08. Vật Lý Mới Và Đạo Học Đông Phương

13 Tháng Hai 20179:07 CH(Xem: 2344)
08. Vật Lý Mới Và Đạo Học Đông Phương
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA THIỀN CHÁNH NIỆM
Quán Như Phạm Văn Minh
Nhà Xuất Bản Hồng Đức 2014
Chương Tám
Vật Lý Mới và Đạo Học Đông Phương 
 

Những nhà Vật lý cùng thời hoặc thuộc thế hệ trẻ hơn Albert Einstein, thường được gọi là các nhà Vật lý “mới”, để phân biệt với Vật lý “cũ” dưới ảnh hưởng của vật lý Newton. Đáng ngạc nhiên thay, tư tưởng của họ càng ngày càng đến gầnvới Đạo học Đông phương. Người được xem như là mở đầu cho Vật lý Lượng tử, Niels Bohr dùng hình ảnh âm dươngtrong huy hiệu của mình, và người góp phần trong việc chế tạo các quả bom nguyên tử đầu tiên, Oppenheimer, trích dẫn Bhagavad Gita của Ấn giáo, làm các đồng nghiệp của ông ngỡ ngàng!

Albert Einstein

Năm 1905 mới 26 tuổi Einstein công bố lý thuyết tương đối(theory of relativity) làm chấn động thế giới khoa học, theo đó thời gian và không gian không hiện hữu biệt lập mà ‘tương tức-tương hiện’ và tùy vào người quan sát! Công thức E= mc2 cho thấy vật thể và năng lượng không biệt lập và có thể hoán đổi lẫn nhau. Tôi nhại kinh Bát Nhã: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc bất dị không, không bất dị sắc”. “Vật thể tức thị Năng lựcNăng lực tức thị Vật thể, Vật thể bất dị năng lựcNăng lực bất dị vật thể” để độc giả có cảm tưởnggần gũi hơn.  Mười năm sau ông tuyên bố một khám phá mới, xem như chấm dứt giai đọan Vật lý Newton: trọng lực không phải một lực ‘huyền bí’ tác động vũ trụ mà là do thời gian- không gian ‘gập cong’ (warping). Einstein chứng tỏ các lòng tin, hay đúng hơn là kiến thức, về vũ trụ trước đó không còn đúng nữa. Cũng như các nhà vật lý cùng thời, Einstein dạy ở các Đại học Đức đến lúc Hitler lên cầm quyền. Ông sang Mỹ và tiếp tục làm việc ở Đại học Princeton cho đến cuối đời.

Các nhà Vật lý Lượng tử

Trong lúc đó, các nhà Vật lý trẻ ở Đức và Âu Châu nghiên cứu về ‘vi’ nguyên tử khám phá ra là những định luật Vật lý cũ không còn thích hợp nữa! Họ khám phá là các làn sóng ánh sáng nhiều khi hành xử như là vật thể! Định luật nhân quả chắc nịch của Vật lý cũ nhường chỗ cho nguyên lý bộc phát (spontaneous) và bất định (indetermination), như trong quá trình hủy hoại phóng xạ. Họ cũng khám phá nguyên tử thu hút và phóng năng lực từ quanta, do đó Vật Lý mới có tên là Quantum Theory.

Quantum physics reveals the world to be intricate web of events interralated in mysterious… Nature is an inreparable whole. In a certain sense, each particle implcitely contains all others.

Thomas MacFarlane

Một trong những nhà Vật lý được xem như khai sáng của Cơ học Quantum là Neils Bohr, gốc Đan Mạchđề nghị chữ hỗ tương (complementary) để giải thích những hiện tượng thoạt nhìn có vẻ mâu thuẫn trong vật lý ‘cũ’ như làn sóng và vật thể. Được xem như nhà khoa học có uy tín ‘lớn’ chỉ đứng sau Einstein, Bohr đã nhiều lần tranh luận với Einstein và tuyên bố một câu bất hủ, bắt đầu cho cuộc giao lưu giữa Vật lý mới và Đạo học Đông Phương“Chúng ta phải quay trở về những vấn đề mà các đạo gia Đông phương như Đức Phật và Lão tử từng đối đầu, khi tìm cách hòa hợp giữa khán giả và người hành động trong bi kịch hiện sinh.”

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Trời đất nhìn cho kỹ cũng nhỏ như đầu sợi tóc

Mặt trời mặt trăng có thể bao gồm trong một hạt cải

Không nhớ tên tác giả

Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài

Nguyễn Công Trứ

Một học trò của Bohr là Werner Heisenberg khám phá ra nguyên lý về Quantum vào năm 1927. Theo nguyên lý này không thể nào tính được vị trí và tốc độ của một vật thể cùng một lúc. Nguyên lý này có tên là nguyên lý bất định (uncertainty principle). Vì ở lại làm giám đốc cho một chương trình nguyên tử cho Hitler, sau thế chiến 2, Heisenberg bị giam ở Anh nhưng sau đó được ân xá và được phép về Đức tiếp tục nghiên cứu trong Viện Max Planck.

The world thus appears as a complicated tissue of events.

Werner Heisenberg

Một nhà Vật lý khác không thể nào không nhắc tới là Robert Oppenheimer, người đã góp phần chế tạo những quả bom nguyên tử đầu tiên, trong đó có 2 quả bom bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, trong dự án Mahattan của Tổng thống Roosevelt. Nhưng năm 1953 vì từ chối cộng tác trong chương trình làm thêm những quả bom nguyên tử mạnh hơn, nên bị các chính trị gia quá khích như McCarthy trong phong trào truy lùng ‘Red under the Bed’ cáo buộc là ‘thân Cộng’ (sic), nên phải trở về làm một nhà nghiên cứu ‘thuần túy’ tại Đại Học Princeton, nơi Einstein đang làm việc.

Discoveries in atomic physics are not in the nature of things wholly unfamiliar, wholly unheard of, or new. In Buddhist and Hindu thoughts (it occupied) a more considerable and central place

J. Robert Oppenheimer

Ngoạn mục nhất là nhà Vật lý Fritjof Capra, đậu tiến sĩ tại Đại Học Vienna Áo, xuất bản tác phẩm The Tao of Physics (bản dịch Việt Ngữ của Nguyễn Tường Bách), mở đầu việc giao lưu giữa Vật lý ‘mới’ và Đạo học. Tiếp đó một số các tác phẩm tương tự khác như The Dancing Wu Li Masters và The Seat of the Soul của Zukav cũng nghiên cứu vấn đề này. Tất cả các chi tiết này rút ta từ tác phẩmEinstein and Buddha của Thomas J. MacFarlane (Ulysses Press, 2002). Độc giả nào muốn tìm hiểuthêm chi tiết về cuộc hội ngộ kỳ thú giữa Vật lý mới và Đạo Học Đông phương xin vui lòng đọc thêm tác phẩm của GS Trịnh Xuân Thuận và Matthieu Ricard, Quantum and Lotus, Crown Publishers, New York, 2001) .

Tiến bộ kỳ diệu cũng như giới hạn của y khoa Tây Phương                                                       

Khoa học và kỹ thuật Tây phương hiện nay biết nhiều chi tiết của cấu trúc của sinh vật ở nhiều mức độ hơn trước đây. Kể từ năm 1944, năm mà DNA được khám phá trong khoa di truyền, nền tảng khoa học cho ngành y khoa và đã được ‘cách mạng hóa’  trong nhiều lảnh  vực và  còn hứa hẹn sẽ có thêm nhiều khám phá đột phát khác nữa.

Hiện nay chúng ta có thể cô lập một số genes bị nghi ngờ là ‘thủ phạm’ gây những chứng bệnh di truyềnChúng ta cũng đã khám phá ra nhiều dược liệu để kiểm soát các chứng bệnh truyền nhiểm. Chúng ta có thể bơm các diếu tố đặc biệt (TPA) vào máu để hòa tan các cục máu đông làm nghẽn các mạch máu để có thể làm giảm mức hư hại của các bắp thịt tim. Chúng ta sáng chế được các máy nội soi não bộ điều khiển bằng computer như PET, CAT scanning, nhất là máy dò âm thanh cộng hưởng fRMI, cho phép Bác sĩ rà soát bên trong não bộ và cơ thể. Đó là chưa kể chúng ta có thể dùng Laser để phẫu thuật võng mô để cứu nhãn quan, phẫu thuật nối các động mạch tim hiện nay đã trở thành một phẫu thuật thông thường vân vân…

Thế nhưng có rất nhiều điều mà y khoa Tây phương chưa biết.

 Chúng ta vẫn chưa biết tường tận cấu trúc của nhiều sinh vật, kể cả những sinh vật giản dị nhất! Ngay cả các triệu chứng ‘đau’ kinh niên vẫn chưa có biện pháp chữa trị. Hiện nay chứng đau thắt lưng tốn ngân quỹ Mỹ hàng chục tỷ Mỹ kim mỗi năm tiền chữa trị và tiền mất khả năng sản xuất. Chúng ta đặt lòng tin vào Y khoa hiện đại nhưng đồng thời chúng ta biết giới hạn của khoa học và kỹ thuật. Ví dụ như chúng ta chưa biết tại sao có một số tế bào phát triển đến mức không kiểm soátđược và sau đó biến thành tế bào ung thư. Thế nhưng có nhiều trường hợp ung bướu ‘teo nhỏ lại’ hay biến mất, dù bệnh nhân không được chữa trị bằng dược (hóa) trị hay xạ trị. Thường thì Bác sĩ nói là những bệnh nhân sống sót nhờ có ‘ý chí sống còn’, nhưng giải thích như thế cũng như không giải thích gì cả!

Hầu hết các nghiên cứu cho tới gần đây đều đồng ý là khỏe mạnh hay bệnh tật của cơ thể liên hệ mật thiết đến nhiều yếu tố khác như nếp suy nghĩxúc động, tình cảm và những giao tiếp xã hội có thể làm chúng ta sống mạnh khỏe hay bệnh tật. 

Chánh niệm giúp chúng ta sử dụng các kiến thứ này như thế nào?

Tình cảm hay tư tưởng và cùng cảm giáchiện tượng tâm lý hiện ra trong hiện trường ý thức. Khi chúng xuất hiệnchúng ta có thể quán chiếu trong thân tâm của mình, kiểm soát và giới hạn để làm bớt mức độc hạiThí dụ như khi chúng ta giận dữ, tim đập thình thịch, máu dồn lên ngực (tức hộc máu), bắp thịt tê cứng và đầu óc thiếu sáng suốt (giận mất khôn), thường chúng ta hoàn toàn phản ứng theo thói quen thay vì có những chọn lựa thích ứng với hoàn cảnh để tránh những hậu quả đáng tiếc.  Điều này không có nghĩa là chúng ta đè nén tình cảm (một chọn lựa thiếu khôn ngoan khác!) mà phản ứng dưới ánh sáng của ý thức để không mất lòng bạn bè hay người thân và không tích trữ các stress hormone trong máu dễ sinh bệnh! Trong khi người ‘chọc tức’quý vị đang đi nghỉ mát ở Sầm Sơn hay Sa  Pa, quý vị ngồi một mình trong phòng chịu ‘dầy vò’ với ‘nỗi khổ niềm đau’!

Ngược lại khi quán chiếu những tư tưởng hay tình cảm tích cực, quý vị thấy cơ thể phản ứng ra sao? Cơ thể quý vị ra sao khi nghe quý vị vui như nghe tin con cái mình thi đổ vào Harvard hay Princeton? Khi quý vị rung động vì một mái tóc (em hai mươi tóc xõa dài), một mùi hương (hương bưởi thơm rồi đêm đã khuya). Quý vị cầu nguyện ngày an lành đêm an lành, khi có cơ hội an lành và hạnh phúc sao lại bỏ qua!?

Khi biết những thông tin khoa học đáng tin cậy, chúng ta có thể vun trồng những đức tính tích cực từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác, từ ngày này sang ngày nọ, và đến một lúc nào đó chúng tacó thể chuyển hóa chính chúng ta và tạo cho mình một lối nhìn mới đối với cuộc đời và một cách ở đời mới.

Hiệu ứng Placebo

Một hiện tượng y khoa chưa giải thích được là hiệu ứng Placebo. Nhiều thử nghiệm cho thấy là khi một bệnh nhân tin rằng mình uống một loại thuốc nào đó nhưng thực ra họ chỉ được cho uống một giả dược ‘bọc đường’ thay vì thuốc thật. Hiệu ứng của Placebo cũng gần bằng hiệu ứng của thuốc thật. Điều này có thể giải thích là khi bệnh nhân được cho biết họ được cho uống một loại thuốc hiệu nghiệm, một cơ chế nào đó trong não bộ của người bệnh làm thay đổi mức sinh-hóa trong người qua các tuyến nội tiết (endoctrine system), hay dùng các sóng não để một thay đổi sinh-hóa. Mức tin cậycủa thử nghiệm Placebo rất cao vì Bác sĩ, hay người nghiên cứu và người phân tích kết quả, không ai biết bệnh nhân nào uống thuốc thật hay thuốc giả! Cũng như hiện tượng thôi miên có thể thay đổi những hoạt động của một người, kể cả đối đầu với cơn đau hay phục hồi ‘trí nhớ’. Trước khi được áp dụng vào y khoa, châm cứu của Trung Quốc từng đã được dùng thay thế thuốc mê trong phẫu thuật. Quý vị còn nhớ chuyện Quan Vân Trường ngồi mổ vết thương, không thuốc mê nhưng vẫn không nhăn mặt.