Chùa Na Lan Đà là Thánh địa trung tâm Phật giáo thế giới, nhưng nhân dân Trung Quốc lại hiểu một cách thông thường, bắt đầu từ bốn thầy trò Đường Tăng trong tiểu thuyết "Tây Du Ký", gian nan khổ cực đi Tây Thiên Trúc thỉnh kinh và lễ bái Phật Tổ "Chùa Đại Lôi Âm Tây Thiên" - một ngôi chùa trang nghiêm hùng vĩ, không có gì sánh bằng. Thánh thần tiên Phật nơi chùa Na Lan Đà, bắt nguồn từ bốn thầy trò Đường Tăng...
Toàn cảnh chùa Na Lan Đà ngày nay
Theo sử liệu ghi lại, Chùa Na Lan Đà(Nālandā Vihāra )bắt đầu xây cất vào thế kỷ thứ 5 CN, là trung tâm học thuật và học phủ cao nhất Trung Ấn Độ thời cổ đại, gần thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà cổ, khoảng
Theo truyền thuyết, nơi đây nguyên là khu vườn Am Một La, về sau có 500 thương nhân quyên tiền mua cúng dường Phật, đức Phật đã từng thuyết pháp 3 tháng ở đây.
Chùa Na Lan Đà qui mô hoành tráng, từng có tàng thư hơn 600 vạn quyển, trải qua nhiều đời từng lớp từng lớp học giả xuất hiện. Thời thịnh nhất có hơn một vạn học tăng lưu học nơi đây, ngài Huyền Trang đã từng học nhiều năm với Pháp sư Giới Hiền, ngài Nghĩa Tịnh học với ngài Tùng Bảo Sư Tử 10 năm cũng tại đây. Ngoài ra, khi ngài Huyền Trang đến đây du học còn có các pháp sư như: Tuệ Nghiệp, Linh Vận, Huyền Chiếu, Đạo Hi, Đạo Sanh, Đại Thừa Đăng, Đạo Lâm, Trí Hoằng, Vô Hành...
Tượng ngài Huyền Trang trước "Kỷ Niệm Đường Huyền Trang" bên cạnh Na Lan Đà
Ngài Huyền Trang - bậc cao tăng đệ nhất đời Đường TQ đã lưu học tại đây 5 năm. Trong "Đại Đường Tây Vức Ký" của ngài Huyền Trang, và "Đại Đường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện" của ngài Nghĩa Tịnh đều có nói rõ về chùa Na Lan Đà, mà ngài Nghĩa Tịnh bố cục và kiến trúc kiểu dáng chùa Na Lan Đà thời đó, tự thuật rất tỉ mĩ chuẩn xác.
Di chỉ chùa Na Lan Đà thời cổ đại hệt như một bức thành hình vuông, hành lang trải dài bao bọc bốn phía
Theo sự ghi chép của ngài Nghĩa Tịnh vào cuối thế kỷ thứ 7, chùa Na Lan Đà hệt như một bức thành hình vuông, hành lang trải dài bao bọc bốn phía. Chùa cao 3 tầng, từ 3 đến 4 trượng, xây bằng gạch, mỗi tầng cao hơn một trượng (trượng: Đơn vị chiều dài bằng 10 thước TQ), xà ngang bằng ván gỗ, lợp mái bằng đá thường. Bốn phía, mỗi phía đều có 9 gian tăng phòng cũng hình vuông, rộng hơn một trượng. Trước tăng phòng có cổng cao, có cửa thông hơi nhưng không được treo màn, để tiện quan sát nhau, không dễ gì che đậy việc riêng tư. Vách phía sau tăng phòng lại là bức tường bao quanh chùa, nhưng có cửa thông ra ngoài. Tường vây cao khoảng 3, 4 trượng, phía trên có hàng loạt tượng đắp được sắp theo thứ tự, điêu khắc tinh xảo, vô cùng xinh đẹp
Nóc chùa, mái hiên chùa và sân chùa nền chùa, đều dùng nguyên liệu đặc chế phủ lên. Loại vật liệu phủ lên này, được chế tạo từ nhiều mảnh vỏ hạnh đào to nhỏ trộn cùng đất sét. Sau khi xay nghiền rồi, thì ngâm trong vôi nhiều ngày, dùng chất nước này tưới lên, kế đó lấy cỏ xanh phủ năm ba ngày, trước khi khô hoàn toàn thì dùng đá đánh bóng, sau đó đắp thêm một lớp đất đỏ, cuối cùng dùng nước sơn, sơn lên, sẽ sáng như tấm gương. Qua cách này, nền chùa kiên cố bền chắc, mọi người đi đứng dẫm đạp trên đó trải qua hai ba mươi năm sau vẫn không hư hoại.
Chùa Na Lan Đà mỗi ngày đều có hơn 100 buổi tọa đàm diễn giảng, khóa trình học tập bao gồm Phật điển đại thừa, Thiên văn học, Số học, y dược v.v...
Năm 1193, Ba Khắc Hách Đề Á Nhĩ Ca Nhĩ Tích(Bakhtiyar Khalji)người Đột Quyết, mang quân xâm chiếm chùa Na Lan Đà, chùa và thư viện đã bị hư hoại nghiêm trọng, hàng loạt tăng sĩ phải qua Tây Tạng lánh nạn. Từ đó chùa Na Lan Đà mất đi vẻ xán lạn của ngày xưa, và dần dần bị lãng quên, biến thành hoang phế .
Các Tăng phòng trong chùa Na Lan Đà đã khai quật được
Bắt đầu từ năm 1861, di tích chùa Na Lan Đà được tiếp tục khai thác, đã khai quật được 8 ngôi đại tự với mô hình lớn, 4 ngôi chùa trung và một ngôi chùa tiểu. 8 ngôi đại tự xếp theo thứ tự chữ nhất (一) hướng nam bắc, cổng phía tây. 8 ngôi chùa đại mỗi bên có 9 tăng phòng, 4 ngôi chùa trung mỗi bên có 7 tăng phòng, một ngôi chùa tiểu mỗi bên có 5 tăng phòng. Những ngôi chùa này đều khớp theo sự ghi chép của ngài Nghĩa Tịnh.
Cũng vào năm 1861, ông Alexander Cunningham, nhà khảo cổ học Anh Quốc đã phát hiện một di tích Phật giáo nơi đây. Qua thẩm tra đối chiếu sự ghi chép trong "Đại Đường Tây Vức Ký", thì chứng minh xác thực đây chính là chùa Na Lan Đà. Nơi đây, đã khai quật rất nhiều đá điêu khắc Phật giáo thật tinh xảo, có một số đá chỉ bằng nắm tay, trên mặt đá có khắc câu chuyện Phật giáo, chữ cực nhỏ vô cùng tinh xảo. Ngoài ra, còn khai quật rất nhiều tượng đồng, mâm đồng và con dấu..., trong đó có một con dấu khắc dòng chữ "Thất Lợi Na Lan Đà Ma ha Tỳ Ha La Tăng Già Chi Ấn". Những văn vật đã khai quật được, đa số đều triển lãm trong viện bảo tàng đối diện chùa Na Lan Đà.
Toàn cảnh chùa Na Lan Đà đã khai quật
Diện tích khai quật chùa Na Lan Đà hiện nay đã vượt qua 15 vạn m2. Chùa Na Lan Đà phân làm khu Tăng Viện và khu Giáo Học. Khu Tăng Viện được tổ hợp từ các sân sướng tương tự nhau, tổng cộng có 12 tòa. Tăng phòng rất chật hẹp được xếp theo thứ tự xung quanh mỗi sân, trong sân có ghế đá, giếng nước và nhà trù. Mỗi sân đều có hành lang đi thông ra ngoài. Khu Giáo Học có chùa miếu và tháp Phật. Phật tử chủ yếu học kinh Phật trong chùa. Tháp Phật được xây rải rác chung quanh rất nhiều. Trong đó, khí thế nhất là tháp xá lợi chân thân Phật, tháp này phân làm 3 tầng, có đồ án tinh xảo được chạm khắc bên ngoài, trong khám thờ của mỗi góc lầu, đều ghi lại câu chuyện hoằng pháp của đức Phật tại Bồ Đề Già Da, thành Vương Xá và Lộc Dã Uyển
Chùa miếu, tháp Phật và tăng xá là kiến trúc chủ yếu của Na Lan Đà. Chùa miếu và tháp Phật họp thành khu giáo học, tăng xá thì cấu thành khu tăng viện. Vật liệu kiến trúc chùa miếu là gạch đỏ và đá xanh, bờ tường được xếp gạch đỏ rất dày, thích ứng đặc trưng với khí hậu Ấn Độ, có tác dụng cách nhiệt. Những trụ cột đội trời đạp đất với khí thế hào hùng được điêu khắc bằng đá xanh, lại dùng những đường nét hoa văn lượn quanh trên đó, đậm chất phong cách Ấn Độ. Những tình tiết nhỏ của lịch sử khó mà đoán định, chúng ta không cách nào đoán được hành tung chắc chắn của Pháp sư Huyền Trang ở đây. Nhưng hơn 1300 năm trước, , trên lịch sử, vị tăng này khi đến Na Lan Đà đã suýt bỏ mình nơi Trường Hà. Gần 1000 năm sau, Na Lan Đà đã biến mất, nhà khảo cổ học dựa theo lời ghi chép trong "Đại Đường Tây Vức Ký", khai quật nó, tái hiện cho người đời. Có học giả nói: "Người Ấn Độ biết được lịch sử của nước mình trước thế kỷ thứ 7 CN, là nhờ sự ghi chép của ngài Huyền Trang". Lời nói này không một chút khoa trương.
Giếng cổ ngoài tăng phòng Na Lan Đà, hàng nghìn hàng vạn chư tăng đã từng sử dụng qua
"Kỷ Niệm Đường Huyền Trang" bên cạnh chùa Na Lan Đà
Vào năm 1957, Chính phủ TQ đã quyên góp được 30 vạn nhân dân tệ, xây một "Kỷ Niệm Đường Huyền Trang" kiểu Trung Quốc bên cạnh chùa Na Lan Đà, để kỷ niệm người tiên phong giao lưu nền văn hóa Trung, Ấn, Đây là bằng chứng có sức thuyết phục nhất của tình hữu nghị truyền thống lịch sử đâu đời giữa nhân dân hai nước Trung, Ấn. Đây cũng là hội trường chính của hoạt động hữu hảo Trung, Ấn năm 2006.
Tháp Tiểu Phật tọa lạc chùa Na Lan Đà, kết cấu kiểu hình thang nhiều tầng, cao hơn
Có lẽ kính sợ Thánh địa Phật giáo, trên lộ trình dài hun hút để đến với Na Lan Đà, một vị tăng trẻ đã mặc tăng phục một cách trang trọng
Thanh Như dịch và sưu tập hình ảnh (GNO)