12. Phật Giáo Nhật Bản

21 Tháng Chín 20169:54 CH(Xem: 6625)
12. Phật Giáo Nhật Bản

MỸ THUẬT PHẬT GIÁO

Kiêm Đạt

(ĐH Đông Phương – California – USA)

 

 

12. 

Phật Giáo Nhật Bản

    

Nhật Bản ngày nay không chỉ là  nước siêu công nghiệp rất mạnh về kinh tế,  mà cũng là  một quốc gia  có truyền thống  văn hoá nghệ  thuật lâu đời, với bản sắc độc đáo và trình độ mỹ thuật cao. Người dân Phù Tang nhạy cảm từ các đẹp đơn sơ trong cách đan ghép  hàng giậu tre hay gọt chiếc gáo  bương cán trúc, tới cái đẹp lộng lẫy tang  trọng như mái  chùa gỗ chạm  kỳ khu, hay  tấm áo kimono thêu hoa rực rỡ.

Tiếp nhận và kế thừa ảnh hưởng  các nền văn hoá lân bang cổ xưa, người Nhật sớm phát huy năng khiếu thẩm mỹ thiên phú, tạo nên một  nền văn  hoá đặc sắc,  đậm tính  dân  tộc, được cả  thế giới trân  trọng.  

Thời kỳ du nhập (552-794

Theo những  tài liẹu biên nien  sử của Nhật Bản,  Phật Giáo chính thức được truyền  vào Nhật Bản từ Triều Tiên  (Korea) vào năm 552 Tây Lịch (có tài liệu ghi là năm 538).

Vào thời gian đó, vua nước Bách Tế (Triều  Tiên) đã gửi một phái đoàn  truyền giáo đến Nhật.   Phái đoàn nầy đã được Nhật Hoàng dón tiếp một cách nồng hậu; phái  đoàn  đã dâng  lên Nhật  Hoàng một  pho tượng  Phật Thích Ca bằng  vàng, một bộ kinh Đại Thừa, chuông mõ và các đạo cụ khác.  Tuy nhiên  Phật Giáo chỉ  thực sự được  tổ chức và  truyền bá tại Nhật Bản là trong thời kỳ  nhiếp chánh của Hoàng hậu Suiko.

Người kế vị  của bà, Thánh  Đức Thái Tử  (Shotoku 574-622) là  người có  công trong công việc cho tổ chức và truyền bá sâu rộng Phật Giáo.  Nhà vua  cũng được xem  là "sơ tổ"  Phật Giáo tại  đây. Thánh đức  Thái Tử đã ra công nghiên cứu  và tuyên giảng ba bộ kinh Đại Thừa cho Phật Tử Nhật Bản; về sau những bài giảng nầy đã được san định  thành một bộ  Luận rất giá trị.

 Sau khi  lên ngôi Thái tử Shotoky đã ban  hành ngay một  chiếu chỉ nhấn  mạnh: "Toàn dân  Nhật phải  kính  ngưỡng và  thọ trì  Phật Pháp".  ông đã  cho xây nhiều chùa  chiền trên  khắp đất Nhật.  Một trong những  ngôi chùa nởi  tiếng  thời đó nay vẫn còn lại là chùa Pháp Long (Horyji). Ngôi chùa nầy do chính Thái tử Shotoku đứng ra xây dựng vào năm 607 và được xem là ngôi chùa gỗ có tuổi thọ lâu nhất trên thế giới.

Ngôi chùa cổ nhất  Nhật Bản   Ngôi chùa  nầy có tên  là Horyu -  Gi (Pháp Long  Tự) tọa lạc tại Ikaruga, cách cố đô Nara chừng 10km, về hướng Tây Nam. Trong lịch sử  truyền bá Phật Giáo, vào thời  Asoka (552 - 645),  khi Phật Giáo từ Triều Tiên du  nhập vào đất Nhật, được hoàng gia  khuyến khích và nâng đỡ trong bước đầu, đã có nhiều ngôi chùa lớn nhỏ được  kiến lập. Qua  sử sách ghi  chép về thời  đó có 46 ngôi chùa lớn và 423 ngôi chùa nhỏ chung quanh vùng Nara.

Pháp Long Tự  được xây  sớm nhất và  cũng là kiểu  thức kiến trúc  và điêu khắc  tiêu biểu Phật Giáo Nhật thời kỳ du nhập nầy.  Ngôi chùa  có gồm có:  cổng Trung Môn,  toà tháp năm  tầng và toà  Phật điện  vàng (gọi là  Kindo, tức Kim  Đường), các cột  lớn đều  bằng bằng loại gỗ bách quý giá trong vùng. Cổng Trung Môn ở chính giữa mặt  nam. Đối diện cổng  Trung Môn là toà  Giang Đường ở mặt  bắc. Các hành lang bao quanh khuôn viên trên đó tọa lạc Kim Đường và tháp năm tầng.  Toà Kim Đường dựng trên nền đá  hai bậc, cao 32 mét. Tiền đình có năm gian, mặt bên có bốn gian,  lớp ngói kiểu bốn mái. Những hàng cột cao  đỡ lấy các  con-sơn hình mây  cuộn, điêu khắc  khá thanh nhã. Chính  giữa là điện  thờ, xây  một  bệ bằng đất  nung đặt ba  tượng Phật  bằng đồng. Pho tượng  Phật thứ nhất đặt  ở chính giữa  ngồi xếp bằng, chiều cao 1,37 mét;  hai vị Bồ Tát (Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát)  đứng hai bên. Phía sau ánh hào quang  có khắc bài nguyện về Phật Pháp  (Tứ nguyện). Pho tượng thứ hai ở bên cạnh là đức Bổn Sư Thích Ca  Mâu Ni Phật; pho tượng thứ ba là Dược Sư Lưu  Ly Quang Vương Phật.

Tất  cả ba pho tượng nầy  là do điêu khắc gia nổi tiếng Nhật Bản,  ông Tori sáng tác. Phía sau ba bức tượng nầy  là bức tượng A Di  Đà có niên đại sớm  nhất trong những công trình điêu khắc Phật Giáo Nhật.   Bốn góc  bệ thờ có Tứ  Đại Thiên Vương đứng  trấn giữ theo truyền thuyết Phật Giáo.  Đó là bốn pho tượng làm  bằng gỗ long não, mỗi  pho tượng  cao 1,33 mét.

Trên  các bức tường của  Kim Đường trang  trí nhiều bức hoạ  nổi tiếng thể hiện cuộc đời của  đức Bổn Sư và   chư vị Bồ Tát, sáng tác vào thế kỷ thứ VIII.  Toà tháp năm tầng  đặt trên hai bậc đá, cao khoảng  32 mét. Ở giữa  tầng một, có xây một bệ thờ  bằng đất sét nung. trên bốn mặt có  phù điêu thể hiện bốn cảnh, có liên quan đến cuộc đời của đức Thế  Tôn: ở phía bắc  là đức Phật nhập diệt; phía nam  là Phật Di Lặc;  phía đông là Phật Duy Ma; phía tây là cảnh phân chia Xá Lợi Phật.

Ngôi chùa được kiến tạo năm 607,  dưới sự trông nom trực tiếp của Thái Tử Sokhutu. Trong số  các bức tượng  Phật ở ngôi  chùa nầy, điển  hình là pho  tượng  bằng đồng  mạ vàng  do Curasucuri  Notori chế  tác, để cầu nguyện cho Thái tử Sokhutu khi  ngài mắc bệnh nặng. Bức tượng nổi  bật với tư thế tĩnh tại, đầu nhìn thẳng, nét mặt trầm tư. 

Vào giữa  thế kỷ VII, ngôi  chùa bị hỏa hoạn  phá huỷ nhưng chẳng  bao lâu thì chùa  lại được tái tạo theo hình đồ  và trang trí như  cũ. Cho nên, đến ngày nay, ngô chùa Horyu - Gi vẫn tồn tại và lưu  giữ được  hơn 100 hiện vật,  có giá trị nghệ  thuật cao, được xếp vào hàng bảo vật của quốc gia.

Trong số đó, có khá nhiều hiện vật có từ khi Phật Giáo mới du nhập vào đất Nhật. Chùa Horyu - Gi  là niềm tự hào của nền văn  hoá Nhật và được xếp vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới năm 1967.  Ngoài ra,  trong số những  ngôi chùa đầu  tiên, cũng phải  kể đến ngôi chùa  vĩ đại Todaiji do  Thiên Hoàng Somu kiến  tạo năm 745 tại Nara.  Trong chùa nầy, phần  hoành tráng và nguy  nga nhất là  ngôi Đại  Phật Điện.

 Ở  Đại Phật Điện  nầy, có đặt  pho tượng Đại Phật (Daibutsu) bằng  đồng to lớn, uy nghiêm,  nổi tiếng thế giới  về tầm cỡ, kích thước, trọng lượng và kỹ thuật (cao 17m, nặng 500 tấn). Tuy  to lớn như  thế, nhưng tượng  đại Phật trông  rất đẹp,  duyên dáng, tinh xảo. Đây là mô hình điêu khắc tiêu biểu nhất của  thời đại Nara.

 Thời kỳ phát triển Phật Giáo Nhật (Heian 794 -1184).

Trong triều  đại Nại Lương  (Nara 710 -  794) qua sự  ủng hộ Phật Pháp của Hoàng đế  Thánh Võ (Shomu 701 - 756), vị  vua thứ 45 của  Nhật Bản) Phật Giáo đã trở thành quốc giáo của đất nước Phù Tang.  Năm 741,  vua Thánh Tổ đã  ban hành một quốc  lệnh rằng: Mỗi làng lớn hay nhỏ, tùy phương tiện sẵn  có phải xây dựng một ngôi chùa  và dân chúng khắp nơi phải thành tâm thọ trì Phật Pháp.

 Để làm  gương cho mọi người  dân, chính nhà vua  nầy đã đích thân xây chùa  Đông Đại (Todai) tại  kinh đô vào cuối  năm 741; đây là  ngôi tổ đình của tông phái Hoa Nghiêm với pho tượng Phật Tỳ Lô Xá Na (Varocana) khổng lồ được thờ bên trong chánh điện.

  Kể từ những năm  đầu của kỷ nguyên Nara đệ nhất  (710 - 793) nghệ thuật trồng hoa, cắm  hoa và hoa đạo đã đi vào  lịch sử Nhật Bản,  nhất là về phương diện văn hoá  và phong cách.

 Nara ngày nay là 1thành phố có  nhiều đền đài linh thiêng, kiến  trúc đa dạng, đượm màu cổ kính. Tại đây có những khu đất linh thiêng, những địa danh nổi tiếng. Ngày xưa, Nara là thủ  độ đứng đầu về phương diện nghệ thuật, một thủ đô nổi tiếng  là thành lịch như trong những chuyện thần tiên Nhật. 

Thời đó, giới tao nhân mặc  khách thường tổ chức những cuộc du ngoạn, xem hoa, xướng  hoạ, mà đề tài chính là hoa.  Nghệ thuât  cắm hoa là  chủ điểm của  trang trí. Chính  hoàng hậu  Somedono thường tự  tay cắm những bình hoa anh  đào trong khi đón tiếp nhà vua.   Chính trong  thời nầy, những  tác phẩm lừng  danh xuất hiện.

 Tập  "Vạn chiếc hoa" (Manyoshu) tập trung  những sáng tác phẩm của mọi  tầng  lớp xã  hội sáng  tác trong  thời nầy.  Tuyển tập "Xưa Nay" (Kokinshu) cũng  là công trình  nổi tiếng, thiên  về tả cảnh,  tả  tình. Tuy nhiên  trong giai đoạn sơ  khởi, những biểu hiện  vẫn còn thô sơ. Phải đợi đến thế kỷ XIII - IX, nghệ thuật cắm hoa Nhật có quy củ hơn. Thời đó, đa số đều  theo trường phái nguyên thủy, cắm hoa dùng trang  trí, gọi là "cắm  hoa kiểu tùy hứng"  (Nageire). Phật Giáo từ Trung Hoa vào Nhật  đã chuyển hoá nhiều ngành nghệ thuật,  kể cả cắm hoa.

Chùa chiền được kiến tạo khắp nơi. Phật Giáo Đồ đi kiếm những  cây đẹp nhất về  xây chùa tháp. Nhiều  phụ nữ hy sinh mái tóc để bện  thừng kéo gỗ về. Những dây thừng  nầy còn lưu giữ đến nay trong những Bảo Tàng Viện danh tiếng.   Kiểu cắm  hoa đầu tiên theo  môn phái "thẳng đứng"  hay "lập hoa"  (Rikkwa).

Về sau,  thuật cắm hoa và triết hoa  hoa càng được phát  triển thêm. Bên cạnh là trà  đạo. Trà thất (Chashitsu) được thiết  lập  riêng biệt  trong ngôi  nhà ở.  Lối vào  trà thất  xuyên qua khoảng vườn bố  cục u nhã, thanh thoát. Phòng  trà có một cửa vào nhỏ thấp;  trước khi vào, khách  dự phải cởi kiếm  cũng như những băn khoăn trong cuộc sống.

 Phòng trà cho ta một cảm giác an bình. Tất cả đều hài hoà, đơn giản,  đạo vị. Nếu phong khách Tây Phương là nơi  khoe khoang giàu  có, thì trà  thất Nhật lại là  nơi nghỉ chân  giữa cơn khô  hạn của cuộc sống. 

Người Nhật  không ngại ngùng tạo cho trà  thất vẻ nghèo nàn,  tao nhã. Trà thất  tuy đơn sơ, những  mọi chi tiết, vật liệu đều hiếm  quý. Trà thất tuyệt đối không có  vật gì mới mẻ, hoa hoè.  Cũng trong  thời kỳ Nara nầy,  có 6 tông phái  Phật Giáo từ Trung  Hoa truyền  sang.

Phong trào nghiên  cứu và tu học  Phật Pháp có  quy củ bắt đầu từ giai đoạn nầy trở về sau.

Sáu Tông  phái

Phật Giáo từ  Trung Hoa truyền sang  trong thời đại   Nara  là: Luật  Tông, Câu  Xá Tông,  Thành Thật  Tông, Pháp TướngTông và Hoa Nghiêm Tông.

 Luật Tông (Ritsu

 Luật Tông là 1 trong 13 tông phái Phật Giáo chính của Trung Hoa.  Tông phái nầy theo khuynh hướng bảo thủ, giống như truyền thống ởcác nước vùng  Nam Á, được ngài Đạo Tuyên  (Tao Hsuan, 596 - 667) dựa vào bộ kinh Đại Thừa  Luật (Mahayana Vinaya) là thành lập vào thời đại nhà Đường.   Chủ trương của Luật Tông là nghiêm trì giới luât để tiến đến Phật quả. Tông phái nầy được Ngài Giám Chân (Ganjin) giới thiệu đến  Nhật vào năm 754.

 Câu Xá Tông (Kusha)

Tông  nầy cũng  mang tính  chất bảo  thủ, lấy  Luận A  Tỳ Đạt  ma  (Abhidhama) làm chỗ nương tựa chính.  Đó là một bộ luận nổi tiếng  của Ngài Thế Thân (Vasubandhu).

 

 Thành Thật Tông (Jojitsu)

Tông nầy dựa vào giáo lý Tánh Không (non substantiality) mà thành lập nên.

 Tam Luận Tông (Sannon)

  Phát xuất từ phái Trung Quán ở  Ấn Độ, một trường pháí phát triển của Ngài Long Thọ (Nagarjina). Giáo lý tông nầy cũng nhấn mạnh đế tự tánh  Không của vạn pháp.  Nhu tên gọi của  Tông nầy, Tam Luận tức là  dựa vào ba bộ  luận chính: Trung quán  luận (Madhyamika),   Dvadasamuka Sastra của ngài Long Thọ và Sala của ngài Aryadeva.

 Pháp Tướng Tông (Hosso)

  Tông nầy bắt nguồn từ tư tưởng phái Yoga của Ấn Độ, một Tông phái Phật Giáo phát triển có mặt từ năm 167 tại Ấn.

 Hoa Nghiêm Tông (Kegon

  Dựa vào kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka)  để lập Tông phái. Chủ trương  của phái nầy tôn thờ và thực hành pháp hạnh của đức Phật Tỳ Lô Xá  Na.

Tất cả  sáu Tông phái  kể trên đều  có nhiều hành  giả và học giả theo đuổi học  tập và hành trì, nhưng tầm  ảnh hưởng của mội Tông  phái chỉ  được giới hạn trong  giới xuất gia mà  không mở rộng ra  bên ngoài.  Những đền  chùa tiêu biểu trong giai đoạn  nầy đều tại trung  tâm Horayuji còn mang  dấu ấn ngoại lai, trước  khi chấn chỉnh.

 Mỹ thuật PG  đã kết hợp  với văn hoá  Thần Đạo khá nhuần nhuyễn, theo hướng bảo vệ dân tộc tính. Tượng Tam Thế Phật ở Kondo là trường hợp tiêu  biểu, mà trong đó Tam tượng Shka  là kỳ  công của triều đại  Asuka trong khi đó  điện thờ Tamamushi  sáng giá nhất triều đại Nara. Nét tiêu biểu là Phật Giáo đại thừa Nhật  lúc nầy nặng về lễ bái chư Phật, chư thiên.

Trong triều đại Heian (794 - 1185) được xem là thời hoàng kim của  PG  Nhật. Ngay  chung quanh  thủ đô  Đông Kinh  có hàng ngàn chùa chiền lớn  nhỏ xây dựng trong  ba năm đầu. Với  phong cách Kondo,  kiến trúc Nhật mở ra chu kỳ mới.

 Tông phái Saicho (767 - 822) chịu ảnh  hưởng của Thiên Thai Tông Tông phái  Chơn Ngôn (Shingo) chuyển  sang giáo  pháp thần  bí của Mật Tông, nhưng vẫn cố gắng bảo  vệ tính trong sáng và huyền diệu PG Nhật. Khu di tích Toji là nét tiêu biểu quan trọng của triều đại Heian.

 Thời kỳ Kiếm Thương (Kamakura) (1185 - 1333)

Đây là thời kỳ  khủng hoảng, vì cả nước bị đe  dọa trầm trọng bởi sự tàn phá khốc liệt từ sự phân hoá nội bộ và bạo lực dưới những tổ chức  quân sự được thành  lập năm 1185 của  bộ tộc Minamoto, ở ngoại ô Kyoto.  bầu không khí mới nầy  đã làm cho việc tu  tập và  nghiên  cứu Phật  Giáo bị  khựng lại  một thời  gian khá lâu.

Tuy nhiên, cuối  cùng thì mọi  việc cũng được  giải quyết tạm  yên và Phật Giáo vẫn tiếp tục phát triển trong xu thế mới.   Nếu như trong thời đại Bình An  (Heian, 794 - 1184) hai tông phái  khác nhau du nhập Nhật Bản là Thiên Thai Tông và Chân Ngôn Tông -   hai Tông phái nầy có một hệ  thống giáo lý sâu nhiệm và độc đáo,  lập tức  chinh phục và  được sự ủng  hộ môt cách  nhiệt thành của  quần chúng Nhật Bản, nhất là tầng lớp quý tộc - thì vào đầu triều    đại Kiếm  Thương, hai phái khác  là Nhật Liên Tông  (Nichiren) và   Tịnh độ  Tông (Jodo) cũng  lần lượt xuất  hiện và được  truyền bá  rộng rãi trên toàn nước Nhật.

Như vậy, cho đến  thế kỷ XIII, tất cả các Tông  phái chính đều có mặt tại Nhật bao gồm: Thiền  tông, Tịnh Độ tông, Thiên Thai tông,Chân Ngôn tông, Nhật Liên tông...

Thiền Tông (Zen sect)

Thiền tông là một tông phái  Phật Giáo Nhật Bản. Thiền bắt nguồn từ từ Phạt Thích Ca, rồi được  Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) con trai của  vua Chi Cương thuộc  dòng Sát Dế Lợi,  nước Quốc Hương,  nam Thiên Trúc, vùng cao nguyên Decan, miền Nam Ấn Độ. Ngài là vị  Tổ sư Thiền tông  đời thứ 28 của Ấn Độ. Năm  480, vâng lời Thầy,  Ngài đến Trung Hoa để truyền bá  pháp môn Thiền.

 Ở Trung Hoa, lúc  đầu Thiền chịu ảnh hưởng mạnh mẽ  của đạo Lão và đạo Khổng. Thiền chỉ độc lập  và nổi tiếng từ thế  kỷ thứ VII và đã  trở thành một tông phái chính cho tới ngày nay tại Trung Hoa.  Thiền được  giới thiệu đến Nhật  Bản vào khoảng thế  kỷ thứ IX từ  Trung Hoa qua hai Thiền phái Lâm  Tế và Tào Động, cả hai phái nầy  đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Lục Tổ Huệ Năng ở thế kỷ VIII.

Hiện nay ở Nhật có 3 Thiền phái như sau:

 Thiền Lâm Tế (Rinzai Sect

 Dòng Thiền nầy  do công khai sáng của Thiền  sư người Nhật – Vinh  Tây (Eisai -1141 - 1215). Ngài xuất  gia từ năm 13 tuởi ở chùa An Dưỡng (Annyo) ở Kibitsu). Ngài đã  tìm đường đến Trung Hoa để học đạo trong hai  lần vào những năm 1168 và  1187. Lần sau cùng Ngài  về đến Nhật vào năm 1191 và  kiến tạo ngôi chùa Shofuku ở Hakata.  Ngôi chùa nầy được xem là Thiền viện đầu tiên trên đất nước nầy.

Năm 1215, triều đình Nhật xây  dựng chùa Kiến Nhân (Kennin -ji)  tại Kyoto, Ngài được thỉnh về làm  chứng minh đạo sư cho ngôi già lam nầy. Ngài  cũng được xem là người có  công trong văn hoá Trà  Đạo tại Nhật.

Ngài đã mang giống trà từ Trung Hoa về trồng tại  Nhật. Vị  Thiền sư nổi  tiếng của Thiền  Phái nầy về  sau là ngài  Bạch Ẩn (Hakui Ekaku - 1685 - 1786) với những tác phẩm nổi tiếng.  Ngày nay ở Nhật có 14 chi phái thuộc dòng Thiền nầy tuy không hợp nhất về tổ chức,  nhưng vẫn đeo đuổi lý tưởng ban  đầu của Tổ sư Vĩnh Tây.

 Thiền Tào Động (Soto Sect)

  Thiền Tào Động  là một trong năm Thiền phái  chính của Trung Quốcvà là một trong 13 tông phái  cính của Phật Giáo Nhật Bản. đây là một Thiền  phái kiểu mẫu  như để so  sánh với Thiền  Lâm tế, cuối cùng nó dường  như phổ biến hơn nhưng hơi  khác ở Nhật. Thiền Tào Động được  Thiền sư Đạo Nguyên  (Dogen - 1200 -  1253) khai sáng. Đạo Nguyên vốn là đệ tử của  Ngài Vĩnh Tây, sau đó ông sang Frung  Hoa du học và  trở về Nhật Bản xây dựng Thiền  phái nầy.

Người kế thừa và phát triển sâu rộng thêm  dòng Thiền phái nầy là Thiền sư   Suzuki Shogan (1579 - 1653). Hiện nay ngôi chùa già lam chính của Thiền phái nầy là chùa Tổg Trì (Soji-ji) ở Yokohama do Thiền sư Hành Cơ (Gyogi 666 - 749) tạo dựng năm 1321.

 Thiền Hoàng Bá (Obaku Sect

  Đây là Thiền phái thứ ba của  người Nhật, có tầm ảnh hưởng ít hơn hai Thiền  phái kể trên,  do Thiền sư  người Trung Hoa  Ẩn Nguyên (Yin Yuan  1592 - 1673) khai  sáng. Sau nhiều năm  tu học tại quê nhà, ông  sang Nhật Bản để  hoằng pháp vào năm  1654 và tiến hành thành lập Thiền  phái nầy tại chùa Vạn  Phước (Mampuku-ji) ở tỉnh Yamato. ông  đã được Nhật Hoàng  ban cho danh hiệu  Quốc Sư (Daik Fusho Kokushi)  ông đã lưu lại  nhiều tác phẩm Phật  học giá trị.  Hiện nay có hơn 600 ngôi chùa là chi nhánh của Thiền  phái nầy.

  Nhìn chung lại cả 3 Thiền phái  trên đã phát triển mãnh tại Nhật và có  tầm ảnh hưởng câu  rộng trong đời sống  tâm linh của người Nhật.

Cả ba  đều có nhiều trường đại học,  nhà xuất bản kinh sách riêng, cơ quan  từ thiện, xã hội... Không những  thế. Thiền đã ăn sâu vào  tiềm thức của người  Nhật: Trà đạo, Nghê  thuật cắm Hoa,  nghệ thuật Suiseki, Hoa đạo, Thư pháp...   Một trong những ảnh hưởng lớn với  nền văn hoá nầy là Thiền Tông.

Văn hoá Nhật thấn nhuầm tinh thần Tiền Tông trong nhiều lãnh vực: thi ca,  hội hoạ, kiến trúc,  điêu khắc, sân khấu,  đình viên cho  đến  trà đạo,  hoa đạo,  võ đạo.  Không những  ảnh hưởng đến nghệ thuật, Thiền còn  đi vào đời sống thường ngày  của người dân Nhật  trong ẩm thực, nghỉ ngơi và cả trong kinh doanh.  Đã không sai lầm khi nói rằng Thiền đã trở thành sinh mệnh và cốt tủy  của nền  văn hoá  Nhật. Nhiều  quốc gia  cũng chịu ảnh hưởng Thiền Tông, nhưng không nơi nào thấm  nhuần đến mức độ sâu sắc và bền vững như nền văn hoá nước  nầy.

So với các quốc gia vùng Đông Á, Thiền Tông du nhập Nhật khá muộn màng.  Phật Giáo tuy đã có mặt tại Nhật từ thế  kỷ thứ VI, qua sự truyền nhập  của Trung Quốc và Triều Tiên,  nhưng Thiền Tông chỉ được  xác lập ở Nhật từ thế kỷ XII.

Thiền là một tông phái Phật Giáo, với đường lối tu luyện thân tâm  nhằm đạt  đến giác ngộ. Thiền  được xem là kết  tinh của những gì  huyền diệu nhất của Phật Giáo Đại  Thừa. Những cũng có thể xem là  sự kết  hợp tài hoa của  tư tưởng Ấn Độ  và các nền văn  hoá Viễn  Đông, mà nổi bậc nhất là Trung Quốc và Nhật Bản.  "Mục tiêu của Thiền dĩ nhiên là  để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng  đó không phải là nơi an trụ  cuối cùng. Trên quan điểm chứng ngộ, chân  lý là  bình thường,  không có  gì đặc  biệt. Liễu xanh, hoa thắm, lửa nóng và gió luôn luôn  thổi...   Nơi an trụ cuối cùng của Thiền, mạch sống  của Phật Giáo chính là  "Thiền trong hoạt động"    không lạc  ra ngoài sinh hoạt  tự nhiên của đời  sống bình thường  hàng ngày. Như vậy, dù không để  ý đến ngày và đêm, chúng ta sống  trong Phật pháp và  áp dụng nó. Vậy thì cần gì  phải giác ngộ và tu tập? "Đi cũng thiền, ngồi  cũng thiền".

 Nhưng không phải thế!  Nước đã đun sôi và sau đó  để nguội chắc chắn phải khác với nước thường, mặc dù  cả hai thứ đều nguội. Phải  có sự khác biệt giữa  một thường nhân và một môn đệ  đã trải qua công phu tu luyện lâudài.  Nếu  không  thế,  tu  tập  thiền  định  chỉ là vô dụng..."  (Takashina Rosen).   

Khi Thiền Tông truyền vào Nhật Bản,  theo gót trở về của thiền sư  Eisai (Vinh  Tây) và cuối  thế kỷ XII,  trà cũng được  mang theo.

Nhiều tài liệu cho rằng chính Ngài Eisai đã mang từ Trung Quốc về cả giáo pháp Lâm Tế lẫn hạt giống  trà. Ông đã có công đưa trà và đời sống  văn hoá Nhật,  dù rằng nó  không giống với  trà đạo sau nầy. "Không có gì gợi lên hương vị giác ngộ cho bằng thức uống kỳ  diệu gọi là trà". Như thế "trà  đạo" bắt đầu như là một nghi thức  dùng trà  ở các Thiền viện.  Nhưng trà đạo chỉ  thực sự được hoàn thiện dưới  bàn tay của Thiền  sư Sen No Rikyu,  thế kỷ XVI.

Ngài   Rikyu học Thiền trên một ngọn  núi thuộc Ngũ Sơn tại Kyoto. Chính Rikyu đã hoà lẫn Thiền vị và Trà vị, với 1 lý tưởng gọi là "Wabi"    (đà), một  tinh thần giản  dị, nhã đạm,  thuần phác, gần  với bản chất thường nhiên của vạn vật.  Wabi là nguyên lý cho rằng: cái đẹp cao nhất nằm trong vẻ đơn sơ,  thanh  tịnh  và  nó  được  phát  triển  cao  nhất trong "trà đạo"  (Chado). Chén trà  tao nhã chính là hoá thân  của đất sét đơn sơ.  Chất nước chứa đựng trong áy, thanh khiết và tuyệt diệu, được làm  nên bằng những chiếc lá đơn sơ. Cũng tương tự như đức Phật hay Bồ Tát cũng là sự chuyển hoá từ một thứ "đất sét thô sơ": con người.

Sân khấu Nô cũng là một phạm trù nghệ thuật khác. Thế giới  quan của tuồng Nô  bắt nguồn từ tư  tưởng Thiền Tông.  Các nhân vật chính của tuồng  Nô thường là những sinh linh, những tâm hồn còn vương tục lụy, nghĩa  là còn chìm đắm trong vòng sinh  tử luân hồi, oán  thù, ái ân. Họ chỉ được giải  thoát khi hiểu ra điều đó,  do một cơ  hội bất ngờ  đạt ngộ, nhìn  thấu bản chất vô thường và vô ngã. Chính thế giới quan ấy đã tạo cho loại tường Nô  một kết  cấu độc đáo; chẳng  hạn: cuộc gặp gỡ  của một khách hành  hương và một  bóng ma, về cuộc đối  thoại kỳ lạ giữa thực  và ảo.

Trong nội  dung, kịch Nô  là sân khấu  trữ tình, là  nơi kết tinh những giá trị văn chương cổ điển Nhật, là nơi biểu hiện tinh thần  Thiền tông  đầy đủ nhất  và sinh động  nhất. Kịch Nô  là sân khấu  biểu tượng, sâu khấu của cái ảo,  là nổ lực vưon tới cái u huyền  của cuộc  sống. Trong hình  thức diễn đạt,  văn bản Nô  chứa đựng  những phần dành cho cả nói và hát, cả văn xuôi lẫn thi ca, vũ đạolẫn âm nhạc.

 Khi diễn xuất, thông thường trên sâu khấu nầy chỉ có 2 diễn viên chính, gọi là "Shitê" và "Waki". Shitê thường đeo mặt  nạ, ca hát  và múa. Trong khi đó,  Waki không đeo mặt nạ  và cũng  hiếm thấy múa.  Các diễn viên khác là vai  phụ, là những tùy tùng  hai vai  hài "kyogen". Chen lẫn  vào đó, đội đồng  ca, lúc thì ca  hát, lúc thì đối đáp với vai Shitê.

 Tịnh Độ Tông (Jodo -Pureland sect)

Tịnh Độ  Tông là một  tông phái rất  phổ biến ở  càc quốc gia Bắc  Phương Phật Giáo, có nguồn gốc từ  thế kỷ thứ II sau Công Nguyên  tại  Ấn Độ.  Tông nầy  dựa vào   giáo lý  của kinh  Vô Lượng  Thọ   (Sukhavativyuha) và kinh A Di Đà (Amitabha Sutra). Cả hai bộ kinh nầy đều mô  tả về một cảnh giới  Tây Phương, nơi các hành  giả tu  tập theo tông nầy sẽ được tái sinh,  sau khi bỏ báo thân ở cõi Ta  Bà như là một kết quả từ niềm tín  tâm nơi đức Phật A Di Đà và tu tập nhiều thiện nghiệp.  Vị tông chủ của phái nầy là đức  Phật A Di Đà hay Đức Phật có ánh sáng vô lượng (Unlumites Light  Buddha).

Tịnh Độ Tông được truyền đến Nhật Bản vào  khoảng thế kỷ thứ VI với sự  thiết lập của ngài Pháp Nhiên (Honen 1133 - 1212).  Ngài Pháp Nhiên đã công khai hoá  pháp môn Tịnh Độ vào năm 1175 tại Kyoto. sau đó, tông phái nầy đã  được phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng thích nghi với xã hội Nhật  Bản; có 5 chi phái Tịnh Độ được khai sinh và phát triển từ thế kỷ thứ X  cho đến thế kỷ  XIII, bao gồm: Dung  Thông Niệm Phật Tông,  Tịnh độ Tông Chân Tông, Thời Tông...

Ngày nay  tại Nhật chỉ  còn lại  2  trong 5 tông  phái được thịnh hành. Những  ngôi chùa chính của  tông phái nầy là  chùa Chion ở  Kyoto và chùa Zojo ở Tokyo. Vào năm 1993,  các tông phái Tịnh Độ  tại Nhật đã kết hợp  lại để  cùng xây  dựng một pho  tượng Phật A  Di Đà cao  120m; đây là một trong những công trình kiến trúc  Phật Giáo lớn lao nhất vào cuối  thế kỷ XX.

 Thiên Thai Tông (Tendai Shu)

Thiên  Thai Tông  còn gọi  là  Pháp  Hoa Tông,  do ngài  Trí Khải (Chih-i -538  - 595) dựa vào  giáo lý trong kinh  Pháp Hoa mà lập tông tại núi  Thiên Thai. Đại sư Trí  Khải là tác giả của  hơn 30  luận bản nổi tiếng như: Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán...  Tông nầy đến ngài Tối Trừng thì truyền sang Nhật vào năm 805.  Năm đó, Ngài  được triều đình Nhật  Bản gửi sang Trung  Hoa để nghiên  cứu Phật  Pháp. Ngài đã  tận dụng  cơ  hội nầy để  học giáo nghĩa Thiên Thai, dưới sự dẫn dắt của  ngài Dosui và học Thiền với ngài  Hsiao-jan.

Năm sau  Ngài trở về Nhật và thành  lập tông phái nầy.  Ngài viên  tịch năm 822 ở  tuổi 56, để lại  một công trình nghiên  cứu đồ sộ với 160 tác phẩm các loại kinh sách.

 Nhật Liên Tông  (Nichiren Shu)

 Còn gọi là Pháp Hoa Tông (Hokke Sect) hay Nhật Liên Pháp Hoa Tông  (Nichiren Hokke) được Ngài Nhật  Liên (Nichiren 1222- 1282) thành  lập. Tông  nầy lấy tư tưởng  trong Kinh Pháp Hoa  làm chỗ nương  tựa chính.

Ngài Nhật Liên  sinh năm 1222 con của một  gia đình nghèo nàn tại Kaminato. Ngài xuất gia vào thuở thiếu thời; lúc đầu học theo Chân  Ngôn Tông,  rồi chuyển sang  Thiên Thai Tông. 

Cuối cùng Ngài  kếtluận rằng: Chỉ  có Kinh Pháp Hoa (Saddharma  Punsirika Sutra) mớilà cứu cánh và có thể đưa nước Nhật ra khỏi những biến loạn trong thời kỳ đó.   Hành giả theo Tông nầy thường thọ  trì Kinh Pháp Hoa và niệm danh  hiệu Diệu  Pháp Liên Hoa  Kinh. Tông  nầy  có 4 ngôi  chùa lớn tại   Nhật: chùa  Diệu Hiền, chùa Bản  Môn, chùa Bản Quốc  và chùa Pháp  Hoa. Sau Thế  chiến thứ nhất, Tông nầy lại  phát triển thêm nhiều chi nhánh  khác như Soka Gakkai,  Rissho Koseikai, Reitykai... mà  tất cả đều nhằm vào việc xiển dương giáo nghĩa của Kinh Pháp Hoa.

 Tổ chức Phật Giào Nikkyo Koseikai  thành lập năm 1938 đến nay vẫn  được xem là  một trong những tổ chức Phật  Giáo rất mạnh tại Nhật   với tín đồ lên đến 6 triệu.

Chân Ngôn Tông (Shingon Sect)

Chân Ngôn Tông  còn gọi là Mật Tông (Esoteric  Sect) là một trong  những tông Phái  Phật Giáo tại Nhật được đại  sư Hoằng Pháp (Kobo Daishi 774  - 835) thành lập  tại Nhật vào năm  806. Lúc nhỏ Ngài từng tìm  học chữ Hán, lịch  sử, văn học, kiến  trúc và kinh điển  Phật Giáo.  Ngài cũng từng  nghiên cứu và  so sáng tư  tưởng Phật  Giáo với Khổng Giáo và Lão Giáo để sau cùng chọn đạo Phật để hành trì và tu  tập. Ngài xuất gia năm  20 tuổi rồi sang Trung  Hoa để  theo học với  đại sư Hui Kuo (746  - 805). Khi trở về  nước, Ngàivào tu ở núi Mahinooo.

      Trong thời gian nầy có rất nhiều người đến  cầu học, trong  đó có cả ngài Tối Trừng.  năm 816, Ngài khởi công xây dựng  chùa Kim Cương  (Kongo ji) tại  núi Koya để  hoằng dương  pháp môn nầy.  

Vị tông chủ của  giáo phái nầy là Đức Đại Nhật Như  Lai (Maha Vairocana); hành giả của  giáo phái nầy tu theo lời dạy  trong kinh Đại Nhật (Dainichi Kyo  Sho). Hiện nay, Chân Ngôn Tông  tại Nhật  vẫn phát triển  đều đặn; có  6 chi nhánh  khác nhau của  Tông phái nầy tại Nhật.

 Trong  triều đại  Kamakura và   Muromachi (1185  - 1573)  PG Nhật  chuyển sang chu kỳ mới. Tuy cuộc nội chiến  cuối thế kỷ XII đã gây tai  hại lớn cho nhiều công trình kiến trúc, nhưng ngay sau đó, cuộc kiến thiết bắt đầu.   Kamakara được mệnh danh là sự phục hồi truyền thống cổ điển trong  nghệ thuât Phật Giáo toàn nước  Nhật.

 Chùa chiền, tháp tượng từng  bước được  tái tạo. Cuộc phục  hưng PG trong giai  đoạn nầy không ngoài đường hướng phục hoạt tư tưởng chân chính, chống ngoại lai. Chùa   Todaiji  và chùa  Kofukuji trở  thành hai  biểu tượng chính thống  trong giai đoạn nầy với phong cách Phật Giáo hoà hợp.

Trường phái điêu khắc "Kei" trở thành hướng chỉ  đạo trong mọi công trình xây dựng  chính.   Nhìn chung,  kiến trúc và điêu  khắc Phật Giáo Á  Châu không theo một mô thức đồng  nhất, hội nhập với văn hoá bản  địa, nên đã tạo kiểu thức và phong cách đa dạng, sinh động và biểu cảm.

Mỹ thuật Nhật Bản

Vào thời thái cổ, trên vùng đất Nhật ngày nay đã có dân tộc Ainos cư  trú. Sau đó, nhiều chủng tộc khác từ lục địa đã đến và đánh đuổi người Ainos lên miền Bắc. Do sống biệt lập đảo cho nên các bộ tộc nầy không phát triển nền văn hoá họ được bao nhiêu. Đến cuối thế kỷ IV (sau Công nguyên), Nhật Bản bắt đầu tiếp xúc với Triều Tiên và giao lưu văn hoá nẩy sinh từ đó.  Phật Giáo được du nhập vào Nhật từ thời kỳ nầy và phát triển khá nhanh. Nhiều tăng nhân Triều Tiên và cả Trung Hopa sang Nhật  thuyết dạy giáo lý và cũng hướng dẫn nghệ thuật. Những tác phẩm hội họa đầu tiên của Nhật hình thành trong giai đoạn nầy.

Cuối thế kỷ VII, thời của Nữ hoàng Suito, một vị nhiếp chánh viên là Hoàng thân Shotoku đã quy y theo Phật Giáo và phong trào truyền bá Phật Giáo sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Shotoku đã cho mời các cao tăng và các nhà mỹ thuật ở lục địa sang Nhật xây chùa, tạc tượng. Hội họa, điêu khắc, trang trí  cũng phát triển mạnh từ đó. Các nghệ sĩ trong nước đã tìm hiểu những giá trị nầy, đồng thời hoà hợp với tinh thần truyền thống dân tộc để phát triển một nền văn hoá riêng cho mình.

Mỹ thuật thời kỳ Nara (710-784)

Trong thời đại Nara, nghệ thuật Nhật Bản phát triển qua 3 giai đoạn: giai đoạn Asuka, giai đoạn Hakubo và giai đoạn Tempyo.

Giai đoạn Asuka: Asuka là kinh đô Nhật trước khi được dời về Nara. Đây là trung tâm văn hoá đầu tiên, chủ yếu là liên quan đến Phật Giáo.

Nhưng đến thế kỷ XII, văn hoá Asuka mới thực sự phát triển cao. Đặc trưng của thời kỳ nầy là phản ảnh sự giao lưu văn hoá Nhật với nước ngoài, về kiến trúc, điêu khắc và hội họa.

Kiến trúc: Những công trình nổi tiếng là: Chùa Asuka, chùa Horyuji với tháp 5 tầng, điện Kindo, chùa Chyumon. Nguyên liệu xây dựng hầu hết là gỗ. Ngôi chùa bằng gỗ xưa nhất thế giới còn bảo lưu được là chùa Horyuji. Điện Kindo của chùa nầy là công trình bằng gỗ đẹp nhất, với kết cấu cột và mái rất cân đối, hài hoà.

Điêu khắc: Nghệ thuật điêu khắc tập trung về tượng Phật. Những pho tượng nổi tiếng với vẻ đẹp và tinh xảo là tượng Sanzon Syaka ở tháp Kindo, tượng Honzon ở chùa Asuka. Những tượng nầy đều đúc bằng đồng. Những tượng gỗ nổi tiếng phải kể đến tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát ở chùa Horyuji. Đây là tượng mẫu mực nhất về nghệ thuật tạo hình Nhật.

Hội hoạ: Nổi tiếng nhất là bức trướng thêu bằng cườm ở chùa Chyugu, trình bày cảnh đất nước Nhật Bản. Một số  hoạ phẩm khác chịu ảnh hưởng nền hội họa (thủy mạc) của Trung Quốc.

Văn hoá Hakuko

Vào đầu thế kỷ VIII, sau cuộc cải cách thể chế chính trị, văn hoá Nhật mang phong cách mới hơn. Nghệ thuật thời nầy có những tiến bộ đáng kể, tuy nhiên vẫn còn chịu ảnh hưởng nghệ thuật Trung Quốc.

Kiến trúc: Những công trình nổi tiếng là: Chùa Yakushiji,  chùa Daikadaiji. Về sau, chùa chiền đều tập trung xây cất tại kinh đô mới là Heian. Vết tích còn lưu lại là ngôi tháp 3 tầng, kiến trúc cân đối, thanh thoát. Kỹ thuật xây dựng hơn hẳn thời Asuka, mang phong cách riêng của thời Hakuko.

Điêu khắc: Nổi tiếng là quần tượng Phật ở chùa Yakushiji, tượng Tam Bảo ở chùa Yamadaji, tượng Quán Thế Âm ở chùa Horyuji. Ngoài ra, còn những công trình điêu khắc dân gian, không liên quan đến tôn giáo như loại mặt nạ bằng gỗ. Phần lớn những công trình điêu khắc trong thời kỳ nầy đều bằng đồng hay bằng gỗ, phong cách nghệ thuật nhẹ nhàng, tươi sáng. Phong cách Hakuko còn phát triển đới thời kỳ văn hoá Tempyo.

Hội họa: Điển hình là những tranh vẽ các đức Phật, Bồ Tát, La Hán. Đường nét tạo hình mang tính trần thế thể hiện toàn thể hình ảnh. Ngoài ra, còn có loại “tranh tường” bằng màu trong toà Kindo tại chùa Koryuji. Bên cạnh tranh Phật Giáo, còn có loại tranh vẽ những nhân vật nổi tiếng như tranh Thái tử Shotoku.

Văn hoá Tempyo

Thời kỳ Tempyo được xem là “thời hoàng kim” của  nghệ thuật Phật Giáo Nhật Bản.

Kiến trúc: Nghệ thuật kiến trúc phát triển nhanh chóng, ngày càng phù hợp với tinh thần dân tộc Nhật. Điển hình là quần thể chùa Kokufiji và chùa Todaiji. Đây là hai ngôi chùa được xây dựng với quy mô lớn, gồm toà viện nguy nga, điển hình cho nền kiến trúc Tempyo.

Điêu khắc: Những công trình điêu khắc thời nầy vẫn tiếp tục lấy thể tài Phật Giáo, nhưng kỹ thuật cao hơn và màu sắc hoà hợp hơn. Những tác phẩm điêu khắc đều bằng đồng, bằng đất hay bằng gỗ và sơn mài. Nổi tiếng nhất là pho tượng đất Brahma ở chùa Todaiji rất sống động, kỳ vĩ.

Hội họa: Hội họa Nhật Bản trong thời kỳ nầy được đánh giá là “Đã đạt tới một chuẩn mực cao nhất về độ thanh tú của đường nét và độ rực rỡ của màu sắc” (theo G.B. Sansom). 

Điển hình rõ nét nhất là các bức bình phong và tranh của nữ thần Hindu.

 

 

 

Mỹ thuật thời kỳ Heian (794-1179)

Thời đại Heian của Nhật Bản trải qua hai giai đoạn có tính chất khác nhau: Giai đoạn Konin (794-894) và giai đoạn Fujiwara (894-1185).

Trong giai đoạn Konin, Phật Giáo vẫn là nguồn cảm hứng của kiến trúc và điêu khắc, với những chuyển đổi. Sự chuyển đổi chính là hình thành các thể loại tự viện và tu viện của Lâm Tế và Tào Động. Hầu hết các tự viện đều xây dựng trên lưng chừng núi hay trên đỉnh núi, do địa thế của kinh đô mới.

Bên cạnh đó, nền điêu khắc và hội hoạ cũng có nhiều thay đổi. Ngoài hệ thống tranh tượng của thời Nara, lại còn xuất hiện thêm hệ thống tranh tượng mới với hình ảnh của các vị Thần của Thần Đạo và Khổng Giáo.

Đến giai đoạn Fujiwara, là giai đoạn sống xa hoa của giới quý tộc với những nhu cầu đòi hỏi cao về tiện nghi và trang trí. Kiến trúc cung điện của các quý tộc vẫn theo mẫu tiêu biểu của tu viện PG, với trang trí mới. Nhà vườn được giới quý tộc ưa chuộng và đây là khởi đầu  lối cảnh quan “vườn cảnh Nhật Bản” sau nầy.

Ngoài các đề tài cố gắng thể hiện tinh thần dân tộc mình, trong thời đại nầy, ảnh hưởng tôn giáo vẫn được phát triển Giai đoạn Fujiwara có một nền nghệ thuật đăng đối, có ảnh hưởng  sâu đậm đến các thời kỳ sau nầy.

Mỹ thuật thời kỳ  Kamakura, Muromachi và Azuchi Momoyama

Thời đại Kamakura (1180-1333) chứng kiến những biến chuyển suy thoái về quyền lực của chính quyền trung ương và vai trò thống trị của triều đình Kyoto. Tầng lớp chiến binh và võ sĩ giành mọi quyền lãnh đạo. Nhân đó, mọi sinh hoạt cũng biến chuyển theo.  Kiến trúc, hội họa, điêu khắc Nhật trong thời kỳ nầy khá phát triển. Nhiều tác phẩm có giá trị của mọi thể loại ra đời. Đây cũng là thời kỳ phục hồi ảnh hưởng của nghệ thuật Trung Hoa.

 Nhìn chung, nghệ thuật không thay đổi lớn, ngoại trừ ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông phát triên: đó là phong cách Kara-Yo. Cách điện thờ, cung điển đều được tiết giảm bớt theo tinh thần Thiền. Trà đạo, hoa đạo, thư pháp cũng được phát triển trong bước đầu. Kiến trúc gỗ thịnh hành nhất để thích hợp với phong cách nầy.

Điêu khắc đẹp nhất của Kamakura nổi bật về sự sống động, khoẻ khoắn được thể hiện trên chất liệu gỗ mộc. Tính chất hiện thực, sinh động được đi sâu vảo mọi sáng tác phẩm, khác với thời đại Asuka và Tempyo trước đó.

Hội hoạ trong thời kỳ Kamakura mang xu hướng hiện thực chủ nghĩa. Nó được thể hiện dưới nhiều dạng thức như bình phong, tường nhà, cửa ra vào, tam quan...

Mỹ thuật thời kỳ  Muromachi (1333-1500)

Muromachi vốn là một tên một khu phố lớn ở Kyoto, nơi các Shogun tranh giành quyền lợi và thường gây chiến với nhau. Giai đoạn nầy biểu trưng cho sự phân hoá của giới võ sĩ Nhật trước khi đi đến thống nhất. Muromachi là thời đại rối ren, nhưng đồng thời cũng là thời kỳ sản sinh và phát triển nền văn hoá Nhật, trong đó Thiền tông là nền tảng cho mọi ngành sinh hoạt.

Các Thiền sư Nhật trong thời kỳ nầy đã du nhập sâu sắc nền mỹ thuật Trung Hoa, nhiều tư tưởng mới, kể cả nền văn hoá Tống Nho. Thần đạo (Shinto) vẫn được coi trọng và được phát huy trong nền văn hoá, học thuật.

Về nghệ thuật, tuồng Noh (Nô) được phổ biến khắp nơi, với nhiều thể tài và dạng thức. Khởi đầu, tuồng Noh được trình diễn trong các lễ hội tôn giáo, về sau được quần chúng hoá, có phối nhạc khí và tuồng tích được xây dựng sâu sắc. Thể loại nầy được các tướng quân bảo trợ và  quần chúng ưa thích.

Kịch bản tuồng Noh  là tập hợp những bài thơ (thơ Waka) liên hoàn, có tính cách sử thi, hoà theo âm nhạc. Sân khấu nầy dần dà biến dạng. Loại kịch Kabuki (Ca – vũ - kỹ) với thể tài rộng rãi hơn, sân khấu trang trọng hơn và tuồng tích sâu sắc hơn, đã lấn át tuồng Noh. Nghệ thuật trang trí sân khấu đã được quần chúng ưa thích. Vũ điệu dân gian Sangaku và vũ điệu Dengaku trở thành nguồn sinh hoạt nghệ thuật dân gian trong mọi lễ hội.

Cũng trong lãnh vực nghệ thuật, hội họa thời kỳ Muromachi được canh cải hơn. Loại tranh cuộn rất phổ biến trong thời kỳ nầy. Đây là loại tranh vẽ những vị Thần linh, những nhân vật anh hùng trong giới võ sĩ, những  kiều nữ sắc nước hương trời. Tranh cuộn lại được các thi nhân tham gia, phóng bút đề thơ, để thể hiện sự hoà hợp giữa thi và hoa trong loại tranh nầy. Do ảnh hưởng của Trung Quốc, loại tranh cuộn chỉ dùng đơn sắc (tranh thủy mac). Thư pháp cũng được  trình bày đường nét trên loại tranh nầy.

Dù trình bày trong bất cứ lãnh vực nào, ảnh hưởng của Thiền tông vẫn chi phối mạnh mẽ trong cuộc sống văn hoá. Tinh thần siêu thoát, hồn nhiên, thanh tĩnh, vắng lặng của Thiền bàng bạc trong mọi ngành nghệ thuật.

Mỹ thuật thời kỳ Azuchi  Momoyama (1534-1603)

Nghệ thuật Azuchi và Momoyama chỉ được xây dựng trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, tiu nhiên, vẫn lưu lại những dấu ấn sâu sắc và độc đáo trong lịch sử văn hoá Nhật Bản. Tuy  Phật Giáo trong thời kỳ  đầu vẫn có ảnh hưởng lớn, nhưng về sau lại bị Hội đồng Tướng Quân giám sát chặt chẽ, do tính chất bạo động của giới võ sĩ đạo. Những cuộc chiến tranh liên tiếp xẫy ra trong giai đoạn nầy, đã làm ngưng trệ không ít về những sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật.

Những lãnh chúa của võ sĩ cho xây dựng những thành quách, lâu đài kiên cố. Từ công trình cung điện Azuchi đến lâu đài (pháo đài) Osaka, đường nét kiến trúc và điêu khắc cứng rắn và khoẻ mạnh; một số theo kiến trúc thành lũy Âu Châu.  Pháo đài Osaka là một công trình khổng lồ, xây dựng bằng những khối đá Granit lớn, được bao quanh bằng những hào sâu và có vách đứng.

Với tính chất nầy, nghệ thuật trang trí chỉ được thể hiện ở những bình phong, cổng chào, phòng ốc. Những thiên tài nghệ thuật của thời nầy như các đại danh họa Eitoku, Senraku... chỉ có thể thi thố tài năng trong một phạm vi hạn hẹp cho phép. Tuy nhiên, họ còn lưu lại một số mẫu  (bản phác thảo) mà sau nầy được lưu lại, để các môn đồ có cơ hội thực hiện ở các thời kỳ sau.

Một số tướng quân cũng tổ chức những buổi trình diễn nghệ thuật, triển lãm danh họa, cho tổ chức sân khấu tuồng Noh (Nô) và tuồng Kyogen, tuy nhiên, trong  bầu không khí sặc mùi chiến tranh, số người tham gia không còn đông đảo và tích cực như trước.

Mỹ thuật thời kỳ Edo (1603-1867)

 Mỹ thuật khấu Nhật Bản trong thời kỳ nầy phải kể đến “Kịch rối Joruri”, loại Kabuli (Ca, vũ, kỹ), Kiến trúc linh miếu, các loại tranh (tranh phù thế, tranh gấm, tranh phong cảnh).

 Sân khấu:  Sân khấu kịch rối Joruri là loại hát kể chuyện bằng thơ dân gian đàn tỳ bà  và phách phụ họa. Nhà soạn kịch rối nổi tiếng nhất là Chikamatsu  Modaemon một kịch tác giả sáng giá trong thời đại văn hoá Genroku. Thoạt đầu nội dung kịch rối chuyên diễn những sử thi cổ điển Nhật; sau đó đưa vào những con rối diễn xuất. Loại nầy được quần chúng yêu chuộng cho nên phổ biến sâu rộng.

Kabuki (Ca, vũ, kỹ) bao gồm ca hát, nhảy múa và các kỹ nữ phụ họa. Thoạt đầu Kabuki trình diễn những đoạn trong sự tích đức Phật; sau đó chuyển sang đề tài nhân thế. Soạn giả nổi tiếng về Kabuki  cũng là Chikamatsu Monzaemon. Ông là nhà soạn kịch viết nhiều nhất có  tính chất uyên bác; các kịch bản của ông đều có tính chất giáo dục cao và kỹ thuật vững chắc.  Trong khi đó, loại “tuồng Nô” vốn của giới võ sĩ đạo, ra đời trong thời nội chiến, thì nay đã suy tàn dần.

Kiến trúc: Kiến trúc thời Edo theo kiểu linh miếu. Thời kỳ Edo, triều đình đưa Khổng Học lên hàng đầu để trị nước, cho nên các linh miếu được xây dựng khắp nơi. Linh miếu nổi tiếng nhất là cung Nikko Toshogu: đây là một công trình tiêu biểu theo trường phái kiến trúc Gongen (Phật  hoá thân) và nhiều kiểu trang trí, đặc sắc nhất là cổng Yomeimo (Dương minh môn). Nghệ nhân kiến trúc hàng đầu thời Edo là Hodari Jingoro, đã tham gia nhiều công trình kiến trúc linh miếu đồ sộ.

Hội hoạ: Trong thời đại Edo, có nhiều loại tranh ra đời: Tranh phù thế, tranh gấm, tranh nhân vật, tranh phong cảnh. Tranh phù thế (Uketo-E) là loại tranh trình bày những biến chuyển thông tục nhất trong cuộc sống của xã hội thời đó. Người có công sáng tạo  ra loại tranh nầy là Moronobu. Những bức tranh phù thế được vẽ ra bán với giá rất đắt, cho nên chính Moronobu dùng cách  khắc bản gỗ để có thể phổ biến sâu rộng. Tranh phù thế khắc gỗ ngự trị suốt kỷ nguyên Kansei, sau được cải tiến, để đáp ứng đòi hỏi của những người yêu thích thơ Haiku (Hài cú).

Tranh gấm (Nishiki-E) là những tờ tranh vẽ trang trọng, màu sắc lộng lẫy, dùng trong thờ phượng. Người sáng tạo loại tranh nầy là nhà danh họa Suzuki Harunobo. Tranh của ông vừa tranh nhã, lại vừa bí ẩn, màu sắc sáng chói. Về sau, đề tài tranh gấm thiên về dân gian, thể hiện những mẫu người kiệt chúng, trong số có các mỹ nhân.

Tranh nhân vật của Saisharaku và của Utamaro cũng được quần chúng ưa chuộng. Đây là loại tranh in khắc bằng bản gỗ miêu tả gương mặt xinh tươi của các mỹ nữ. Nội dung không nhằm lột tả tính cách nhân vật, mà cốt tạo ra những bố cục tinh tế, gương mặt thanh tú, mềm mại, uyển chuyển. Không nhà nào mà lại không treo một tranh mỹ nữ duyên dáng ấy.

Tranh phong cảnh của Hockusai và của Hirosshige phát triển mạnh là nhờ miêu tả những cảnh sinh hoạt bình thường trong dân gian như chơ búa, lễ hội, cỏ cây, muông thú. Hockusai được toàn dân Nhật biết đến trong bộ tranh liên hoàn “36 cảnh núi Phú Sĩ” trong đó tranh “Ngọn sóng” được thế giới ca tụng, xem là tiêu biểu cho tranh Nhật thời Edo.

Thơ Hài cú (Haikai, Haiku): Thơ Hài cú nguyên do là của trường phái thi ca Danrinfu được trình bày ở các phòng trà. Nhưng về sau loại thơ nầy đã được một danh tài là Matsuo Basho (Ba Tiêu) (1644-1694) nâng lên một bậc cao với chất Thiền Phật Giáo đưa vào thi ca. Thơ ông chỉ có 17 âm tiết (5-7-5) ngắn gọn, nôi dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống con người một cách sâu lắng. Vốn thích những cuộc viễn du, ông thể hiện những mẫu thơ Hài cú trong tinh thần siêu thoát của một thiền sư cộng với  cái vô vi của Lão Giáo, cái thần thánh của Thần đạo.

Mỹ thuật thời Minh Trị (1868-1911)

Trong suốt thời Minh Trị, ý thức về nghệ thuật của Nhật Bản thường đi theo đường hướng giao lưu và đối chiếu văn hoá giữa Tây Phương và Nhật Bản. Trong bất cứ trường hợp nào, ý thức dân tộc vẫn là nền tảng cho việc giao lưu đó.

Hội họa, kiến trúc: Phong trào phục hồi mỹ thuật truyền thống Nhật Bản xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XIX. Cơ sở đào tạo là trường Đông Kinh Mỹ Thuật dựng lên năm 1888, để tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, lấy cơ sở dân tộc làm tiêu điểm. Các hoạ sĩ Nhật thời Minh Trị  đều nắm bắt được kỹ thuật mới của Tây Phương, đồng thời tìm về tinh túy của truyền thống để phát huy nền mỹ thuật mới theo trào lưu hiện đại hoá.

Trà đạo, hoa đạo, vườn cảnh,  nnghệ thuật Bonsai của Nhật được truyền ra nước ngoài. Anh ngữ dùng để làm phương tiện truyền đạt. Chẳng hạn như cuốn The Book of Tea  dịch của Tenshi là mô thức truyền đạt khá phổ thông. Kỹ thuật in khắc là phương tiện phổ biến sâu rộng, theo kỹ thuật mới. Những nhân vật có công trong việc giao lưu nầy là Taisho Yoshitoshi, Kawanabe Kyosai và Kobayashi Kyuchiba.

Kiến trúc cũng chiếm lãnh vực quan trọng trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới. Những toà nhà uy nghi, những trung tâm thương mải mới, những công viên hoành tráng được xây dựng khắp  nơi. Với chủ trường “khai phóng môn hộ” thời Minh Trị Thiên Hoàng, chính quyền Nhật không ngần ngại trong việc  đón mời những chuyên gia nước ngoài đến giúp việc trong một thời gian ấn định. Phong cách kiến trúc của kiến trúc sư người Anh, Josiah Conder được chấp nhận làm nền tảng cho việc kiến tạo những công trình lớn lao ở hầu hết các đô thị trọng điểm. Hai khuynh hướng “canh tân” và “truyền thống” vẫn được nhà cầm quyền Nhật dung hoà để phát triển song hành.

Cuộc duy tân thời Minh Trị đã giúp cho Nhật Bản nhanh chóng đẩy mạnh về kinh tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, kể cả thay đổi nền tảng chính trị.

Những sắc thái khác: Bên cạnh kiến trúc và điêu khắc mới, Nhật Bản còn phát huy và phổ biến sâu rộng những khả năng độc đáo dân tộc, lan rộng sang các nước khác. Từ trà đạo, hoa đạo, tuồng Noh, nghệ thuật Bonsai và vườn cảnh, Hài cú, tranh cuộn, các nghệ nhân Nhật đã giới thiệu sâu rộng qua những chương trình giao lưu văn hoá.  Thiền Tông Nhật  (Thiền Lâm Tế và  Thiền Tào Động) được giới thiệu sang Tây Phương ngay từ đầu thế kỷ XX, đưa văn hoá Nhật truyền bá khắp nơi. 

 

 

----o0o---