thời đều an lành

Xin nguyện Từ Bi thường gia hộ

 

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (3 lần, o)

Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

       Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.

       Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (o)

 

SÁM CẦU AN

Con quỳ lạy Phật chứng minh

Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền

Cầu cho tín chủ hiện tiền

Nội gia quyến thuộc bình yên điều hòa.

Thọ trường hưởng phước nhàn ca

Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi

Quán Âm phò hộ vui chơi

Mười hai câu niệm độ đời nên danh.

Thiện nam tín nữ lòng thành

Ăn chay niệm Phật làm lành vái van

Quán Âm xem xét thế gian

Rước người chìm nổi mười phương phiêu trầm (o)

Mau mau niệm Phật Quán Âm

Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa

Đương cơn lửa cháy đốt ta

Niệm danh Bồ Tát hóa ra sen vàng

Gió đông đi biển chìm thuyền

Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền.

Tà ma quỉ báo khùng điên

Niệm danh Bồ Tát mạnh liền khôn ngoan.

Vào rừng cọp rắn nghinh ngang

Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa.

Tội tù ngục tối khảo tra

Quán Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.

Bị trù bị ếm mê man

Quán Âm niệm niệm vái van tịnh bình

Quán Âm thọ ký làm tin

Tùy duyên thuyết Pháp độ mình hết mê.

Nương theo Bồ Tát trở về

Thấy mình ngồi gốc Bồ Đề giống in

Tay cầm bầu nước tịnh bình

Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng

Cam lồ rưới khắp thế gian

Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn

Quán Âm cứu hết tai nàn

Độ đời an lạc mười phương thái bình

Quán Âm Bồ Tát chứng minh độ   đời. (o)

HỒI HƯỚNG

Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu

Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu

Tất cả chúng sanh trong pháp giới

Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.

Nguyện cho ba chướng tiêu tan

Phiền não dứt sạch, huệ căn sang ngời

Cầu cho con được đời đời

Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.

Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang

Cha mẹ, sen vàng chín phẩm sanh

Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành

Các vị Bồ Tát bạn lành với ta. (o)

 

PHỤC NGUYỆN

       Phục-nguyện: Quan Âm thị hiện, thuyết pháp độ sanh; lâm nạn xưng danh, tầm thanh cứu khổ. Hiện tiền đệ tử chúng đẳng, dị khẩu đồng âm, phúng tụng Đại thừa tôn kinh, hồi hướng cầu nguyện

Trượng Từ quang nhiếp hộ, tinh thần minh tịnh, tâm thể an nhiên; tứ đại điều hòa, phước-duyên cộng-tụ.

       Thứ nguyện: Đệ tử chúng đẳng nghiệp chướng tiêu trừ, bịnh căn thuyên giảm, đắc cam lồ pháp vị, thọ linh dược thanh lương. Tự tại khinh an, viễn ly khổ ách.

       Phổ-nguyện: Tâm dung pháp hóa, tánh ngộ chơn thường, bất nhiễm trần lao, thường hành Phật sự. Bồ đề quả mãn, tánh đức viên dung, tự lợi lợi-tha, chứng vô thượng đạo. Âm-siêu dương-thới, pháp-giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.

 

 

 

 

 

TAM QUY Y

       Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (o)

       Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh Tạng, trí tuệ như biển. (o)

       Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (o)

 

       Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật Đạo.