Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
THƯ MỤC TÁC GIẢ

NGHI THỨC LỄ VU LAN

01 Tháng Sáu 20165:35 SA(Xem: 7234)
NGHI THỨC LỄ VU LAN

NGHI THỨC

LỄ VU LAN

--- o0o ---

 

NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI

 

TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN

Án lam tóa ha. (3 lần)

 

TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

 

PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN-NGÔN

Án nga nga nẳng tam bà phạt phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

 

 

 

CÚNG HƯƠNG

       Nguyện đem lòng thành kính

       Gởi theo đám mây hương

       Phảng phất khắp mười phương

       Cúng dường ngôi Tam Bảo

       Thề trọn đời giữ Đạo

       Theo tự tánh làm lành

       Cùng pháp giới chúng sanh

       Cầu Phật từ gia hộ

       Tâm Bồ Đề kiên cố

       Xa bể khổ nguồn mê

       Chóng quay về Bờ Giác.

 (o, xá 1 xá)

 

KỲ NGUYỆN

       Nay chính vào mùa Vu Lan Báo Hiếu cứu độ sanh linh, chúng con một dạ chí thành cúng dường trì tụng kinh Vu Lan Bồn. Nguyện đem công đức này hướng về mười phương ba ngôi Tam Bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ cha mẹ nhiều đời của đệ tử chúng con cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội ra khỏi u đồ siêu sanh Lạc quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ.

       Nam-mô Thập phương thường trú Tam Bảo tác đại chứng minh.

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

       Ức kiếp không cùng tận.

(o, xá 1 xá)

 

QUÁN TƯỞNG PHẬT

Phật, chúng sanh: tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo, hào quang sáng ngời,

Trước bảo tòa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

(o, xá 1 xá)

 

ĐẢNH LỄ

       Chí tâm đảnh lễ:  Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (o, lạy 1 lạy)

    Chí tâm đảnh lễ:  Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát.

(o, lạy 1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ Tát.

         (o, lạy 1 lạy)

 

TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT

Lư hương vừa ngún chiên đàn,

Khắp xông pháp giới, đạo tràng mười phương,

Quyện thành mây báu kiết tường,

Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành,

Pháp thân ảnh hiện rành rành,

Chứng minh hương nguyện, tâm thành kính dâng.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần, o)

 

CHÚ ĐẠI BI

       Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần, o)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật da ra, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt xa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, ri đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà da, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (o)

Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo. (3 lần, o)

 

KỆ KHAI KINH

Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,

Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần, o)

       Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần, o)

 

~..~..~

 

Phật nói

KINH VU-LAN BỒN

--- o0o ---

 

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá-vệ thành Kỳ Thụ viên trung.
Mục-liên mới đặng lục thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

Làm con hiếu hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.
Lo phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,
Đặng đỡ lòng cực-khổ bấy lâu.

Thấy cơm, mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu!

Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải-nàn.

Phật mới bảo rõ-ràng căn-cội,
Rằng: "Mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu-thiên
Cùng là các bậc Thần-kỳ
Tà, ma ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương
Cộng ba cõi sáu phương tu-tập,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mẹ người.
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu-tế ta toan giải nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn!"

Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân cần thiết thi:
"Rằm tháng bảy là ngày tự-tứ
Mười phương tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm-sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Đựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng

Chư Đại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Đặng nhờ phước lực tiêu-khiên ác-nàn

Vì ngày ấy Thánh-tăng đầy đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về.
Như người thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành-nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-qúy ẩn danh lâm-tòng
Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh
Đạo-đức dày chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát-cơm lục-hòa

Người nào có sắm ra vật thực
Đặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ mẫu của ngươi
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Đó nhờ cũng đặng bá niên thọ-trường
Như cha mẹ bảy đời quá-vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân!"

Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau nầy:

"Trước khi thọ-thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ
Định tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý định hành-thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dưng.
Khi thọ dụng, nên an vật-thực.
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung:
Chư tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ cùng bữa trưa".

Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư tăng
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỉ được tan

Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-Bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không?"

Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con cùng hỏi theo
Thiện-nam tử, tỳ-kheo nam nữ
Cùng Quốc-vương, Thái-tử, Đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất-thế tình thâm
Đến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật-đà hoan-hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh,
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường
Đặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-qủy sanh về nhơn, thiên
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân cần
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo ơn-thâm phải đền
Lễ cứu-tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp, thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu
Đệ-tử Phật, lo âu gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn!"

Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn sanh tứ-chúng thảy đồng hỷ-hoan
Mục-liên với bốn ban Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành.

Trước là trả nghĩa sinh thành

Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài

(o)

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, o)

 

***-***

 

Phật Nói
KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU

--- o0o ---

 

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn
Lại cũng có các hàng Bồ Tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành
Đáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng
Đức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương khô


Phật rằng: trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì người ta tỏ đuôi đầu
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây
Ta lễ bái những người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi
Người chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng
Đức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Đàn ông xương trắng nặng quằn
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn
Người có biết cớ sao đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân


Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con mười tháng cưu mang
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đúng kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng


Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin:
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Điều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng màng gớm ghê
Điều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Điều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn!

Phật lại bảo: A Nan nên biết
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mạc dao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết đầm đề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải năng chăm sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình
Chắc con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Đến khi vừa được lớn khôn
Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con ốm đau tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hờn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Ngoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù rạt phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương

Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu để thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than

Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu

Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình

Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Đại chúng lóng nghe:
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu!

Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi tu di
Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền

Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng

Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu

Ví có người cầm dao thật bén
Mỗ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng

Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền

Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền

Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng

Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp ơn sâu chưa đền

Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Đồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?

Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi

Rằm tháng bảy đến ngày Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá tua y thử phụng hành đừng sai
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngục vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay kẻ tội da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém náy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi lê
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A Tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoản trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển nầy
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên

Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Đặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"
Cùng là "Ân Trọng " thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Đặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Đồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.

 

TÁN MỤC KIỀN LIÊN TÔN GIẢ

               Mục Liên Tôn Giả

               Thay Phật tuyên hành

               Gậy vàng vừa gõ

               Cửa ngục băng thanh

               Tội nhơn giải thoát

               Tịnh Độ hóa sinh

               Phúc huệ mãi an lành.

 

KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế”.

“Này Ông Xá Lợi Phất, “tướng không của mọi pháp” không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong “chân không” không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.

Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (o)

 

 

CHÚ VÃNG SANH

       Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tì, a dị rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.

(3 lần, o)

 

 

NIỆM PHẬT

A Di Đà Phật thân sắc vàng,

Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,

Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,

Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,

Ánh hào quang hóa vô số Phật,

Vô số Bồ Tát hiện ở trong,

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,

Qui mạng lễ A Di Đà Phật,

Ở Phương Tây thế giới an lành

Con nay xin phát nguyện vãng sanh,

Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.

 

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.

 

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (30 biến, niệm nhiều càng tốt)

Nam-mô Đại-bi Quán-Thế Âm Bồ-tát. (3 lần, o)

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát.

(3 lần, o)

Nam-mô Địa-Tạng Vương Bồ-tát.

(3 lần, o)

Nam-mô Thanh Tịnh Đại-Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần, o)

 

SÁM VU-LAN

Đệ-tử chúng con,

Vâng lời Phật dạy,

Ngày rằm tháng bảy,

Gặp Hội Vu-Lan,

Phạm Vũ huy-hoàng,

Đốt hương đảnh lễ.

Mười phương Tam-thế,

Phật, Pháp, Thánh, Hiền,

Noi gương Đức Mục-Kiền-Liên,

Nguyện làm con thảo,

Lòng càng áo-não,

 Nhớ nghĩa thân sanh,

Con đến trưởng-thành,

Mẹ dày gian khổ,

Ba năm nhũ bộ,

Chín tháng cưu mang.

Không ngớt lo toan,

Quên ăn bỏ ngủ,

Ấm no đầy đủ,

Cậy có công cha,

Chẳng quản yếu già,

Sanh nhai lam lủ,

Quyết cùng hoàn-vũ,

Phấn đấu nuôi con,

Giáo dục vuông tròn,

Đem đường học đạo,

Đệ-tử ơn sâu chưa báo,

Hổ phận kém hèn,

Giờ này quỳ trước đài sen,

Chí thành cung kính,

Đạo tràng thanh-tịnh,

Tăng-bảo trang-nghiêm.

Hoặc thừa tự-tứ.

Hoặc hiện tham-thiền,

Đầy đủ thiện duyên,

Dủ lòng lân-mẫn,

Hộ-niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con,

Đượm nhuần mưa Pháp,

Còn tại thế:

Thân tâm an ổn,

Phát nguyện tu trì,

Đã qua đời:

Ác đạo xa lìa,

Chóng thành Phật-quả,

Ngưỡng trông các Đức Như-Lai,

Khắp cõi hư không,

Từ bi gia hộ. (o)

 

Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên bồ tát ma ha tát (3 lần)

 

HỒI HƯỚNG

Phúng kinh công đức, hạnh nhiệm mầu

Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu

Tất cả chúng sanh trong pháp giới

Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.  (o)

 

Nguyện cho ba chướng tiêu tan

Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời

Cầu cho con được đời đời

Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.

(o)

Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang

Cha mẹ, sen vàng chín phẩm sanh

Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành

Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.  (o)

 

 

PHỤC NGUYỆN

       Nguyện chư Phật hộ trì, âm dương hai cảnh,

Người còn khỏe mạnh, kẻ thác siêu sinh,

Bốn phương hưởng cảnh thái bình,
Tám hướng vui miền Cực-lạc.
Sống không tật bệnh, thác đặng khinh an.
Về Tây phương ngồi tựa sen vàng,
Qua Bảo-địa vui chơi lầu ngọc.
Sớm tiêu trần tục, mau chứng chơn thường.

Khắp cả mười phương, đồng như chư Phật.


Phổ nguyện:
       Đệ tử chúng đẳng:
       Kiến văn đồng liễu ngộ, 
       Tài pháp tổng nan văn,
       Ngã đẳng dữ chúng sanh, 
       Giai cọng thành Phật đạo.

 

 

TAM QUY Y

       Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (o)

       Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh Tạng, trí tuệ như biển.     (o)

       Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (o)

 

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật Đạo