03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ

27 Tháng Bảy 20163:55 CH(Xem: 2537)
03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh 
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

III
PHÁP HỘI
MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ
THỨ BA

(Hán bộ từ quyển thứ tám đến hết quyển thứ mười bốn)
Hán dịch: Tây Tấn, Nguyệt Thị, Pháp Sư Trúc Pháp Hộ
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 
 Như vậy, tôi nghe một lúc Phật đến thành Vương Xá, tại núi Linh Thứu cùng chúng đại Tỳ Kheo câu hội, bốn muôn hai ngàn Bồ Tát, tám muôn bốn ngàn đại thánh thần thông tự tại từ những Phật độ mười phương vân tập đến đây. Các vị nầy đã được pháp nhẫn bất thối chuyển, là bực nhứt sanh bổ xứ đã được tổng trì biện tài vô ngại, đi khắp vô số Phật độ mười phương dùng thần thông để tự vui, với chúng sanh một lòng bình đẳng, tiêu oán địch, phục ma ngoại, rõ thấu cội gốc của chúng sanh trong ba cõi, khắp vào tất cả môn ba la mật, phương tiện khôn khéo, thường ở yên lặng thong thả, chư Phật ca ngợi tuyên dương công đức. Từ vô kiếp các ngài phụng hành Bồ Tát hạnh, tâm bình đẳng như mặt đất, đã trừ những ấm cái, rời các chướng ngại, thân thể mạnh mẻ, chí ý như kim cương, oai đức như sư tử được vô sở úy, quang minh hơn cả mặt nhựt mặt nguyệt, chứng nhập tất cả tam muội chánh định, rộng truyền chánh pháp hưng thạnh ngôi Tam Bảo, từ bi vô tận bốn ân được nhờ, qua lại ba cõi như mặt nhựt mặt nguyệt, đi đến bốn châu như Chuyển Luân Vương. Các ngài dùng trí huệ dũng mãnh độ sanh lão bịnh tử, vào trong lục đạo như đuốc sáng soi tối tăm. Tâm các ngài không trụ trước như hoa sen mọc trong bùn. Công hạnh của các ngài không tăng giảm, không thương ghét dường như hư không. Phụng trì tam tạng như thọ đại ấn của Quốc Vương. Các ngài vào trong tám nạn giáo hóa chúng sanh bị nguy ách, dùng trí huệ chuyển pháp luân bất thối, dìu dắt chúng ngu mê ra khỏi ba độc. Danh hiệu của các ngài là : Nguyệt Thí Bồ Tát, Nguyệt Anh Bồ Tát, Tịch Anh Bồ Tát, Thủ Anh Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Quang Thủ Bồ Tát, Thủ Tích Bồ Tát, Thủ Tịch Bồ Tát, Câu Tỏa Bồ Tát, Long Hân Bồ Tát, Long Thí Bồ Tát, Chấp Tượng Bồ Tát, Nhật Thiên Bồ Tát, Duyên Thắng Bồ Tát, Duyên Thủ Bồ Tát, Thường Cử Thủ Bồ Tát, Thường Hạ Thủ Bồ Tát, Bảo Ấn Thủ Bồ Tát, Bảo Chưởng Bồ Tát, Phổ Thế Bồ Tát, Tú Vương Bồ Tát, Kim Cang Ý Bồ Tát, Kim Cương Bộ Bồ Tát, Bất Động Hành Tích Bồ Tát, Hóa Tam Thế Bồ Tát, Độ Vô Lượng Tích Bồ Tát, Vô Lượng Ý Bồ Tát, Hải Ý Bồ Tát, Kiên Ý Bồ Tát, Thượïng Ý Bồ Tát, Trì Ý Bồ Tát, Tăng Ý Bồ Tát, Thường Thảm Bồ Tát, Thường Tiếu Bồ Tát, Thiện căn Bồ Tát, Thiện Chiếu Oai Bồ Tát, Ly Cấu Bồ Tát, Khí Aùc Thú Bồ Tát, Khử Chúng Cái Bồ Tát, Cực Tinh Tấn Bồ Tát, Trí Tích Bồ Tát, Thường Quán Quang Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Sơn Đảnh Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Bất Thuấn Bồ Tát, Bất Mộ Bồ Tát, Lạc Bữu Bồ Tát, Thượng Bữu Bồ Tát, Tâm Thiện Bồ Tát, Tư Thiện Bồ Tát, Tư Nghĩa Bồ Tát, Châu Kết Bồ Tát, Tổng Hào Vương Bồ Tát, Tịnh Vương Bồ Tát, Nghiêm Độ Bồ Tát, Bữu Sự Bồ Tát, Aân Thí Bồ Tát, Đế Thiên Bồ Tát, Thủy Thiên Bồ Tát, Đế Võng Bồ Tát, Minh Võng Bồ Tát, Dụ Thiên Bồ Tát, Tích khoái Tý Bồ Tát, Thiện Bạch Tượng Bồ Tát, Hương Thủ Bồ Tát, Chúng Hương Thủ Bồ Tát, Sư Tử Anh Bồ Tát, Phổ Lợi Ý Bồ Tát, Diệu Ngự Bồ Tát, Đại Ngự Bồ Tát, Tịch Ý Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Phổ Thủ Bồ Tát, Đồng Chơn Bồ Tát... như vậy có tám muôn bốn ngàn đại Bồ Tát câu hội.
 Lúc bấy giờ Đại Thiên Thế Giới cao lớn nguy nga, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, chư Thiên, Long thần, Bát bộ cùng quyến thuộc đều đến hội họp. A Nậu Đạt Trì Long Vương các Long Vương và quyến thuộc đều hội đến. Nhàn Cư A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng các A Tu La Vương và quyến thuộc đồng hội đến. Ma Kiệt Đà Quốc Vương Tần Bà Ta La và cùng nhơn quyến thuộc đều hội đến. Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, tín sĩ, tín nữ đồng hội đến. Chư Thiên thần cõi dục, chư Thiên cõi sắc nhẫn đến Tịnh Cư Thiên đều hội đến.
 Lúc bấy giờ đức Thế Tôn vì vô lượng vô số đại chúng mà thuyết pháp, tuyên nói công hạnh của chư Bồ Tát đại sĩ. Pháp của Phật nói đây tên là Tịnh Tế.
 Những gì gọi là Bồ Tát hạnh ? Dùng hạnh bố thí giáo hóa chúng sanh cứu tế nguy hiểm ách nạn. Tu hạnh giới cấm viên mãn mười điều lành. Thật hành nhẫn nhục đầy đủ tướng tốt vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân. Cần hành tinh tấn đầy đủ tất cả công đức. Thật hành thiền định chí ý an hòa tịch tịnh bất tư nghì. Thật hành trí huệ dứt những trần lao thành trí huệ thánh, giáo hóa những người chưa thông đạt. Thật hành học rộng được vô ngại biện tài diễn thuyết trôi chảy, người nghe liền tin thọ. Thật hành công đức khuyên chúng sanh làm vô lượng phước.Thật hành thánh minh được vô lượng biện tài. Thật hành tịch tịnh phát khởi chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn.Thật hành chánh quán trừ bỏ tà hạnh những việc vô ích.Thật hành từ tâm thường nhơn hòa chẳng tổn hại.Thật hành bi tâm muốn cứu giúp chúng sanh trước sau chẳng nhàm.Thật hành hỷ tâm dùng pháp lạc để tự vui, cũng giáo hóa chúng sanh khiến họ mộ đạo. Thật hành hộ tâm khai thị tội phước đem chánh pháp lợi mình lợi người. Thật hành xuất gia rời bỏ tâm ân ái mến luyến cùng những thối quen thế tục. Thật hành nhàn cư thành lập yếu nghĩa chẳng thối thất nhứt tâm. Thật hành chí nguyện được tổng trì chẳng quên chánh pháp đem giáo hóa chúng sanh. Thật hành tư niệm hiểu rõ thông đạt tất cả.Thật hành du bộ hiểu rõ nghĩa lý có lợi ích không tổn hại.Thật hành chánh ý quán sát sự đau ngứa nơi thân và tâm ý các pháp. Thật hành ý đoạn dứt hết tất cả tội ác, tu tất cả diệu hạnh.Thật hành thần túc thân tâm nhẹ nhàng, đến nơi nguy ách cứu nạn chúng sanh. Thật hành chư căn nhãn,nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều tịch tịnh chẳng tán loạn. Thật hành luật hạnh tiêu trừ trần lao những lỗi quấy, thường kềm chế được lấy mình và cũng giáo hóa chúng sanh.Thật hành giác ý để đạt chánh kỷ. Thật hành đạo nghiệp vượt khỏi những đường tà của chín mươi sáu phái ngoại đạo. Thật hành chơn chánh thành tựu nhơn nghĩa không mừng không giận. Thật hành giải biện thấy rõ tâm của chúng sanh mà vì khai thị. Thật hành tự qui, thân mình tự đạt chẳng mong nhờ người. Thật hành thiện hữu dùng đức huệ để tế độ. Thật hành thuần tánh luôn luôn hòa thuận không khi dối. Thật hành đúng thời, vượt khỏi tất cả nạn.Thật hành thánh hiền, hành động đặc biệt khác hơn mọi người. Thật hành ngồi yên thường phụng hành những pháp đã được nghe. Thật hành tứ ân nhóm họp đại chúng để diễn thuyết kinh pháp. Thật hành chánh pháp thuận theo giáo pháp của Tam bảo làm cho chẳng đoạn tuyệt. Giáo hóa chúng sanh, nghiêm tịnh Phật độ, đầy đủ tất cả bi trí.
 Đức Thế Tôn rộng thuyết tất cả nghiệp hạnh thanh tịnh của Bồ Tát như vậy.
 Lúc bấy giờ Kim Cang Lực Sĩ hiệu là Mật Tích, cầm kim cương xử đứng hầu bên hữu đức Thế Tôn, đến trước bạch Phật rằng : « Đức Như Lai chí chơn nói pháp yếu về những công nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát. Bạch Thế Tôn ! Những hạnh nghiệp công đức ấy đều là chỗ vui thích của chư Bồ Tát, dùng đó để nhiếp độ chúng sanh.
 Nếu chư Bồ Tát hiểu rõ công đức tu hành huệ hạnh, là thật hành chơn thật chí thành đệ nhứt. Vì những công đức huệ hạnh là phương tiện thiện xảo ba la mật đầy đủ phước huệ, huệ nghiệp nầy là trí ba la mật của Bồ Tát, trong đầy đủ tất cả công hạnh. Công đức và trí huệ khắp đầy đủ tất cả đạo hạnh của chư Bồ Tát mà ân đức khắp cứu độ chúng sanh, vượt khỏi cảnh ma đến bực bất thối chuyển sẽ thành bực Vô thượng Bồ đề ».
 Lúc đó Tịch Ý Bồ Tát nói với Mật Tích Kim Cang : « Mật Tích vừa nói hai sự nghiệp gần trí huệ của Như Lai. Ông có thể thích an trụ tuyên dương nghiệp bí mật của Như Lai. Đây thời chẳng phải bực Thanh Văn, Duyên Giác biết được huống là những hàng phàm phu ! ».
 Lúc đó Mật Tích Kim Cang yên lặng chẳng đáp.
 Tịch Ý Bồ Tát bạch Phật : « Thế Tôn ! Mật Tích Lực Sĩ phải chăng có thể chiếu cố đến chúng hội nầy mà diễn bày pháp bí mật của Như Lai. Toàn thể chúng hội đều khát ngưỡng muốn được nghe đó. Nếu được nghe diễn thuyết pháp nầy thì trong tâm của chúng hội tất sẽ rất vui mừng phụng hành Bồ Tát hạnh, sẽ thành tựu đầy đủ những sự mật yếu, tâm tánh sẽ điều hòa vào nơi vô thượng đại từ » .
 Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Ông có thể lãnh trọng nhiệm vì đại hội mà diễn thuyết mật hạnh của Bồ Tát và bí yếu của Như Lai. Chư Phật đồng khuyến tán. Đại hội sẽ thích nghe ».
 Kim Cang Lực Sĩ bạch : « Thế Tôn ! Tôi có thể kham nhiệm chút ít vì đại hội mà tuyên thuyết mật hạnh của Bồ Tát và bí yếu của Như Lai. Mong Như Lai giúp oai thần, nhờ Như Lai trợ huệ quang, tôi mới dám vâng thánh chỉ của Phật để tuyên bày. Như lúc trời tối phải nhờ ánh sáng của ngọn đèn mới có thể thấy rõ hình sắc và đến đi qua lại».
 Phật nói : « Lành thay ! Đã phải lúc cho ông tuyên thuyết».
 Mật Tích Lực Sĩ nói với Tịch Ý Bồ Tát : « Xin ngài lắng nghe, và cũng xin đại hội nghe mật hạnh của Bồ Tát cùng bí yếu của Như Lai chớ kinh chớ sợ ».
 Tịch Ý Bồ Tát bố cáo giữa đại hội : « Đức Như Lai tuyên bố bốn pháp bất tư nghì, do đậy được thành đạo Chánh giác Vô thượng.
 Những gì là bốn ? Tạo lập công nghiệp chẳng thể nghĩ bàn, chí nguyện chẳng thể nghĩ bàn, thiền định chẳng thể nghĩ bàn, chỗ làm của chư Phật không có ngằn mé.
 Các Ngài nên biết trên đây là bốn điều chẳng thể nghĩ bàn. Các Ngài nếu nghe những điều chẳng thể nghĩ bàn của chư Bồ Tát và của chư Phật, thời chẳng nên có lòng sợ sệt, phải vui mừng hớn hở, hết lòng kính tin mới có thể đạt được đại đạo».
 Tịch Ý Bồ Tát liền nhập chánh định làm cho tất cả đại hội đều có quan niệm kính tin giáo pháp của Như Lai, đều vui mừng hớn hở. Trời rưới các thứ hoa đúng theo ý muốn của đại chúng để rải cúng dường Phật, cũng rải khắp đại hội.
 Mật Tích Lực Sĩ nói với Tịch Ý Bồ Tát : « Xin lắng nghe khéo nghĩ nhớ. Nay tôi sẽ tuyên bố mật hạnh của Bồ Tát và bí yếu của Như Lai. Lời nói của Phật và Bồ Tát rất thành thật, không quan niệm phân biệt để truyền đạo riêng khác, luôn thuận theo năm hạnh của Bồ Tát.
 Bồ Tát không dua vạy, chẳng khi dối, chẳng cống cao, lúc thị hiện tương ưng thời biến hóa tự tại, do tâm tự tại chẳng phân biệt hạnh nghiệp tà nịnh phi pháp, cẩn thận việc làm nơi thân dùng oai nghi lễ tiết giáo hóa chúng sanh, miệng không nói những lời hư vọng. Oai nghi của Bồ Tát không thể hạn lượng. Theo hạnh nghiệp của chúng sanh dùng tất cả oai nghi lễ tiết để có thể khai hóa. Chỗ làm cũng như học vấn, tư duy, thiền quán, âm thinh, ngôn từ đều làm cho được rành rẽ. Chỗ làm của nam của nữ hành động đi đứng oai nghi lễ tiết đều đúng theo lớn nhỏ. Đến trẻ nít còn bú mà đáng được giáo hóa, Bồ Tát cũng đều cẩn thận oai nghi. Với những hàng lão thành, trung niên, thiếu niên, đáng được giáo hóa đúng theo oai nghi lễ tiết, tôn ti, sang hèn, trí ngu, làm cho kẻ bít lấp được khai thông, người đần độn được tỏ thấu, việc làm nhiều ít đều đúng oai nghi lễ tiết. Với người đáng được độ thời dạy dỗ khai hóa. Với các loài địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, Thiên, Long, Bát bộ, Nhơn và Phi nhơn, thời dìu dắt những kẻ đáng giáo hóa. Với hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, tín nam, tín nữ, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, chư thiên thần, ai đáng nên giáp hóa thời dạy bảo đó.
 Bồ Tát đều biết rõ chúng sanh sâu, cạn, dày, mỏng, khó độ, dễ độ. Đúng theo bịnh cho thuốc mà vì họ thuyết pháp, khiến người tham dâm chẳng tham của cải, kiến lập oai nghi theo lễ tiết của họ.
 Bồ Tát ở nơi đó, thường tịch nhiên vô vi, đem thân tu hành chẳng rời tịch mặc, hiển bày oai nghi nơi thân. Nếu có người tham lam ganh ghét, đều vì tùy thời cứu tế chẳng tiếc thân mạng.
 Những chúng sanh khổ não nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, cứu tế họ khỏi nạn khổ, đặt họ ở nơi an ổn.
 Nếu có chúng sanh nhiều bỏn sẻn tham lam,Bồ Tát theo sở thích của họ mà hiện những thứ trân bảo của cải làm cho họ trụ nơi nghiệp lành. Nhẫn đến theo sở thích của họ mà tự bố thí cho những đầu, mắt, da, thịt, gân, xương, tủy, não, vợ, con, ngựa, xe, tôi tớ, áo cơm. Nếu họ đòi món ngon vật lạ, áo mền tốt đẹp, Bồ Tát cũng đều làm cho họ vừa ý để họ phát tâm lành.
 Bồ Tát vì chúng sanh mà hiện vô số thân ở vô lượng thế giới mười phương, nhơn duyên phương tiện của Bồ Tát cũng không thể cùng tận. Theo cơ cảm hiện vô lượng thân khai hóa chúng sanh đưa họ vào chánh pháp.
 Nếu có chúng sanh nhiều tham dục mê tình sắc, Bồ Tát hiện thân phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần, làm cho người đó thích mến xem dường bảo châu, rồi hiện hôi, dơ, xấu xa đáng nhàm, kế hiện chết mất, dùng đó để diễn những pháp vô thường, khổ không, như huyễn, như hóa, không chút gì chơn thật, làm cho người nghe tâm ý tỏ thông bèn phát tâm Vô thượng Bồ đề.
 Bồ Tát kia dùng một lọng báu che khắp cõi Đại Thiên, lại có thể đem nhét vào trong hột cải.
 Nếu lúc hỏa tai đốt khắp thế giới, Bồ Tát có thể để tất cả trên bàn tay mình, thân Bồ Tát cũng chẳng lớn thêm.
 Bồ Tát có thể đồng thời cúng dường tất cả chư Phật ở mười phương, trước mỗi đức Phật đồng thời đều có thân Bồ Tát.
 Bồ Tát có thể biến những hoa đẹp nhiều như núi Tu Di bọc trong vạt áo hóa thành lọng hoa dâng cúng Như Lai.
 Bồ Tát có thể biến một lư hương lớn bằng ngàn Phật độ, biến một ngọn đèn bằng núi Tu Di ánh sáng chiếu hằng hà sa quốc độ để cúng dường Phật. Bồ Tát dùng vải lụa vấn thân mình, rưới dầu làm ngọn đèn, tự đốt thân mình, ánh sáng chiếu khắp cõi Đại Thiên, làm cho chúng sanh người thấy kẻ nghe đều tưởng niệm đến cảnh giới Bồ Tát mà phát đạo tâm vô thượng.
 Bồ Tát mặc giáp hoằng thệ hiện thế lực lớn tay cầm Kim Cang xử đứng hầu bên Phật, mọi người sợ hãi phải quy y đảnh lễ.
 Bồ Tát thị hiện lực sĩ thân chết thây sình vất bỏ trong gò mả, chim muông đến ăn thịt, những cầm thú nầy sau khi chết đều được sanh lên cõi trời. Vì bổn nguyện của Bồ Tát tự thệ rằng : Giả sử có loài người, hoặc muông thú cầm điểu, lúc ăn da thịt thây chết của tôi đều thêm lớn căn lành, họ sẽ được sanh lên cõi trời sau khi báo thân họ đã mãn.
 Thưa Ngài Tịch Ý Bồ Tát ! Nên phải quan sát công hạnh tùy nghi hóa độ của Bồ Tát như vậy.
 Thuở quá khứ lâu xa, cõi Diêm Phù Đề nầy rộng lớn, có tám muôn bốn ngàn nước, nhơn dân đông nhiều không tính đếm được. Thời kỳ đó loài người ăn mặc tự nhiên giàu có đầy đủ, châu báu vô số, nhà cửa tốt đẹp, hoa thơm trái ngọt sum suê khắp nơi. Lức đó có nhiều chúng sanh mang lấy bịnh khổ, đau nhức ngứa ngáy, trăm ngàn lương y không trị được. Lúc đó Bồ Tát hiện làm lương y trị lành bịnh cho mọi người, dùng từ tâm theo săn sóc người bịnh như tôi tớ.
 Lại thuở quá khứ lâu xa, có Thiên Đế Thích hiệu Thiện Tự Tại, ở trên trời nhìn xuống thấy nhơn loại bị nhiều bịnh khổ, thiên nhĩ nghe tiếng rên rỉ kêu khóc của mọi người, động lòng từ bi liền hiện làm thân thú tên Nhơn Lương ở gần nước Cụ Lưu trong Diêm Phù Đề, rồi hiện ra tiếng rao truyền giữa hư không để phổ cáo tất cả người trong Diêm Phù Đề:
 Cách nước Cụ Lưu nầy chẳng xa.
 Có một thú lớn tên Nhơn Lương
 Ai ăn được thịt của thú nầy
 Thời thoát khỏi được tất cả khổ.
 Các người chớ nghi ngờ sợ sệt
 An lòng đến lấy thịt mà ăn
 Thú không hung dữ, thịt sạch ngon
 Chính là thuốc hay trị các bịnh.
 Lúc đó tất cả người bịnh hoạn trong Diêm Phù Đề đồng dắt nhau đến nước Cụ Lưu thẻo lấy thịt thú Nhơn Lương mang về ăn, tất cả đều được lành bịnh. Thân thể của thú Nhơn Lương hườn lại như cũ. Tiếng đồn truyền ra, lần lượt những người bịnh ở các nước xa đua nhau đến lấy thịt thú Nhơn Lương để ăn. Thẻo xong, thịt hườn lại như cũ, thân thú Nhơn Lương không hề tổn giảm. Chỉ trong bảy ngày mà thiên hạ đều khỏi nạn bịnh tật.
 Dầu mọi người được hết thân bịnh, nhưng những tâm bịnh như tham, sân, si v.v... vẫn chưa tiêu.
 Sau khi được khỏe mạnh an vui, mọi người nghĩ rằng chúng ta biết lấy gì để báo đáp ơn nghĩa của thú Nhơn Lương.
 Thiên hạ rủ nhau đến nước Cụ Lưu, ở trước thú Nhơn Lương đồng cung kính nói kệ rằng :
 Hỡi nầy thú Nhơn Lương
 Nhờ thịt ngươi điều trị
 Thiên hạ khỏi bịnh khổ 
 Lấy gì báo ơn ngươi ?
 Liền lúc đó thân thú Nhơn Lương ẩn mất, hiện trở lại thân Thiên Đế Thích bảo đại chúng rằng :
 Thân tôi ngày hôm nay
 Chẳng cần nhà cửa ở
 Chẳng dùng đồ uống ăn
 Vàng bạc cùng trân bảo
 Chẳng dùng xe voi đẹp
 Chẳng màng xe ngựa hay.
 Hàng gái trai già trẻ
 Nên đồng tâm hòa thuận
 Nên theo chánh bỏ tà
 Cùng làm mười nghiệp lành
 Từ tâm đối với nhau
 Mến thương và giúp đỡ
 Xem nhau như ruột thịt
 Đối nhau như mẹ con
 Chớ làm tổn hại nhau
 Là báo ơn Nhơn Lương.
 Lúc đó đại chúng nghe lời dạy của Thiên Đế, đều cảm động phụng hành mười nghiệp lành. Sau khi chết họ được sanh lên cõi trời Đao lợi, lại được Thiên Đế khai thị thuyết pháp, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
 Thưa Ngài Tịch Ý Bồ Tát Thiên Đế hóa thân làm thú Nhơn Lương thuở quá khứ đó, chính là tiền thân của đức Như Lai hiện nay.
 Bồ Tát tu mật hạnh, chẳng tiếc thân mạng đem bố thí cứu khổ chúng sanh, sau đó khai hóa khiến họ hướng đến đạo vô thượng ».
 Phật bảo Tịch Ý Bồ Tát : « Nầy Tịch Ý ! Chư Bồ Tát thật hành các mật hạnh bền vững chắc chắn không ai phá hoại được dường như kim cương. Giáo pháp của Bồ Tát nầy tuyên thuyết, lửa chẳng cháy được, dao chẳng chặt được. Thân Bồ Tát mạnh mẽ không ai hủy hại được.
 Nầy Tịch Ý ! Thân của Bồ Tát thuận theo pháp luật dìu dắt chúng sanh. Tâm của Bồ Tát chẳng vắng bặt cũng chẳng vọng tưởng.
 Thân của tất cả chúng sanh bổn tánh đều không, thân của Bồ Tát cũng vậy.
 Rõ biết thân mình bổn tánh là không, bổn tánh của các pháp cũng là không. Các pháp bổn tánh không, biết thân mình qui về nơi bổn không, tất cả pháp cũng bổn không. Các pháp đã bỗn không, thân mình tự nhiên cũng qui về nơi bổn không. Thân mình đã bổn không thời các pháp quá khứ, vị lai cùng hiện tại cũng bổn không. Đã rõ các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại là bổn không, thân mình cũng bổn không, chẳng lầm, chẳng loạn, chẳng trái nhau. Vì tất cả đều bổn không nên những hành pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, các đại chủng đều chẳng trái nhau, nhẫn đến sanh tử cùng vô vi cũng tự nhiên bổn không, vì sanh tử vốn không chỗ sanh, vì vô sanh nên là bổn không.
 Nầy Tịch Ý ! Đã là bổn không thời là bình đẳng không khác, vốn không tránh tụng, vì vốn không trái nhau.
 Do đây nên gọi rằng Như Lai bổn không. Như Lai không hình tượng toàn qui về bổn không, chính đây gọi là hình tượng của Như Lai, vì khắp thị hiện tất cả sắc tượng, hình tượng Như Lai tất cả bổn không. Chính đây gọi là hình tượng Như Lai.
 Do đây nên Bồ Tát thị hiện tất cả sắc tượng, nhẫn đến hiện tướng Như Lai, nhưng chưa từng tạo hiện hình tượng. Vì không hình tượng, không chống trái nên mới khắp hiện tất cả hình tượng.
 Tự quan sát thân mình bổn vô, tất cả thân cũng bổn vô. Tự quán sát pháp thân, tất cả các thân đều không có thân. Quán thân Như Lai hiểu rõ tất cả thân đều từ nhơn duyên sanh. Vì rõ pháp thân bổn lai không thân, nhơn duyên cùng pháp thân bèn thành pháp thân. Không ấm, nhập, giới, đại chủng thời gọi là pháp thân. Thật hành bình đẳng tiêu trừ cảnh duyên của chúng sanh duyên lấy.
 Nầy Tịch Ý ! Như thần y Kỳ Bà hiệp các thứ cỏ thuốc bện thành hình đồng tử trẻ đẹp, cũng đi đứng nằm ngồi. Hoặc có vua, quan, hào tộc, trưởng giả đến nhà Kỳ Bà để xem đồng tử do cỏ thuốc bện thành, rồi cùng nó ca hát đùa giỡn, bịnh tật của mọi người đều tiêu trừ được an lành.
 Nầy Tịch Ý ! Ông xem thần y Kỳ Bà trị bịnh cho thế gian, những y sư khác không thể làm được.
 Chư Bồ Tát phụng hành pháp thân, nếu những chúng sanh nhiều tham, sân, si, không luận già trẻ nam nữ, cùng Bồ Tát gần gũi mến vui, thời phiền não trần lao thảy đều tiêu dứt. Sự lợi ích nầy đều do bổn nguyện đầy đủ của Bồ Tát.
 Nầy Tịch Ý ! Chư Bồ Tát khéo tu pháp thân, thời chư Bồ Tát nầy là pháp thân, không còn phải dùng ăn uống, nhưng vì thương xót chúng sanh mà hiện ăn hiện uống, vì pháp thân của Bồ Tát chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh, chẳng diệt, vô chung vô thỉ, nhưng thuận theo tập tục mà hiện có sanh tử. Dầu hiện sanh tử nhưng hiểu rõ tất cả pháp đều là vô sanh. Thị hiện có sanh để tuyên thị tất cả pháp là vô vi, là không hội hiệp, dầu có sanh nhưng đều là vô sanh. Bồ Tát hoặc thị hiện thân căn tàn tật, nhưng pháp thân chẳng hư tổn, dùng pháp tự vui, hiểu rõ Phật thân.
 Nầy Tịch Ý ! Nếu người muốn hiểu biết Phật thân, nên hiểu rằng chính là thân hư không, không gì ngang hàng, là chí tôn trong tam giới, thí cho chúng sanh thân vô sở quy, chẳng thể thí dụ, không gì sánh kề, thân thanh tịnh rời trần cấu.
 Phật thân vốn thanh tịnh, vốn không nhiễm ô, tự nhiên sáng sạch trọn không trần lụy tối tăm, bổn tánh nhơn hòa đều là vô sanh. Thân đó vắng lặng không hệ thuộc nơi tâm ý thức. Thân đó tự nhiên, như huyễn, như hóa, như dương diệm, như thủy nguyệt. Thân đó đã rốt ráo không, vô tướng vô nguyện. Thân đó cùng khắp mười phương hư thông, tâm đều bình đẳng rõ thấu bổn nguyện của tam giới, không có ngô ngã với tất cả chúng sanh. Thân đó không hạn lượng, không tạo tác, không tưởng niệm, không trụ trước, tru nơi chơn đế không biến đổi. Thân đó không sắc tượng mà tự nhiên hiện sắc tượng, không đau đớn mà hiẹân đau đớn, tự nhiên không tưởng niệm mà hiện có tưởng niệm, không tình thức mà tự nhiên hiện các tình thức, không địa, thủy, hỏa, phong mà hiện thân địa, thủy, hỏa, phong, thấu rõ tất cả pháp thế gian đều hư vọng chẳng thật, mắt không chỗ thấy, tai không chỗ nghe, mũi không ngửi mùi, lưỡi không nếm vị, thân không cảm xúc, tiêu hẳn tình thức, ý không phan duyên, tâm chẳng chuyển dời, không tâm ý thức, hiểu rõ chơn đế không có tấn thối.
 Nầy Tịch Ý ! Như Lai pháp thân, nếu có Bồ Tát đến được thân nầy thời không công hạnh Bồ Tát nào chẳng đầy đủ, hóa hiện thân mình khắp cả thành ấp xóm làng trong cõi Đại Thiên.
 Tất cả chúng ma đều không biết đước việc làm của Bồ Tát, hiện hay chẳng hiện.
 Bồ Tát hiểu rõ cả những nghiệp vi diệu. Dầu không chỗ hiện mà hiện khắp tất cả, cũng chưa từng có quan niệm ra làm, cùng thấy nghe hay biết. Có tu hành điều chi là để khai hóa chúng sanh. Chẳng do sự hành động nơi thân mà mất bốn như ý túc. Vì lợi ích chúng sanh mà Bồ Tát hiện thân mình để hiển bày nghĩa vô thường, khổ, không và chẳng phải thân, thấu rõ các thân bổn tánh tịch tịnh, mà vì chúng sanh hiện thân hoại hư. Thị hiện báo ứng thọ thân, thuận theo bốn pháp điên đảo, rõ biết thân mình như cỏ cây tường vách ngói đá, vì chúng sanh mà hiện thân thanh tịnh.
 Nầy Tịch Ý ! Ta từng làm Bồ Tát, từ khi được Phật Nhiên Đăng thọ ký đến nay, dùng mật hạnh ẩn thân thanh tịnh, dầu miệng có tuyên thị nhưng đều không ngôn thuyết.
 Nầy Tịch Ý ! Như Lai thuyết pháp thuận theo thời nghi.
 Do dược tự tại nên thân Bồ Tát bí mật, chỉ lược nói những điều cốt yếu để tuyên bày sự tịch tịnh bí mật của thân mình. Giả sử muốn thuyết minh đầy đủ, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể trình bày hết ».
 Lúc đó Mật Tích Kim Cang bảo Tịch Ý Bồ Tát rằng : « Thế nào gọi là bí mật ? Bồ Tát dùng lời nói thanh tịnh, thuận theo mỗi loài chúng sanh nhẫn đến trong tất cả loài cầm súc, Bồ Tát cũng hiện ra bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu lời, bao nhiêu tiếng, thuận theo chỗ hiểu biết của mỗi loài mà diễn giải giáo pháp, cùng mọi loài chuyện vãn nhau, nói những việc khổ vui thiện ác. Tiếng nói của Bồ Tát không chỗ nào chẳng suốt chẳng đến. Hoặc ca hát, hoặc giận mừng đều thuận theo tiếng nói của mỗi chúng sanh mà tùy nghi dạy dỗ. Bồ Tát biết rõ tâm ý của mỗi loài có thể tin pháp gì, ưa thích hạnh gì, rồi thuận theo đó mà làm cho họ được vào đạo ».
 Tịch Ý Bồ Tát hỏi Mật Tích Kim Cang : « Âm thinh của Bồ Tát giáo hóa như thế nào ? ».
 Mật Tích nói : « Tùy theo tất cả âm thinh của chúng sanh, lại chỗ tùy thuận của Bồ Tát không có hạn lượng. Chúng sanh trong các loài tâm niệm đều riêng khác, tiếng nói cũng chẳng đồng không thể tính kể xiết, Bồ Tát đều thuận theo tâm niệm và tiếng nói của mỗi loài, dầu vậy nhưng Bồ Tát vẫn không nói năng. Chính đây gọi là suốùt đến tất cả âm thanh của tất cả chúng sanh, đồng thời hiểu rõ là vô số hữu. Đây là Bồ Tát tùy thời nghi giáo hóa không thể lấy gì để ví dụï được, là bất tư nghì, là vô cùng vô tận, tự tại tuyên thuyết vô số ngữ ngôn : Hoặc nói tiếng Đế Thích, tiếng Phạm Thiên, tiếng Tứ Thiên Vương, tiếng Thiên, Long, Thần, tiếng A Tu La, nhẫn đến tiếng người cùng tiếng của tất cả loài, đều làm cho tất cả được vui mừng kính tin chánh pháp ».
 Mật Tích Kim Cang liền nói kệ rằng :
 « Dùng ngôn ngữ như vậy
 Giải quyết nhiều điều nghi
 Thuyết vô lượng vô số
 Giáo pháp độ chúng sanh.
 Chữa bịnh dùng từ tâm
 Cứu khổ do bi lực
 Rộng giảng thuyết tuyên bố
 Lòng người đều vui thích.
 Giửa đại hội Thiên Đế
 Dùng tiếng nói dịu dàng
 Tiếng nầy rất điều hòa
 Hơn tất cả thinh âm
 Hòa theo tiếng kỹ nhạc
 Giọng buồn động lòng người
 Nhơn dịp nầ y diễn nói
 Lời kinh điễn dạy răn
 Tiếng lảnh lót dịu dàng
 Như tiếng thần Na La
 Người tham nghe hết tham
 Sân hận nghe hết hận.
 Tất cả các sơn thần
 Đều ưa thích âm nhạc,
 Thinh âm của chư Thiên
 Thiệt đáng ưa đáng thích
 Tiếp pháp âm vang lên
 Theo thời nghi phương tiện
 Hoặc ca hoặc tụng kệ
 Tiêu trừ tham, sân, si.
 Lòng kiêu căng ngạo mạn
 Những hành vi tự đại
 Nghe được tiếng đạo mầu
 Đều rời bỏ kiêu căng
 Các Thiên Vương cõi sắc
 Lắng nghe được pháp âm
 Lòng vui đẹp phát tâm
 Nguyện sẽ thành Phật đạo.
 Thiên, Long, Thần, Dạ xoa,
 A Tu La, Bát bộ
 Nghe tiếng pháp vi diệu
 Đêu hớn nở vui mừng
 Thiên hạ cõi Diêm Phù
 Nhiều nước, nhiều giống dân
 Tiếng Bồ Tát khắp vào
 Mọi người nghe đều hiểu.
 Bồ Tát khéo tùy thuận
 Vừa lòng đẹp ý người
 Ai nghe được pháp âm
 Đều sẽ được độ thoát. 
 Chư Thiên Thần hư thông
 Thần Kỳ ở đại địa
 Tiếng Bồ Tát suốt đến
 Thần Kỳ hội lại nghe.
 Tiếng pháp rót vào tai
 Lòng chư Thần vui đẹp
 Chỗ nghi được giải quyết
 Hớn hở đều kính tin.
 Chim loan, chim hồng hộc,
 Chim cưu, nhạn, oan ương
 Tiếng diều, quạ, chim công
 Các loài chim trên núi,
 Chim dưới nước, trên bờ,
 Bồ Tát đều tùy theo
 Chim nghe hiểu được pháp
 Lòng chúng đều vui đẹp.
 Sư tử, tượng, hổ, lang
 Gấu, beo, cùng khỉ, vượn
 Hươu, nai với chồn, cáo
 Lừa, ngựa v ới chó, heo
 Trừu, dê với trâu, bò
 Bốn chân hoặc hai chân
 Muông thú nghe pháp âm
 Vui mừng bỏ nghiệp ác.
 Trong Đại Thiên thế giới
 Thiên thượng đến nhơn gian
 Ngạ quỉ cùng súc sanh
 Suốt đến A Tỳ ngục
 Nhờ pháp âm Bồ Tát
 Bỏ tà kiến vọng tâm
 Chỉ tưởng niệm chí nhơn
 Gìn lòng nơi chánh đạo.
 Các quốc độ mười phương
 Những nơi có ma chúùng
 Nghe Bồ Tát thuyết pháp
 Đều kính lễ hộ trì 
 Trăm ngàn ức chúng sanh
 Hoài bảo nhiều chí niệm
 Nghe Bồ Tát giải thích
 Đều cởi mở suốt thông.
 Kẻ nằm ngủ điếc câm
 Miệng nói chẳng ra lời
 Kẻ không chưn què thọt
 Người bịnh tật nặng nề
 Thinh âm của Bồ Tát
 Vi diệu khó nghĩ bàn
 Người nghe lòng hòa vui
 Khổ tật nguyền đều hết
 Những trần lao phiền não
 Muôn ức kiếp sâu dày
 Nghe thanh tịnh pháp âm
 Như sương mai gặp nắng.
 Không luận chư Thiên Thần
 Nhơn loại hay quỉ súc
 Cầm điểu hoặc thú muông
 Nghe thinh âm vi diệu
 Lòng vui hòa mát mẻ
 Nghe nói pháp nhiệm mầu
 Hiểu được nghĩa khế kinh
 Đồng quy y Phật Pháp.
 Tiến lên vào dòng Thánh
 Bố thí tu hạnh từ
 Trì giới tập đa văn
 Tinh tấn rèn nhẫn nhục
 Nhứt tâm thêm trí huệ
 Phước trí đồng trang nghiêm
 Viên mãn hạnh Bồ đề
 Rốt ráo quả vô thượng.
 Thinh âm của Bồ Tát
 Vi diệu bất tư nghì
 Ngàn ức kiếp tuyên bày
 Cũng khó thể cùng tận ».
 Mật Tích Kim Cang nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Miệng Bồ Tát chưa từng nói ra những lời nhiễm ô, lời bất nhơn, lời sân hận, ngu si, cũng chẳng nói lời dua nịnh, lời kết oán, lời cợt đùa chế riễu. Lúc nói Bồ Tát chẳng cười vô lối, chẳng thốt ra lời châm chọc, lời thô bạo. Lòng Bồ Tát không hề có quan niệm não hại, chấp trước, tranh đấu, bực tức, ỷ thị, cống cao, buông lung, trái lý. Không lúc nào Bồ Tát để mất nghi tiết, lỗi thời, không tham dục, độc ác. Thân thể Bồ Tát toàn vẹn, thinh âm viên diệu. Tâm không thiên đảng, không che giấu, chẳng oán hiềm, chẳng tà kiến, chẳng chấp ngô ngã, chẳng khuấy rối người. Bồ Tát không truyền rao lỗi của người, chẳng thất ngôn, thường nhẫn nhịn, luôn hòa thuận, bỏ hành vi phi pháp, không coi rẻ chánh pháp, chẳng ca ngợi người của mình, chẳng phá hoại bạn của người. Mình được điều tốt điều hay chẳng lấy đó làm vui thích. Thấy người khác được khen tặng chẳng ganh hờn. Chẳng hủy bán người trí, chẳng khinh khi người hiền, chẳng buộc tội người, chẳng tìm chỗ dở của người, siêng dạy bảo người chí nguyện cầu đạo Vô thượng.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Đây là Bồ Tát ngôn hạnh tương ưng, tinh thần dõng kiện, công đức báo ứng chỗ làm chắc chắn, lời nói chí thành, thật hành đúng như lời.
 Giả sử có người đến dưới cây to đứng quan sát rồi hỏi người khác rằng, anh biết cây nầy có bao nhiêu lá chăng ? Người đại trí chẳng nhìn cây cũng chẳng đếm số, mà có thể nói đúng số lá như người đã đếm. Đối với đạo đức, người trí chẳng suy lường liền biết số lượng, ở giữa đại chúng tuyên thị rành rẽ, lời nói của người nầy cùng người đại trí trước kia đồng nhau không khác.
 Nếu có người hỏi cát trong sông lớn có bao nhiêu hột ? Nước trong sông lớn có bao nhiêu thăng ? Về việc nầy chỉ bực đại thánh mới biết. Chư Thiên nhẫn đến Long Thần, Bát bộ, loài người, đến bực Thinh Văn, Duyên Giác đều không thể biết rõ. Duy Phật Thế Tôn mới biết rõ được.
 Cứ theo đây để quán sát, đức Như Lai chí chơn Đẳng Chánh Giác, trí huệ không thể tính lường, tuyên thuyết vạn ức thinh âm, chúng sanh đều được nghe, đều được hiểu.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Thuở quá khứ có một vị thần tiên hiệu là Lâu Di thường ở dưới cội cây nhơn hiền, trọn mười hai năm vừa quan sát vừa đếm lá cây. Sau đó có phạm chí tên Tịch Nhiên đến dưới cây nhơn hiền, thấy đại tiên ngày đêm quan sát cùng đếm lá cây. Phạm chí hỏi cớ. Đại tiên bảo rằng tôi đếm lá cây để biết có bao nhiêu lá.
 Lúc đó phạm chí Tịch Nhiên chẳng nhìn cây, chẳng đếm lá mà nói kệ rằng :
 Có tám ngàn cai
 Tám ngàn ức lá,
 Chín ngàn sáu trăm
 Lẻ hai mươi lóng
 Gốc có hai trăm
 Năm mươi lẻ năm,
 Nụ có sáu ngàn
 Sáu trăm sáu mươi.
 Theo tôi rõ biết
 Cây nầy như vậy,
 Đại tiên nếu nghi
 Xin đếm lại đó.
 
 Đại tiên Lâu Di khen rằng : Lành thay ! Lành thay ! Ông nói thiệt đúng số. Ông không tính đếm mà biết rõ số lá cây đúng như của tôi đã từ mười hai năm tính đếm. Xin phạm chí vui lòng cho tôi biết duyên cớ vì sao chẳng xem chẳng đếm mà lại biết như tôi đã tính đếm ?.
 Phạm chí nói : Thưa đại tiên ! Chẳng phải người cũng chẳng phải trời giúp tôi. Do tôi chí thành tu tập chánh hạnh, đúng theo đế lý chơn thật không phân biệt đấu tranh.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Thần tiên Lâu Di thuở xưa chính là Tôn giả Xá Lợi Phất. Phạm chí Tịch Nhiên là đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hiện nay.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Nghiệp hạnh Bồ Tát rất vi mật, trí huệ vô cực vô lượng vô hạn, thuận theo thời nghi mà thị hiện, không thể nói, không thể nghĩ lường đến được.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Những gì là tâm mật ? Tâm niệm thanh tịnh chẳng mất thần thông, dùng trí huệ thần thông để tự vui, lúc thị hiện luôn trụ nơi thần thông, thật hành đại bi dùng thần thông biến hóa vô số vô lượng khắp hiển bày tất cả, ở trong nhà trí huệ trụ đế lý thần thông, mắt thấy rõ tất cả pháp. Đây là trí huệ thần thông vô cực chánh chơn hiện khắp tất cả của Bồ Tát. Trí huệ thần thông nầy hiển hiện các hình tượng, các sắc thân, vẫn không có sắc. Bồ Tát dùng trí huệ thần thông hiển hiện những thinh âm. Bồ Tát có thể quan sát tất cả tâm niệm tư tưởng của tất cả chúng sanh, theo căn lành của họ mà tùy thời nghi khai hóa, không bao giờ quên sót. Bồ Tát không quan niệm khứ lai mà hiện thần túc vô ngại đi khắp ba cõi chẳng chướng chẳng trệ, không thủ trước, không tạo lập. Trí huệ thần thông của Bồ Tát dứt tất cả hữu lậu. Chỗ thấy biết sâu xa huyền diệu, thị hiện vào sanh tử để độ đời. Trí huệ thần thông của Bồ Tát siêu việt tất cả hàng Thinh Văn, Duyên Giác. Ngồi dưới cội Bồ đề, hàng phục quân ma, thấu hiểu tất cả Phật Pháp, thuận theo thời nghi chuyển chánh pháp luân, khai hóa tất cả chúng sanh đưa họ vào luật pháp đến bực nhứt sanh bổ xứ.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Đây là tâm hạnh thanh tịnh bí mật của Bồ Tát.
 Nếu tâm chơn thật thanh tịnh thời trọn vô trụ vô qui, thường hỉ lạc, an thích điều hòa rốt ráo lành tốt, nhập phổ huệ tam muội, chẳng diệt độ hẳn, chẳng nhàm cõi dục. Giả sử Bồ Tát sanh trong cõi dục, vẫn không đắm trước, chẳng bị ràng buộc, chẳng có kiết sử. Vì Bồ Tát đã khỏi hẳn tất cả vọng tưởng, sạch trần cấu, không điên đảo, không chấp trước, đã thoát sanh lão bịnh tử. Dầu Bồ Tát hiện có sanh mà vẫn vô sanh. Bồ Tát trụ nơi Đại thừa để thành tựu tất cả Phật Pháp, dùng đây cứu hộ tất cả chúng sanh, mà vẫn là bất khả đắc, không cứu không hộ, rõ tất cả pháp đều là tất cả Phật pháp, tất cả Phật pháp là tất cả pháp, chẳng phải pháp cũng chẳng phải phi pháp, vì tất cả pháp bổn lai bất khả đắc, không xứ sở, không số, không lượng. Rõ biết tất cả pháp vốn không tất cả pháp, không cầu không được. Bồ Tát thấy có được, vẫn không có tâm mừng lo, vì không tâm mừng lo nên không chướng ngại, không trụ trước. Vì không trụ trước nên không vô ngã, vì không vô ngã thời không lãnh thọ, vì không lãnh thọ thời không tránh tụng, vì không tránh tụng thời không loạn động. Không loạn động chính là pháp của bực Sa Môn. Tâm Bồ Tát bình đẳng như hư không, chẳng đọa dục giới, chẳng ở sắc giới, chẳng trụ vô sắc giới. Tất cả đều không trụ trước, không khen không chê, vì tất cả pháp đều là bất khả đắc. Đây là tâm mật của Bồ Tát.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Tâm mật của Bồ Tát thật hành đại từ vì không chấp ngô ngã, thật hành đại bi vì không có chúng sanh, thật hành hoan hỷ vì không có mạng sống, bởi tế độ nên rõ thấu không thọï mạng, thật hành bốn cách bố thí vì tâm không xan lẫn, phụng hành cấm giới vì tâm điều hòa, thật hành nhẫn nhục vì tâm bất động, tu hành tinh tấn vì tư duy tịch tịnh, nhứt tâm chánh định vì tâm vô trụ, biết rõ thánh tâm vì không chỗ làm, tu tứ niệm xứ vì không ý không niệm, thực hành tứ chánh cần vì tâm hiểu rõ chẳng sanh chẳng diệt, thần túc bay đi vì tâm rộng rãi không ngằn mé, dốc lòng chánh tín vì tâm không trở ngại, nếu tu tinh tấn thời tâm hành vắng lặng, trụ nơi chánh định vì tâm bình đẳng vô phân biệt, trụ nơi trí huệ vì tâm không vọng tưởng, thế lực tự tại vì thuận theo nguồn tâm, dùng ý giác sát vì có huệ phân biệt, phụng hành đạo nghiệp vì tâm không chỗ tưởng, tâm ý vắng bặt vì đạm bạc không suy tư, quan sát nội tâm vì chỗ thấy biết không chấp trước, tu hành hiền thánh vì hiểu tâm rốt ráo, tâm thường niệm Phật vì trí huệ sáng suốt không có vọng tưởng, tâm gẫm suy đại đạo vì chí nguyện vô lượng, thường niệm chánh pháp vì tâm bình đẳng, thường niệm thánh chúng vì tâm vô trụ dạy dỗ chúng sanh, tâm thường thanh tịnh vì hộ chánh pháp, thuận theo pháp giới vì tâm không biến hoại, thanh tịnh Phật độ vì tâm đồng hư không, đầy đủ tướng tốt vì tâm không phân biệt hình tướng, thường trụ nhẫn nhục vì tâm không điên đảo, trụ bực bất thối vì tâm không thối chuyển, trang nghiêm đạo tràng vì ở trong tam giới mà tâm chẳng nhiễm ô, hàng phục nghiệp ma vì tâm nhiếp thọ chúng sanh, đem đạo pháp truyền dạy vì tâm bình đẳng hiểu biết tất cả pháp, thường chuyển pháp luân vì pháp không chuyển, tâm không thối chuyển hiện đại Niết bàn, giải thích nguồn sanh tử vì tâm bình đẳng tự nhiên.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Nếu Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn thời tâm rất vi mật, rất thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh thời hiểu rõ và đi vào tâm thanh tịnh của tất cả chúng sanh. Tâm của chúng sanh vào nơi đạo tâm mà bị chiếu sáng. Như hư không bình đẳng vào khắp tất cả những pháp hữu hình vô hình, đạo tâm vào khắp tâm hành của tất cả chúng sanh cũng như vậy ».
 Lúc Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ diễn thuyết thân khẩu tâm mật bất tư nghì của Bồ Tát, có bảy muôn hai ngàn chư Thiên và nhơn chúng phát tâm Vô thượng chánh chơn, ba muôn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, mười bốn ngàn người xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh, tám ngàn Tỳ Kheo tâm ý vô lậu.
 Liền đó cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, giữa hư không mưa các thứ hoa, các thứ nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Trong tiếng âm nhạc diễn ra những lời như vầy : Những ai nghe được pháp của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy diễn nói, nếu có lòng ưa thích kính tin, thời sẽ được thọ ký, sẽ mến thích kinh điển và thọ trì đọc tụng, vì người giảng nói, chẳng thối thất đạo tâm, sẽ vun trồng những công đức lành. Những người nầy đã từng cúng dường vô số chư Phật lợi ích chúng sanh.
 Đức Thế Tôn bảo Tịch Ý Bồ Tát : « Chừng ông có nghe những lời diễn nói của âm nhạc đó chăng ? ».
 - Bạch Thế Tôn ! Tôi nghe rõ. Do oai thần của ai mà có tiếng nhạc như vậy ?
 - Nầy Tịch Ý ! Đó là Lôi Âm Bồ Tát từ nước Vũ Thị của Phật Lôi Âm Vương, đến Ta Bà thế giới nầy để ra mắt đảnh lễ ta, muốn hỏi pháp yếu và muốn nghe giáo pháp bí mật của Như Lai, nên ẩn thân trên hư không rải hoa cúng dường Phật và kinh pháp, cùng làm tiếng âm nhạc nói ra những lời như vậy ».
 Đức Phật dạy vừa dứt tiếng, Lôi Âm Bồ Tát từ hư không hiện thân xuống cúi đầu lễ chân Phật, đi nhiễu Phật bảy vòng ở trước Phật bạch rằng : « Thế Tôn ! Lôi Âm Vương Như Lai kính lời viếng thăm vô lượng đi đứng an lành, ngồi nằm khỏe khoắn ».
 Đức Phật bảo Lôi Âm Bồ Tát : « Lành thay, Chánh Sĩ ! Ông cố đến thăm viếng Như Lai, muốn được nghe kinh pháp bí mật. Hiện nay Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thừa oai thần của Phật mà tuyên thuyết pháp yếu ».
 Lúc đó trong đại hội có chư Bồ Tát tự nghĩ rằng : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy chứa nhóm công đức từ đời nào ? Phát đạo tâm tại chỗ đức Phật nào ? Phát nguyện như thế nào ? Mà hiện nay được biện tài rộng lớn như vậy ?
 Đức Phật biết tâm niệm của đại hội liền bảo Tịch Ý Bồ Tát : «Về thời quá khứ vô số bất tư nghì kiếp, có đức Phật hiệu là Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương Như Lai Ứng Cúng Đẳng Giác Thế Tôn, hiện ra nơi thế giới Trang Nghiêm trong kiếp Thiện Kiến. Cõi đó nhơn dân đông nhiều, giàu có an lạc. Mặt đất bằng phẳng, không có cát đá gai góc, thuần là ngọc báu : lưu ly, thủy tinh, minh châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Mặt đất mềm nhuyễn như y phục của chư Thiên, hương thơm ngào ngạt thêm ánh sáng màu rất đẹp. Cỏ mọc tươi tốt mềm dẻo, đi trên đó êm mát như bức thảm cõi trời. Khí hậu ôn hòa không quá lạnh quá nóng. Người nước đó tánh tình nhơn từ hòa nhã, thân khẩu tâm đều tịch tịnh, phiền não mỏng nhẹ, tất cả đều có oai lực tự tại. Pháp hội của đức Phật đó có mười hai cai đại Tỳ Kheo, ba mươi hai ức đại Bồ Tát. Đức Phật đó trụ thế ba mươi sáu ức tuổi.
 Trong nước Trang Nghiêm có bốn thành lớn tên Khoái Kiến. Mỗi thành vuông rộng tám mươi muôn dặm, cách nhau bốn trăm dặm. Trong mỗi thành có cả ngàn quận huyện. Nhơn dân thân cao bốn dặm. Nơi đại thành Khoái Kiến lại có nội thành tên Thanh Tịnh, ngang rộng hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm, trong thành có vua Chuyển Luân Vương hiệu Dũng Quận đầy đủ thất bửu : kim luân, bạch tượng, ngựa xanh biếc, minh nguyệt thần châu, vợ ngọc nữ, chủ tạng thần, chủ binh đại tướng. Vua cai trị cả bốn châu thiên hạ. Vua đã từng cúng dường quá khứ chư Phật phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chánh hậu ngọc nữ cùng bảy muôn sáu ngàn thể nữ trong cung đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
 Vua có ngàn Thái Tử đều xinh đẹp, đủ hai mươi tám tướng tốt, sức lực mạnh mẻ, tánh nết nhơn hòa, cũng đều phát Bồ đề tâm.
 Thuở đó đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương đi đến thành Thanh Tịnh. Vua Dũng Quận cúng dường Phật và đại chúng Bồ Tát Thanh Văn những y phục, đồ uống ăn, thuốc men, đồ nằm, nhà cửa, giảng đường, tịnh xá, cùng vườn tược suối ao. Mỗi vị Tỳ Kheo, Vua sai hai người theo hầu hạ. Nhà vua cúng dường như thế trọn một ức năm.
 Ngàn vị Vương Tử thường chí tâm cúng dường Phật và thích nghe kinh pháp, chẳng ưa ái dục, bỏ việc chơi đùa, vì chí tâm chẳng phóng dật, không bao lâu đều được năm thứ thần thông. Khi được thần thông rồi, ngàn Vương Tử bay vọt lên hư không tự tại vô ngại, bay khắp tất cả quận huyện, các thành các nước, nhẫn đến bốn châu thiên hạ. Đến đâu các Vương Tử cũng đều vì đại chúng mà tuyên thuyết kệ rằng :
 Chư Phật hiện ra đời
 Lâu xa khó gặp gỡ
 Sanh làm người thế gian
 Cũng là rất khó được.
 Mọi người nên đồng chí
 Đều tin thích nghe kinh
 Trong trăm ngàn ức kiếp
 Lại càng khó gặp gỡ.
 Nay Như Lai Thế Tôn
 Đã hiện ra trong đời
 Muốn mọi người được độ
 Nên nói những kinh pháp.
 Chúng tôi gần bên Phật
 Thưa thỉnh được dạy dỗ
 Cầu trí huệ sáng suốt
 Phụng hành lời Phật dạy.
 Do thọ trì kinh pháp
 Thoát khỏi các ác thú
 Được thêm lớn căn lành
 Ở nơi chỗ rất an.
 Vì được nghe chánh pháp
 Tiêu trừ các trần lao
 Do được huệ đa văn
 Nên được chơn chánh pháp.
 Đem pháp đã được nghe
 Tuyên dương vị cam lồ
 Do đây hiện điềm lành
 Đất chấn động sáu cách
 Bố cáo cùng trời người
 Chư Thiên đồng ca ngợi
 Đồng thời rải hoa trời
 Hoa kia đủ các loại.
 Chúng sanh đều hợp đến
 Số đông chẳng thể lường
 Đấng chí tôn khai hóa
 Đều được vào thánh đạo.
 Đại chúng cúi đầu lạy
 Nơi chơn đức Thế Tôn
 Rồi đều đứng chắp tay
 Cung kính hầu bên Phật.
 Như Lai Thiên Nhơn Sư
 Thấy rõ lòng đại chúng
 Tùy thời nghi căn tánh
 Đem kinh pháp dạy truyền.
 Tất cả đại chúng kia
 Được nghe pháp Phật dạy
 Ba mươi sáu ức người
 Đồng pháp tâm Vô thượng.
 Lại có ba trăm ức
 Người nghe chánh pháp âm
 Thấy rõ tất cả pháp
 Được pháp nhãn thanh tịnh.
 Những người đó đều nhàm
 Gia nghiệp cùng tục duyên
 Ở trong pháp hội kia
 Xuất gia tu học đạo.
 Lại có vô số chúng
 Ức tỉ triệu muôn người
 Đến pháp hội nghe kinh
 Quy y làm tín sĩ
 Sau khi nghe kinh pháp
 Cúi đầu lạy chưn Phật
 Đồng chắp tay từ biệt
 Lễ Phật trở về nhà.
 Nầy Tịch Ý ! Các vị Vương Tử đó cùng Chuyển Luân Vương xây dựng lầu đài bằng gỗ chiên đàn, cửa nẻo đều bằng châu báu. Vì muốn đến nghe pháp với đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương, nên vua Dũng Quận khuyên bảo quyến thuộc trong cung cùng đại thần bá quan và nhơn dân già trẻ : Mọi người nên biết rằng thân người khó dược, gặp Phật ra đời lại cáng khó, nay chúng ta nên đến lễ kính đức Phật để được nghe kinh pháp.
 Nhà vua cùng các Vương Tử, phu nhơn, thể nữ, các quan và nhơn dân vào ngồi trong lầu hương, trổi nhạc đờn ca, đồng đem theo nhiều thứ hoa hương, y phục, tràng phan, bảo cái để cúng dường Phật. Lầu hương như chim phụng hoàng bay lên hư không đến chỗ Phật ngự. Lầu hương bay nhiễu Phật bảy vòng rồi dừng lại một phía.
 Vua Dũng Quận cùng đại chúng ra khỏi lầu hương đến lễ chưn Phật và lễ Thánh chúng, nhiễu Phật bảy vòng, rồi ở trước Phật bạch rằng : Thế Tôn ! Từ lâu chúng tôi đã được nghe tiếng Phật, nhưng vì việc nước quá nhiều dần dà đến nay mới được vào pháp hội thấy dung nhan Phật. Lòng chúng tôi không xiết hổ thẹn tự trách lấy mình. Ngưỡng mong đức đại từ lượng tình thương xót.
 Đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương thấy vua cùng quyến thuộc đều có lòng thành thật muốn nghe pháp liền thuận theo tâm bịnh của họ mà ban tuyên chánh pháp.
 Nầy Đại Vương ! Muốn học Đại thừa chẳng trái thánh đạo phải thật hành bốn điều : Một là hết lòng tin Tam bảo, phụng thờ các bực Hiền Thánh, những điều chẳng nên làm phải tránh xa. Hai là chí tâm nghe kinh pháp,nghe rồi thọ trì. Ba là bỏ tánh kiêu căng ngạo mạn nhứt tâm cung kính các bực Hiền Thánh. Bốn là tinh tấn nhiếp thân khẩu ý thật hành hạnh lành. Nếu Đại Vương thuận theo bốn điều trên thời có thể tu học Đại thừa chẳng trái thánh đạo.
 Nầy Đại Vương ! Lại có bốn điều cần phải giữ gìn chớ phóng dật : Giữ gìn sáu căn thấy họa hại ái dục, hiểu tất cả thọ và tưởng, biết rõ vô thường, do nghiệp nhơn mà có mạng căn.
 Nầy Đại Vương ! Bồ Tát lại có bốn việc mà đạo pháp được sanh : Một là chẳng bỏ đạo tâm. Hai là cũng khuyên người khác phát tâm. Ba là chứa nhóm cội công đức để giúp đạo tâm, những pháp được nghe hiểu thấu nghĩa lý. Bốn là với tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, nhẫn đến bực Thinh Văn, Duyên Giác đều đem giáo pháp Đại thừa rộng lớn khuyến hóa tất cả.
 Nầy Đại Vương ! Do đây nên phải thường không phóng dật, kính tin Tam bảo, ưa thích vô lượng đạo pháp, vui nơi chánh pháp. Nếu được tin tấn tìm cầu đạo pháp, thời Đại Vương chẳng còn tham ưa những trần cảnh. Đại Vương nên biết rằng tham dục không có thời gian nhàm đủ, như người uống nước mặn càng uống càng khát. Gặp được bực Hiền Thánh khai thị mới biết hạn chế tham dục, mạng người rất ngắn vui ít khổ nhiều, có sanh tất có tử phải biết lo đời sau.
 Nay Đại Vương cúng dường Như Lai, do công đức nầy được bốn điều lợi ích : đời đời giàu có đầy đủ, công đức phước báo không cùng không tận, được huệ sáng suốt vô lượng, biện tài vô ngại.
 Lại sẽ có bốn điều lợi ích : nơi thân thật hành những điều công đức thanh tịnh, lời nói thanh tịnh đúng cấm giới, tâm niệm thanh tịnh học rộng không nhàm, được trí huệ sáng suốt thanh tịnh.
 Lại có bốn điều lợi ích : đầy đủ phương tiện tu hạnh thanh tịnh dạy bảo chúng sanh vào nơi trí huệ, dùng nghiệp thanh tịnh hàng phục quân ma, thệ nguyện thanh tịnh việc làm tương ưng với lời nói, chứa nhóm công đức được gặp chư Phật.
 Vua Dũng Quận sau khi nghe đức Phật dùng pháp nghĩa khai thị, lòng vua vui đẹp liền cởi chuỗi ngọc đương đeo nơi cổ dưng lên cúng dường Phật. Vua thọ ngũ giới trọn đời tu tập phạm hạnh.
 Phu nhơn và thể nữ nghe Phật thuyết pháp cũng đều vui vẻ tâm ý nhu hòa, đồng cởi chuỗi ngọc châu báu đeo trên thân để cúng dường Phật. Phu nhơn và thể nữ xin vua cho được xuất gia làm Sa Môn tu phạm hạnh. Vua liền cho phép.
 Lúc đó vua Dũng Quận lạy chưn Phật đi nhiễu bảy vòng, rồi cùng các thể nữ, bá quan vào lầu hương, trong giây lát bay về nước Thanh Tịnh.
 Đến ngày Rằm trăng tròn, nhà vua cùng quyến thuộc trong cung vào vườn hoa trổi nhạc đờn ca. Hai bà chánh phu nhơn, một là bà hiệu Bất Hành Bộ, một bà hiệu Vô Hư Tổn, sau khi tắm gội dùng hương thơm xông ướp y phục ngồi trên giường báu. Tự nhiên có hai hài đồng hiện ra ngồi kiết già trên gối của mỗi phu nhơn. Hai hài đồng này dung nhan xinh đẹp đủ hai mươi tám tướng tốt. Đồng thời trên hư không có trăm ngàn chư Thiên cất tiếng khen rằng : Hai vị hài đồng nầy một tên Pháp Ý, một tên Pháp Niệm, đều sẽ tu hành thánh pháp.
 Pháp Niệm hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Bất Hành Bộ. Pháp Ý hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Vô Hư Tổn. Hai vị hài đồng đồng cất tiếng nói kệ rằng :
 Nếu ai giữ thân mình
 Phát được tâm Bồ đề
 Những bực học sĩ nầy
 Tạo nên phước đức lành.
 Những người nầy từng gặp
 Đức Như Lai ra đời
 Thường có lòng vui mừng
 Nhứt tâm cúng dường Phật
 Vì sự nghiệp thần thông
 Sớm được Phật cứu độ
 Tiêu hết vòng sanh tử
 Chứng tịch diệt vô sanh.
 Nếu phát tâm Bồ đề
 Giữ bền không quên mất
 Vì cứu độ chúng sanh
 Phá hoại vòng sanh tử.
 Ở thế giới Thượng Phương
 Cách đây vô lượng cõi
 Thế giới kia có Phật
 Hồng danh là Thời Tiết
 Chúng tôi từ cõi kia
 Muốn nghe pháp đến đây
 Muốn thấy Phật Công Huân
 Cùng quốc độ của Phật.
 Lúc đó hai hài dồng rời khỏi gối của mẹ, thẳng đường đến chỗ Phật, đầu mặt lạy chân Phật rồi chắp tay đứng qua một bên. Nhà vua cùng Thái Tử, các phu nhơn và thể nữ đi trên hư không đến chỗ Phật đảnh lễ rồi chắp tay đứng qua một bên. 
 Lúc đó Pháp Ý bạch rằng : Ngưỡng mong Thế Tôn vì chúng tôi mà giảng thuyết đạo pháp.
 Đức Phật Công Huân biết rõ tâm niệm của mọi người, đem phép nghĩa thâm diệu để khai thị : Tất cả pháp đều từ nhơn duyên hòa hợp mà sanh khởi, vốn không chủ tể, không tác giả, không tự tánh, cũng không nhơn duyên, tất cả pháp đều trống rỗng như hư không, không thể chấp lấy.
 Đức Phật Công Huân dùng vô số phương tiện tuyên thị pháp nghĩa thâm diệu, làm cho bảy mươi sáu cai hai ức tỉ người chứng được nhu thuận pháp nhẫn.
 Lúc đó vua Dũng Quận cùng các Thái Tử và quyến thuộc trọn bảy ngày đêm nhiễu Phật cúng dường, lễ tạ Phật đồng trở về cung.
 Một hôm vua Dũng Quận ngồi yên tự nghĩ rằng : Các con của ta đều phát tâm Bồ đề. Nay nên thử xem Vương Tử nào sẽ chứng đạo Vô thượng trước nhứt.
 Nhà vua bèn bảo thợ làm bình bằng thất bảo để trên đài cao bốn mươi chín thước. Nhà vua truyền ngàn Thái Tử mỗi người biên danh hiệu mình trên thẻ bằng thất bửu để vào bình. Mọi người trọn bảy ngày đêm dùng các hương hoa cúng dường bình thất bửu. Qua bảy ngày, nhà vua đem bình thất bửu để trên án vàng bảo ngàn Thái Tử rút thẻ.
 Lúc đó Thái Tử Tịnh Ý được thẻ đệ nhứt, cùng lúc ấy cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, tất cả kỹ nhạc tự nhiên hòa tấu ».
 Thuật đến đây, đức Phật bảo Tịnh Ý Bồ Tát : « Nầy thiện nam tử ! Thái Tử Tịnh Ý, con của nhà vua Dũng Quận thuở quá khứ kia chính là đức Câu Lưu Tôn Như Lai. Thái Tử kế hiệu Ly Danh chính là đức Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai. Thái Tử thứ ba tên Tịch Căn chính là Ca Diếp Như Lai. Thái Tử thứ tư tên Nhứt Thiết Khổ Lợi chính là thân của ta, Thích Ca Mâu Ni Phật hiện nay. Thái Tử thứ năm tên Vũ Thất chính là Di Lặc Như Lai. Thái Tử thứ sáu tên Minh Nguyệt Châu Phục sẽ là Phật Sư Tử. Thái Tử thứ bảy sẽ là Phật Diệu Anh. Tuần tự như vậy lần lần đến vị Thái Tử rút được thẻ thứ chín trăm chín mươi chín, sau đây sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Đức Bửu Xưng. Thái Tử tên Ý Vô Lượng rút được thẻ cuối cùng sẽ thành Phật thứ một ngàn trong một ngàn đức Phật ở hiền kiếp nầy hiệu là Lâu Chí Như Lai.
 Nầy Tịch Ý ! Sau khi rút thẻ, ngàn Thái Tử cùng nhau vui cười và nói rằng sau nầy tôi sẽ thành Phật, sẽ hàng phục quân ma, chuyển đại pháp luân, cứu độ vô lượng chúng sanh.
 Lúc đó Thái Tử Ý Vô Lượng thấy mình rút được thẻ sau rốt, sẽ thành Phật cuối cùng, trong lòng sầu não tự gieo mình xuống đất lập thệ rằng : Đạo pháp của chư Phật chẳng thể nghĩ lường, chúng sanh giới cũng là vô hạn, chí nguyện của tôi cũng bất tư nghì. Tôi nguyện khi các anh tôi thành Phật giáo hóa đệ tử, thọ mạng dài ngắn, thánh chúng nhiều ít, lúc tôi thành Phật cũng đồng như vậy. Nếu lời nguyện của tôi trên đây sau nầy được đúng như vậy, xin cõi Đại Thiên vì tôi mà hiện điềm lành. Thái Tử Ý Vô Lượng vừa lập thệ xong, Đại Thiên thế giới liền chấn động sáu cách, trời rưới các thứ hoa, tất cả nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Giữa hư không có tiếng khen rằng : Sẽ được như nguyện, về sau nầy thành Phật hiệu là Lâu Chí Như Lai Đẳng Chánh Giác.
 Thái Tử Ý Vô Lượng sau khi phátnguyện, được thấy điềm lành cùng nghe tiếng ca ngợi giữa hư không, liền nói kệ rằng :
 Đạo pháp của chư Phật
 Đồng như cõi hư không
 Ý giác dường như huyễn
 Chúng sanh giới vô tận
 Phát nguyện hiện điềm lành
 Giới cấm thành thanh tịnh
 Các Ngài nên lóng nghe
 Lời thệ nguyện của tôi.
 Nầy Tịch Ý ! Vương Tử Ý Vô Lượng sẽ là vị Phật cuối cùng trong Hiền Kiếp hiệu Lâu Chí Như Lai. Cớ sao hiệu là Lâu Chí ? Vì lúc Vương Tử rút nhằm thẻ thứ một ngàn tự cảm thương buồn khóc, gieo mình xuống đất chí thành phát nguyện, do đó nên khi thành Phật hiệu là Lâu Chí. 
 Nầy Tịch Ý ! Ông xem chư Bồ Tát thiện quyền phương tiện, thành tựu giới hạnh phát nguyện rộng lớn đi khắp trong tam giới không lúc nào ngừng nghỉ. Lâu Chí Như Lai riêng một mình giáo hóa chúng sanh cùng ngàn Phật ra đời chỗ độ chúng sanh đồng nhau không khác.
 Nầy Tịch Ý ! Hai vị Vương Tử nhỏ hơn hết trong ngàn vị Vương Tử tự lập thệ nguyện. Vương Tử Pháp Ý nguyện rằng : Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ làm Kim Cang Lực Sĩ hộ trì chánh pháp bí yếu của Như Lai.
 Vương Tử Pháp Niệm phát nguyện rằng : Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ là người thỉnh mời và hộ trợ chư Phật chuyển pháp luân.
 Nầy Tịch Ý !Vua Dũng Quận là tiền thân của Định Quang Như Lai. Ngàn Vương Tử là tiền thân của ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp : từ Phật Câu Lưu Tôn thứ nhứt đến Phật Lâu Chí thứ một ngàn.
 Vương Tử Pháp Ý chính là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây. Vương Tử Pháp Niệm hiện nay là Thức Kỳ Phạm Thiên.
 Phu nhơn, thể nữ trong cung vua thuở trước là những người đến dự pháp hội hôm nay.
 Những người ngày trước được các Vương Tử khuyên xuất gia làm Sa Môn và những người được các Vương Tử giáo hóa, trong Hiền Kiếp này họ sẽ lần lượt thọ ký thành Phật.
 Nầy Tịch Ý ! Ông xem chư Bồ Tát chí thành phát tâm công đức không bao giờ mất. Chư Bồ Tát sẽ được đầy đủ mười trí lực viên mãn hạnh nguyện của mình. Do đây nên có Bồ Tát nào muốn được sớm thành Phật phải học đòi theo hạnh nguyện của ngàn Vương Tử Bồ Tát, siêng năng phụng hành Phật đạo.
 Những gì là Phật đạo ? Chẳng nên có tâm tổn hại chúng sanh, thêm lớn lòng từ thật hành lục độ, thường tu phạm hạnh, tu tập bốn ân, thật hành các phẩm trợ đạo đầy đủ thần thông, phương tiện quyền xảo để trọn nên cội công đức. Các hạnh trên đây chính là Phật đạo.
 Nầy Tịch Ý ! Đạo đó tâm thanh tịnh thì thấu đạt bổn tánh. Đạo đó hòa nhã chí ý an ổn. Đạo đó chất phác mà không dua nịnh. Đạo đó rộng khắp không chỗ chướng ngại. Đạo đó bình đẳng không lòng bè đảng thiên lệch. Đạo đó vô úy chẳng phạm các điều ác. Đạo đó giàu có Bố thí ba la mật. Đạo đó đầy đủ giới ba la mật. Đạo đó chẳng tranh luận được Nhẫn ba la mật. Đạo đó lìa chấp trước thành Tinh tấn ba la mật. Đạo đó không tán loạn là Thiền định ba la mật. Đạo đó khéo quyết trạch là Bát Nhã ba la mật. Đạo quy về nơi trí huệ của mình phụng hành đức đại từ. Đạo đó chẳng có ý vạy vò đến nơi đại bi. Đạo đó cảm thọ vui vẻ thật hành lòng đại hỷ. Đạo đó trụ nơi vi diệu đến bực đại xả. Đạo đó trừ các khổ não, diệt bỏ những vọng tưởng tham hại sân hận. Đạo đó đến chỗ an lành không có lòng nguy hại. Đạo đó giáo hóa kẻ khó đều phục dứt trừ sự đắm mê nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc. Đạo đó hàng phục ma vương cùng quyến thuộc của ma khiến họ bỏ tâm ngạo mạn và trừ dẹp những giặc oán thù. Đạo đó tiêu trừ các ấm các nhập, không chỗ chấp trước. Đạo đó bỏ việc ma, ở trong trần lao mà được tự tại. Đạo đó đem tâm hướng về Vô thượng, lìa tâm niệm Nhị thừa. Đạo đó huân tập các công hạnh thành trí giác bình đẳng. Đạo đó ngự nơi đại bửu tòa thuận nhứt thiết trí. Đạo đó thường phân biệt trí huệ sáng suốt vô ngại. Đạo đó tuyên thị hạnh lành nhiếp các thiện hữu. Đạo đó bỏ hầm hố tiêu các Kiết sử. Đạo đó bỏ trần lao vượt khỏi sự sân hận tranh đấu. Đạo đó về nơi an ổn hết những điều quấy ác. Đạo đó về nơi cát tường hướng đến nghiệp Niết bàn.
 Trên đây là Bồ Tát thật hành ba mươi hai điều Phật đạo. Trụ nơi Phật đạo nầy, Bồ Tát sẽ được mau thành quả Vô thượng Bồ đề ».
 Lúc bấy giờ Tịch Ý Bồ Tát lại hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Đức Như Lai có bao nhiêu sự bí yếu ? Những bí yếu của Như Lai, tất cả hàng Thanh Văn và bực Duyên Giác chẳng thể bằng được, nói gì đến kẻ phàm phu là hạng mê tối . 
 Lành thay, Ngài Mật Tích ! Xin Ngài vui lòng ban tuyên những bí yếu của Như Lai. Tất cả chúng hội đều muốn được nghe ». 
 Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ ghi nhớ. Nay tôi sẽ trình bày bí yếu của Như Lai có ba sự :
 Một là thân bí mật, hai là khẩu bí mật và ba là ý bí mật. 
 Sao gọi là thân bí mật ?
 Ở nơi thân, đức Như Lai không tưởng nghĩ cũng không nhớ đến mà hiện đủ tất cả oai nghi lễ tiết.
 Nếu có hàng Trời hay Người tự thích kinh hành, lúc họ thấy đức Như Lai kinh hành, họ tự nghĩ rằng đức Như Lai Thế Tôn là trên hết. Những Người và Trời ấy liền thấy thân mật của Như Lai. Tâm đức Phật không hề suy nghĩ mong mỏi mà tất cả chúng sanh nhìn thấy oai nghi kinh hành diệu đức của Như Lai chí chơn.
 Nếu có hàng Trời hay Người thích ngồi, thì họ thấy đức Như Lai ngồi.
 Nếu có hàng Trời hay Người thích nằm, thì họ thấy đức Như Lai nằm.
 Nếu thích nghe kinh, thì họ thấy đức Như Lai thuyết kinh.
 Nếu thích yên lặng, thì họ thấy đức Như Lai nín lặng.
 Nếu thích thiền định, thì họ thấy đức Như Lai nhập tam muội.
 Nếu có hàng Trời hay Người mắt nhìn chẳng nháy, thì hoặc là họ thấy mắt của Như Lai chưa lúc nào nháy.
 Hoặc hạng ý tự tại có người thích ánh sáng thì họ thấy đức Như Lai có ánh sáng vô ngại.
 Có người thích màu tử kim, thì họ thấy màu vàng tử ma.
 Nếu có hàng Trời hay Người thích màu bạc, màu thủy tinh, màu lưu ly, màu mã não, màu xa cừ, màu hoàng kim, màu chơn châu, các màu trắng, đỏ, vàng, hồng, tía, màu trăng sáng, màu châu ngọc, màu lửa, màu sáng mặt trời, màu Tứ Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Vương, A Tu La tạp loạn, hoặc màu trung phần, màu hoa tu di, hoặc có người nghĩ tưởng màu vi diệu, màu dược hình, màu bích ngọc, màu hoa vô ưu, màu hoa chiêm băïc, màu hoa tư di, màu hoa sen xanh, màu hoa sen vàng, màu hoa sen hồng, màu hoa sen trắng, hoặc có người rõ biết màu trời Đao Lợi, thân hình Tứ Thiên Vương, các vị thủ tạng : Thanh Đế, Hoàng Đế, Xích Đế, Bạch Đế.
 Hoặc hàng Trời hay Người tâm chí vô lượng, phẩm sắc đều riêng khác, thì họ cũng thấy đức Như Lai có bao nhiêu những màu sắc phẩm lượng công đức.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Như vậy, giả sử tất cả chúng sanh đầy trong hằng sa thế giới, những loài có mạng sống luyến ái lẫn nhau, sanh sản lẫn nhau, đều hết tội ác được có thân người từ tư tưởng mà sanh. Giả sử một người trong số đó chỗ sanh ra cũng như tất cả chúng sanh kia, đức Như Lai cũng thấy họ có bao nhiêu phẩm sắc oai nghi lễ tiết và chỗ ưa thích nơi lòng họ chẳng thể hạn lượng, đều muốn xét biết hết ngôn hành bổn mạt của họ, và do nhơn duyên này, đức Như Lai chí chơn đều riêng hiện hình tượng Phật oai nghi lễ tiết ngôn hành ở nơi chúng sanh ấy.
 Dường như một người tâm được giải thoát, chẳng cùng người thứ hai chung đồng, mà muốn tuyên bày chí thiệt tâm được giải thoát nhẫn đến nơi đạo.
 Đức Như Lai chí chơn mới có thể làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh.
 Vì vui đẹp lòng chúng sanh mà đức Như Lai hiển thị sắc tượng oai nghi lễ tiết, về ngôn hành cũng như vậy.
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như tấm gương sáng, tùy đem hình sắc gì đến soi, thì hiện hình sắc ấy chẳng mất, chẳng sai, chẳng biến đổi. Gương sáng soi hình vẫn không có tưởng niệm.
 Cũng như vậy, đức Như Lai dầu đem chánh pháp cứu tế tất cả chúng sanh mà không có tưởng niệm, không tâm lợi dưỡng, có thể làm cho lòng chúng sanh vui đẹp. Tùy theo pháp cạn sâu cao thấp để khai hóa độ thoát ba cõi mê hoặc.
 Đây là thân hành bí yếu của đức Như Lai.
 Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bảo Ngài Tịch Ý : « Bí yếu của đức Như Lai cũng chẳng phân biệt các ấm các nhập, chẳng thuộc tội phước, chẳng sanh trần lao, chẳng thành cha mẹ, không bào thai, cũng không xương thịt, đều không chỗ có, chẳng thuộc nơi sắc, không thở ra hít vào, thọ mạng diệt hết.
 Muốn biết thân Phật, thì chính là Pháp thân. Thân không hình sắc, không các vọng tưởng.
 Thân sắc tướng Phật được hiện ra đó, là vì chúng sanh ham ưa xinh đẹp, cầu ngôi tôn sang mà hiện hình tướng ấy ra cho mắt họ được thấy. Pháp tướng vốn vắng bặt, vì khiến tất cả chúng sanh kính mộ trí huệ xu hướng thiên nhãn nên đức Phật hiện tướng. 
 Thưa Ngài Tịch Ý ! Nếu có các chúng sanh ở chung một pháp hội đều riêng thấy thân Phật.
 Có người do ý duyên nên họ thấy Phật ở xa, ngó lại chỗ cũ họ chẳng thấy Phật ở chỗ cũ. Thấy Phật ở xa mà chẳng thấy ở chỗ cũ ấy là vì không có ý duyên vậy.
 Người ngó dùng loạn ý để duyên thì chẳng thấy.
 Nếu đem thân mình để suy xét sự thấy ấy, vì bận thấy người khác nên chẳng thấy thân mình.
 Người ngủ chiêm bao thấy cảnh vật, sau khi thức thì không còn thấy.
 Những cảnh thấy trong định, lúc xuất định không còn thấy. 
 Những cảnh thấy lúc thường, lúc nhập định không còn thấy.
 Những cảnh thấy nơi rỗng không yên tĩnh, lúc chẳng yên tĩnh thì chẳng thấy.
 Ở nơi rỗng không yên tĩnh thì không gì chẳng thấy
 Sự thấy ấy không tạo tác, rời nơi không tạo tác thì không chỗ thấy.
 Nếu rời nơi không tạo tác mới có chỗ thấy, thì là không thấy tất cả vậy.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Thân Phật ấy từ vô số sự đều theo duyên mà hiển hiện thấy khác.
Thân Phật ấy không có ngằn mé, cũng là vô hạn vô ngại, không vọng tưởng, chẳng thể tưởng được, chẳng thể hạn định được.
Thân Phật ấy không có ngần ấy hình tượng, không có chỗ nào chẳng khắp.
Ví như hư không, chẳng có vọng tưởng.
Cũng vậy, thân Phật vĩnh viễn không tư tưởng.
Ví như hư không vào khắp tất cả hình sắc.
Cũng vậy, thân Phật khắp soi tất cả chúng sanh.
Ví như hư không khắp vào các sắc, cùng khắp trong ấy.
Cũng vậy, thân Phật soi khắp chúng sanh, không chỗ nào chẳng khắp.
Ví như hư không, trưởng dưỡng tất cả cỏ cây trăm giống lúa.
Cũng vậy, thân Phật chí chơn trưởng dục tất cả cội công đức.
Ví như hư không chẳng kể là thường hay vô thường, cũng không có ngày đêm.
Cũng vậy, thân Phật chẳng thường, chẳng vô thường, chảng ai thấy được đỉnh đầu Phật.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Phật Thế Tôn hiện khắp trên cõi trời và trong thế gian.
Ma Vương và Phạm Thiên không ai dám đương diện với Phật để xem đỉnh đầu Ngài .
Chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi nhơn, cho đến bực Thanh văn, bực Duyên Giác cùng chư Bồ Tát không ai kham nhiệm thấy được đỉnh đầu Phật.
Do đâu biết được như vậy ?
Sau khi thành đạo, đức Phật đến thành Ba La Nại chuyển pháp luân.
Lúc ấy ở phương Đông cách đây rất xa có thế giới tên Hoài Điều, Phật cõi ấy hiệu Tư Di Hoa. Trong thế giới Hoài Điều ấy có một vị Bồ Tát tên là Ưng Trì đến cõi Ta Bà này để kính cẩn cúng dường đức Phật và thưa hỏi. Bồ Tát Ưng Trì lễ chơn đức Phật rồi đi nhiễu bảy vòng, xong Ngài đứng lại trước đức Phật.
Lúc ấy Bồ Tát Ưng Trì nghĩ rằng tôi muốn đo biết thân lượng của Như Lai. 
Bồ Tát Ưng Trì liền tự biến thân mình cao ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, nhìn lên thân đức Phật thấy cao năm trăm bốn mươi ba muôn triệu cai hai muôn ức dặm. Ngài tự nghĩ tôi đã được thần túc thông tự tại, tôi lại đo lường thân đức Phật cao lớn thế nào ? Nương oai đức của Phật, Bồ Tát Ưng Trì dùng thần túc bay lên phương trên cách đây trăm ức hằng hà sa quốc độ, đến thế giới Liên Hoa Nghiêm, cõi ấy có Phật hiệu Liên Hoa Thượng, là đấng Như Lai chí chơn đẳng chánh giác hiện đương thuyết pháp.
Ưng Trì Bồ Tát dừng lại nơi ấy nhìn ra xa vẫn không thấy được đỉnh đầu của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng biết được thân Phật cao lớn rộng xa bao nhiêu.
Lúc ấy Ưng Trì Bồ Tát đến đảnh lễ Phật Liên Hoa Thượng đi nhiễu ba vòng, ở trước Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi từ cõi Ta Bà đến đây, chẳng rõ xa gần bao nhiêu ? ».
Đức Phật Liên Hoa Thượng nói : « Cõi Ta Bà cách đây trăm ức hằng hà sa thế giới, ông từ cõi ấy mà đến đây ».
Ưng Trì Bồ Tát thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi bay lên trên đến ngần ấy thế giới mà vẫn chẳng thấy đỉnh đầu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chẳng rõ thân đức Phật ấy cao lớn bao nhiêu trăm ngàn ức hằng hà sa thế giới ? ».
Đức Phật Liên Hoa Thượng nói : « Này thiện nam tử ! Ông dùng sức thần túc từ đây lại bay lên trên trải qua hằng hà sa kiếp vẫn còn chẳng thấy được đỉnh đầu đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng chẳng biết được ngằn mé của thân Phật ấy.
Này thiện nam tử ! Phải biết thân Phật vô hạn vòi vọi như vậy chẳng ví dụ được.
Vì không có gì so sánh nên nói là chẳng thể ví dụ được.
Cấm giới của Như Lai cũng không thể ví dụ được .
Tam muội chánh định, trí huệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu, và ý ba nghiệp cùng các tướng hảo của Như Lai đều chẳng ví dụ được .
Tất cả chúng sanh dùng bao nhiêu phẩm loại ví dụ ca ngợi cấm giới, chánh định, trí huệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu, và ý cùng các tướng hảo của Như Lai thì cũng như là hư không, chẳng đến ngằn mé được.
Thân của đức Như Lai vô hạn tế dường ấy ».
Lúc ấy Ưng Trì Bồ Tát nghe lời phán dạy của đức Liên Hoa Thượng Như Lai rất đỗi vui mừng được sự chưa từng có, liền đảnh lễ chưn Phật đi nhiễu bảy vòng, nương oai đức của Phật, dùng thần lực của mình, trong khoảng phát ý niệm, mất nơi cõi nước Liên Hoa Nghiêm kia mà hiện đến cõi Ta Bà này, qua chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đảnh lễ chưn Phật, đi nhiễu bảy vòng, rồi ở trước Phật nói kệ ca ngợi rằng :
“Muốn biết rõ thân Phật
Ngằn mé là dường bao
Tôi bay lên phương trên
Vô lượng hằng sa cõi
Muốn thấy đỉnh đầu Phật
Bay mãi lên phương trên
Đến thế giới Liên Hoa
Vẫn chẳng thấy được đỉnh
Thế giới kia có Phật
Hiệu là Liên Hoa Thượng
Biết ý muốn của tôi
Nên vì tôi giảng nói :
Nếu dẫn những ví dụ
Để luận Phật Thế Tôn
Thì chẳng thuận Phật giáo
Là hủy báng Như Lai
Nếu muốn biết ví dụ
Như hư không vô hạn
Chư Phật pháp bình đẳng
Thiệt không có ngằn mé
Giới, định, huệ của Phật
Giải thoát, trí giải thoát
Nghiệp sắc thân cũng vậy
Như hư không vô hạn
Muốn xem đỉnh đầu Phật
Đồng như xem hư không
Như hư không trùm khắp
Thân Phật khắp cũng vậy
Như hư không trùm khắp
Phật quang chiếu khắp nơi
Phật quang chiếu chỗ nào
Có ngôn từ cũng vậy
Ngôn từ đến chỗ nào
Tâm Phật khắp cũng vậy
Như tâm Phật khắp đến
Lòng từ ban khắp chốn
Như lòng từ khắp ban
Trí huệ cũng cùng khắp
Như trí huệ soi khắp
Thân Phật khắp dường ấy
Công đức cũng như vậy
Đạo tâm cũng chẳng khác
Như công đức đạo tâm
Biết sắc thân cũng vậy
Như tất cả chúng sanh
Hưởng thọ phước đức phẩm
Một người phát đạo tâm
Phước đức cũng ngần ấy
Như người phát tâm kia
Có công đức danh xưng
Nếu ai thọ chánh pháp
Công đức hơn phát tâm
Dầu tất cả chư Phật
Trăm ức kiếp giảng nói
Chẳng hết được ngằn mé
Công đức trì chánh pháp
Có ai phát đạo tâm
Mà hộ trì chánh pháp
Người thích hiểu không vô
Công đức hơn người trên.
Vì thích hiểu không vô
Thì chẳng mất đạo tâm
Chấp trì pháp tôn thượng
Huệ này mới hòa đồng
Đến được pháp lý này
Bồ Tát dũng mãnh tu
Được đến công đức Phật
Phụng tu Phật đạo hạnh”.
Lúc Ưng Trì Bồ Tát nói kệ, cả ức thế giới chấn động, trăm ngàn ức chư Thiên trổi ngàn ức kỹ nhạc. Vô số ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Về thân Như Lại bí yếu ấy, nếu các chúng sanh đều họp chung một pháp hội, hoặc có người thấy được thân Như Lai, hoặc có người chẳng thấy được.
Người thấy được thì vui mừng nhìn xem thân Như Lai. Người chẳng được thấy thì nín lặng mà quán xét.
Như Lai chẳng ăn mà chúng sanh đều thấy đức Như Lai uống ăn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Như có Thiên Tử tên Tinh Lực mới được thọ đạo. Thiên Tử ấy lấy bát đựng cơm của Như Lai đem cấp cho những kẻ đói thiếu.
Mọi người đều đến ra mắt đức Như Lai mà ăn, thấy đức Như Lai cầm cơm lên đưa cơm vào trong miệng, cơm tự nhiên lại trở vào bát.
Thuở xa xưa, đức Như Lai gieo trồng những cội công đức, sanh ở chỗ nào cũng bố thí cho những kẻ đói thiếu.
Những người đói khổ không được ăn, đức Như Lai xót thương đem đồ ăn đến cho.
Aên xong những thức ăn ấy, họ đều được thân thể khỏe mạnh, tiêu trừ trần lao hết vọng tưởng, tâm họ nhơn hòa, phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Vì thế nên phải biết rằng đức Như Lai chẳng ăn. Đức Như Lai chí chơn lấy pháp làm món ăn. 
Tại sao vậy ? Vì thân của đức Như Lai là thân kim cương chẳng phá hoại được.
Thân của Như Lai không có sanh tạng cũng không có thục tạng, không có đại tiện, tiểu tiện bất tịnh, cũng không có đàm dãi nhơ uế.
Thân của Như Lai như màu vàng tử ma, không khiếp không nhược, chẳng có kinh sợ.
Ngài Tịch Ý thử xem xét thân của Như Lai không gì sánh bằng, rất đẹp lạ bền vững như chất kim cang, mà lại dịu mềm như thiên y mịn nhuyễn.
Có lúc thân của Như Lai hiển hiện sự vi diệu vô thượng. Chư Thiên Ngọc nữ đảnh lễ chưn đức Phật, chạm chưn đức Phật cảm thấy tột mền không gì ví dụ được, họ đều phát tâm Vô thượng Bồ đề xa rời trần cấu.
Hoặc có người tham dâm, người sân hận, người ngu si, người đẳng phần thấy thân của Như Lai. Mắt của họ vừa thấy thì những phiền não tham, sân, si và đẳng phần của họ đều được tiêu trừ, không còn trần cấu.
Hoặc có những người tham lam, phạm giới, sân hận, lười biếng, loạn tâm, ngu si được thấy thân của Như Lai thì khiến họ trở thành những người bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ.
Tóm lại, những người xa rời pháp lành mà thấy thân của Như Lai thì bỏ được tâm bất thiện mà tu công đức.
Lấy tâm chẳng vọng tưởng để nhìn xem nơi đức Như Lai mới gọi là chơn đạo.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đó là thân đức Như Lai bí yếu vậy.
Đức Như Lai ứng hiện biến hóa tự tại, dùng pháp khai hóa hiểu biết tâm ý của chúng sanh mà thuyết pháp cho họ được giải thoát.
Đối với chúng sanh kia, đức Như Lai vốn không tác không hành, chưa bao giờ đức Như Lai chí chơn nghĩ rằng tôi sẽ hóa hiện thân hình.
Những chúng sanh được hóa độ tâm họ tự quan niệm rằng :
Đức Như Lai chí chơn ở trước chúng tôi. Từ vô số thế giới, đức Như Lai đến thế giới nầy. Từ thân Như Lai phóng quang minh vô lượng màu sáng. Quang minh ấy chiếu suốt hằng hà sa quốc độ. Chúng sanh do quang minh ấy mà được khai hóa.
Vì thế nên ở Như Lai không có tác nghiệp, không có công hạnh.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Thân của Như Lai bí yếu, bao nhiêu là tâm niệm, bao nhiêu là sự ban bố tuyên thuyết, bao nhiêu là thành tựu chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chẳng thể tính kể được sự bí yếu của thân Như Lai ».
Lúc nói thân hành bí yếu của Như Lai, có mười ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Chư Thiên, A Tu La, người thế gian khen Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : Lành thay ! Lành thay !
Nhạc trời chẳng trổi tự kêu. Hư không mưa hoa trời.
Đức Thế Tôn đặt tay mặt lên đỉnh đầu Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ mà khen rằng : « Lành thay ! Lành thay ! Khéo nói thân của Như Lai bí yếu như vậy. Lời Mật Tích tuyên nói ấy như lời Phật dạy không khác ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Thế nào là khẩu bí yếu của đức Như Lai ?
Thưa Ngài Tịch Ý ! Từ đêm nào đức Như Lai thành tối chánh giác đến lúc nhập Vô dư Niết bàn, khoảng thời gian ấy đức Như Lai thi thố một văn tự bèn có thể ban bố tuyên thuyết phân biệt tất cả vô hạn nghĩa lý, vô số ức năm giảng diễn khắp các pháp.
Tại sao vậy ?
Đức Như Lai thường định.
Đức Như Lai chí chơn không thở ra hít vào, không tư niệm, không chỗ làm, không tư tưởng.
Dầu miệng tuyên thuyết, nhưng đức Như Lai vẫn không tưởng niệm không chỗ làm.
Chỗ làm của đức Như Lai không làm không chẳng làm, không lời không nói, chẳng nghĩ tưởng có người.
Đức Thế Tôn chỗ nói tất cả tam muội chánh thọ siêu việt đều dùng văn tự mà phân biệt diễn thuyết.
Tất cả chúng sanh đều riêng cho rằng : đức Như Lai vì tôi mà giảng nói kinh pháp.
Đức Như Lai ban một âm thanh đều khắp tất cả chỗ tưởng chỗ niệm của tất cả chúng sanh, không ai là chẳng vui đẹp.
Ngôn từ của Như Lai phát ra sáu mươi phẩm âm thanh sai khác . Những là âm thanh cát tường, âm thanh êm diu, âm thanh đáng ưa, âm thanh thanh tịnh đẹp ý, âm thanh rời cấu nhơ, âm thanh rõ sáng, âm thanh vi diệu, âm thanh nghe rõ, âm thanh không rối loạn, âm thanh không huyên náo, âm thanh bực thầy, âm thanh không cứng rắn, âm thanh không thô xẵng, âm thanh thiện thuận, âm thanh an trọng, âm thanh hòa lành, âm thanh theo tâm đúng lúc, âm thanh vui vẻ, âm thanh gợi lòng yêu an ổn, âm thanh không nhiệt não, âm thanh đứng đắn, âm thanh thức đạt, âm thanh thân cận, âm thanh ý thích, âm thanh mừng rỡ, âm thanh dạy dỗ hiền hòa, âm thanh rõ ràng, âm thanh siêng cần, âm thanh nhẫn nại, âm thanh lớn rõ, âm thanh vang trừ ô uế, âm thanh như sư tử rống, âm thanh như rồng gầm, âm thanh như mưa tốt, âm thanh như sấm dậy, âm thanh chơn đà la kỹ, âm thanh như chim loan hót, âm thanh như chim ưng kêu, âm thanh chim hạc ré, âm thanh kỳ vức, âm thanh như tiếng chim anh vũ, âm thanh như sét nổ, âm thanh chẳng mất, âm thanh chẳng bạo, âm thanh vào trong tất cả tiếng vang, âm thanh chẳng phi thời, âm thanh không thiếu, âm thanh không khiếp, âm thanh sung sướng, âm thanh thông sướng, âm thanh giới cấm, âm thanh ngon ngọt, âm thanh tiến hành, âm thanh rộng khắp, âm thanh đầy đủ, âm thanh các căn không sức mẻ, âm thanh chẳng nhẹ mau, âm thanh vô trụ, âm thanh vang vào khắp các chúng hội, âm thanh tuyên bày các công đức. Đó là sáu mươi phẩm âm thanh của đức Như Lai.
Âm thanh của đức Như Lai thông khắp mười phương thế giới của chư Phật làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh.
Đức Như Lai không có tâm tưởng niệm rằng tôi sẽ vì chúng sanh mà miệng tuyên nói kinh trường hàng, kinh trùng tụng, kinh kệ tụng, kinh bổn sanh, kinh bổ sự, kinh tự thuyết, kinh nhơn duyên, kinh phương quảng, kinh vị tằng hữu, kinh thí dụ, kinh luận nghị, kinh thọ ký, ban bố xa gần cho họ hiểu biết, tuyên thuyết pháp nghĩa để khai hóa họ.
Lại ở trong các chúng hội, đức Như Lai chí chơn tuyên thuyết pháp nghĩa. Thân cận bên đức Phật có các chúng Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn. Chúng hội ấy, tùy theo căn tánh, chỗ tu tinh tiến, tùy pháp sở thích mà làm cho họ được nhập đạo. Do thuận nhập đạo nên tìm cầu chúng sanh bèn rõ biết không có nhơn mà giáo hóa họ.
Các chúng sanh ấy tự nghĩ rằng âm thanh từ miệng đức Như Lai phát ra.
Đức Như Lai chẳng riêng rẽ thuyết pháp cho họ, mà tùy theo tâm họ sai khác, ngôn ngữ đúng lúc mỗi mỗi đều nghe pháp mà được tỏ ngộ. Đây gọi là khẩu bí mật của đức Như Lai.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Vô số chúng sanh tâm hành chẳng kể được. Ngôn ngữ của họ có đến tám muôn bốn ngàn. Dìu dắt hạng chúng sanh hạ liệt vô minh tối tăm ấy vào chánh pháp của Như Lai cho họ được khai ngộ.
Lại tâm hành của chúng sanh chẳng hạn lượng được.
Nếu có chúng sanh hoặc tham dâm, hoặc sân hận, hoặc ngu si, hoặc đẳng phần, đức Như Lai tùy theo thời nghi vào trong đó để cứu tế cho họ được vô sở trụ. Nhưng đức Như Lai không có tâm niệm vào trong chúng sanh vì họ phân biệt hành nghiệp tội phước, dùng quyền phương tiện đều vì họ nói pháp riêng khác.
Chúng sanh vô hạn chẳng thể đếm kể tính lường được, chỗ làm của họ chẳng đồng, đức Như Lai thiện quyền phương tiện ban tuyên bao nhiêu phẩm pháp.
Lời dạy của đức Như Lai đều khắp vào tâm họ, tùy theo bổn hạnh của họ mà tuyên bố đạo nghiệp cho họ đều được hiểu biết nhập đạo. Đây thời gọi là sự bí yếu của đức Như Lai.
Hoặc có vị Bồ Tát vào trong bí yếu của đức Như Lai, những vị ấy chẳng biết mà cho rằng đức Như Lai chí chơn diễn nói môn hữu vi. Nhưng thiệt thì pháp của đức Như Lai đều là vô vi.
Lại đức Như Lai tuyên một âm thanh.
Chúng sanh tưởng là có ngôn thuyết bèn chỉ tưởng nhớ ưa thích âm thanh của đức Như Lai mà hư vọng tưởng nhớ chỗ được nói.
Chẳng nên có quan niệm như vậy. Mà phải biết rằng miệng của đức Như Lai vĩnh viễn không có nói năng.
Tại sao vậy ? 
Hoặc có chúng sanh nghe âm thanh của Như Lai phát ra từ tướng bạch hào giữa chặng hai chưn mày lại cho là ở đỉnh đầu, hoặc có người tưởng là tóc, biết là màu xanh biếc, đứng nơi giữa trời, mắt rất sáng đẹp.
Mọi người chẳng kham nhìn kỹ đức Như Lai được.
Sở dĩ hiện ra cho họ thấy, là để tiêu trừ các điều sái quấy, bỏ những tâm ganh hại. Nếu thấy cổ, vai , cánh tay thì trừ các họa ngầm. Nếu thấy ngón tay, hoặc hông, hoặc có ngợi khen từ lưng đến chưn, hoặc là bụng, rún, âm tàng, gối, bắp chưn thì hết sân hận, hoặc do đó mà được có những tướng tốt hơn hẳn thế gian.
Hoặc có người tưởng niệm đức Như Lai chí chơn nghe âm thanh của đức Như Lai, tùy theo căn tánh lợn độn và sở thích của họ chỗ đáng được độ mà khai hóa.
Đức Như Lai khai diễn âm thanh giáo hóa chúng sanh đều làm cho họ vào đạo.
Dầu vậy nhưng đức Như Lai cũng không có tưởng niệm.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như nhạc khí, điều chỉnh âm giai, lấy tay đánh đó phát ra tiếng nhạc du dương thanh thoát. Không phải tại nơi nhạc khí làm ra âm thanh ấy. Đều do nơi các duyên hòa hiệp mà có tiếng hay.
Cũng vậy, ngôn từ của đức Như Lai khai hóa tâm chúng sanh, do họ mà thuyết giáo.
Với những chúng sanh ấy, đức Như Lai diễn thuyết không có riêng tư, đều do túc duyên đã tạo lập công hạnh mà có thành quả đặc biệt lạ lùng.
Ở nơi chúng sanh, đức Như Lai siêu tuyệt nguy nguy là do sự đặc biệt lạ lùng sẵn từ trước.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như tiếng kêu to có âm vang đến xa. Aâm vang ấy chẳng ở tại trong, chẳng ở tại ngoài, chẳng ở chặng giữa.
Cũng vậy, đức Như Lai phát âm khai hóa tâm chúng sanh. Lời lẽ ngôn giáo ấy chẳng từ nơi thân phát ra, cũng chẳng phải từ nơi tâm, chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng từ chặng giữa.
Ví như trong đại hải có minh châu như ý phát ánh sáng làm vừa ý tất cả mọi người. Nếu đặt minh châu ấy trên đầu ngọn phướng chiếu khắp thành thị, tùy theo lòng cầu muốn của mọi người, minh châu ấy hiện ra bảo vật đồ dùng vừa theo ý muốn của mọi người. Minh châu ấy vẫn không có tưởng niệm.
Cũng vậy, đức Như Lai bửu tâm thanh tịnh nắm tràng đại bi, theo căn tánh của chúng sanh không đâu là chẳng ứng, đều làm cho họ được khai ngộ. Dầu hiển thị giáo hóa như vậy nhưng cũng không có tưởng niệm.
Đây là sự tuyên giáo bí yếu của đức Như Lai ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại nói với Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Tôi xem khắp trên trời và trong thế gian, các Ma Vương, Phạm Thiên, Sa Môn, Phạm Chí, chư Thiên và nhơn dân đều chẳng thể hạn lượng được âm thanh văn từ đức cũa Như Lai tuyên ra.
Tại sao vậy ?
Như chính tôi nhớ lại ngày trước đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đây ở tại núi Linh Thứu, có chư Bồ Tát quyến thuộc vây quanh. Có hội thuyết pháp tên là Tràng Tịnh Âm do Di Lặc Bồ Tát kiến lập. Đức Thế tôn rộng vì chúng hội mà ban bố pháp âm.
Lúc ấy Ngài Đại Mục Kiền Liên nghĩ rằng tôi muốn thử biết coi âm vang của đức Như Lai đến bao xa.
 Liền đó Ngài Đại Mục Kiền Liên từ chỗ Ngài ngồi bỗng biến mất, Ngài hiện đứng trên đỉnh núi tu Di vẫn nghe âm thanh của Như Lai như ở gần trước mắt. Ngài bèn dùng thần lực bay đi đến cuối mé ngoài tam thiên Đại Thiên thế giới, đứng trên đỉnh núi Đại Thiết Vi tột mé ngoài, vẫn còn nghe tiếng nói của Như Lai như cũ không khác, vẫn như gần bên chớ chẳng phải xa.
Lúc đó sanh đức Như Lai nghĩ rằng ông Đại Mục Kiền Liên muốn thử âm thanh tịnh của Như Lai. Ta nên trợ hiển thần túc cho ông ấy.
Ngài Đại Mục Kiền Liên nương oai thần của đức Như Lai, dùng thần túc của Ngài bay qua thế giới phương Tây xa đến qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới của chư Phật.
Nơi ấy có thế giới tên Quang Minh Phan, đức Phật ở thế giới ấy hiệu Quang Minh vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác hiện đương thuyết pháp.
Ngài Đại Mục Kiền Liên đến thế giới Quang Minh Phan ấy mà vẫn nghe âm thanh của đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni như tiếng nói của người đối diện.
Đức Phật Quang Minh Vương ấy thân hình cao bốn mươi dặm. Chư Bồ Tát thân hình cao hai mươi dặm.
Bát đựng đồ ăn của chư Bồ Tát cao một dặm.
Lúc ấy Ngài Đại Mục Kiền Liên đi vòng trên vành bát.
Chư Bồ Tát bạch đức Phật Quang Minh Vương :
Bạch đức Thế Tôn ! Con trùng nầy từ đâu đến, mình nó mặc y phục Sa Môn đang đi trên vành bát.
Đức Phật Quang Minh Vương Như Lai bảo chư Bồ Tát ấy :
Các thiện nam tử ! Cẩn thận chớ sanh lòng khinh mạn hiên giả ấy. Ngài tên Đại Mục Kiền Liên, là vị đệ tử thần thông đệ nhứt trong hàng Thanh Văn tại pháp hội của đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở Ta Bà thế giới.
Đức Quang Minh Vương Phật bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :
Chư Bồ Tát ở cõi nước ta và các Thanh Văn thấy thân ông nhỏ thấp nên có lòng khinh mạn. Ông nên tự hiển thần thông mà nương oai đức của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ngài Đại Mục Kiền Liên rời vành bát đến trước đức Phật Quang Minh Vương đảnh lễ dưới chưn, đi quanh bảy vòng rồi bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn thân nầy kiết già ngồi tại đây được chăng ?
Đức Phật nói :
Tùy ý ông muốn.
Ngài Đại Mục Kiền Liên liền bay vọt lên hư không cao trăm ức trượng, hiện làm một chiếc giường báu, tự ngồi kiết già trên giường ấy.
Từ giường báu ấy rũ thòng ức trăm ngàn triệu xâu chuỗi bửu châu. Mỗi viên bửu châu trên mỗi chuỗi phóng trăm ngàn tia sáng. Mỗi tia sáng đều có hoa sen báu. Trên tất cả hoa sen báu đều hiện có Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi tuyên thuyết pháp âm thanh tịnh đồng như đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hiện thần thông xong, Ngài Đại Mục Kiền Liên trở lại trước đức Phật Quang Minh Vương.
Chư Bồ Tát bên ấy được chưa từng có, bạch đức Phật rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Ngài Đại Mục Kiền Liên do việc gì mà đến thế giới Quang Minh Phan nầy ?
Đức Phật nói với chư Bồ Tát bên ấy :
Vì muốn biết âm vang của đức Thích Ca Mâu Ni Phật xa bao nhiêu nên ông ấy bay đến đây.
Đức Phật Quang Minh Vương bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :
Ông chẳng nên thử âm vang của đức Như Lai chí chơn.
Âm vang của Như Lai vô hạn, không có xa gần, mà ông muốn biết chừng hạn thì rất lầm.
Dầu cho ông có dùng thần túc đi qua phương Tây mãi không ngừng quá hằng ha sa kiếp, cũng chẳng biết được chừng hạn âm vang của Như Lai.
Âm vang của chư Phật Thế Tôn rộng xa vô hạn, siêu tuyệt vô lượng chẳng gì ví dụ được.
Ngài Đại Mục Kiền Liên sụp lạy xám hối rằng : 
Bạch Thế Tôn ! Đúng vậy, tôi thiệt kém sáng suốt. Aâm thanh của Phật vô lượng, mà tôi lại ngang bướng sanh lòng muốn biết chừng hạn xa gần.
Đức Phật Quang Minh Vương bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :
Ông đi quá xa, vượt qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới mà đến cõi nầy.
Ngài Đại Mục Kiền Liên bạch :
Bạch đức Thế Tôn ! Rất xa rất xa. Nay thân tôi quá nhọc mệt chẳng thể trở về được.
Đức Phật nói :
Ý ông nghĩ thế nào, phải chăng ông tự dùng thần lực mà đến được đây ?
Ông chớ quan niệm như vậy. Phải biết đó là do oai đức của Phật Thích Ca Mâu Ni nên ông mới có thể đến đây được.
Ông phải vói đảnh lễ Phật Thích Ca Mâu Ni, oai thần của đức Phật ấy sẽ đem ông về đến bổn quốc.
Giả sử ông tự dùng thần lực, dầu đi suốt một kiếp cũng về không đến. Lúc ông về đến sẽ không kịp thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt.
Ông nghĩ thế nào, ông có biết phải từ hướng nào để trở về chăng ? Bổn quốc Ta Bà ở hướng nào chăng ?
Ngài Đại Mục Kiền Liên thưa :
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi quên mất phương hướng, thiệt chẳng biết bổn quốc ở chỗ nào, ở hướng nào.
Đức Phật dạy :
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở về hướng Đông.
Liền lúc ấy, Ngài Đại Mục Kiền Liên hướng về phương Đông, vói kính lễ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, rồi quỳ chắp tay nói kệ rằng :
Đấng Tôn quý của trời người
Oai đức vòi vọi rất lớn
Trời và người đều cung kính
Xin rũ lòng thương xót tôi.
Âm vang Phật suốt vô lượng
Trí huệ Phật không ngằn mé
Xin hiển hiện cõi Ta Bà
Tôi muốn về đến bổn quốc.
Lúc ấy tại núi Linh Thứu, các Ngài Xá Lợi Phất v.v... nghe tiếng xướng kệ của Ngài Đại Mục Kiền Liên đều rất ngạc nhiên.
Ngài A Nan bước lên bạch đức Phật :
Bạch đức Thế Tôn ! Ai tuyên kệ quy lễ đức Thế Tôn như vậy ?
Đức Phật nói :
Nầy A Nan ! Đó là Đại Mục Kiền Liên ở tại thế giới Quang Minh Phan của đức Phật Quang Minh Vương Như Lai chí chơn cách cõi nầy chín mươi chín hằng hà sa thế giới về phương Tây. Ông ấy muốn trở về đây nên tuyên kệ kính lễ.
Ngài A Nan lại hỏi : 
Bạch đức Thế Tôn ! Duyên cớ gì mà Ngài Đại Mục Kiền Liên đến thế giới Quang Minh Phan ấy ?
Đức Phật nói :
Nầy A Nan ! Chờ Đại Mục Kiền Liên về tới, ông sẽ hỏi ý ấy.
Đại chúng đều bạch đức Phật :
Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn được thấy thế giới Quang Minh Phan và đức Quang Minh Vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác. Cũng muốn được thấy Ngài Đại Mục Kiền Liên đi nơi cõi ấy.
Đức Phật biết lòng khao khát của chúng hội, liền từ tướng bạch hào giữa chặng mày phóng ra tia sáng lớn tên Câu Thọ, chiếu suốt qua chín mươi chín hằng hà sa thế giới đến cõi Quang Minh Phan. Chúng hội đều thấy thế giới Quang Minh Phan và đức Quang Minh Vương Như Lai chí chơn.
Ngài Đại Mục Kiền Liên thấy tia sáng của đức Phật liền gieo mình kính lễ.
Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni vói bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên nương tia sáng ấy để trở về bổn quốc.
Ngài Đại Mục Kiền Liên nương theo tia sáng của đức Phật, trong khoảnh khắc về đến núi Linh Thứu, đảnh lễ chưn đức Phật, đi quanh bảy vòng, quỳ chắp tay ăn năn tự trách :
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi tư mê lầm. Âm vang của đức Như Lai chẳng thể hạn lượng mà tôi lại muốn thử. Tôi đi mãi quá xa. Đến đâu cũng vẫn nghe âm thanh của đức Như Lai y như ở gần bên như nhau không khác.
Âm vang của đức Như Lai thiệt là vòi vọt không ngằn mé.
Đức Phật nói :
Đúng như lời ông nói. Thanh âm của đức Như Lai suốt đến xa không lấy gì ví dụ được. 
Muốn biết thanh âm của đức Như Lai vang đến xa gần, cũng như là đo hư không muốn biết ngằn mé. 
Như hư không cùng khắp vô biên, tiếng nói của dức Như Lai vang suốt không ngằn mé.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đương lúc nói phẩm Đại Mục Kiền Liên đi và về, ở trong pháp hội ấy có một vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đây là ngôn từ bí mật của đức Như Lai.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ngài nghĩ thế nào ? Tâm niệm của tất cả chúng sanh có thể biết được chăng ? ».
 Ngài Tịch Ý Bồ Tát nói : « Tâm niệm của một người, tư tưởng khó hạn đinh. Giả sử tất cả chúng sanh trong tam thiên Đại Thiên thế giới suốt cả một kiếp cùng tính đếm nhiều ít cũng chẳng biết được. Huống là tâm niệm tư tưởng của tất cả chúng sanh !
Thưa Ngài Tịch Ý ! Tâm tưởng của tất cả chúng sanh vô hạn ngần ấy, huống lại tâm tánh của chúng sanh không có hình tướng chẳng thể ví dụ được ».
Khi ấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói kệ rằng :
« Chúng sanh cõi Đại Thiên
Đều khiến thành Duyên Giác
Một người trong một kiếp
Tâm niệm chẳng biết được.
Tất cả tâm tưởng niệm
Đức Phật biết rõ cả
Phật dùng tâm vô tưởng
Đều biết tất cả niệm.
Tùy chúng s anh tưởng niệm
Phật tuyên giảng kinh điển
Thanh âm ấy tại tâm
Mà diễn nên đạo pháp.
Như tất cả chúng sanh
Nghĩ tưởng các danh sắc
Một chưn lông của Phật
Phóng Quang Minh cũng vậy.
Như danh sắc và tâm niệm
Của tất cả chúng sanh
Thanh âm của Phật diễn
Hơn số tưởng của chúng.
Phật ban tuyên tất cả
Dẫn dụ kể tưởng niệm
Tiếng kia chẳng thôi nghỉ
Lời Phật không hạn mé.
Ai có thể m ến lời
Không sắc nói không nói,
Không sắc không có nói
Tiêu diệt không sắc trần.
Giả sử trần không sắc
Tất cả chẳng thể được
Do vì không sắc trần
Rốt ráo chẳng thể được.
Dầu nói nhưng chẳng thiệt
Không trong cũng không ngoài
Trần lao đồng hư không
Nên gọi không trong ngoài
Lời nói chẳng thể được
Phật nói suốt mười phương
Trần lao cũng vô hạn
Đây kiến lập nơi chỗ.
Lời nói thượng trung hạ
Của tất cả chúng sanh
Không thân khẩu ý nghiệp
Chẳng bỏ cũng chẳng lấy.
Dường như xướng kỹ kia
Âm nhạc của chư Thiên
Cũng không thân khẩu nghiệp
Mà âm thanh hòa khắp.
Tâm chúng sanh cũng vậy
Vốn thanh tịnh như thế
Phật đều ban lời dạy
Tâm Phật không tưởng niệm.
Ví như vang theo tiếng
Không trong cũng không ngoài.
Lời Phật nói cũng vậy
Không trong cũng không ngoài.
Vô niệm như diệu bửu
Lời Phật đẹp chúng sanh
Lời Phật không vọng tưởng
Lợi ích cho muôn loài ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Tịch Ý Bồ Tát rằng : « Đó là khẩu ngôn bí yếu của đức Như Lai.
Lại khẩu bí yếu của đức Như Lai, tùy theo âm thanh ấy mà vì chúng sanh thuyết pháp khai hóa.
Cõi Dại Thiên nầy giả sử có bao nhiêu loài, đức Như Lai chí chơn tuyên bố dạy dỗ, theo tiếng nói của họ, dùng những danh hiệu chẳng kể hết chí thành giáo hóa. Đây gọi là khổ tập diệt đạo. Gọi là địa thần ủng hộ.
Tâm Phật kiên cố, bổn ý ở nơi đây.
Thần chú rằng :
A bì a bà mâu lê, gia hà ha na di, kha ca ưu đầu.
Thần chú nầy hộ trì tất cả, thế nên gọi là khổ tập diệt đạo.
Trong hư không, tất cả chư Thiên đều khen lời nói ấy, đồng tuyên chú rằng :
Hượt tri, a hượt tri, a hượt tra ca di, a hòa ni nê lê.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả, thế nên gọi là khổ tập diệt đạo.
Chư Thiên ở trời Tứ Vương lại nói chú rằng :
Y nê di nê, đa bế đa đa bế, duy lô.
Thần chú nầy cứu tất cả chúng sanh, thế nên gọi là khổ tập diệt đạo pháp.
Chư Thiên ở trời Đao Lợi nói chú rằng :
Kỳ hồi chuyển, quán tập, chủ diệt tận, vi tận bất tương cử yếu.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên ở trời Dạ Ma nói chú rằng : 
Thủ lê đạo la tư, hòa lê đạo la tê tuy tà, đạo tê tuy tà bị hòa ni.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên trời Đâu Suất nói chú rằng :
Độc phạm diện xúc, hồi chuyển tích súc nghiệp.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên ở trời Hóa Lạc nói chú rằng :
Sở độ câu sở độ, hộ sở độ, chủ độ nữ.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên ở trời Tha Hóa Tự Tại nói chú rằng :
A hô sự nghiệp hô, hòa nê di, a la ni hàm.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Phạm Thiên nói chú rằng : 
Hữu sự nghiệp, sự nghiệp chủng, nhơn duyên thọ dĩ nhơn duyên độ.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Phạm Thân nói chú rằng :
Thanh minh, tạo thanh tịnh, thanh tịnh phong, động thanh tịnh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Phạm Mãn nói chú rằng :
Vô cực để, câu tương khứ, đạo ngự chủ, niệm kiên yếu.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Phạm Độ nói chú rằng :
Hòa na hòa na tán đề, hòa na ha ha na, hòa na câu ma na.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Đại Phạm nói chú rằng :
Mộc mật, mộc mật tiên bỉ diệc tiên, ấn thị.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiền Quang Diệu nói chú rằng :
Y hài hài, tương hài khứ thân cận.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Thiểu Quang nói chú rằng :
Thị thủ khứ, bất tương khứ, bất sử khứ, vô sở chí.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Vô Lượng Quang nói chú rằng :
Quán tập, câu cung tập tập diệt tận, tập vô lượng.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Quang Âm nói chú rằng :
Dĩ đoạn chung, tự tại đoạn thuận tùng hòa, thường thanh tịnh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Ước Tịnh nói chú rằng :
Sở chí thu, sở khả quy, cận sở đáo, dĩ cận sở đáo.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Thiểu Tịnh nói chú rằng :
Thanh tịnh, thanh tịnh thị, tịnh phục tịnh, quy thanh tịnh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Vô Lượng Tịnh nói chú rằng :
Vô ngã thị, vô ngô ngã thị, phi cống cao quy tự đại.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Tịnh Nan Đệ nói chú rằng :
Giải thoát dĩ độ, tích giải độ, bổn cận giải.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Quảng Quả, chư Thiên Ngự Từ nói chú rằng :
Dĩ vô tác, vô sở tác, trừ sở tác, sở tác cứu cánh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả”.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : “Đây gọi là khổ tập diệt đạo nên phải phụng hành, nên phải khai hóa mà theo luật giáo hiển hiện nghiệp vi diệu vô cực.
Chư Thiên Ly Từ, chư Thiên Giả Sử, chư Thiên Thiện Hiện, chư Thiên Cứu Cánh, cõi Tịnh Cư có bốn trời, đó là chư Thiên Phụng Hành Quyết Liễu Nhứt Xứ Cứu Cánh, chư Thiên Chơn Cứu Cánh, chư Thiên Vô Sân Khuể và chư Thiên Bất Thân Cận.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Chư Thiên ấy lập thệ chí thành lợi ích chúng sanh như vậy.
Chư quỷ thần Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và quỷ thần Trì Hoa, những ngôn từ tuyên dạy của họ đều riêng khác nhau.
Những đại quốc ở Diêm Phù Đề nầy có một ngàn, mỗi đại quốc đều riêng có đại quân, tất cả loài người và các hàng phi nhơn, ngôn ngữ của họ đều khác nhau, âm thanh chẳng đồng, lời có khinh trọng ; nhẫn đến trong biển các loài thủy tộc và chư thủy thần, ngôn ngữ đều khác nhau, chi tháo của họ chẳng đồng, âm thanh cũng sai khác.
Đức Như Lai chí chơn tùy theo ngôn ngữ âm thanh của họ mà nhập vào trong ấy rồi khai thị giáo hóa họ, xây dựng họ nơi chánh chơn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Cõi Đại Thiên nầy có tám mươi bốn ức trăm ngàn triệu loài chúng sanh. Ngôn ngữ của họ đều khác nhau. Tính kể tất cả đều quy về một nghĩa, trí huệ chí chơn, chí thành không phẫn nộ.
Đây là ngôn từ bí yếu của đức Như Lai.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ngôn từ của đức Như Lai giaỉ quyết lưới nghi của tất cả chúng sanh làm cho họ không còn kiết sử.
Tất cả chúng sanh mười phương, chủng loại nhiều hơn đất đại địa, gây nghiệp riêng khác, đức Như Lai đều làm cho hết tội đến được thân loài người. Do thân người từ tư tưởng phát sanh trí huệ biện tài dũng mãnh như Ngài Xá Lợi Phất.
 Ngôn từ của đức Như Lai chẳng thể hạn lượng được, không gì ví dụ được”.
Lúc nói ngôn từ bí yếu của đức Như Lai, có hai vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tất cả chúng hội được chưa từng có, tất cả đều vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ tin thọ.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại nói với Tịch Ý Bồ Tát rằng : “Thế nào là tâm bí yếu của đức Như Lai ?
Tâm Như Lai thanh tịnh. Do đâu mà biết như vậy ?
Tất cả chư Thiên sanh ra do một thức huệ mà sống tám muôn bốn ngàn kiếp. Lại thần thức của chư Thiên chẳng cải biến làm thức khác, nhẫn đến tâm được định lại được thọ mạng nữa. Từ thân đó chết mất, nhơn nơi hành nghiệp của họ thọ sanh thân khác.
Như vậy, thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Như Lai từ lúc mới thành Phật đạo đến ngày diệt độ, khoảng thời gian ấy, đức Như Lai không nghi, cũng không xoay chuyển lại, tâm không suy nghĩ, không duyên đi, tâm không có chẳng vững chắc, tâm không hiệp nơi đâu, tâm không tán, không loạn, không dời, không đi, không gìn, không lặng, không lỗi thời, không mê, không cầu lý, không tối, không sanh, không mừng, không khiếp, không dừng, không qua, không tưởng, không trông, không cầu tưởng, không tiêu diệt, tâm không xem, không biết, không chỗ trụ, tâm không xem tâm kẻ khác, mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm, thân không chạm, tâm không tưởng niệm, ý chẳng dựa nơi sắc thanh hương vị xúc đẹp tốt thơm ngon mịn trơn, tâm chẳng nương theo pháp, tâm không chỗ vui, tâm chẳng phải chẳng vui, tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, tâm chẳng vào nơi pháp, tâm chẳng vượt trí huệ, tâm chẳng xem quá khứ, chẳng xem tương lai, chẳng xem hiện tại. Tâm của Như Lai là tâm thánh thanh tịnh vòi vọi. Tâm Như Lai chẳng tạo nghiệp tội phước. Với tất cả pháp, trí huệ không chướng ngại mà thị hiện khắp. Tâm Phật thanh tịnh chẳng thấy tâm kẻ khác chẳng thanh tịnh. Chỗ được thấy ấy cũng không chỗ xem. Nếu là chỗ xem cũng không có vọng tưởng, không phóng dật, thấy chỗ được nhìn xem cũng không chạy theo, xem có được thấy trọn không có chỗ thấy.
Chỗ thấy của đức Như Lai, chẳng phải nhục nhãn thấy, chẳng phải thiên nhãn thấy, chẳng phải huệ nhãn thấy, chẳng phải pháp nhãn thấy, chẳng phải Phật nhãn thấy, chẳng khiến thiên nhĩ nghe, chẳng khiến xem tâm kẻ khác, chẳng tạp niệm nhớ biết sự quá khứ, chẳng nương thần thông mà làm biến hóa, chẳng nương sở hữu.
Các phiền não đã hết, với tất cả pháp đều không hội hiệp, không chỗ chướng ngại, không cát tường, không các nghiệp, vĩnh viễn không phan duyên.
Trí huệ Như Lai chiếu sáng mà dường như không có, đều biết rõ tất cả tâm hành của chúng sanh, mười thứ trí lực, bốn món huệ vô úy, mười tám pháp bất cộng, đây cũng như vậy tiến thối không có làm, xả bỏ tâm ý thức, không xa rời Như Lai tam muội chánh định, làm tất cả Phật sự đều không chấp trước dường như hư không.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Như Lai chí chơn hóa làm tượng Như Lai. Hóa Như Lai ấy không có tâm ý thức thân khẩu ý nghiệp, hành động thị hiện đều chí chơn, tùy thời có thể làm Phật sự. Hóa Như Lai không có suy tưởng, cũng không cầu nhớ.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đạo tâm cũng vậy, như Hóa Như Lai không khác. Hóa ấy chỗ tưởng niệm không tưởng niệm, không thân khẩu ý, nhơn duyên tiến thối, mắt nhìn thấy đó đều làm Phật sự, cũng không chỗ có.
Gọi là biến hóa ấy thì đều không chỗ làm, các pháp như biến hóa.
Đức Như Lai biết được như biến hóa mà thành bực tối chánh giác. Đã thành bực chánh giác rồi, trí huệ của đức Như Lai chẳng dừng ở năm ấm, mười hai nhập, cũng không mười tám giới, chẳng dừng ở trong ở ngoài, không thiện không bất thiện, không hiện thế, không độ thế, không có phiền não, không có chẳng phiền não, không chán trần lao tranh cải, chẳng ở vô vi, có số không có số, không có ba thuở quá khứ, vị lai, hiên tại, xoay quanh qua lại chẳng ở hữu vi có chỗ quan sát, chẳng ở vô vi. Trí huệ Như Lai không có chỗ dừng ở như vậy.
Đức Như Lai chí chơn đối với chí tánh của tất cả chúng sanh hiển hiện trí huệ nhơn từ, không có tổn hại mà cứu tế nguy ách.
 Ngài Tịch Ý phải biết, đức Như Lai bí yếu nếu có chỗ vào ban tuyên giáo hóa không đâu chẳng khắp thấu.
Lại bí yếu của đức Như Lai không có hạn lượng, tuyên giáo bí mật không thể cùng tận”.
Lúc Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói phẩm Như Lai bí yếu, vô lượng số thế giới rung động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu đến mười phương thấy mười phương vô lượng cõi Phật. Trời mưa các thứ hoa, các nhạc khí chẳng đánh tự kêu. Vô lượng số người phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vô số Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn. Vô hạn người được nhu thuận pháp nhẫn. Vô số Bồ Tát được nhứt sanh bổ xứ.
Chư Bồ Tát ấy vì cúng dường pháp nên đồng tung hoa dâng Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ.
Hoa được tung lên ấy hóa thành lọng hoa. Thừa oai thần của đức Phật, bay vòng quanh đức Phật và Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ba vòng, che khắp chúng hội.
Các lọng hoa báu ấy lại dừng ở hư không ngay trên đức Phật.
Từ các báu ấy vang ra âm thanh vô tỉ rằng :
Kính thưa đức Thế Tôn ! Chư Bồ Tát ở hiền kiếp sai chúng tôi đến cúng dường Đại Thánh và Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, dâng pháp cúng dường đã ban tuyên chỗ nói bí yếu chẳng thể nghĩ bàn của đức Như Lai chí chơn. Đều là oai thần của đức Như Lai làm ra cả vậy.
 Lúc ấy cả chúng hội nghe những lời trên đều rất vui mừng vòng tay đảnh lễ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ rồi cung kính nói rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi được lợi lành, được rất vui mừng thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, được nghe ngôn giáo bí yếu chẳng thể nghĩ bàn của đức Như Lai.
Nếu có chúng sanh nghe yếu nghĩa của kinh điển nầy mà tin ưa, bởi gần đạo nghiệp nên chẳng hồ nghi, chưa từng do dự vào lời huấn thị của đức Như Lai. Phải xem những người ấy là chẳng thối chuyển, sẽ đến đạo Vô thượng chánh chơn”.
Lúc ấy đức Phật khen Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : “Lành thay, lành thay ! Giỏi nói những lời ấy”.
Đức Phật lại bảo Ngài Tịch Ý Bồ Tát : “Công huân của Như Lai rất lạ chí chơn đủ bốn huệ vô sở úy, đúng như Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đã ca ngợi.
Ai được nghe pháp nầy chẳng kinh chẳng sợ, hiểu được ý nghĩa, nếu có thể thọ trì học tập đọc tụng, vì người rộng giảng thuyết, thì chẳng lâu sẽ được thọ ký Vô thượng Bồ đề”.
Bấy giờ nơi đất ở giữa chúng hội đạo tràng ấy, trước mặt đức Thế Tôn liền nứt ra sâu sáu mươi tám trăm ngàn do tuần, tự nhiên có vòi nước to bằng vành xe phun cao lên hư không đến trời Phạm Thiên rưới khắp cõi Đại Thiên.
Đức Phật bảo Ngài Tịch Ý Bồ Tát : “Ông có thấy vòi nước lớn phun lên hư không rưới khắp cõi Đại Thiên chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy. Xin đấng trời trong trời thương xót dạy cho biết là điềm lành gì ?
- Nầy Tịch Ý ! Ông nên biết vòi nước ấy, đất không có tư tưởng, không có ý nứt rã, nước tự nhiên phun lên.
Các vị pháp sư cũng vậy. Nếu thọ trì kinh pháp nầy, phụng hành đúng theo đây, thì đều sẽ làm nứt rã sáu mươi hai thứ tà kiến, sẽ được trí huệ biện tài.
Các vị chánh sĩ ấy vì chúng sanh mà giỏi nói chánh pháp, làm vui đẹp lòng đại chúng. 
Lại nầy Tịch Ý ! Người biết kinh điển như vầy đều thoát khỏi nạn tam đồ các ác đạo”.
Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất tiến lên bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay các chúng Bồ Tát trong Hiền Kiếp ở tại thế giới chư Phật mười phương thanh tịnh tu phạm hạnh, sau khi chư Bồ Tát ấy thành Phật, có phải vị Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy sẽ đều tay cầm kim cang xử hầu hạ phía sau chăng ?”.
Đức Phật nói : “Thôi đi. Nầy Xá Lợi Phất ! Việc ấy chẵng thể nghĩ bàn được. Chư Thiên và người đời nghe được lời ấy hoặc sẽ mê lầm việc làm của Bồ Tát, hoặc có thể chẳng tin”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa : “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người hữu học gieo trồng những gốc lành sẽ tin ưa đó. Chúng tôi đều sẽ lãnh thọ lời giảng dạy của đức Như Lai”.
Đức Phật phán : “Nầy Xá Lợi Phất ! Chừng ông có thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đứng hầu phía sau đúc Phật chăng ?”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa : “Vâng ! Tôi đã thấy”.
Đức Phật dạy : “Đó là do thần thông lực bổn nguyện nên ông ấy đứng hầu như vậy.
Các chúng Bồ Tát trong Hiền Kiếp thành Phật, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thường sẽ đứng hầu cũng như đứng hầu ta vậy. Đó là do thệ nguyện từ trước nên ông ấy có sức thần thông tự tại như ấy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử tất cả chúng sanh trong cõi Đại Thiên tương lai thành Phật, đều sẽ cần hầu hạ, lúc được thành Phật ông ấy cũng cầm kim cang xử, tự mình thị hiện đều đứng hầu phía sau.
Dầu biến hóa như vậy, nhưng oai đức thần thông của Chánh Sĩ ấy chưa có tổn hao.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ông có thấy nay Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thường đứng hầu phía sau Di Lặc Bồ Tát chăng ?”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy. Nhờ thánh chỉ của đức Phật mà tôi được nghe việc từ nào tới giờ chưa được nghe”.
Đức Phật nói : “Nầy Xá Lợi Phất ! Ông ấy thường hầu Di Lặc Bồ Tát mà các ông chẳng thấy thôi.
Chư Bồ Tát ở phương khác đến cùng Đế Thích, Phạm Thiên và Tứ Thiên Vương thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đứng hầu phía sau Di Lặc Bồ Tát và hầu chư Bồ Tát ở Hiền Kiếp.
Di Lặc Bồ Tát và chư Bồ Tát trong Hiền Kiếp hóa làm ức trăm ngàn triệu chúng Bồ Tát khai thị cứu độ chúng sanh. Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đều đứng hầu phía sau các Hóa Bồ Tát ấy.
Chánh Sĩ Mật Tích nầy có oai đức chẳng thể nghĩ bàn, thần thông biến hóa vòi vọi dường ấy, lục thông trí huệ chẳng có hạn lượng”.
Lúc ấy Ngài Tịch Ý Bồ Tát nói với Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ rằng : “Có thể nào Ngài vui lòng nói cho biết đức Như Lai cần tu khổ hạnh, trang nghiêm đạo thọ hàng phục quân ma mà chuyển pháp luân gầy dựng thánh đế”.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : “Thưa Ngài Tịch Ý ! Công đức của Như Lai chẳng thể hạn lượng. Giả sử sống lâu một kiếp nói công đức ấy cũng không thể nói hết.
Nay tôi thừa oai thần của đức Phật mà nói sơ lược những điều cốt yếu.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Chỗ làm của Bồ Tát chẳng vì một sự viẹâc mà cần tu khổ hạnh.
Vì muốn cứu tế hàng dị học ngoại tà, từ nơi thân hành tùy nghi hiển thị oai nghi, nhơn đó mà hóa độ được những chúng sanh tà kiến ngoại học.
Bồ Tát hiện thân tối thắng tôn quý đệ nhứt, siêng làm khổ hạnh không ai bằng được, thị hiện oai nghi lễ tiết mà tất cả hàng ngoại học tà dị không theo kịp được. Với hàng tà ngoại ấy, Bồ Tát ở một chương cú giảng giải vô lượng nghĩa. Hoặc hiện lên phương trên, hoặc hiện đi quanh qua lại mặt trời mặt trăng, hoặc hiện thần thông bay đến chỗ ở ẩn của các Tiên Nhơn, hoặc hiện làm Quốc Sư Cư Sĩ, hoặc hiện làm Thánh Đế, Tứ Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc hiện thân khổ hạnh nằm trên gai góc, hoặc hiện nằm trên cỏ, trên trấu, trên đất, hoặc hiện chỗ nằm đáng sợ, không đáng sợ, hoặc hiện ăn trái, mặc áo rách, hoặc nằm trên nước lầy, hoặc hiện mặc áo đỏ, hoặc hiện cùng ở cùng đi với nhóm lõa thể, hoặc hiện ăn cực, ăn đậu, ăn mè, ăn củ cải, ăn khoai, ăn rau, ăn gai, ăn lá bông trái, ăn táo, hoặc ngày ăn một lần, hoặc ăn hai lần, hoặc hiện thường ăn, hoặc hiện bảy ngày ăn một lần, hoặc mười lăm ngày ăn một lần, hoặc một tháng ăn một lần, hoặc ăn một giọt bơ, một giọt dầu, một giọt mật, hoặc uống một giọt nước, một giọt sữa, hoặc hiện chẳng ăn, hoặc hiện thường đứng, hoặc hiện thường ngồi, hoặc hiện nhiều cử chỉ khác không thể kể hết.
Đây là những khổ hạnh mà Bồ Tát thị hiện.
Bồ Tát hiện làm khổ hạnh đủ sáu năm, chẳng phải chỉ một hạnh khổ, mà thị hiện đầy đủ ngần ấy thứ, lại còn siêng tu tinh tiến vượt hơn cả khổ hạnh ấy.
Các chúng sanh chẳng thấy hết được oai nghi cử chỉ của đức Như Lai, cũng chẵng biết được hành vi của Bồ Tát.
Nếu có chúng sanh có thể hành đạo đáng được hóa độ mới có thể thấy được oai nghi cử chỉ của Bồ Tát.
Bồ Tát hành động không có hư luống.
Đây là Bồ Tát siêng tu đầy đủ khổ hạnh khai hóa sáu mươi triệu người, ba trăm vạn chư Thiên và nhơn dân đều được nhập đạo.
Lúc ấy Bồ Tát hành sự vi diệu, ngồi đài cao lầu báu mà thị hiện sanh. Không có các hoạn nạn trọn được an ổn, thường ở trong tam muội chánh định, mà trái lại thị hiện khổ hạnh sáu năm. Rồi lại thấy Bồ Tát đứng dậy đi. 
Lúc ấy chư Thiên cầu pháp lạc chẳng mến thế tục, ở bên Bồ Tát chẳng mong gì khác chỉ mong được nghe pháp Đại thừa.
Lúc ấy có Bồ Tát tên là Pháp Chủng ưa thích Đại thừa nhập vào đại bi.
Lại có pháp điển tên là nhập bất khả tư nghị pháp môn, lại gọi là phổ nhiếp, hàng phục các tà tất cả chúng ma, vào trong khổ nạn trọn được an lành.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Bồ Tát siêng tu khổ hạnh đủ sáu năm rồi thị hiện oai nghi tinh tiến. Bồ Tát rời chỗ ngồi đi đến bên bờ sông Ni Liên Thiền.
Vì thuận theo thế gian nên Bồ Tát cố ý đến sông Ni Liên Thiền tắm rửa sạch sẽ rồi rời sông đến đứng một mình ở chỗ khác.
Bấy giờ có nàng Di Ca tên là Thiẹân Aám vắt sữa ngàn con bò cho trăm con bò uống. Vắt sữa trăm con bò nầy cho mười con bò uống. Vắt sữa mười con bò nầy cho một con bò uống. Nàng vắt lấy sữa con bò sau cùng nầy để nấu cháo sữa. Cháo sữa ấy sôi bắn lên cao vài mười trượng. Nàng Di Ca lấy làm lạ. Có vị phạm chí bàn rằng : người sắp thành Phật mới đáng ăn cháo sữa nầy.
Nàng Di Ca mang cháo sữa đến chỗ Bồ Tát.
Cũng có sáu vạn chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà v.v... đều mang thức ăn kỳ dị ngọt ngon đồng đến chỗ Bồ Tát.
Tất cả đại chúng đều thưa bạch Bồ Tát :
Xin Ngài xót thương nhận đồ cúng dường.
Lúc ấy Bồ Tát nhận cháo sữa của nàng Di Ca Thiện Ấm rồi ăn. Bồ Tát cũng nhận lấy thức ăn của sáu vạn chúng chư Thiên, chư Thần và đều thị hiện ăn.
Những người dâng cúng thức ăn lên Bồ Tát, đều tự thấy Bồ Tát chỉ riêng nhận ăn đồ cúng dường của mình mà không thấy nhận của người khác.
Mỗi mỗi người đều tự nghĩ rằng Bồ Tát riêng nghĩ tưởng nhận ăn đồ của tôi dâng cúng, Ngài sẽ thành tựu Vô thượng Bồ đề, thành bực Đẳng Chánh Giác. Họ đều rất vui mừng và đều phát đạo tâm, được bất thối chuyển.
Đây gọi là nhận lấy thức ăn dâng cúng. Vì khai hóa chúng sanh nên thị hiện sáu năm siêng tu khổ hạnh.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đó là Bồ Tát tùy theo thế tục nhận đồ cúng dường mà ăn khiến thân thể khí lực đầy đủ an hòa rồi đi đến dưới cây.
Có địa thần tên Thiện Địa Thiên Tử bảo chư Thiên Tử khác và chư Địa Hành Thiên Thần giữ đất chẳng cho rúng động.
Sau khi đến dưới cây, Bồ Tát dọn dẹp sạch sẽ.
Cõi Đại Thiên lúc ấy bỗng nhiên thanh tịnh, rưới hoa, thiêu hương, nước thơm tưới đất.
Trời Ca Lưu Tích cầm hoa rời thiên cung ở trong hư không thấy Bồ Tát thì vui mừng mưa các thứ hoa.
Bốn vị Thiên Vương cùng quyến thuộc bay đến bốn phương dùng màng lưới vàng tử kim che khắp cõi Đại Thiên để cúng dường.
Trong cõi Đại Thiên, chư Thiên Vương cùng chư Thiên quyến thuộc trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại giăng màn báu cùng chơn châu minh châu cúng dường.
Chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẳn Na La, Ma Hầu La già đều dùng thần thông sửa sang trang nghiêm tất cả cõi dục.
Lúc ấy có vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Oai Thần Tự Tại, là chủ cõi Đại Thiên qua đến Bồ đề thọ. Đại Phạm Thiên Vương ấy bảo chư Phạm Thiên rằng các Ngài phải biết Bồ Tát Đại Sĩ đây ở chỗ chư Phật quá khứ tu hành chánh hạnh, trồng các cội công đức, đảnh lễ quy mạng vô số chư Phật, nguyện lớn chí ý vững mạnh, đầy đủ Bồ Tát hạnh, phụng tu các ba la mật, vào hết căn tánh của tất cả chúng sanh, thông đạt tất cả bí yếu của Như Lai, kiến lập đạo pháp Vô thượng, là đại đạo sư cứu tế chúng sanh ban tuyên kinh điển, là đại y vương chữa lành bịnh chúng sanh, đội mão giải thoát làm đại pháp vương trí huệ sáng suốt diễn thánh đế Vô thượng, chẳng bị tám pháp thế tục câu phược, như hoa sen chẳng vấy bùn, nắm giữ các pháp chẳng sót quên như sông biển, trí chẳng hạn lượng như núi Tu Di chẳng động lay, rửa sạch tâm mình như nước rửa bụi. Không hề tự cao đại mà thường khiêm hạ, như châu minh nguyệt trừ tối và các thứ nhơ trược, với tất cả pháp được tự tại, chứa các cội công đức, dường như Phạm Thiên là đệ nhứt trên trời, Ngài đến dưới cây hàng phục quân ma, sẽ được đạo Vô thượng chánh chơn thành bực tối chánh giác, đầy đủ mười thứ trí lực của chư Phật, bốn vô sở úy, mười sáu pháp bất cộng, chuyển đại pháp luân, làm sư tử hống sung mãn tất cả, ban pháp thí đượm nhuần muốn làm thanh tịnh đạo nhãn cho tất cả chúng sanh, nhiếp lấy các pháp, dẹp trừ chín mươi sáu thứ ngoại tà, bổn nguyện đầy đủ, thấyrõ cảnh giới chư Phật mười phương, Đại Thánh oai đức tự tại.
Chư Phạm Thiên các Ngài phải khiêm hạ cung kính Bồ Tát.
Lúc ấy Đại Phạm Thiên Vương ở trước chúng Phạm Thiên nói kệ rằng :
Hạnh chơn chánh thanh tịnh
Quyết pháp diệu vô thượng
Thương xót nơi thế gian
Cũng thương đến chư Thiên
Đấng trời trong các trời
Tôn quý trong trời người
Bực Đại Thánh nay ở 
Dưới cội cây Bồ đề
Sẽ hàng phục ma vương
Cùng các quyến thuộc ma
Được Vô thượng Chánh giác
Thành nhứt thiết chủng trí
Đã đầy đủ tối chánh giác
Lại chuyển chánh pháp luân
Như đại sư tử hống
Vui đẹp lòng chúng sanh”.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Tịch Ý rằng : “Lúc Bồ Tát sắp đến ngồi dưới cội cây, từ lòng bàn chưn nơi tướng thiên bức luân phóng ra ánh sáng chiếu khắp cả cõi Đại Thiên. Tất cả chúng sanh nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ngừng dứt sự khổ não.
Aùnh sáng ấy chiếu đến địa ngục Hắc Nhĩ. Được ánh sáng của Bồ Tát chiếu đến, chúng sanh ở đại địa ngục Hắc Nhĩ vui mừng hớn hở, Vua và cung thuộc nơi ấy đều cầm hoa hương, phan lọng, kỹ nhạc bay lên hư không hóa làm mây báu mưa châu minh nguyệt, hương chiên đàn, rồi thừa thần thông biến hóa đến chỗ Bồ Tát cúi đầu đảnh lễ đi quanh bên hữu ba vòng, đồng đem đồ cúng dường dâng lên Bồ Tát.
Ánh sáng của Bồ Tát chiếu đến chỗ ở của Ca Lân Long Vương. Long Vương mừng rỡ rời cung điện đến dưới cây Bồ đề đứng bên mé hữu của Bồ Tát.
Bấy giờ có một người tên là Kiết An ở xa thấy Bồ Tát, liền tìm cỏ tốt thơm tho mềm nhuyễn như thiên y cầm đến dâng cho Bồ Tát, cúi đầu đảnh lễ đi vòng bên hữu bảy vòng. Kiết An đem cỏ dâng cho Bồ Tát sẽ phát tâm Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy ? Vì bổn nguyện của ông ấy khiến được như vậy.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Tôi nhớ thuở quá khứ trải qua chín mươi mốt kiếp, lúc đức Phật Duy Vệ xuất thế đủ mười đức hiệu, có ngàn vị Tỳ Kheo tu hạnh thanh tịnh được Phật Duy Vệ thọ ký sẽ thành bực tối chánh giác ở Hiền Kiếp.
Trong pháp hội ấy có ông Trưởng Giả tên Hữu Chí nghe sự thọ ký ấy mới tự nghĩ rằng, ở Hiền Kiếp lúc chư Bồ Tát sắp thành Phật, tôi sẽ cúng dường cỏ tốt để trải tòa sư tử trang nghiêm thanh tịnh an hòa nhu nhuyến. Nhơn đó tôi được phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Trưởng Giả Hữu Chí thuở trước đó, nay là ông Kiết An vậy. Vì bổn nguyện mà ông ấy dâng cỏ tốt và phát đạo tâm. Sau nầy ông ấy thành Phật hiệu là Bửu Tịnh Sư Tử Như Lai chí chơn.
Lúc Bồ Tát nhận lấy cỏ trải dưới cội cây Bồ đề, Thọ Thần và một vạn Thiên Nữ đều đem những túi đựng hoa trời, hương trời, cùng phan lọng đến lễ lạy cúng dường nghinh tiếp Bồ Tát.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Lúc Bồ Tát trải tòa vừa xong, liền có tám vạn bốn ngàn Thiên Tử thấy Bồ Tát trải chỗ ngồi, trong lòng vui mừng trần thiết tám vạn bốn ngàn tòa sư tử. Các tòa sư tử ấy rất trang nghiêm tốt đẹp cao lớn, do các châu báu hiệp thành, trên tòa trải thiên y. Chư Thiên Tử đồng thỉnh Bồ Tát ngồi lên tòa sư tử của mình trần thiết.
Lúc ấy Bồ Tát tự biến thân mình đều ngồi cả trên tám vạn bốn ngàn tòa sư tử ấy.
Chư Thiên Tử chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, chỉ tự thấy biết là Bồ Tát ngồi lên tòa sư tử của mình để thành tối chánh giác, nên họ rất vui mừng phát tâm Vô thượng Bồ đề đến bậc bất thối chuyễn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Lúc bấy giờ Bồ Tát dùng oai thần làm cho Ma Vương hay biết.
Ma Vương liền cùng quyến thuộc vô số ức trăm ngàn triệu quỷ thần đều mặc giáp cầm vũ khí hiển thần thông thế lực đến chỗ Bồ Tát bao vây khắp ba trăm ba mươi sáu vạn dặm.
Ma Vương Ba Tuần cùng quyến thuộc quỷ thần ấy, dung mạo của họ đều khác nhau, đầu mặt chẳng đồng, tiếng kêu nói của họ đều sai khác, họ hiện chẳng biết bao nhiêu là hình tượng, binh khí nghiêm chỉnh, cảnh huống rất đáng sợ. Họ chẳng thuận nhơn nghĩa, làm chuyện rất quấy, chẳng theo đạo đức, chuyên việc tàn bạo, gầm thét kêu la vang động cả ba cõi. Giả sử người phàm chưa ly dục mà nghe âm thanh ấy, thì máu sẽ theo mũi miệng mà trào ra, hoặc kinh sợ mà chết.
Lúc ấy Bồ Tát không chút sợ sệt cũng không e ngại, lại phát lòng từ bi. Những âm thanh hãi hùng ấy tự nhiên tiêu diệt, chẳng rõ về đâu.
Tại sao vậy ?
Vì tâm Bồ Tát thanh tịnh, dầu nghe âm thanh ấy mà thấu rõ, vốn là hư trống, vốn là không có. Thấy ma chúng đến, ánh sáng từ nơi thân Bồ Tát càng chiếu ra rực rỡ. Bồ Tát bảo Ma Vương Ba Tuần rằng :
Thôi đi Ba Tuần, chớ có hiện ra cảnh tượng vô ích ấy. Chớ có sanh lòng sân độc rồi tự chuốc lấy tai họa vào thân mà phải mãi mãi chẳng an.
Hôm nay Ba Tuần sanh tâm muốn hại Bồ Tát, nhưng Bồ Tát có đức từ rộng, có dũng mãnh lón, đại bi vô tận, đại từ vô cực, hàng phục kẻ ác nghịch.
Ba Tuần muốn làm loạn Bồ Tát, nhưng tâm Bồ Tát vốn thanh tịnh, trần lao cấu trược đã tiêu trừ, Ba Tuần chẳng những không hại được Bồ Tát, trái lại làm nên cho Bồ Tát.
Ba Tuần muốn đem lửa đom đóm sánh hơn ánh sáng mặt trời, trùng thú nhỏ làm kinh sợ sư tử, chưn bé gầy đạp ngã cổ thọ to, nước vũng chưn trâu so với biển cả.
Ba Tuần nên bỏ tâm oán hận mê lầm, chuyển quyến thuộc hung tàn thành bạn đạo pháp, bỏ phi pháp về thánh đạo.
Ma Vương Ba Tuần thấy Bồ Tát oai đức vòi vọi, nghe tiếng từ bi, lòng ma vui mừng kính ngưỡng hướng về chánh đạo.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Lúc ấy Bồ Tát tự nghĩ rằng : Từ số kiếp chẳng thể tính kể được, tôi chứa công đức, nhơn hạnh thành tựu, đời đời phụng pháp tu hành, vì thương tưởng chúng sanh bị tai khổ trong ba cõi mà tu tập trí huệ nhơn từ, ai dám hủy hoại được, chỉ có đại địa chứng minh.
Từ trong y ca sa, Bồ Tát thò tay sắc vàng tử kim rờ khắp thân mình. Chẳng bỏ đại bi, muốn cứu độ chúng sanh, Bồ Tát cất tay hữu lên hướng về mười phương.
Liền đó toàn cõi Đại Thiên chấn động sáu cách, có âm thanh tự nhiên phát ra. Âm thanh tự nhiên ấy vang suốt đến các cõi Phật mười phương.
Ma Vương Ba Tuần cùng ma quyến thuộc ở trên hư không, nghe âm thanh ấy đều tự trách mình sái quấy mà ưa thích pháp lành.
Lúc ấy Bồ Tát ban bố vô úy đại bi thương xót. Ma và quỷ thần hướng đến Bồ Tát, tự nhiên từ hư không rơi xuống, tâm họ quy y phát tâm ủng hộ rồi ẩn mất không còn.
Đó là Bồ Tát thương xót chúng ma quỷ thần mà phóng đại quang minh. Họ đều được rời khỏi bố úy mà đều trở về thiên cung.
Lúc Bồ Tát thị hiện hàng phục Ma Vương và ma quyến thuộc, có tám ngàn ức triệu quỷ thần phát tâm Vô thượng Bồ đề, chín mươi hai ức tải người được bất thối chuyển, tám muôn bốn ngàn Thiên Tử vì đã trồng cội công đức nên được vô sanh pháp nhẫn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Hiện tượng hàng phục chúng ma ấy, vô số trời người được lợi lành lớn. Dầu vậy, nhưng tâm Bồ Tát không có phân biệt, cũng không có nạn ma, vì đã bỏ hẳn các tội hại. Chư Thiên và thế gian tùy theo căn lành của chính mình, đều được thấy Bồ Tát.
Hoặc có người thấy Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử bửu liên hoa, hoặc thấy ở dưới đất, hoặc thấy ở hư không, hoặc thấy ở dưới cội cây, hoặc thấy ở cung trời Đao Lợi ngồi dưới cây báu, hoặc thấy ngồi trên tòa sư tử cao bảy nhẫn, hoặc thấy ngồi trên tòa sư tử cao mười dặm, hoặc hai mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, hoặc có chư Thiên nhơn thấy Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử cao bốn vạn hai ngàn do tuần dưới cội cây Bồ đề cao tám vạn bốn ngàn do tuần.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Cảnh giới của Bồ Tát chẳng có hạn lượng, chẳng thể nghĩ bàn, vì thế nên đạo tràng rất là thù đặc. Nếu có chúng sanh nào căn tánh thuần thục thì được thấy công hạnh của Bồ Tát, còn người căn tánh loạn động thì chẳng hay chẳng biết.
Bồ Tát lúc vừa mới thành tựu viên mãn Phật đạo, bảy ngày đêm an trụ trong pháp lạc nhìn cây Bồ đề mắt chẳng nháy.
Bấy giờ có trăm ngàn ức chư Thiên đến ca ngợi cúng dường, đặt bàn ngọc, dâng thức ăn, thấy đức Như Lai đã thành Phật đạo, đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tứ đại Thiên Vương đều cầm bát đến dâng lên đức Như Lai.
Như thế giới Đại Thiên nầy có trăm ức phương vực, mỗi phương vực có tứ đại Thiên Vương. Tất cả trăm ức tứ đại Thiên Vương đều cầm bát đến dâng lên, đức Như Lai đều nhận lấy cả. 

Do oai thần của đức Như Lai làm cho chư vị đại Thiên Vương đều chẳng thấy nhau, đều tự nghĩ rằng đức Phật nhận lấy bát của mình sẽ dùng đựng thức ăn. Do đó đại Thiên Vương trong tâm vui mừng đều phát tâm Vô thượng Bồ đề, đến chẳng thối chuyển.
Trưởng Giả Đề Vị Ba Lợi cùng năm trăm thương gia ngồi xe đi ngang qua đạo tràng.
Đức Phật muốn độ họ nên thị hiện oai thần, ngựa xe của đoàn thương gia ấy tự nhiên đứng dừng lại không tiến lên được.
Trưởng Giả cùng các thương gia đều lấy làm lạ chẳng rõ cớ.
Chư Thiên ở hư không bảo họ rằng : Đức Phật đã xuất hiện thế gian, các ngươi nên đến cúng dường.
Nghe tiếng chỉ bảo trên hư không, Trưởng Giả và đoàn thương gia mừng rỡ, đều mang mật búng đề hồ đến dâng lên đức Phật.
Đồng thời tám mươi bốn ngàn chư Thiên cũng dâng thức ăn lên đức Phật
Đức Phật đều nhận lãnh.
Những người và chư Thiên ấy, đời trước đã từng phát nguyện, lúc đức Như Lai thành đạo, tôi sẽ là người dâng cúng thức ăn đầu tiên.
Muốn cho họ toại bổn nguyện, nên oai thần của đức Phật làm cho họ chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, mỗi người đều tự thấy chỉ có riêng mình cúng dường, do đó họ đều rất vui mừng được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề”.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Tịch Ý Bồ Tát : “Bồ Tát đến dưới cội Bồ đề để thành Phật đạo. Đức Như Lai chí chơn chưa chuyển pháp luân khai đạo chúng sanh, mà đã hóa độ vô lượng chúng sanh nhiều hơn số chúng sanh được tế độ từ lúc sơ phát đạo tâm khi ngồi dưới cội Bồ đề.
Đức Như Lai chí chơn vừa thành Phật đạo, bấy giờ Diệu Thức Phạm Thiên Vương cùng sáu mươi tám vạn ức triệu trăm ngàn chư Phạm Thiên quyến thuộc đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chưn, đi quanh bên hữu bảy vòng, trụ ở trước đức Phật cung kính bạch rằng :
Xin đấng đại bi chuyển pháp luân tuyên bố đạo hóa. Có nhiều chúng sanh đáng được độ nghe đức Phật thuyết pháp có thể hiểu biết vâng làm.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Như Diệu Thức Phạm Thiên Vương ân cần khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, mười ức Phạm Thiên, mười ức Thiên Đế và mười ức trăm ngàn triệu chư Bồ Tát cũng khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân.
Lúc đức Thế Tôn sắp chuyển pháp luân, Diệu Thức Phạm Thiên Vương đến vườn Lộc Uyển ở Ba La Nại trần thiết tòa sư tử báu đẹp trang nghiêm cao ba ngàn hai trăm tám mươi dặm.
Mười ức Phạm Thiên, mười ức Thiên Đế, mười ức trăm ngàn triệu chư Bồ Tát cũng vì đức Thế Tôn mà trần thiết tòa sư tử cao rộng đều đồng nhau, ai cũng tự nghĩ rằng : đức Như Lai sẽ ngồi trên tòa sư tử của tôi để chuyển pháp luân.
Đức Như Lai đến vườn Lộc Uyển ở Ba La Nại ngồi trên tòa sư tử.
Chư Phạm Thích và Bồ Tát đều tự nghĩ rằng đức Như Lai riêng ngồi trên tòa sư tử của mình.
Lúc đức Như Lai vừa ngồi xong, mười phương vô hạn Phật độ chấn động sáu cách.
Đức Như Lai nhập vô cực giới tam muội.
Tức thời toàn cõi Đại Thiên đều bằng phẳng như bàn tay. Tất cả chúng sanh ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, trên trời, trong loài người đều được an ổn, không dâm nộ si, tiêu bịnh tam độc, lòng họ thanh tịnh thương yêu nhau như cha, như mẹ, như con cái, như anh em, chị em.
Vô số chư Bồ Tát từ vô hạn Phật độ ở mười phương đến nghe đức Phật thuyết pháp.
Trong cõi Đại Thiên, vô cực chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn đồng đến chỗ đức Phật muốn nghe kinh pháp.
Đại chúng đến dự hội đông đầy khắp cả cõi Đại Thiên không còn chỗ nào trống chừng sợi lông sợi tóc. Tất cả thính chúng đều nhứt tâm khát khao đạo pháp.
Đức Thế Tôn thấy đại chúng đã tập họp đông đủ liền chuyển pháp luân. Vì các hàng Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Đại Phạm Thiên Vương và người thế tục mà tuyên bố chánh pháp, tùy thời nghi, theo tâm chúng sanh, đều làm cho họ đều được hiểu biết tỏ ngộ tuân hành đạo pháp :
Nhãn căn vô thường, biết rõ nhãn căn vô thường thì theo luật giáo. Nhãn căn độc khổ, không có ngô ngã, nhãn căn như huyễn, như hóa, như dã mã, như bóng trăng, như mộng, như ảnh, như vang, theo luật giáo nầy mới chịu phụng hành không, vô tướng, vô nguyện. Nhãn căn vốn trống không vắng lặng đạm bạc theo duyên mà khởi.
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý căn cũng vậy. Tất cả đều vô thường. Do nghe nói vô thường thì hiểu là khổ, không có vô ngã, vắng lặng đạm bạc, không, vô tướng, vô nguyện. Vì chẳng thấu tỏ nên theo duyên mà khởi. 
Ngũ ấm vô thường, dầu nói năm thứ nhưng đều vô thường, nghe nói ngũ ấm vô thường thì hiểu là rỗng không vậy.
Lục trần và tứ đại chủng cũng vậy.
Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám đạo hạnh. Do được nghe ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà hiểu vô thường, rỗng không, bèn theo luật giáo.
Người thích Thanh Văn thì chẳng ưa Duyên Giác. Người thích Duyên Giác thì chẳng muốn Thanh Văn. Nếu mộ hai thừa thì chẳng nói Đại thừa. Nếu tuyên Đại thừa, được nghe nghĩa thú ấy thì chẳng ham nghe lời nói về Thanh Văn và Duyên Giác .
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Như Lai tùy theo tâm sở thích của chúng sanh mà chuyển pháp luân đều làm cho họ được độ. Dầu cho trí huệ như Ngài Xá Lợi Phất trải qua trăm ngàn năm suy nghĩ chỗ sở nhập của bổn hạnh đạo nghĩa cũng chẳng lường biết được, huống là người khác.
Lúc nói về Tát Bồ đến ngồi dưới cội Bồ đề, hàng ma thành đạo và chuyển pháp luân, có tám muôn bốn ngàn người trong đại hội phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Lúc bấy giờ, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tiến lên bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Vừa rồi tôi tuyên nói bí yếu của đức Như Lai phải chăng không sai trái hủy báng đức Như Lai.
Bí yếu của đức Như Lai rất là huyền diệu rộng lớn không ngằn mé, thế gian khó tin được.
Dầu nói bí yếu của đức Như Lai mà tâm tôi tự nhớ là trí huệ của đức Như Lai nhập trong thân tôi, chớ chẳng phải là sức của tôi”.
Đức Phật phán : “Đúng như vậy. Như lời của Mật Tích đã nói. Đạo huệ của đức Như Lai nhập vào chỗ nào thì không ai là chẳng được an ổn. Hàng đệ tử Phật ban tuyên kinh điển, đều nương nhờ oai thần của đức Như Lai.
Vì nhập vào thân không pháp đạo huệ huyền diệu của đức Như Lai nên không ai là chẳng thông đạt.
Nếu muốn bảo chúng sanh tự kiến lập Như Lai chánh pháp, tuyên nghĩa thu nhận, thì chưa bao giờ có.
Nay ông suy gẫm chơn đế, nương đạo huệ của đức Như Lai mà được sức vô úy diễn nói pháp ấy. Nói rằng chơn đế chánh là pháp ấy.
Tại sao vậy ?
Chơn đế ấy, là đạo vô thượng chánh chơn mà chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, chư Phật hiện tại đều tuân hành. Giả sử có ai ban tuyên kinh điển bí yếu nầy đúng pháp không sai thì đều sẽ thành Phật.
Nếu có người nghe nói kinh nầy mà tin ưa, thì được tất cả thế gian đều kính mến tin tưởng.
Giả sử có người dùng đầu hoặc vai mang núi Tu Di đứng giữa hư không, việc nầy còn có thể được.
Người không có đức thì chẳng kham nhiệm được nghe kinh điển nầy.
Hoặc đã được nghe cũng khó tin.
Hoặc đã tin nhưng chẳng thể mến thích.
Huống lại là thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết.
Nếu có người nghe kinh nầy mà tin ưa thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng thuyết, người nầy đời trước đã từng cúng dường vô số ức trăm ngàn triệu tải chư Phật Thế Tôn. Đây là bực chánh sĩ vun trồng cội công đức, chí gìn Đại thừa, quyết định được thọ ký.
Huống là người chí thành hay phụng hành !”.
Lúc ấy Ngài Tịch Ý Bồ Tát tiến lên bạch đức Phật : “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là nghĩa vắng lặng đạm bạc ?”.
Đức Phật bảo Ngài Tịch Ý Bồ Tát : “Nầy thiện nam tử ! Nghĩa vắng lặng đạm bạc là tiêu diệt trần lao và đạm bạc những ô nhiễm.
Do tiêu trần lao nên mới gọi là trừ các tham dục vọng tưởng.
Do trừ dục tưởng thì không tư lự. Do không tư lự thì chẳng chấp trước. Do chẳng chấp trước thì không hành nghiệp nhơn duyên. Do không hành nghiệp nhơn duyên thì không vô minh chỗ có ân ái. Do không vô minh chỗ có ân ái thì tiêu ngô ngã. Do tiêu ngô ngã thì không sanh sắc. Do không danh sắc thì tiêu nghiệp chấp đoạn chấp thường. Do không nghiệp đoạn diệt chấp thường thì tiêu tham thân.
Nầy thiện nam tử ! Các nhân duyên quả báo tùy theo các nghiệp chấp kiến điên đảo mà thành trần lao, đều do tham thân mà thành họa hoạn ấy.
Do không tham thân thì bỏ cả sáu mươi hai thứ chấp kiến.
Do không tham thân thì vắng bặt các duyên.
Do không tham thân thì tất cả tham dục tự nhiên đạm bạc.
Do không tham thân thì các hy vọng vắng lặng tiêu diệt. 
Ví như nhổ cây thì rễ gốc thân nhánh lá hoa trái đồng thời đều trừ, cây ấy vĩnh viễn không còn có.
Hành giả cũng vậy. Do tiêu tham thân thì không còn có những sáu mươi hai thứ kiến chấp. Do tiêu tham thân nên đều trừ tất cả các pháp sở thọ, họa hoạn trần lao năm ấm sáu nhập. Do không tham thân nên không có các họa hoạn trần lao năm ấm ».
Ngài Tịch Ý thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Vì chẳng dứt trừ tham thân nên có ngô ngã ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Vì còn có ngô ngã nên chẳng dứt trừ tham thân. Vì còn có nhơn, thọ mạng nên chẳng dứt tham trước.
Cái được thấy ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, không có nơi chỗ. Suy tìm tất cả chỗ đều không có cái được thấy. Vì không có cái được thấy nên không có phân biệt. Đây thì gọi là dứt được kiến chấp tham thân, tham thân đều rỗng không.
Do trí nhu thuận pháp nhẫn hay hiểu biết pháp không nên không còn các chấp kiến kia, thân mình không có tưởng đều không có chỗ làm, không có sanh không có khởi. Đây mới gọi là nhu thuận pháp nhẫn chẳng còn các kiến chấp, là dứt tham thân.
Nầy thiện nam tử ! Nếu chẳng tham thân thì giải thoát thân không có thân.
Sao gọi là không có thân ?
Thân do bốn đai chủng hiệp thành vốn không có tên. Do biết như vậy nên hiểu là hư ngụy, nên gọi là chẳng chơn thiệt, là chẳng có được, đều do vọng tưởng mà có.
Nếu không cầu mong, chẳng vọng tưởng, chẳng mê chẳng lầm, chẳng làm chẳng ở, thì không tham sân. Vì không tham sân nên gọi là vắng lặng, là đạm bạc.
Tiêu diệt những gì mà gọi là vắng lặng ?
Tiêu các nhơn duyên là vắng lặng.
Tại sao vậy ?
Vì từ các nhơn duyên ấy mà làm cho tâm hừng hẩy. Do không nhơn duyên thì tâm chẳng hừng hẩy.
Ví như do nhơn duyên hai khúc gỗ cọ nhau nên có lửa hẩy hừng. Không gỗ không lửa thì không hẩy hừng.
Cũng vậy, do duyên đối kia làm cho tâm hừng hẩy. Do không duyên đối thì không hừng hẩy.
Lại nầy thiện nam tử ! Bồ Tát đại sĩ dùng sức phương tiện tùy thời tiêu diệt nhơn duyên mà chẳng tiêu diệt những cội gốc công đức. Chẳng hưng khởi nhơn duyên trần lao. Hưng phát các công hạnh, các ba la mật. Vứt bỏ các sự ma các nghiệp tà mà chẳng bỏ đạo hạnh nghiệp duyên của chư Phật. Bỏ nhơn Niết bàn mà chẳng bỏ ba mươi bảy phẩm đạo nghiệp. Tâm chẳng luyến ưa Thanh Văn, Duyên Giác. Chẳng bỏ đạo tâm trí chơn của Bồ Tát.Vì quán không vô mà khởi đại bi. Xét các nhơn duyên để không duyên theo tướng. Tuyên giảng chí đức, chẳng vì vọng tưởng mà mất đạo tâm. Vì không mong cầu nên nhàm các nhơn đối đãi các nạn trong ba cõi. Chỉ không co sanh duyên mà chẳng bỏ sở sanh. Không ngờ vực, tu các công đức, làm các đạo hạnh.
Đây là Bồ Tát quyền trí nhập định mà được tự tại.
Duyên vô thường ư ? Chẳng nhàm sanh tử mà được tự do, vì không chỗ sợ vậy.
Duyên có khổ ư ? Kiến lập chúng sanh nơi Niết bàn an ổn.
Duyên vô ngã ư ? Thương xót làm cho chúng sanh được an lạc, vì thi hành đại bi vậy.
Duyên hư vô ư ? Vì tâm được Như Lai tám phần chánh đạo vậy.
Duyên dục hành ư ? Vì làm thuốc thanh tịnh cho những bịnh tham ái vậy.
Ban tuyên chánh pháp ư ? Vì làm cho tâm họ an trụ vững chắc vậy.
Duyên sân hận ư ? Vì tuyên thuốc từ tâm để chúng hết sân hận vậy.
Duyên ngu si ư ? Vì chúng ngu si mà ban cho thuốc thập nhị nhơn duyên để trị tâm bịnh cho họ chẳng di động vậy.
Duyên đẳng phần ư ? Với những chúng sanh đồng đều ba sự tham sân si, đem ba pháp giáo hóa trị tâm bịnh họ, giảng thuốc vô thường vậy.
Duyên vô dục ư ? Vì muốn khai hóa hàng Thanh Văn vậy.
Rời sân hận ư ? Vì làm cho tâm họ được đứng vững nơi Duyên Giác thừa vậy.
Rời ngu si ư ? Vì khai hóa tâm họ an lập nơi Đại thừa vậy.
Duyên sắc tượng ư ? Vì tâm ấy khắp an trụ đến được thân tượng của Như Lai vậy.
Duyên âm thanh ư ? Vì tâm được an trụ thanh âm của Như lai vậy.
Duyên các hơi hương ư ? Vì tâm an lập giới hương của Như Lai vậy.
Duyên các mùi vị ư ? Vì tâm được an trụ đạo vị của Như Lai vậy.
Duyên đại nhơn tướng ư ? Vì tâm an trụ được tướng hảo trang nghiêm vậy.
Duyên mịn trơn ư ? Vì tâm an trụ được tay chưn nhu nhuyến của Như Lai vậy.
Duyên kinh pháp ư ? Vì tâm an trụ đến được ý vô sanh của Như Lai vậy. 
Duyên bố thí ư ? Vì tâm an trụ tại đầy đủ những tướng hảo vậy.
Duyên trì giới ư ? Vì tâm an trụ tại Phật độ nghiêm tịnh vậy.
Duyên nhẫn nhục ư ? Vì tâm an trụ tại phạm âm của Như Lai vậy.
Duyên tinh tiến ư ? Vì tâm an trụ ở hóa độ chúng sanh vậy.
Duyên thiền tư ư ? Vì tâm an trụ ở hưng khởi thần thông vậy.
Duyên trí huệ ư ? Vì tâm an trụ ở dứt các tà kiến, dứt lưới sáu mươi hai điều nghi chấp vậy.
Duyên từ tâm ư ? Vì với tất cả chúng sanh tâm bình đẳng chẳng cưu lòng tổn hại vậy.
Duyên xót thương ư ? Vì lập tâm cứu tế chúng sanh vậy.
Duyên hỉ duyệt ư ? Vì tâm an trụ tại ưa thích nghe pháp vậy.
Duyên xả ly ư ? Vì lập tâm vứt bỏ các họa nguy ách của kiết sự vậy.
Duyên tứ ân ư ? Vì gìn tâm khai hóa dìu dắt chúng sanh vậy.
Duyên tham sân ư ? Vì gầy dựng tất cả sở hữu để ban bố cho chúng sanh vậy.
Duyên phạm ác ư ? Vì tồn tâm an lập giới hạnh thanh tịnh của Như Lai vậy.
Duyên tranh luận ư ? Vì tâm an trụ tại trí biện của Như Lai vậy.
Duyên oán hại ư ? Vì tồn tâm an lập mười trí lực và bốn vô sở úy của Như Lai vậy.
Duyên loạn động ư ? Vì tâm an trụ đến tam muội của Như Lai vậy.
Duyên tà trí ư ? Vì tâm an lập trí ba la mật vô ngại đầy đủ cho chúng sanh vậy.
Duyên hạ thừa ư ? Vì tâm an trụ tại tích công chứa đức chí ở Đại thừa vậy.
Duyên thuận ứng ư ? Vì tồn tâm an hòa chẳng phạm các điều ác phi pháp vậy.
Duyên ác thú ư ? Vì tâm an trụ tại cứu hộ tất cả chúng sanh ác thú đọa bát nạn vậy.
Duyên chư Thiên ư ? Vì tồn tâm hiểu thị những hội hiệp đều sẽ biệt ly vậy.
Duyên chúng nhơn ư ? Vì tâm an trụ tại tất cả diệu thiện vậy.
Duyên niệm Phật ư ?Vì tập thấy chư Phật vậy.
Duyên niệm Pháp ư ? Vì tồn tâm phụng hành đạo pháp mà bỏ sự vô ích vậy.
Duyên niệm Tăng ư ? Vì gầy dựng pháp bất thối chuyển vậy.
Duyên thí cho ư ? Vì tâm an trụ chẳng rời bỏ chúng sanh vậy.
Duyên cấm giới ư ? Vì đầy đủ sở nguyện vậy.
Duyên niệm thiên ư ? Vì tồn tâm an lập đủ trọn công đức nhứt sanh bổ xứ vậy.
Duyên thân hành ư ? Vì đến được Phật thân vậy.
Duyên khẩu ngôn ư ? Vì tâm an trụ các ngôn giáo kinh điển của Phật vậy.
Duyên tâm ý ư ? Vì tồn tâm được Phật ý vậy.
Duyên hữu vi ư ? Vì tâm an trụ tại tích công chứa đức tự được đầy đủ vậy.
Duyên vô vi ư ? Vì tâm an trụ tại đầy đủ thánh huệ vậy.
Nầy thiện nam tử ! Chẳng phải từ nơi không duyên không hóa độ mà đến được đạo Đại thừa. Đều do duyên tâm mà được đến Phật đạo, được đến Nhứt thiết trí.
Nếu có Bồ Tát đều do nơi duyên hóa mà dẫn đạo Nhứt thiết trí. Đây là thiện quyền phương tiện của Bồ Tát, đều do thấy các Pháp, đều cưu lòng đến dẫn đạo Nhứt thiết trí.
Như cõi Đại Thiên chứa nhận tất cả đất đai chúng sanh cỏ cây sông biển, không thứ gì chẳng bao gồm. Tất cả đều mong nhờ nơi đó mà được sanh hượt.
Nầy thiện nam tử ! Cũng vậy, tất cả các duyên đều do Bồ Tát thiện quyền phương tiện thật hành những công hạnh thù thắng đệ nhứt đến Nhứt thiết trí.
Như các hình sắc đều có bốn đại chủng.
Cũng vậy, Bồ Tát thiện quyền phương tiện tạo lập các duyên đều đến Phật đạo.
Tại sao vậy ?
Các chúng sanh hưng khởi tội vạ, đối với Bồ Tát chẳng những không báo đền mà Bồ Tát duyên nơi đây thật hành Bố thí ba la mật liền có thể thành tựu đầy đủ Giới ba la mật.
Nếu có người giận thù cưu lòng độc hại, bấy giờ Bồ Tát thật hành Nhẫn ba la mật liền đó sung mãn Tinh tiến ba la mật.
Nếu thấy chúng sanh ở nơi ồn ào náo nhiệt, tâm họ không an ổn, duyên đây mà Bồ Tát hành Thiền ba la mật, bỗng nhiên thành tựu Trí ba la mật.
Nếu có chúng sanh che chướng tối tăm, Bồ Tát vì họ mà dứt trừ lưới kiết phược chướng ngại.
Nếu có chúng sanh siêng tu tập, Bồ Tát bèn vì họ tiêu trừ tất cả chỗ chấp trước, cúi đầu khen ngợi chỉ thị cho họ tự quy.
Với kẻ ưa chê bai hủy báng, Bồ Tát cũng tùy thuận ý của họ, làm cho họ chẳng sanh tâm hủy báng.
Nếu thấy người cần khổ bị vô số khổ não, Bồ Tát liền khởi đại bi cứu họ khỏi khổ.
Nếu thấy người an lạc, Bồ Tát rất vui mừng mà nhiếp thọ họ.
Nếu thấy những loài cang cường khó hóa độ, Bồ Tát tùy thời dìu dắt huấn thị cho họ phát đạo tâm.
Thấy người nhơn hòa, Bồ Tát ở nơi họ tu tập chí hạnh phát khởi đạo tâm cho họ.
Nếu có lực sĩ báo ứng nghiệp hạnh, Bồ Tát liền thuận nhiếp thủ dạy dỗ hiển khởi đạo tâm.
Đây gọi là tùy duyên mà được tự tại, Bồ Tát tùy thuận thiện quyền phương tiện biết rõ chúng sanh đúng thời mà thuyết pháp. Ở tại báo ứng chí nguyện ái mộ, giáo hóa khai thị phân giải, đều làm cho chúng sanh thản nhiên tinh tiến nơi đại đạo thánh huệ, vì họ mà luận nghĩa sâu xa vô thượng.
Bồ Tát tồn lòng từ rộng vì chúng sanh mà giãi bày đạo chí chơn, lần lượt vì họ mà ban tuyên chỉ dạy đạo nhơn vô thượng ấy, giải thích phân biệt chương cú. Bồ Tát lấy một cú pháp mà diễn xướng bao nhiêu nghĩa.
Với người ưa vắng lặng , Bồ Tát vì họ phân biệt quán xét tất cả. Với người ác giác quán, Bồ Tát đem quán giải thoát tam muội giảng thuyết cấm giới, lại vì họ mà tuyên giảng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Do nghe pháp ấy mà hiểu sự vô thường không cứu không hộ, khiến họ cầu đạo hộ.
Nếu người có chánh định, Bồ Tát vì họ mà luận Huệ ba la mật.
Với người ham mộ ở rảnh rang, Bồ Tát giáo hóa họ tịnh thân khẩu ý.
Với người biết tri túc, Bồ Tát vì họ mà hiển phát hạnh nghiệp công đức của thánh hiền.
Với người có quan niệm tự đại ngu tối, Bồ Tát sẽ vì họ tuyên bố tinh tiến học rộng nghe nhiều.
Với người tham dục, Bồ Tát chỉ bảo cho họ biết họa hoạn bất tịnh vô ích.
Với người hay giận thù, Bồ Tát khuyên họ phát tâm từ chẳng cưu lòng oán hại.
Với người ngu lầm, Bồ Tát dạy họ pháp thập nhị nhơn duyên phát khởi sanh tử.
Với người đẳng phần phiền não, Bồ Tát vì họ diễn nói vô thường, khổ, không, vô ngã.
Với người ham mê sắc dục, Bồ Tát giảng dạy sự bất tịnh.
Với người nhơn từ đến nỗi ngu tối không hiểu biết, Bồ Tát vì họ chỉ bảo sự duyên khởi tội lỗi.
Với người tà kiến, Bồ Tát vì họ quyết rõ pháp không vô.
Với người cưu lòng hy vọng, Bồ Tát diễn nói hạnh không vọng tưởng.
Với người cố chấp nơi thệ nguyện, Bồ Tát dạy họ không nguyện cầu.
Với người ưa nơi ngũ cái, Bồ Tát vì họ phân tích năm ấm như huyễn như hóa hư ngụy không thiệt.
Với người tham chấp các đại chủng, Bồ Tát vì họ giải rõ bốn đại chủng mười tám giới như bóng, do hình chiếu mà hiện.
Với người dựa theo các nhập, Bồ Tát giảng nói mười hai thứ nhập, trong sáu căn, ngoài sáu trần đều chẳng phải sở hữu của ta. Như cảnh chiêm bao lúc thức không còn có.
Với người nương cõi dục, Bồ Tát vì họ giảng nói phân biệt tất cả vạn vật đều về nơi vô thường.
Với người nắm lấy cõi sắc, Bồ Tát vì họ diễn nói tất cả hạnh nghiệp chúng sanh đều là gốc phiền não.
Giả sử có người binh vực cõi vô sắc, Bồ Tát tuyên bố tất cả các pháp đều không có vô ngã.
Với người khó hóa độ, Bồ Tát bảo họ siêng tu tập pháp hiền thánh.
Với người dễ hóa độ, Bồ Tát sẽ vì họ khai thị pháp vô thượng chí chơn.
Với người muốn sanh ở cõi trời cõi người, Bồ Tát vì họ ca ngợi giới phẩm thanh tịnh.
Với người thích Thanh Văn thừa, Bồ Tát chỉ thị tứ đế : khổ, tập, diệt, đạo.
Với người mộ Duyên Giác thừa, Bồ Tát khai thị mười hai nhơn duyên lấy vô minh làm gốc.
Với người học hạnh Đại thừa, Bồ Tát nhơn đó lưu bố sáu ba la mật, bốn đẳng, bốn ân để dắt dẫn họ. 
Với người mới phát tâm, Bồ Tát xem xét chí tánh của họ mà dạy dỗ.
Với người đủ các công hạnh chẳng nhàm sanh tử, Bồ Tát chỉ dạy pháp không nạn để họ được chẳng thối chuyển.
Với người bất thối chuyển, Bồ Tát nhơn đó phân biệt nói Phật độ thanh tịnh.
Với bực nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát đại nhơn, Bồ Tát hiển thị đạo tràng Bồ đề chí chơn. 
Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát được tự tại theo duyên giáo hóa tuyên bố đạo pháp không có sai lầm, dùng ngôn từ khéo léo làm vui đẹp lợi ích chúng sanh ».
Lúc đó đức Thế Tôn nói lời trên đây, trong pháp hội có một vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ trong chúng hội có các Bồ Tát nghĩ rằng Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy bao giờ thành Phật ? Lúc ông ấy thành Phật hiệu là gì ? Quốc độ ấy tên gì ? Công đức nghiêm tịnh thuộc về loại gì ? Thành tựu chúng Bồ Tát thế nào ?
Đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát liền mỉn cười. Vô số ức trăm ngàn tia sáng từ miệng đức Phật phóng ra chiếu thấu vô hạn thế giới mười phương che ánh sáng của mặt trời mặt trăng, trùm cung điện của ma. Những tia sáng ấy trở về nhiễu vòng quanh đức Phật vô số vòng rồi từ đỉnh đầu đức Phật mà thâu vào.
 Tịch Ý Bồ Tát liền đứng dậy trịch vai áo phía hữu chắp tay lễ Phật, nói kệ ca ngợi để hỏi ý cười của đức Phật :
“ Cao vọi như núi vàng
Diệu quang sạch bụi trần
Tâm Phật vững vắng lặng
Như mặt trời trên không
Tia sáng ấy rất sáng
Tiêu trừ các tối tăm
Cớ chi hiện như vậy
Xin Thế Tôn giải bày
Sạch sẽ như hoa sen
Mọc ở trong bùn sình
Gốc cọng ở trong nước
Lớn lên không cấu nhơ
Công đức rất thơm tho
Ý niệm càng rộng xa
Chỉ nên an nhiên nói
Cớ chi lại vui cười
Tâm trí Phật an ổn
Vắng lặng và nhu hòa
Lòng từ càng thêm lớn
Tiêu trừ những cấu uế
Dùng ánh sáng trí huệ
Trừ bỏ các tối tăm
An trụ như hoa sen
Vứt bỏ các hồ nghi
Thêm thương tu đạo tràng
Phụng hành được tự tại
Miệng Phật phóng quang minh
Khô cạn các ái dục
Khai hóa các chúng sanh
Cho mắt họ sáng sạch
An trụ tiêu nghịch tặc
Trừ bỏ những tội lỗi
Khắp tất cả chúng hội
Chư Thiên và mọi người 
Ngưỡng nhìn tướng mạo Phật
Có chi Phật vui cười ?“.
Đức Phật bảo Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Ông có thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ấy chăng ? »
Ngài Tịch Ý Bồ Tát thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy ông ấy ».
Đức Phật dạy : « Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ sẽ cúng dường chư Như Lai ở Hiền Kiếp, hộ trì chánh pháp, khai thị lợi ích vô lượng chúng sanh.
Từ thân ấy chết, ông ấy sẽ sanh về nước Diệu lạc của đức Phật A Súc. Từ đó về saư gặp vô số chư Phật, tịnh tu phạm hạnh.
Qua khỏi số kiếp ấy, ông ấy chứa nhóm công đức sẽ thành Phật hiệu Kim Cang Bộ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên Phổ Tịnh. Kiếp hiệu Nghiêm Tịnh. Cõi nước Phổ Tịnh hiệp bảy báu làm thành, nhơn dân giàu vui đông đảo như cung trời Đâu Suất. Cõi nước ấy không có ba ác đạo và tám chỗ nạn, trời và người chẳng riêng biệt, tất cả đều mộ Phật đạo vi diệu. Cõi ấy không có hai thừa, không có tên Thanh Văn, Duyên Giác, thuần là Bồ Tát.
Đức Kim Cang Bộ Như Lai tuyên thuyết pháp Đại thừa bất thối chuyển. Chúng Bồ Tát ở cõi Phổ Tịnh đông chẳng thể tính đếm hạn lượng được. Cõi ấy không có người tánh ác ganh ghét phá giới tà kiến. Người cõi ấy mến thích Phật Pháp, tâm tánh hiền hòa , đều đủ hai mươi tám tướng tốt trang nghiêm thân thể.
Đức Kim Cang Bộ Như Lai tại thế thọ tám tiểu kiếp, thường vì chúng hội trời người thuyết pháp, thân phóng quang minh chiếu khắp cõi nước. Các hàng trời người được quang minh Phật chiếu đến đều được giải quyết các điều nghi khen ngợi chánh pháp, về theo đức Phật. Mọi người nghĩ rằng tôi phải đến chỗ Phật để học hỏi kinh điển. Có người dùng thần thông của mình đi đến chỗ Phật. Có hàng hữu học nương oai thần của Phật mà đến.
Đức Phật Kim Cang Bộ ở trên hư không cách mặt đất trăm ngàn nhẫn tuyên cáo pháp âm khắp mười phương làm vui đẹp tất cả những người đến dự hội. Chỉ tuyên pháp Đại thừa Vô thượng đại đạo cho chư Bồ Tát.
Cõi nước Phổ Tịnh ấy không một ai chống báng lời giáo huấn của đức Phật.
Cõi nước ấy không có vua chúa, chỉ có đức Phật Thế Tôn là vị Pháp Vương. 
Ở cõi nước ấy, tất cả nhơn dân đều có trí huệ, không chấp ngô ngã, không có ngã sở, chẳng làm chủ nhà ruộng riêng. 
Do lòng từ xót thương của đức Phật, chiều tối người cõi nước ấy thấy đức Kim Cang Bộ Như Lai hiện thân tượng đắp y mang bát đứng trước nhà mình, liền tự nghĩ đức Như Lai thương tôi muốn đến nhà tôi thọ trai. Đêm ấy họ sắm sửa thức ăn, trần thiết ghế bàn. Sáng hôm sau đến giờ ngọ trai, đức Phật và Thánh chúng đến nhà họ thọ trai xong, sau khi rửa tay, đức Phật vì người nhà thí chủ mà thuyết kinh pháp. Thí chủ ấy được pháp bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh Giác. Thuyết kinh xong đức Phật trở về tinh xá.
Nếu đức Phật ngồi yên nơi tịnh thất, chư Bồ Tát cõi ấy đều theo pháp tam muội của mình đã được mà tu tập.
Nầy thiện nam tử ! Cõi nước của đức Phật Kim Cang Bộ có công đức trang nghiêm thanh tịnh thù đặc dường ấy ».
Lúc đức Thế Tôn nói lời thọ ký cho Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, trong chúng hội có hai vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề phát nguyện sanh về cõi nước ấy.
Đức Phật thọ ký rằng lúc đức Phật Kim Cang Bộ thành đạo, trong đại chúng đây ai nguyện được thấy thì đều sẽ được sanh về cỏi Phổ Tịnh ấy, và sẽ được đức Phật ấy thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Nghe đức Phật thọ ký, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vui mừng hớn hở dồi chày kim cang đang cầm lên hư không. Liền đó khắp cõi Đại Thiên chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu mươi phương, hoa trời tuôn xuống như tuyết rơi, các thứ âm nhạc tự nhiên trổi lên.
Tay mặt của tất cả mọi người trong pháp hội tự nhiên có nhiều thứ hoa hương phan long xinh đẹp, đều cầm lấy mà đi.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cầm hoa hương phan lọng đi vòng quanh đức Phật nói kệ ca ngợi rằng :
« Pháp rộng khắp tự tại
Pháp tạng chẳng cùng tận
Thuyết pháp rất rành rẽ
Lợi ích cho chúng sanh
Phật trao phó cho tôi
Thường thích dùng pháp khí
Phụng hành đúng chánh pháp
Nguyện tự quy Phật đạo
Trí huệ hay thanh tịnh
Công hạnh đã sáng suốt
Danh hiệu thấu ba đời
Công đức trọn rốt ráo
Trí Phật suốt ba chỗ
Thánh đức không chấp trước
Tự tại độ chúng sanh
Giáo hóa khỏi khổ ách
Thanh tịnh như mặt nguyệt
Dung nhan rất sáng rỡ 
Chiếu đến chỗ rất xa
Dường như mặt trời sáng
Phật âm rất diệu hòa
Như tiếng trời Phạm Thiên
Từ bi tuyên lời dạy
Kính lễ đấng chí tôn
Tự hiển hiện thân hình
Thị hiện có thọ mạng
Xin Phật tuyên pháp âm
Diễn nói các văn tự
Dầu diễn nói kinh pháp
Nhưng không niệm có pháp
Dầu độ khắp chung sanh
Nhưng không tưởng có nhơn
Thế Tôn thương giáo hóa
Ai bảo được ơn Phật
Giả sử tất cả chúng
Chứa đức vô lượng kiếp
Chỉ thưa hỏi Phật pháp
Chí chẳng ở nghiệp khác
Mình phụng hành Phật hạnh
Lại dạy bảo người khác ».
Nhiễu Phật và chúng hội đủ bảy vòng, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cầm các thứ hoa và lọng báu tung lên cúng dường đức Phật. Vừa lúc tung hoa, khắp tứ thiên hạ tự nhiên hóa sanh bao nhiêu thứ hoa trang nghiêm tám lớp đường sá, những ao nước tám vị công đức, nương oai thần của Phật, không đâu là chẳng khắp.
Tịch Ý Bồ Tát hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Đức Như Lai đã thọ ký Phật đạo cho Ngài ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đáp : « Ngài đã thấy đức Phật thọ ký. Sự thọ ký ấy tự nhiên như chiêm bao ».
Hỏi :
« Ngài được thọ ký là đến chỗ nào ? ».
Đáp :
« Chỗ được thọ ký ấy là không chỗ đến ».
Hỏi :
« Chẳng đến chỗ nào ? ».
Đáp :
« Chẳng đến vô ngã, chẳng được nhơn và thọ mạng, chẳng được năm ấm, sáu trần, bốn đại chủng, chẳng thấy công nghiệp độ đời hiện tại, chẳng đến các tội cùng chẳng tội, không có lậu và vô lậu, không có trần lao sân hận, không có hữu vi và vô vi, không có sanh tử và Niết bàn, tất cả đều chẳng đến mới gọi là thọ ký ».
Hỏi :
« Nếu không chỗ đến thì ai được thọ ký ? ».
Đáp :
« Không chỗ đến ấy mới gọi là đến ».
Hỏi :
« Nếu không ngô ngã thì ai được thọ ký ? ».
Đáp :
« Người thọ ký và người được thọ ký đều bình đẳng, bổn tế không có hai, không có khác ».
Hỏi :
« Nếu không bổn tế, thì ai được thọ ký ấy ? ».
Đáp :
« Bổn tế không sanh, cũng không diệt, không có hai. Do bổn tế ấy mà ngày nay được thọ ký ».
Hỏi :
« An trụ bổn tế nào mà được thọ ký ? ».
Đáp :
« An trụ nơi tự nhiên, bổn tế không hai, bổn tế không ngã, không nhơn, không thọ mạng, an trụ nơi tự nhiên mới gọi là được thọ ký ».
Hỏi :
« Ngô ngã bổn tế an trụ chỗ nào ? ».
Đáp :
«An trụ nơi đức Như Lai an trụ ».
Hỏi :
« Không chỗ hay biết là biết chỗ nào? ».
Đáp :
« Chỗ hay biết ấy, là không chỗ biết ».
Hỏi :
« Nếu không chỗ bảo nói là không chỗ nói, giả sử không chỗ nói thì dạy những gì ? ».
Đáp :
« Dạy không chỗ dạy ».
Hỏi :
« Thế nào là dạy không chỗ dạy? ».
Đáp :
« Tất cả các pháp đều không chỗ dạïy ».
Hỏi :
« Giả sử không chỗ dạy thì làm sao biết đó ? ».
Đáp :
« Giả sử không chỗ dạy thì chỗ biết dường ấy ».
Hỏi :
« Thế nào là dạy chỗ biết ? ».
Đáp :
« Chẳng hỏi chỗ biết ».
Hỏi :
« Thế nào là chẳng hỏi chỗ biết? ».
Đáp :
« Tâm không phóng dật ».
Hỏi :
« Thế nào là tâm không phóng dật? ».
Đáp :
« Tự về nơi yếu nghĩa».
Hỏi :
« Thế nào là tự về nơi yếu nghĩa? ».
Đáp :
« Chẳng thấy vô nghĩa ».
Hỏi :
« Sao gọi là chẳng thấy vô nghĩa? ».
Đáp :
« Chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa mới gọi là nghĩa ».
Hỏi :
« Sao gọi là chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa mới gọi là nghĩa? ».
Đáp :
« Chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa ấy là đạo nghĩa ».
Hỏi :
« Nếu lấy vô nghĩa thì chẳng thành pháp nghĩa ư ? ».
Đáp :
« Pháp nghĩa ấy sao lại là nghĩa ! Tại sao vậy ? Người xu hướng nơi nghĩa thì là phi pháp, chẳng thành là pháp ».
Hỏi :
« Thế nào là pháp? ».
Đáp :
« Pháp không âm hưởng mới gọi là pháp ».
Hỏi :
« Pháp không âm hưởng sao gọi là pháp? ».
Đáp :
« Nơi pháp ấy không có văn tự mới gọi là pháp. Pháp ấy không chỗ được. Pháp ấy không âm thanh, không ngôn từ ».
Hỏi :
« Sao gọi là chỗ đến? ».
Đáp :
« Như chỗ đến được, đây mới gọi là tất cả không đến. Rời lìa nơi có được, nên gọi là tôi đến được Như Lai. Tu tập các pháp mới có thể đến được. Có thể dứt bặt tâm vô ngã. Tất cả chỗ tuyên bày là ánh sáng của trí huệ. Nhơn nơi văn tự ấy mà tuyên bày công nghiệp của Như Lai. Chẳng lấy không đến, Chẳng lấy sẽ đến ».
Hỏi :
« Chỗ đến ấy, chỗ nào chẳng được ? ».
Đáp :
« Lời nói từ nơi miệng là chẳng được vậy. Lời nói từ nơi miệng, trong tâm dựa theo văn tự thì là chẳng được ».
Hỏi :
« Thế nào gọi là được ? ».
Đáp :
« Không chỗ đến ấy, không chỗ dạy ấy. Không chỗ dạy ấy, biết thì là chẳng tự chẳng biết tha. Chẳng biết tự chẳng biết tha mới gọi là được ».
Hỏi :
« Chẳng được thì cái gì làm căn bổn nó. Còn được thì cái gì làm căn bổn nó ? ».
Đáp :
« Sở thọ là căn bổn ».
Hỏi :
« Cái gì làm căn bổn của sở thọ ? ».
Đáp :
« Chỗ dựa nhờ làm căn bổn ».
Hỏi :
« Cái gì làm căn bổn của chỗ dựa ? ».
Đáp :
« Hư ngụy vọng tưởng làm căn bổn ».
Hỏi :
« Cái gì làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng ? ».
Đáp :
« Trần lao làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng ».
Hỏi :
« Chỗ nào làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng trần lao ? ».
Đáp :
« Luyến trước làm căn bổn ».
Hỏi :
« Những gì làm căn bổn của luyến trước ? ».
Đáp :
« Sắc thanh hương vị xúc làm căn bổn ».
Hỏi :
« Chỗ gì là cội gốc luyến trước ? ».
Đáp :
« Ân ái kiết tập gọi là cội gốc luyến trước. Ở nơi những chỗ luyến trước ấy mà không luyến mộ thì gọi là không luyến trước ».
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ân ái kiết tập ấy, tìm cầu chỗ luyến trước thì vĩnh viễn không có chỗ luyến trước vậy ».
Lúc đức Phật Thế Tôn thọ ký cho Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ và lại ban tuyên nói lại pháp ấy, trong chúng hội có năm trăm vị Tỳ Kheo được lậu tận ý giải, hai trăm vị Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ được đức Phật thọ ký cho, sở nguyện đã đủ, chỗ mong đã toại, vui mừng vòng tay thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Ngưỡng vọng đấng Đại Thánh quang lâm đến cõi Khoáng Dã quốc độ Quỷ Vương tại cung xá Mật Tích của tôi thọ trai bảy ngày. Tôi cũng kính thỉnh chư Bồ Tát và chư đại Thanh Văn cùng đến bỉ xá thọ bữa ăn mọn bảy ngày.
Tại quốc độ Khoáng Dã Quỷ Vương, các chúng quỷ thần yêu mî, Càn Thát Bà, Ma Hầu La già và những chúng sanh khác được thấy đức Phật Thế Tôn và chư Hiền Thánh, được nghe kinh pháp tất sẽ được mãi mãi an vui không có các họa hoạn, bèn sẽ bỏ lòng sân hận độc hại trái nghịch.
Tứ Thiên Vương cùng quyến thuộc đến cõi Khoáng Dã Quỷ Vương nếu được thấy đức Như Lai nghe thuyết pháp tất sẽ được an hòa chẳng bị ách nạn ».
Vì lòng xót thương và muốn khai hóa vô số chúng sanh khiến họ vun trồng cội công đức nên đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh bảy ngày cúng dường của Mật Tích.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thấy đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh của mình, lòng vui mừng hớn hở cúi lạy chưn Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi lui đi, bỗng nhiên ẩn mất trở về nước Khoáng Dã nơi cung xá của mình.
Sau khi đến cung xá, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tự nghĩ rằng :
Tôi nên vì đức Thế Tôn mà trang nghiêm cung điện cho hàng chư Thiên cõi dục cõi sắc được chưa từng có, chư Bồ Tát ở các thế giới mười phương đều vui mừng. Tôi còn nhớ thuở trước một đêm ôm ấp chí nguyện tôn thờ đạo pháp chẳng thể nghĩ bàn, nay cũng sẽ như vậy.
Phương Đông cách đây hằng hà sa quốc độ có thế giới tên là Vô lượng Bửu Đức Tịnh. Đức Phật ở cõi đó hiệu là Tịnh Vương. Tôi nên mượn tòa sư tử cao lớn trang nghiêm thanh tịnh ở cõi ấy.
Lúc ấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nhập tịnh bửu vương tam muội. Liền đó tòa sư tử cao lớn trang nghiêm tốt đẹp như ở quốc độ Vô lượng Bửu Đức Tịnh bỗng nhiên hiện đến nước Khoáng Dã Quỷ Thần Vương. Từ Đông đến Tây hai ngàn bốn trăm tám mươi dặm, từ Nam đến Bắc một ngàn hai trăm tám mươi dặm dùng lưu ly, thủy tinh và xà cừ làm đất. Vô lượng hương thơm rải khắp nơi. Có vô số lò hương báu đốt hương thù diệu. Rải các hoa trời. Trần thiết bao nhiêu là phẩm vật cực hảo màu sắc đẹp sáng làm vui đẹp lòng người, làm thư thái thân người.
Bốn bên tòa sư tử cao quý trang nghiêm ấy lại tự nhiên có ức trăm ngàn triệu vô số những tòa sư tử : các báu làm chưn làm bao lơn, vô số thiên y trải lên trên, những hoa sen báu, những trân châu thanh tịnh và các thứ báu đặt khắp trên đất.
Trần thiết vô lượng tòa sư tử cao lớn trang nghiêm thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn như thế xong, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ từ tam muội an tường xuất định, liền trong đêm ấy sắm sửa những thức ăn uống lành ngon.
Trần thiết sắm sửa đã xong tất cả, đêm còn chưa sáng, Lực Sĩ cáo với Tứ Thiên Vương rằng : « Các Ngài nên biết ngày hôm nay đức Thế Tôn sẽ đến cung xá tôi thọ trai thỉnh bảy ngày. Chư Bồ Tát và hàng Thanh Văn cũng cùng đến.
Các Ngài chớ nên phóng dật. Phật rất khó gặp, ức đời mới có. Đều phải nhứt tâm nhàm tục mộ đạo cung kính phụng Phật, để được khỏi sanh tử đến nơi chí đạo, chánh pháp khó được nghe, thời cơ cũng khó được gặp. Ba cõi không cậy được, chỉ có đạo được nhờ như hư không khắp nơi không chướng ngại. Chớ để loạn tâm phóng dật. Nên cùng quyến thuộc cúng dường đức Phật bảy ngày. Chớ dựa nơi thân tâm, nên lấy đạo làm gốc. Chớ theo việc khác mà tổn trái đạo giáo, nên chuyên tinh nhứt tâm cúng dường đức Như Lai. Khiến cho cõi nước của Vương, chư Thổ Địa Quỷ Thần, Càn Thát Bà v.v... đều quy y Phật, kính nghe đạo pháp.
Các Ngài nên rõ, đã thỉnh đức Thế Tôn cúng dường quy mạng rồi siêng nghe đức Thế Tôn thuyết pháp để tuyên bố khắp nơi cho tất cả đều được lợi ích. Như vậy mới gọi là báo đáp ân đức Phật ».
Mật Tích Lực Sĩ có hai người con trai tên là Mật Binh và Thiện Phần.
Lực Sĩ bảo con trưởng Mật Binh rằng : « Ngươi đi bố cáo khắp cả địa thần, hư không thần, trời Tứ Thiên Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, lên đến trời Thiên Ma, cho tất cả đồng hay rằng ngày hôm nay đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn sẽ đến cõi nước Khoáng Dã Quỷ Vương tại cung xá Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thọ thỉnh cúng dường. Chư Bồ Tát và hàng Thanh Văn cũng đồng đến. Ai muốn thấy Phật nghe pháp thì đến dự hội ».
Thái tử Mật Binh lãnh lịnh, giây lát đã truyền rao khắp nơi.
Lực Sĩ lại sai con thứ Thiện Phần dùng thần thông đi bố cáo khắp các cõi trời sắc giới, từ trời Sơ Thiền Phạm Chúng Thiên đến trời Tứ Thiền Sắc Cứu Cánh Thiên, rằng ngày hôm nay đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ đến thọ cúng dường tại cung xá của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ở nước Khoáng Dã Quỷ Vương. Ai muốn thấy Phật nghe pháp thì đến dự hội.
Thiện Phần lãnh lịnh, giây lát đã truyền rao khắp trời cõi sắc.
Trong khoảnh khắc sau, chư Thiên cõi dục và vhư Thiên cõi sắc đồng đến dự hội dừng ở hư không ngồi theo thứ tự khắp một khoảng ngang rộng trên dưới đều bốn muôn dặm.
Hội trường đã trần thiết trang nghiêm sắm dọn xong, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vòng tay hướng về phía đức Phật đang ngự mà bạch vói rằng : « Giờ thọ trai đã đến, xin đức Phật Thế Tôn cùng chư Hiền Thánh chúng quang lâm ».
Lực Sĩ nói kệ rằng :
« Đại Thánh Lưỡng Túc Tôn
Trên hết trong trời người
Nay trai thời đã đến
Thỉnh đức Phật quang lâm
Giới đức như sen nở
Tinh tiến căng tăng trưởng 
Tàm quý trên chở che
Đấng tối thắng đoái thương
Kiến lập nơi Thánh đế
Từ bi ban ơn lớn
Không ngã không ngã sở
Đấng Sư Tử đoái thương
Giới hạnh học nghe rộng
Hoa giác ý xinh tươi
Trái giải thoát đầy đủ
Cây thù thắng quang lâm
Công đức lớn hơn biển
Ý Phật sâu lại rộng
Định trong sạch là ý
Hạnh tinh tiến vững mạnh
Từ bi làm đạo tràng
Chuỗi trí huệ trang nghiêm
Bổn huệ sáng mở tỏ
Xin Đại Thánh từ cố
Trí vô động đệ nhứt
Dùng dược thọ chữa bịnh
Học vô học thạnh sáng
Đấng tối thắng quang lâm ».
Đức Thế Tôn thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ bạch đã đến giờ liền bảo đại chúng nên sớm chuẩn bị đắp y cầm bát đến chỗ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ bảy ngày thọ thỉnh.
Trong hàng Thanh Văn và chư Bồ Tát, những vị có thần thông thì tự dùng thần lực đi theo đức Phật, những vị không có thần thông thì đứng vào trong ánh sáng của đức Phật, nương oai thần của đức Phật đều được đi cả.
Lúc đức Phật lên đường, chư Bồ Tát đi trước dẫn đường, chư Thanh Văn đi hầu phía sau, chư Thiên, Long Thần cầm hoa hương kỹ nhạc chầu chực trên không, chư Thiên Nữ nói kệ ca ngợi đức Phật rằng :
 « Vui mừng phát quang minh
Âm nhạc tự nhiên vang
Trời mưa các thứ hoa
Chấn động cả thế giới
Phật oai đức rất lớn
Thần thông ba la mật
Phật biến hóa vô hạn
Rất mừng được thấy Phật
Phật cát tường vô lượng
Phật Thần Thánh vô biên
Phật oai nghi vô cùng
Phật công đức vô hạn
Đi đến Linh Thứu sơn
Tại trong tám núi lớn
Bay kên giữa hư không
Vô ngại như nhạn vương
 Chư Thiên cõi dục và chư Thiên cõi sắc thấy đức Phật Thế Tôn từ hư không mà đến dường như mặt trời sáng hiện trong nước, như mặt trăng tròn đứng giữa các vì sao, chư Thiên Đế tôn quý trong hàng chư Thiên, như Phạm Vương chói che chúng hội, tất cả đều rất vui mừng liền rải bao nhiêu thứ hoa trời xanh vàng đỏ trắng cúng dường đức Phật. Những là ý hoa, đại ý hoa, nhu nhuyến hoa, đại nhu nhuyến hoa, trú dạ thọ hoa, ly cấu hoa, những thứ hoa trăm cánh, ngàn cánh đến trăm ngàn cánh. Chư Thiên cũng nổi mây rải các thứ hương trời : thiện diệu hương, thường huân hương, ô diên hương, thường hữu hương. Đồng thời cũng trổi âm nhạc trời.
Giây lát đức Phật cùng chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn đến nước Khoáng Dã Quỷ Vương thuộc cõi của Tứ Thiên Vương dừng lại tại cung điện của họ.
Lúc đức Phật vừa dừng bước thì cả đại địa chấn động có ánh sáng chiếu khắp mười phương.
Tứ Thiên Vương thấy đức Phật đến, vội vàng cùng quyến thuộc mang hoa hương phan lọng trổi nhạc đờn ca đến trước đức Phật đảnh lễ đi vòng bên hữu ba vòng rồi rải hương hoa cúng dường, xong rồi đứng qua một phía.
Đức Thế Tôn vì Tứ Thiên Vương mà ban tuyên kinh pháp. Một vạn ba ngàn quỷ thần yêu mị phát tâm Vô thượng Bồ đề. Một vạn ngọc nữ cũng phát tâm như vậy.
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cùng các con, cung nhơn thể nữ và quyến thuộc cầm hương hoa phan lọng trổi nhạc đến chỗ đức Phật đảnh lễ đi nhiễu bên hữu bảy vòng, rồi rải hoa rải hương cúng dường, tất cả đều theo thứ tự mà ngồi.
Tòa sư tử của đức Phật ngự cao lớn trang nghiêm hơn cả.
Chư Bồ Tát và hàn Thanh Văn vẫn ngồi nơi chỗ của mình.
Chư Thiên cõi dục và chư Thiên cõi sắc thấy những tòa sư tử được trần thiết ấy rất cao lớn trang nghiêm thì lấy làm lạ nghĩ rằng sao Mật Tích Lực Sĩ tìm đâu những tòa sư tử báu đẹp trang nghiêm huyền diệu thù thắng thế nầy ?
Thừa oai thần của đức Phật, ở trên không tự nhiên có tiếng bảo :
Các Ngài muốn biết ư ! Phương Đông cách đây quá hằng hà sa quốc độ có thế giới tên là Vô Lượng Tịnh, Phật hiệu là Tịnh Vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác. Mật Tích Lực Sĩ đã từng thấy cõi vi diệu trang nghiêm thanh tịnh ấy. Nay vì pháp mà trưng vời những tòa cao vọi rất vi diệu vấy.
Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật vừa ngồi lên tòa sư tử cao rộng xong, trong nước Khoáng Dã Quỷ Vương chúng quỷ thần yêu mị, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già đồng đến lễ Phật rồi đứng qua một phía vòng tay cung kính. 
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Tứ Thiên Vương và những chúng đến dự hội rằng : « Thưa các Ngài ! Nay những thứ ăn uống đã sẵn sàng, các Ngài nên cùng tự tay cần mẫn dâng cúng lên đức Phật và chư Bồ Tát Thánh chúng. Tại sao vậy ? Vì những lời đức Phật đã dạy, nếu ai có thể hoan hỉ tá trợ hưng công cúng dường thì được vô lượng phước. Đối với thí chủ, phước cũng chẳng giảm ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cùng các con và cung nhơn quyến thuộc tự tay sớt thức ăn lành ngon nhứt tâm cung kính dâng cúng đức Phật và Thánh chúng.
Đức Phật và chư Bồ Tát Thánh chúng đều được sung mãn.
Ăn uống xong, dâng nước rửa. Sau đó Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ kê chiếc ghế nhỏ ngồi ở trước đức Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Mong đấng từ bi phải thời thuyết pháp cho các loài chúng sanh rõ được đạo vô sanh. Người chưa phát tâm được phát đạo tâm. Người đã phát đạo tâm được lên bực bất thối chuyển. Cũng làm cho chúng quỷ thần yêu mị Càn Thát Bà đây mãi mãi được an ổn không họa hoạn vui hòa nhơn từ. Chư Thiên, người đời cùng chúng sanh trong ba cõi được tâm nguyện thù tuyệt siêu việt thế gian ».
Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ và toàn thể đại chúng : «Lắng nghe ! Lắng nghe ! Phải khéo suy gẫm. Nếu thiện nam thiện nữ nhập được pháp môn an trụ bền vững, thì được tâm nguyện thù đặc không chỗ phân biệt sai thất ».
 Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cùng đại chúng vâng dạ lắng nghe.
Đức Phật phán dạy : « Nếu thiện nam thiện nữ dốc lòng ngưỡng tín khéo theo đạo pháp nhiều sự thuận nghi muốn thấy các bực Hiền Thánh để được nghe pháp, lòng chẳng ghét ganh, chẳng lẫn tiếc, giơ tay bố thí, bỏ thối quen thích theo thế tục, chỗ phước bố thí chẳng mong báo đáp, chẳng cưu lòng não hại, ý chí trong sạch chuyên tinh nhứt tâm chẳng hề bạo dữ, tin nhơn quả báo ứng, ưa thích nghiệp lành chẳng có hồ nghi dụ dự, thấy rõ lý thanh bạch biết quả chẳng mất. Thà bỏ thân mạng chớ chẳng phạm tội ác. Luôn nhơn từ không giết hại, không trộm cướp, chẳng tà dâm, chẳng phạm vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu và ỷ ngữ, chẳng ghen ghét, giận thù và si mê. Chẳng phạm mười ác mà hành mười lành, cũng khuyên người khác làm như vậy. Thường bình đẳng thành tín thấy hàng Sa Môn phụng trì giói hạnh tinh tiến tu hành tư duy tu tập, đúng nghĩa tiết, vắng lặng đạm bạc, chẳng luyến trước, chẳng tà ngữ, chí tánh nhơn từ, rời bỏ pháp ác sốt bạo, chói sáng như ngọn đuốc, tâm tánh bình hòa, không nói lời khinh hủy, bỏ tuyệt nhủ nghê, dứt rời tâm đường đột phiền não, luôn luôn huệ thí.
Thường cung kính tôn trọng các bực Sa Môn thanh tịnh ấy đồng như Phật và đệ tử Phật. Thường theo hầu cận khiêm hạ đảnh lễ chẳng làm trái ý.
Thường phụng sự các thiện tri thức ấy. Do vì mến pháp nên dùng pháp thí cứu tế nguy ách, ban tuyên chánh pháp để giáo hóa người : bố thí được giàu, trì giới sanh thiên, nghe rộng thêm trí, tu hành hiệp đạo, bố thí thì của nhiều, xan tham thành ngạ quỷ, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến nhứt tâm và trí huệ thì lần nhập đạo pháp, phạm giới thì đọa địa ngục, giận hờn thì xấu xí, lười biếng thì bỏ đạo, loạn tâm thì sanh tội, ngu si thì tối tăm. Đó là do nơi thân, nơi khẩu, nơi ý mà có quả báo.
Ba nghiệp phạm ác thì mãi mãi chẳng an, sa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Giữ gìn ba nghiệp chẳng phạm thì sanh lên trời sanh trong người, ở chỗ chư Phật, mãi mãi an vui không có họa hoạn.
Phải vì mọi người mà khai thị quả báo tội phước, chỗ kết quả của điều thiện ác.
Nếu thấy người có thiện căn pháp khí, thì vì họ mà giảng pháp sâu xa, những pháp không, vô tướng, vô nguyện, đi không chỗ đi, đến không chỗ đến, không ngã, không nhơn, không thọ, không mạng.
Vì họ mà phân biệt pháp áo diệu mười hai nhơn duyên : do dựa vào sự nầy nên có sự kia sanh, nếu chẳng dựa vào sự nầy thì sự kia chẳng sanh, do đây mà thành kia, chẳng do thì chẳng thành.
Do vô minh mà thành hành, do hành mà thành thức, do thức mà thành danh sắc, do danh sắc mà thành lục nhập, do lục nhập mà thành xúc, do xúc mà thành thọ, do thọ mà thành ái, do ái mà thành thủ, do thủ mà thành hữu, do hữu mà thành sanh, do sanh mà thành lão tử thân tứ đại ngũ ấm rất khổ.
Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì không có lão tử khổ lụy vì ngũ ấm tứ đại, mà mãi mãi an vui, không còn họa hoạn. Bởi diệt dứt hết thì không còn có. Tại sao vậy ? Vì khởi cái nầy thì sanh cái kia, không khởi cái nầy thì không có cái kia.
Cũng như trồng cây mới sanh chồi rễ cội nhánh lá bông trái. Nhổ cây không chồi thì đâu còn nhánh lá bông trái nữa.
Tỏ ngộ đế lý không có vô minh không còn chấp trước thì chẳng còn gì kéo níu sanh khởi mười hai chi.
Tất cả đều do duyên mà đối sanh. Không có duyên thì không có đối sanh.
Cả ba cõi đều vốn không, đều từ không mà sanh, đều từ có mà tử.
Vì chẳng thấu đạt không vô mà cho rằng từ nơi có mà thành ra sanh, chẳng biết có ấy rỗng không, do chấp lấy có ngã mà thành ra tử vậy.
Biết không thì chẳng sanh. Rõ có thì chẳng tử.
Vì tội nó theo, trần lao nó đến nên điên đảo khổ não si tối chẳng thiệt.
Vì họ mà tuyên chơn đế ứng theo nghi tiết quán sát trúng pháp, mà ở nơi pháp không có tạo tác !
Chẳng có chỗ tạo thì không có thối chuyển cũng không chẳng thối chuyển. Chẳng có nạn qua lại xoay quanh.
Giả sử phân biệt nơi pháp mà phân biệt không chấp trước, nhận biết là vốn không, tất cả các pháp đều đạm bạc vắng lặng.
Gầy dựng cho người ấy, hoặc Bồ Tát ấy thường được thấy Phật, chẳng rời bên Phật, chẳng mất sự nghe pháp, chẳng trái Thánh chúng.
Sanh về nơi nào đều thấy chư Phật. Dầu có thác sanh mà chẳng sanh về chỗ không có Phật. Vì sanh ra được thấy Phật nên không phóng dật, mộ cầu pháp chơn chánh tinh tiến. Siêng tu tập theo đây nên chẳng màng gia nghiệp mà hay gìn tịnh hạnh, chẳng luyến vợ con tôi tớ giữ gìn nhà cửa mà siêng gắng thọ thì chánh pháp, không chơi bời phóng túng ái dục.
Chư Phật Thế Tôn thuyết giáo. Vì dốc lòng tin mà xuất gia tu hành. Sau khi tin pháp Phật xuất gia thì làm bạn lữ chơn chánh với thiện tri thức để thọ nghiệp chơn chánh, tánh hạnh vi diệu, nghe pháp huyền diệu, lấy sự hành đạo làm trọng yếu mà chẳng chưng diện, giác ý đệ nhức mà chẳng nhàm đủ, thường cầu học rộng. Như pháp được nghe vì người khác mà giảng rộng. Tâm không mong lợi dưỡng cung kính mà giảng thuyết kinh điển. Từ nơi trí huệ đã được học hỏi, nhơn lúc đi đứng mà vì người giảng thuyết, làm cho người nghe pháp thêm lớn lòng đại bi, mà đối với chúng sanh phát tâm đại bi, đến được học rộng, không lẫn tiếc, chẳng tham thân mạng, ít muốn ít cầu mà biết vừa đủ, trọng nghiệp lành, vui cúng dường, thích rảnh rang vắng vẻ chuyên ròng giữ tiết. Theo nơi pháp được học mà suy ngẫm nghĩa thú, về nơi chánh nghĩa suy xét phụng hành chớ chẳng thiên về văn sức. Chẳng riêng vì mình và vì chúng sanh cầu Đại thừa tối thượng, chí mộ Phật thừa thành không phóng dật.
Thế nào là không phóng dật ?
Do vì đã thấu đạt cảnh giới nên nhãn chẳng thấy sắc, chẳng thọ vọng tưởng, chẳng trước văn sức, rõ sắc là nạn, dầu có mộ thích liền bỏ nó qua, biết nó vốn là không.
Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý biết pháp cũng như vậy, chẳng biết pháp, chẳng vọng tưởng, chẳng trước pháp rõ pháp là nạn, dầu có mộ thích liền rời bỏ biết rõ pháp là không.
Nói rằng không phóng dật đó, tâm mình không sanh cũng hộ trợ tâm người khác. Bỏ vui ái dục vào nơi pháp lạc. Chẳng tưởng tham dục, không tưởng giận hờn, không tưởng nguy hại. Không có nghiệp hành tham dục, giận thù ngu si. Không có những căn bổn ác ấy.
Thân chẳng làm đều ác, miệng chẳng nói quấy, tâm chẳng nghĩ bẩn. Chẳng làm trái với tâm niệm. Chẳng phạm tất cả những pháp bất thiện.
Như trên đây gọi là không phóng dật.
Do vì không phóng dật mà thường đúng tiết hạnh, biết rõ có, biết rõ không, biết rõ không không có.
Sao gọi là có, gì gọi là không ?

Người tu hạnh bình đẳng thì có Hiền Thánh giải thoát. Người tu hạnh tà ngoại thì không có Hiền Thánh giải thoát. Lại cũng có quả báo tội phước, hoặc có quả báo không tội phước. Hoặc có nhãn, hoặc không nhãn. Nhẫn đến hoặc có ý hoặc không ý. Lại có thể biết rõ sắc là pháp vô thường, khổ, không, biệt ly thì gọi là có chí học đạo. Còn chấp sắc là pháp có thường còn mãi không biệt ly, bởi không có huệ bình đẳng mà có niệm chấp ấy nên có tưởng hành thức khổ, có trọn pháp vô thường, khổ, không, biệt ly.
Lại từ vô minh làm duyên mà sanh ra nghiệp bất thiện. Nếu không có vô minh thì không có hành. Từ sanh làm duyên mà có già bịnh chết. Nếu không có sanh thì không có già bịnh chết.
Bố thí thì nên phước lớn. Nghèo thiếu do không thí xả. Cùng khổ thì do tham ganh. Bọn sẻn thì không có của nhiều. Phụng pháp thì đến đạo. Chẳng thuận nghi tắc thì chẳng thành đạo nghiệp. Bồ Tát tinh tiến thì được trí huệ lớn. Bồ Tát giải đãi thì chẳng được đạo. Người chẳng tự tôn tự đại là thiệt được bí quyết lạ. Người cống cao thì chẳng đến Niết bàn. Nếu khắp vắng bặt thì đến Niết bàn. Người chấp ngô ngã tham thân thọ mạng thì chẳng đến đạo huệ.
Vì thế nên làm người phải thuận theo thời nghi ».
Đức Phật lại dạy : «Nếu thiện nam thiên nữ tu phổ minh trí, hoặc có chỗ biết, hoặc không chỗ biết, hoặc ở nơi đời, hoặc không ở nơi đời, hoặc có thiên thực, hoặc không thiên thực, đều không chấp trước.
Đức Như Lai minh chứng tất cả pháp dạy bốn pháp thí :
Một là tất cả vạn vật đều về nơi vô thường. 
Hai là tất cả chỗ có đều là khổ độc.
Ba là tất cả các pháp đều không có ngã.
Bốn là tất cả hữu tình đều đến nơi không, vô vi Niết bàn tịch diệt.
Vì thế nên nói rằng tất cả vạn vật đều về nơi vô thường.
Chúng sanh ngu tối mê lầm tự nghĩ là có thường. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ sự chấp có thường ấy.
Tất cả chỗ có đều là khổ độc. Chúng sanh mê tối cho là có vui. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ quan niệm có vui của họ.
Tất cả các pháp đều không có ngã. Chúng sanh chấp có ngã. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ ý tưởng có ngã ấy.
Tất cả hữu hình đều về nơi rỗng không. Chúng sanh mê muội lại tưởng đều là có. Đức Như Lai vì họ nên thuyết pháp dứt trừ tưởng chấp là có ấy. Để được Niết bàn vắng lặng.
Tất cả chúng sanh quan niệm tự tại.
Đức Như Lai thuyết pháp khiến người tự đại chẳng còn cống cao, vất bỏ chấp trước. Vì được nghe vô thường mà họ hiểu đều rỗng không, đây mới hiểu rõ nghĩa vô thường.
Nghĩa ấy là thế nào ?
Tất cả vạn vật đều chẳng sanh, chẳng tăng, chẳng khởi, chẳng diệt. Đây mới gọi là ngộ nhập vĩnh viễn vô thường.
Vì được nghe nói là khổ mà họ trừ được lòng cầu mong, năm ấm rỗng không không có sanh khởi. Đây là nghĩa của khổ.
Vì nghe nói tất cả pháp đều không có ngã mà phụng trì môn không giải thoát, với ngã và vô ngã không thấy có hai tướng sai khác. Đây là nghĩa vô ngã.
Vì được nghe Niết bàn tịch diệt nên quyết chí đến không tưởng thọ chẳng sanh chẳng diệt là đều diệt định không có chung thỉ. Đây mới gọi là hiểu rõ nghĩa không.
Chẳng lấy vô tướng mà làm chỗ chứng.
Nếu có Bồ Tát hay thật hành như vậy thì chưa từng trái mất tất cả những công hạnh đạo phẩm. Do vô tướng hành mà khắp đầy đủ đạo pháp của chư Phật ba mươi bảy phẩm ».
Lúc đức Thế Tôn ở tại cung điện của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, theo bịnh mà thuyết pháp, trong chúng hội liền có hai vạn thiên nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô số người thọ ngũ giới.
Bấy giờ Tứ Thiên Vương tiến lên thưa : « Bạch đức Thế tôn ! Xin thương chỉ dạy chúng tôi phải hộ trì thế gian như thế nào ? ».
Đức Phật phán : « Các Ngài đem mười pháp hạnh hộ trì thế gian chúng sanh.
Những gì là gọi mười pháp hạnh ?
Một là chẳng sát hại sanh mạng của tất cả loài hữu tình.
Hai là chẳng trộm lấy tài vật của kẻ khác.
Ba là chẳng phạm đến vợ của người khác.
Bốn là chẳng lưỡng thiệt làm tranh cãi cho người.
Năm là chẳng vọng ngôn khi dối người.
Sáu là chẳng ác khẩu dùng lời làm thương tổn người.
Bảy là chẳng ỷ ngữ, tất cả lời nói ra đều không thêu dệt trau chuốt.
Tám là chẳng có lòng ganh ghét đây kia.
Chín là ở nơi những sự lành dữ chẳng nổi giận nóng.
Mười là thường tu học chánh kiến chẳng theo tà kiến nghi ngờ.
Nầy các Ngài ! Các Ngài đem mười điều nầy hộ trì thế gian mới là đúng giáo pháp. 
Lại có tám pháp hộ trì thiên hạ :
Một là hành động đúng với chánh pháp không hề trái.
Hai là thờ kính các bực tôn trưởng chẳng có lòng khinh mạn.
Ba là nói lời dịu mềm, không nói lời cộc cằn.
Bốn là khiêm nhượng từ tốn cung kính thuận thảo.
Năm là luôn luôn thành thiệt chất phác, chẳng làm sự gian xảo.
Sáu là thường tu nhơn hòa mà không nịnh bợ.
Bảy là với tất cả điều ác đều không phạm.
Tám là đem các công đức lành lợi ích cho thế gian.
Lại có sáu việc hộ trì thiên hạ :
Một là thân thường thật hành nhơn từ chẳng tổn hại chúng sanh.
Hai là miệng nói lời nhơn từ chẳng thốt ra lời hung ác.
Ba là ý niệm nhơn từ chẳng hung bạo.
Bốn là khắp cai quản sự nghiệp để được lợi dưỡng.
Năm là khắp hộ trì cấm giới mà không để sai phạm.
Sáu là khắp đem chánh kiến để khai đạo kẻ tà vạy.
Lại có bốn sự việc thường là những sự đứng đầu để hộ trì thế gian :
Một là phàm có lập công hạnh gì không bao giờ tham lam ganh ghét.
Hai là chẳng có lòng giận thù hại người.
Ba là chẳng vì ngu dốt, mà che đậy để thêm chỗ chẳng biết.
Bốn là đi đến chỗ nào chẳng có lòng sợ sệt.
Lại có hai sự dùng để hộ trì thế gian nhơn dân :
Một là tự hổ thẹn từ vô số kiếp chẳng theo đúng đạo pháp.
Hai là xấu hổ với người, tự trách mình chẳng thâm nhập đạo pháp cứu hộ tất cả chúng sanh ».
Đức Phật phán với Tứ Thiên Vương : « Các Ngài nên thi hành các pháp ấy để hộ trì thế gian thiên hạ. Vì kiến lập được các pháp hạnh như vậy mới hộ trì thế gian được ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tiến lên lễ Phật rồi bạch đức Phật : « Thế nào thật hành pháp không giận nóng đến đạo Vô thượng Bồ đề ? ».
Đức Phật phán : « Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có mười sự thật hành không giận nóng đến đạo Vô thượng Bồ đề.
Những gì là mười pháp ?
Một là thường thi hành lòng nhơn từ chẳng phạm tổn hại.
Hai là chẳng chán nhàm các tai nạn, thường tu tập lòng đại bi.
Ba là sự nghiệp được làm đều siêng năng tinh tiến mà có thù đặc.
Bốn là thường phụng hành môn không giải thoát đến được tam muội.
Năm là từ nhơn duyên phát khởi nhập vào trí huệ.
Sáu là dùng quyền phương tiện vào khắp tất cả.
Bảy là thông đạt tam thế : quá khứ, vị lai và hiện tại.
Tám là dùng chơn đế quán thấy khắp không chỗ chướng ngại.
Chín là tuân phụng đạo pháp nhập vào tất cả pháp.
Mười là tất cả các pháp đều về rỗng không ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát có bao nhiêu pháp để được không khiếp sợ khi nghe pháp bất tư nghị của đức Phật ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có tám pháp, khi nghe pháp bất tư nghị của đức Phật thì không khiếp sợ.
Một là công đức được tạo ra thường có thể đạt đến rốt ráo.
Hai là nhứt tâm thiền quán tư duy thông đạt chẳng tán loạn.
Ba là vì làm thiện hữu mà được thuận tùng.
Bốn là tâm thường dốc lòng tin thích pháp vi diệu.
Năm là vì hiểu các pháp đều như huyễn hóa.
Sáu là hiểu rõ tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn.
Bảy là rõ tất cả pháp bất khả đắc như hư không.
Tám là thông suốt tất cả pháp là tướng hư dối.
Đó là tám pháp vậy ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Sao gọi rằng Bồ Tát được tự tại nơi pháp Bồ Tát ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Vì có bốn pháp mà Bồ Tát được tự tại nơi pháp Bồ Tát.
Một là tuân hành như huyễn tam muội thông suốt tất cả pháp nhập vào năm thứ thần thông mà đặc biệt siêu việt.
Hai là vì ba giải thoát môn hơn cả tứ thiền.
Ba là dùng trí ba la mật để tu bốn phạm hạnh.
Bốn là hành quyền phương tiện đủ sáu ba la mật ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát có bao nhiêu pháp nhập vào pháp môn ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Có bốn pháp, Bồ Tát nhập vào pháp môn :
Một là nhập vào môn thiền quán biết rõ đầy đủ căn bổn tất cả chúng sanh.
Hai là nhập vào môn trí huệ biết rằng tất cả chương cú nghĩa lý và vì chúng sanh mà diễn thuyết.
Ba là nhập vào môn tổng trì, tất cả chỗ được thọ trì đều nhớ luôn chẳng quên.
Bốn là nhập vào môn biện tài do đó mà có thể làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Vì có bao nhiêu đạo lực mà Bồ Tát gầy dựng nên hạnh Bồ Tát ? Lại những đạo lực ấy không ai đương cự được, do đó mà hàng phục chúng ma ».
Đức Phật dạy : « Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có tám đạo lực hàng phục chúng ma không ai cự được.
Một là sức mạnh đạo tâm tánh hạnh thanh tịnh.
Hai là sức mạnh tinh tiến chẳng thối chuyển.
Ba là sức mạnh nghe rộng phụng hành Bát Nhã ba la mật.
Bốn là sức mạnh nhẫn nhục hộ trì các chúng sanh.
Năm là sức mạnh vô sanh chẳng cưu lòng sân hận.
Sáu là sức mạnh chẳng hư vọng đầy đủ giải thoát.
Bảy là sức mạnh tu đạo hạnh đầy đủ trí huệ.
Tám là dùng sức đại bi khai hóa chúng sanh. 
Đó là tám đạo lực vậy ».
Lúc đức Phật nói những pháp ấy, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ và năm trăm người con trai được vô sanh pháp nhẫn. Vì được pháp nhẫn nên đồng tiến lên bạch rằng: « Bạch đức Thế tôn ! Ngưỡng mong đức Thế Tôn đem tám pháp yếu ấy lưu bố thiên hạ. Vì thương chúng tôi nên làm cho cung điện Mật Tích nầy tự nhiên rộng rải. Khi đức Phật diệt độ rồi, do căn bổn công đức nầy quang minh chiếu khắp làm cho lưu bo ákhắp nơi mà chẳng mất ».
Đức Phật thấy biết tâm niệm hộ pháp của các người con trai của Mật Tích, bèn bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ rằng : « Mật Tích kham nhiệm được chương cú pháp yếu nầy. Lúc ta đến ngồi dưới cội Bồ đề, ma vương đem binh đến, ông cùng chư Bồ Tát đến dùng oai thế ủng hộ ta nên hàng phục được ma binh. Nay ông lại phải ủng hộ mạt thế sau nầy làm cho pháp yếu được lưu bố khắp Diêm Phù Đề đến tận mười phương, làm cho chánh pháp được còn lâu, chế ngự tất cả dị học ngoại đạo ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ được đức Phật khuyên bảo liền rời chỗ ngồi quỳ lạy chắp tay tuyên thần chú rằng :
« Hê lê, hưu lưu hưu lưu, kỳ cường tiêu tụ, các la nhãn động diêu quy cứu, nhẫn lực lực tận, tịch phạ tác giác chí y lê khư khưu, khư lê, khư lê. Hộ vô trạch. Trụ thắng sanh vãng hoàn vô khúc dĩ từ thọ chi điều hòa thành thí trì dĩ chư thiên long cáo quỷ thần kiết thát bà yêu mị nhược nhơn phi nhơn, thường cát an ổn, động ư sơn vương, diệt chấn đại địa. Dụng thuyết thử chú cố, nhiếp phục ngoại đạo, pháp quân sở cứu, quảng diệu pháp viêm, dốc tín thị cú ».
Nghe thần chú nầy rồi, các Thiên chúng đồng cất tiếng khen rằng :
« Chánh pháp trụ rất lâu
Động Đại Thiên thế giới
Tất cả đại chúng đồng
Tự đến trước Pháp Vương
Quy mạng cho hết tội
Ban cho không nạn sợ
Ai trì ngôn giáo nầy
Khiến chánh pháp còn mãi ». 
Đức Thế Tôn ở cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tại nước Khoáng Dã Quỷ Vương thọ cúng dường bảy ngày khai thị giáo hóa vô số chúng sanh.
Giữa ngày thứ bảy, đức Phật bỗng rời cung điện Quỷ Vương Khoáng Dã, cùng chư Bồ Tát và hàng Thanh Văn bay vọt lên hư không.
Tất cả chư Thiên ở trên ấy đồng cúng dường đức Phật và khắp Thánh chúng.
Chư Thiên Nữ đều đồng ca ngợi phóng quang minh lớn.
Trăm thứ thiên nhạc nhơn nhạc tự hòa tấu.
Trên hư không mưa các loại hoa thơm đẹp.
Khắp Phật độ chấn động.
Như vua phụng hoàng, đức Phật trở về núi Linh Thứu.
Tại núi Linh Thứu, đức Phật cùng chúng Tỳ Kheo và chư Bồ Tát quyến thuộc vây quanh đều tư duy đạo giáo.
Bấy giờ vua A Xà Thế ra khỏi thành La Duyệt Kỳ cùng với hàng trưởng giả phạm chí kính tin Tam Bảo đến núi Linh thứu.
Nhơn dân khắp nước nghe đức Phật hoàn quốc đều vân tập xế trưa xuất thành đến núi Linh Thứu.
Mọi người đảnh lễ chưn Phật đi quanh bên hữu bảy vòng rồi ở qua một bên.
Vua A Xà Thế tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Hôm trước tôi từng họp quần thần tham nghị. Lúc ấy có các Tỳ Kheo đến chỗ Thái Tử tuyên bố rằng : Hôm nay đức Thế Tôn qua đến nước Khoáng Dã Quỷ Vương tại cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thọ trai.
Bạch đức Thế Tôn ! Nghe được lời tuyên bố ấy, tôi cho là rất lạ lùng chưa từng có. Chư Phật Thế Tôn thiệt chẳng thể nghĩ bàn mới có thể ban đức đại bi thương xót cứu vớt khắp cả chúng sanh dường như hư không, nên mới ngự đến cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tại nước Khoáng Dã Quỷ Vương. Đại nguyện của đức Phật không thể ví dụ được, không có lời nói hết được.
Nếu có ai được đức Như Lai giảng dạy, không ai là chẳng được an vui lợi ích.
Bạch đức Thế Tôn ! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vun trồng cội công đức thế nào mà được biện tài to lớn ấy ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Đại Vương ! Giả sử mười phương đều như số cát sông Hằng, mỗi mỗi hột cát còn có số hạn, chư Phật được Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ gần gũi cúng dường không thể tính đếm được, do đó mà Lực Sĩ ấy được đại biện tài như vậy.
Nầy Đại Vương ! Vô ương số kiếp quá khứ có đức Phật hiệu là Tức Ý Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Tuyển Chủ, kiếp hiệu là Bất Di.
Đức Phật Tức Ý ấy thuần giáo hóa chúng Bồ Tát đều làm cho tinh tiến cả.
Lúc ấy có Bồ Tát hiệu là Dũng Lực lễ Phật Tức Ý mà bạch rằng :
Như chỗ tôi lãnh hội ý nghĩa của đức Phật đã dạy, nếu có Bồ Tát nào nghĩ rằng tôi sẽ chóng đến đạo Vô thượng thành tối chánh giác. Bồ Tát nào nghĩ như vậy thì gọi là giải đãi. Tại sao ? Bồ Tát ấy chẳng tinh tiến nhàm sợ sanh tử. Nếu có Bồ Tát thấy sanh tử họan nạn thì thấy được kiết sử triền phược, chẳng nhập Niết bàn chỉ hóa độ chúng sanh, thì mới thành tối chánh giác.
Tại sao vậy ?
Bạch đức Thế Tôn ! Pháp của Bồ Tát là siêng tu tập đạo hạnh khắp trong sanh tử khai đạo lợi ích vô lượng chúng sanh cho họ nhập vô dư Niết bàn, mà cũng không chỗ được giáo hóa.
Vì thế nên, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát hạnh phải trọng sanh tử, chẳng kính nhập Niết bàn. Bồ Tát hạnh trọng sanh tử rồi phụng thờ vô lượng chư Phật, khai đạo lợi ích vô lượng chúng sanh, nghe học vô số pháp, nhập vào tâm niệm của chúng sanh, chí nguyện sở hành kính hạnh Niết bàn, trọng các quán hạnh.
Nếu thấy có Bồ Tát sợ sanh tử khổ hoạn thích hạnh Niết bàn, thì nên quan niệm rằng : Bồ Tát nầy chắc là đọa lạc, vì bỏ mất hạnh Như Lai, có lỗi với chúng sanh. Sao gọi là Bồ Tát mà chẳng thuận theo hạnh Bồ Tát lại thích Thanh Văn địa, Duyên Giác địa, đây đáng gọi là không có hạnh Bồ Tát , là hạnh Thanh Văn. 
Tại sao vậy ?
Hạnh của hàng Thanh Văn sợ khổ hoạn sanh tử. Còn Bồ Tát đi trong vô lượng sanh tử mà chẳng bị ràng buộc.
Đức Tức Ý Như Lai khen Dũng Lực Bồ Tát rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Lời nói ấy rất hay, ngôn giáo thuần thục. Bồ Tát hành đạo bỏ sự an vui của chính mình mà chẳng bỏ người khác, thường xét lỗi mình mà chẳng tìm lỗi người.
Dũng Lực Bồ Tát lại bạch :
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát hạnh ? 
Đức Phật Tức Ý dạy :
Nầy thiện nam tử ! Tự chánh lấy việc làm của mình mà vì chúnh sanh tuyên nói sự thành bại khổ nạn sanh tử. Chịu lấy vô lượng khổ hoạn của sanh tử mà không khiếp sợ. Chẳng thích bực Thanh Văn và bực Duyên Giác mà chuyên tu tập việc làm của Bồ Tát. Chẳng luyến thiền định, ở trong tam giới biết rõ thiền định. Biết rành các ác đạo, tu tập các môn phương tiện. Biết hết cả công đức thiền định trí huệ giải thoát chẳng cùng tận. Phát trí huệ vô sanh, vì người mà ban tuyên tất cả pháp bổn lai không có, trí cũng vô sở đắc. Biết các chúng sanh mà không có ngô ngã. Dùng trí huệ khai hóa tất cả chúng sanh cho họ hiểu các pháp tịch diệt. Thọ trì các pháp thông các Phật độ. Biết tất cả như hư không, Phật quốc thanh tịnh, trí huệ sáng sạch. Do trí huệ thấu suốt tất cả Pháp không tăng không giảm, mà dùng tướng hảo trang nghiêm trí huệ vô sở đắc. Nhơn đó mà tuân thờ tất cả cội công đức chẳng quên bỏ, ít não bớt việc. Với các chúng sanh, thường làm viêïc cứu vớt hoạn nạn. Thân tâm đạm bạc chứa công bồi đức chẳng chán nhàm. Phát khởi thiền quán thấu rõ chánh định nhứt tâm. Phương tiện thấu suốt các pháp thâm diệu. Nếu đem tuyên bố bao nhiêu giáo pháp, phân biệt quán hạnh thành tựu quả đức. Khai hóa luật Thanh Văn, Duyên Giác. Mến thích công hạnh giải thoát của đức Như Lai, thật hành Bồ Tát hạnh, thị hiện công việc của đức Như Lai làm.
Đó là Bồ Tát hạnh vậy ». 
Đức Phật phán tiếp : « Nầy Đại Vương ! Bấy giờ Dũng Lực Bồ Tát nghe đức Tức Ý Như Lai dạy pháp ấy, lại bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Thiệt rất khó chưa từng có, nay đức Thế Tôn tuyên dạy công hạnh mà chư Bồ Tát phải thiệt hành.
Bạch đức Thế Tôn ! Cứ theo chỗ tôi hiểu ở nơi lời đức Phật dạy thì thiện quyền phương tiện là pháp của Bồ Tát thiệt hành.
Bạch đức Thế Tôn ! Như hư không chứa đựng tất cả vạn vật mười phương, vì tất cả hình sắc mà hiển hiện thể của nó chẳng thể tính lường, hiện bao trùm tất cả những loại có hình, với hư không vẫn không chướng ngại. 
Bạch đức Thế Tôn ! Cũng vậy, do thiện quyền phương tiện mà chư Bồ Tát được tự tại ở nơi tất cả pháp. Những pháp đã được học và pháp chưa được học, pháp phàm phu và pháp Phật đều do nơi đó.
Lại như luồng lửa lớn đi đến đâu, cỏ cây đều bị cháy.
Cũng vậy, Bồ Tát tự tại đi trong các pháp. Dùng lửa trí huệ đốt cháy ngu si của tam giới tối tăm ;
Lại như kẻ trượng phu nổi giận hung làm tổn hại người khác chẳng kể khốn nạn.
Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện Bát Nhã ba la mật tự tại dứt trừ trần lao của tất cả chúng sanh.
Lại như thủy thanh châu được để vào nước đục thì nước liền trong suốt.
Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện làm tiêu tan tất cả trần lao ba thứ cấu trược.
Lại như thuốc giải độc tên là tiêu trừ, nếu đem để vào tất cả chất độc, thì tất cả chất độc đều tiêu tan hẳn. Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện dạo đi khắp chỗ họa nạn tam giới, cầm trí quyền xảo dứt trừ trần lao ái dục của chúng sanh.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì thế nên biết rằng thiện quyền phương tiện là hạnh tự tại nơi tất cả pháp của Bồ Tát.
Năày Đại Vương ! Lúc Dũng Lực Bồ Tát nói pháp ấy, có vô số người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đại Vương muốn biết Dũng Lực Bồ Tát thuở xưa ấy là ai chăng ? Chánh là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ngày nay vậy.
Bồ Tát náày vững mạnh tinh tiến, mặc áo giáp hoằng thệ vòi vọi như vậy, cúng dường vô số chư Phật rỡ rỡ dường ấy chẳng gì ví dụ được ».
Khi ấy vua A Xà Thế nghĩ rằng chày kim cang của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nặng bao nhiêu ? Ta có sức rất khỏe chẳng biết có cầm được chăng ?
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ biết tâm niệm của nhà vua bèn để chày kim cang xuống đất. Vừa lúc Lực Sĩ để chày xuống đất, cả cõi Đại Thiên chấn động sáu cách.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với vua A Xà Thế : « Nhà vua thử cầm lên xem ».
Vua A Xà Thế có sức mạnh lực sĩ, liền tận lực dở lên, những vẫn chẳng lay động được chày kim cang mảy may.
Nhà vua lấy làm lạ chưa từng có, tiến lên bạch đức Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thân tôi có sức khỏe đại lực sĩ lại mặc áo giáp rất quý lạ. Tôi có thể bắt voi lớn nắm vòi ném thân voi đến đâu cũng được. Sao hôm nay dở chày kim cang nhỏ nầy lại chẳng nhúc nhích chừng lông tóc. Sao lại có sự lạ như vậy ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Đại Vương ! Chày kim cang nầy trọng ở nơi đức, chẳng thể dùng sức mạnh mặc áo giáp và mạnh ném voi lớn mà dở lên được».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Thiên Đế Thích : « Thưa Ngài Kiều Thi Ca ! Ngài có danh hiệu là Chấp Trì Kim Cang. Ngài thử cầm chày kim cang nầy lên xem sao ».
Lúc ấy Thiên Đế dùng thần lực vô hạn, hiển tột thần thông muốn cầm chày Kim Cang ấy lên mà vẫn chẳng cầm lên được.
Thiên Đế tiên lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi cùng chư Thiên đánh nhau với A Tu La. Tôi dùng một ngón tay ném A Tu La Duy Chất như ném một viên đạn nhỏ, làm cho A Tu La phải bỏ chạy.
Nay chày kim cang này nhỏ xíu như vậy sao tôi lại cầm lên không nổi ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Kiều Thi Ca ! Chày kim cang nầy trọng nơi đức. Chẳng nên đem so sánh với thân lớn ba trăm ba mươi sáu muôn dặm của A Tu La.
Nầy Kiều Thi Ca ! Ý Ngài nghĩ sao ? Núi Tu Di có nặng chăng ? ».
Thiên Đế thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Núi Tu di rất nặng ».
Đức Phật nói : « Nầy Kiều Thi Ca ! Giả sử có đại lực sĩ thần lực vô lượng tay mặt cầm chày kim cang nầy để bên núi Tu Di. Lực sĩ ấy đứng vào giữa cất hai thứ lên, núi Tu Di vẫn còn hơi nhẹ chẳng bằng trọng lượng của chày kim cang này.
Nầy Kiều Thi Ca ! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nếu dùng chày kim cang có thể đập núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi và núi Kim Cương làm cho nát ra như bụi. Dầu như vậy, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ còn chưa hiện hết thần lực ».
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Đại Mục Kiền Liên : « Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Đức Thế Tôn khen Ngài thần thông đệ nhứt. Nay Ngài thử cầm chày kim cang nầy lên xem sao ?».
Ngài Đại Mục Kiền Liên có đại thần lực dời được bốn biển lớn. Ngài phấn khởi thần thông muốn cầm chày kim cang lên làm rúng động cả cõi Đại Thiên nhưng vẫn không lay động được chày kim cang ấy chừng lông tóc.
Rất lấy làm lạ, Ngài Đại Mục Kiền Liên đến bên chưn Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật từng khen thần thông của tôi. Tôi từng thử thần thông của mình làm rung động cả cõi Đại Thiên như khều cái bát nhỏ ném qua cõi nước khác. Tôi từng hàng phục khai hóa Nan Đầu Hòa Nan Long Vương. Tôi còn có thể nuốt khúc gỗ lớn bằng núi Tu Di. Vừa tác ý là tôi có thể nắm kéo mặt trời mặt trăng đứng lại, lấy tay rờ mó. Như vậy mà nay tôi không thể lay động được chày kim cang nhỏ xíu nầy chừng lông tóc ! Phải chăng tôi đã mất thần thông rồi ? ».
Đức Phật dạy : « Ông chẳng mất thần thông. Nầy Đại Mục Kiền Liên ! Thần thông của Bồ Tát có oai thế rất lớn. Thần thông của Thanh Văn và Duyên Giác chẳng bằng được.
Giả sử những núi Tu Di của hằng hà sa thế giới hiệp lại làm một núi Tu Di còn có thể lay động được, chớ chẳng thể lay nổi chày kim cang nầy.
Bồ Tát lập hạnh, oai lực chẳng thể nghĩ bàn vòi vọi như vậy ».
Ngài Đại Mục Kiền Liên được chưa từng có, bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát Đại Sĩ có được oai lực lớn, như Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây cầm chày kim cang.
Bạch đức Thế Tôn ! Sức lực của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây là do cha mẹ sanh, hay là do thần thông ? ».
Đức Phật dạy : « Đó là sức mạnh do cha mẹ sanh. Nếu Bồ Tát mà dùng sức mạnh thần thông thì có thể thị hiện thấu khắp trên trời và thế gian ».
Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Ông nên cầm chày kim cang lên ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ bước động cõi Đại Thiên, dùng tay mặt cầm chày kim cang lên ném thẳng vào hư không. Chày ấy ở trên hư không lộn quanh bảy vòng rồi rơi trở lại dừng ở trên tay hữu của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ.
Tất cả chúng hội đều được chưa từng có, đồng vòng tay lễ chưn đức Phật, đồng xướng lên rằng : « Khó kịp, khó kịp ! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ có sức lực rất vi diệu. Cầu mong các chúng sanh đều được thế lực vô cùng như vậy ».
Vua A Xà Thế tiến lên bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát có bao nhiêu công hạnh mà được sức lực như vậy ».
Đức Phật dạy : « Bồ Tát có mười hạnh lớn được oai lực ấy :
Một là siêng thọ trì chánh pháp thà bỏ thân mạng.
Hai là chưa từng tự cao tự đại, luôn khiêm hạ lễ kính chúng sanh.
Ba là gặp chúng sanh cang cường khó dạy bảo thì nhẫn nhục chịu đựng.
Bốn là thấy người đói khát thì đem món ăn ngon để bố thí cho họ được no đủ.
Năm là thấy kẻ sợ sệt thì an ủi cho họ được an.
Sáu là nếu có chúng sanh bị bịnh nặng thì lo thuốc men chạy chữa.
Bảy là nếu có ai yếu đuối bị người khinh mạn thì kính thương che chở.
Tám là lấy nước hồ sạch trét vách điện miếu thờ Phật vá chỗ nứt bể.
Chín là thấy người côi cút nghèo khổ thiếu thốn thường mang vác nặng nhọc, thì giúp đỡ cho họ được khỏi sự nặng nhọc khổ sở.
Mười là nếu có người không chỗ nương nhờ thì thường giúp đỡ họ, nói ra giữ đúng lời không hề quên bỏ.
Đó là mười hạnh lớn của Bồ Tát ».
Vua lại bạch hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nhơn hòa là có bao nhiêu pháp mà Bồ Tát tới lui đó đây luôn luôn hòa nhã chẳng hề nóng giận ? ».
Đức Phật dạy : « Bồ Tát nhơn hòa có tám pháp :
Một là chí tánh chất trực không có dua gièm.
Hai là tánh nết hòa nhã thường không dối nịnh.
Ba là tâm ý thuần phục trọn không hy vọng.
Bốn là tâm hành kiên quyết không hề kém yếu.
Năm là lòng không mê lầm luôn luôn nhơn hòa.
Sáu là làm chỗ nhờ cậy cho người đời được đức hạnh lạ.
Bảy là tâm trí tỏ thấu mà không chấp trước.
Tám là tư duy tội phước mà tâm không tưởng niệm.
Đó là tám pháp nhơn hòa của Bồ Tát ».
Đức Phật phán tiếp : « Bồ Tát lại có bốn pháp chí tánh thuần thục đi khắp đó đây mọi nơi :
Một là ở nhơn gian làm Chuyển Luân Thánh Vương được thấy chư Phật hưng khởi đạo tâm bất thối.
Hai là ở trên trời làm Thiên Đế Thích, vua của chư Thiên, thường thấy chư Phật chẳng trái đạo pháp.
Ba là nếu ở trên Phạm Thiên thì được tự tại vun trồng đạo nghiệp, chẳng hư đạo tâm.
Bốn là mặc dầu ở nhơn gian thiên thượng như vậy nhưng thường sanh về Phật độ thanh tịnh diện kiến chư Phật nghe đức Thế Tôn thuyết pháp.
Đó là bốn pháp ».
Vua A Xà Thế lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Gì gọi là ngồi nơi đáng tin cậy ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Là chỗ ngồi của thiện hữu ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Bố thí thì ngồi ở đâu ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Bố thí thì ở chỗ giàu lớn lắm của nhiều báu.
Người trì giới thì được sanh lên cõi trời.
Người nhẫn nhục thì sắc mặt vui vẻ thường được xinh đẹp. 
Người tinh tiến thì siêng tu thông suốt vượt hơn mọi người. 
Người thiền quán thì được chánh định vắng lặng, các căn chẳng loạn động.
Người trí huệ thì dứt các trần lao họa hoạn cấu nhiễm.
Người nghe rộng thì được có đại trí, giải quyết sự nghi ngờ của mọi người nếu được hỏi, làm cho không còn thắt mắc.
Người siêng học thì nhóm họp nhập vào đạo vô thượng chánh chơn.
Người suy xét vô thường vô ngã vắng lặng thì ở tại chỗ nào đều tiêu trừ điên đảo.
Đó là ngồi nơi đáng tin cậy ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Tâm niệm thuận thời thì được ngồi chỗ nào? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Quán vô thường, khổ, không tịch thì ngồi ở chánh kiến chẳng sa vào tà nghiệp. Thân tâm thanh tịnh thì ngồi tại thiền định phát khởi thần thông ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Đạo ở chỗ nào ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Ngồi vững không thối thoát thì thành tựu đạo quả không còn nạn khổ của ba cõi ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Không thối thoát thì ngồi tại chỗ nào ? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người không thối thoát thì ngồi tại nơi giải thoát họa hoạn sanh tử ». 
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Phật ngồi tại đâu ? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Ngồi tại ba mươi bảy pháp đạo phẩm đã được tu tập không có phá hoại, chuyển pháp luân mãi mãi không bao giờ đoạn tuyệt giáo pháp Tam bảo ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai hưng khởi Phật ? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Chánh là người hay phát lòng tin chí quyết tỏ thấu bổn lai không vô ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai phát khởi lòng tin chí quyết ? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Nếu là người hay phát Bồ Tát tâm».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai phát Bồ Tát tâm ? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người có chí tánh định chẳng tán loạn ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai có chí tánh định chẳng tán loạn? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người thi hành đại bi chưa bao giờ dứt ». 
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai chẳng dứt lòng đại bi ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người chẳng rời bỏ tất cả chúng sanh ». 
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai chẳng rời bỏ chúng sanh ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người làm mình an vui và làm an vui tất cả chúng sanh ». 
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai làm mình an vui và làm an vui đến chúng sanh ? ». 
Đức Phật dạy : « Nầy Đại Vương ! Người hưng long đạo pháp chẳng dứt tuyệt Tam bảo ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai chẳng dứt Tam bảo ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Vất bỏ trần lao là chẳng dứt Tam bảo ? ».
Vua A Xà Thế lễ Phật, bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Đức Thế Tôn thật là chưa từng có. Đức Như Lai phán dạy vào đúng pháp luật. Đức Như Lai ban dạy, pháp được nói ra tột đến nhu thuận rời lìa nghiệp đoạn diệt và hữu thường mà chẳng quên mất quả báo ứng. Vào chỗ gầy dựng, làm không loạn động, không có những nghiệp thiện, ác, tịnh, bất tịnh. Siêng tu đạo hạnh không trái không mất.
Bạch đức Thế Tôn ! Người nào nhập vào hạnh nguyện ấy thì giải quyết mọi điều nghi ngờ thuận theo giáo pháp chánh chơn của đức Như Lai.
Người nào nghe pháp ấy mà sanh lòng ngờ vực, đó là vì đời trước chẳng vun trồng cội đức, theo bạn ác, chẳng tin và hủy báng chánh pháp.
Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi đời trước có trồng cội đức, chẳng phải là không công đức. Nay tôi được nghe chánh pháp, muốn báo ân sâu của đức Phật mà chí ý chẳng thể báo được trọn vẹn.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từ mẫn vì chúng tôi mà giải quyết nghi ngờ hiển hiện đại quang minh.
Đưcù Thế Tôn khéo phán dạy đầy đủ phạm hạnh, là bực thân hữu chí thiện được đại nhơn từ là hàng thiện hữu vậy ».
Bấy giờ Tịch Ý Bồ Tát hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Ngài kiến lập kinh pháp nầy phải chăng là để lưu bố cho tất cả tương lai ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Kiến lập kinh pháp nầy để lưu bố khắp thiên hạ ở Diêm Phù Đề sau khi đức Như Lai diệt độ thời mạt thế sau cùng, làm cho các pháp sư, chư vị chánh sĩ đều được soi sáng.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Phật kiến lập kinh điển quan yếu nầy, được chư Phật đều hộ trì. Ai thọ trì được kinh nầy thì là khéo học chánh pháp chẳng chấp văn tự, ngôn từ chẳng cùng tận, không ai dứt ngang được.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Như Lai chí chơn chẳng bỏ các pháp. Tại sao vậy ? Kia không chỗ sanh. Đã không chỗ sanh thì không chổ diệt. Vì thế nên đức Như lai nói : đức Như Lai xuất thế là không chỗ sanh. Chỗ đứng của Như Lai là đứng tại pháp giới. Pháp trụ như pháp, có Phật hay không Phật, Phật Pháp vẫn thường trụ.
Bởi trụ như vậy nên mười hai duyên khởi được chẳng sai trái, duyên khởi chẳng rối loạn, chẳng loạn chánh pháp.
Lại xét pháp ấy thường không có ngôn thuyết nên được gọi là chánh pháp, vì không có ngôn thuyết ».
Tịch Ý Bồ Tát hỏi : «ThưaNgài Mật Tích ! Ngài hộ trì chánh pháp mặc áo giáp hoằng thệ. Vì vậy mà Ngài mặc áo giáp ư ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Mặc áo giáp hoằng thệ hộ trì chánh pháp, chẳng làm loạn các pháp, chẳng nắm lấy pháp ấy. Tại sao vậy ? Chánh pháp ấy, tất cả các pháp đều không có chỗ loạn. Đó là hộ trì chánh pháp ? ».
Ngài Tịch Ý Bồ Tát hỏi : « Sao gọi rằng làm loạn chánh pháp ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : « Nương dựa nơi hãi sợ là thành mê loạn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Rốt ráo không loạn, nghĩa là ý nghĩa không loạn, mới được gọi là hộ trì chánh pháp”. 
Tịch Ý Bồ Tát hỏi : «Thưa Ngài Mật Tích ! Chừng có phương tiện nào, lúc tất cả thế gian rối loạn, nhơn đó mà hộ trì chánh pháp chăng ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Nhơn vì loạn mà hộ trì vậy.
Tại sao vậy ? Nhơn vì thế gian dựa theo tà nghi sáu mươi hai kiến chấp. Chỗ làm của Bồ Tát lấy rỗng không làm căn bổn. Vì thế nên cùng tất cả thế gian làm loạn nhau.
Lại vì thế tục kia quan niệm có thường còn, nên họ lập có ngô ngã cho là sạch là an.
Bồ Tát luôn tỏ thấu các pháp vô thường, khổ, không, chẳng phải thân, không có ngô ngã. Thế nên gọi là cùng tranh biện với thế gian.
Tùy theo thế gian chìm trong dòng nước sanh tử, Bồ Tát phương tiện ngược dòng tận nguồn trái lại dòng sanh tử, chứa công tích đức. Vì thế nên gọi là cùng thề gian tranh loạn nhau.
Người đời dựa nương năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới.
Người làm hạnh Bồ Tát, nơi tâm không dính mắc một pháp nào cả. Vì thế nên gọi là cùng thế gian tranh loạn. Tại sao vậy ? Vì chẳng đồng với trần lao vậy.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Vì thế nên hộ trì chánh pháp là cùng thế gian tranh loạn nhau ».
Tịch Ý Bồ Tát hỏi : «Thưa Ngài Mật Tích! Hành giả làm thế nào hộ trì chánh pháp ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Vì thọ trì chánh pháp mà hộ trì thân mình cũng hộ trì thân chúng sanh, hộ trì tất cả pháp, nhưng vẫn không có chỗ hộ trì ».
Tịch Ý Bồ Tát lại hỏi : «Thưa Ngài Mật Tích ! Thọ trì thế nào ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Bặt dứt ngô ngã, chúng sanh vắng lặng. Chúng sanh đã lặng thì ba đời lặng. Ba đời đã lặng thì Phật pháp lặng. Phật pháp đã lặng thì Phật độ lặng, Phật độ đã lặng thì các pháp lặng.
Ở nơi các pháp mà không có chỗ về đến thì gọi là hộ trì chánh pháp vậy ».
Bấy giờ đức Thế Tôn khen Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Lành thay, lành thay ! Đó gọi là hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp ấy, là không chỗ hộ trì, không chỗ quên mất.
Lại người hộ trì chánh pháp là thọ trì tất cả, nơi tất cả tưởng mà không vọng tưởng. Đa õkhông có tưởng thì nơi các vọng tưởng không để phóng túng. Đây gọi là ở trong tất cả pháp mà không phóng dật, mới gọi là đạo pháp ».
Lúc ấy trong pháp hội có một Thiên Tử tên là Hiền Vương tiến lên bạch Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Ngôn từ của chư Phật rất là vắng bặt. Người được thấy, thế nào là phải ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Hiền Vương ! Nghĩa vắng bặt của ngôn từ chánh giáo, tất cả chỗ lãnh hội cùng công hạnh đều vắng bặt vậy. Người ấy nhẫn thọ được chánh giáo. Vì đã hay nhẫn thọ được nên hay phừng cháy. Vì đã hay phừng cháy nên hay chói sáng. Vì đã hay chói sáng nên vắng bặt thành là lặng lẽ. Đây là hộ trì chánh pháp của Như Lai. Mới gọi là chúng của chư Như Lai tổng trì Phật đạo. Chỗ trì như vầy : chẳng trì pháp lại chẳng xả pháp ».
Lúc đức Phật đáp lời Thiên Tử Hiền Vương, có một ngàn Tỳ Kheo được lậu tận ý giải thành A La Hán. Một ngàn Thiên Tử xa trần lìa cấu được pháp nhãn thanh tịnh.
Tịch Ý Bồ Tát hỏi Thiên Tử Hiền Vương: «Ngài từ đâu được biện tài ấy ? ».
Thiên Tử Hiền Vương nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Nếu ai có thể dứt trừ tất cả chướng ngại đều vô sở đắc được đệ nhứt nghĩa không y ỷ vào đâu thì gọi là biện tài. Tự mình hiểu rõ, thần thức chẳng chuyển đổi, chẳng do người mà biết, cũng không chỗ lập, đây mới gọi là biện tài.
Tâm ý chẳng thả theo chỗ chấp trước, nếu có thể phụng hành pháp không chỗ chấp trước mới được biện tài nầy.
Nếu do suy gẫm tất cả các pháp qua lại hiển bày đều phải biết rõ nhận biết tin chắc mới được biện tài.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Hành giả như vậy được biện tài nầy, họ không chỗ trụ, không chỗ hành, vượt qua khỏi dòng sóng bốn nạn sanh lão binh tử. Họ không chỗ sanh không chỗ khởi cũng không chỗ diệt. Không bị ai diệt được mới gọi là vượt qua khỏi, là được biện tài vậy ».
Tịch Ý Bồ Tát tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Hiền Vương Bồ Tát nầy từ cõi nào đến cõi nầy mà có biện tài như vậy ? ». 
Đức Phật phán : « Nầy Tịch Ý ! Hiền Vương Thiên tử từ nước của đức Phật A Súc mà đến, chết kia sanh về đây, vì muốn được nghe kinh điển bí yếu của Như lai.
Tịch Ý nên biết rằng Hiền Vương Thiên Tử được chứng nhập nhà pháp tổng trì. Giả sử một kiếp hoặc hơn một kiếp tuyên nói công đức của ông ấy cũng chẳng hết được ngằn mé biện tài ».
Tịch Ý Bồ Tát lại bạch: « Bạch đức Thế Tôn ! Sao gọi là nhà pháp tổng trì ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Tịch Ý! Trước kia nói được nhập nhà pháp tổng trì đó là nhập nơi trí huệ văn tự vô tận, tất cả pháp đều vào trong nhà nầy. Ở nơi tất cả pháp đều không chỗ làm, hiểu rõ nhà pháp phụng hành nhà pháp. Với các văn tự dùng âm thanh để tuyên bày. Những lời từ miệng thốt ra làm thành sự pháp, chẳng nghĩ niệm sự pháp cũng chẳng phân biệt đó mà tuyên bố tất cả sự âm thanh. Đây gọi là nhập vào công hạnh nhà pháp tổng trì vậy.
Lại nầy Tịch Ý ! Pháp mà nhập vào được đó lại là pháp vô sở đắc. Chỗ được gọi là nhập. Phát ra trí huệ. Văn tự kia không từ đâu đến nhập vào trong nhà. Lại văn tự ấy chẳng hiện trong nhà cũng chẳng hiện ra ngoài. Lại không chỗ hướng đến cũng không có phương diện. Lại văn tự ấy xoay vần trình bày cũng chẳng tưởng niệm. Văn tự chẳng thuận với pháp cũng chẳng trái với pháp, không các tưởng niệm. Văn tự ấy đều không có ngôn thuyết, cũng không tăng không tổn. Lại văn tự ấy chẳng thấy có khởi, không chỗ hoại diệt, không làm văn tự cũng không chỗ mất.
Lại nầy Tịch Ý ! Như số văn tự, tâm số cũng vậy. Tất cả đều như vậy. Số của các pháp có chỗ quy thú. Nếu là số của các pháp thì kia là vô số. Tại sao vậy ? Chẳng về nơi pháp số, không có số mới gọi là pháp số vậy.
Tùy thuận pháp số như vậy mới gọi là nhập vào nhà pháp. Chẳng nhập vào quá khứ, nhập vào pháp vô sanh không chỗ đến.
Kia không chỗ sanh bởi không chỗ đến thì nhập vào chỗ nào. Do vô sở nhập mà nhập vào các số như vậy mới đến được pháp môn. Tự thấy bổn lai không có thì được an trụ nhập vào hạnh nghiệp nhà pháp tổng trì. Nhập vào tâm chúng sanh. Do nhập vào tâm chúng sanh mà tùy theo tâm chúng sanh chỗ đáng được độ mà vì họ thuyết pháp. Nếu lãnh thọ tổng trì mới gọi là ý vắng lặng.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Do tâm ly cấu nên tâm được thanh tịnh nghiêm trang hòa nhã sáng suốt, tánh ấy siêu việt, đi đứng an tường, trí huêï không mất, chí nguyện kiên cố, chỗ nên độ ấy mà chẳng phá hoại được, các tà ngoại khác không ai chẳng bị dẹp phục, tiêu trừ trần lao, diệt các oán tặc, thân lực rất mạnh, tâm không khiếp nhược, biện tài vô tận, chỗ nói vô lượng, chỗ quy vô hạn, trí huệ vô ngại nhập vào giác ý rất sáng suốt, ban tuyên lời chánh chơn thâm diệu. Chỗ được nghe rộng như sông như biển. Tam muội chánh định vững như núi Tu Di ở tại giữa biển lớn. Ở trong đại chúng như vua sư tử. Chẳng nhiễm thế tục như hoa sen chẳng dính bùn nước. Chẳng có ghét thương, lòng mở rộng như mặt đại địa lúa đậu cỏ cây nhơn nơi đó mà sanh trưởng, muôn dân được an vui. Rửa sạch bụi dơ như nước trong, khai hóa chúng sanh. Đốt các nạn độc như ngọn lửa hừng đốt cháy cỏ rác. Dạy dỗ khắp chúng sanh như luồng gió lớn thổi không sót chỗ. Tâm hành bình đẳng như mặt trăng tròn chiếu các tinh tú. Tiêu trừ tham sân si như ánh nắng soi bóng tối. Phục tâm ý thức như dũng tướng đè bẹp cường địch. Điều hòa tâm mình như Long Vương thuần thục theo đúng thời tiét.
Như thuần âm sấm nổ rồi mới mưa, cũng vậy, Bồ Tát điều hòa tâm mình, diễn bày pháp vũ nhuần thấm ba cõi. Tuyên nước pháp cam lộ trừ sạch tâm nhơ uế, như trời mưa rửa sạch bụi trần. Chữa lành các bịnh tật tham sân si như lương y trị bịnh mọi người. Chí gìn vô vi phụng hành chánh pháp, đây là Pháp Vương trị dạy mười phương. Cũng như Quốc Vương cai trị muôn dân bảo hộ khai hóa tất cả sanh già bịnh chết. Như Tứ Thiên Vương trị tứ thiên hạ, cũng như Thiên Đế Thích vua trời Đao Lợi dạy dỗ chư Thiên. Cũng vậy, Bồ Tát ở tại cõi dục giáo hóa chúng sanh, với sắc thanh hương vị xúc pháp, sạch như minh châu. Điều phục tâm ý luôn được tự tại, như Phạm Thiên Vương chúa tể trời người.
Tâm Bồ Tát thanh tịnh không hề dính mắc, như chim bay trong hư không không bị chạm đụng.
Hành động đúng pháp an tường, như lộc vương đi theo bầy nai, kính vâng pháp giáo mến các chơn hạnh.
Như mẹ thương con làm cho được an ổn.
Dạy chúng sanh các kỹ thuật như nghiêm phụ dạy bảo con cháu.
Đức lớn tự trang nghiêm dùng ba mươi hai tướng đại nhơn, phước tướng xen đẹp có tám mươi tùy hình hảo và bao nhiêu vẻ tốt.
Được tất cả thế gian cùng kính ngưỡng, chẳng bị tà kiến ràng buộc. Có đủ bảy thánh tài chẳng bị nghèo thiếu.
Được mười phương chư Phật hộ niệm.
Được bực minh trí ngợi khen, được hàng thông đạt ca tụng và chư Thiên đều thủ hộ cúng dường.
Được các thiện hữu luôn tiếp trợ.
Là tối thượng trong hàng thuyết pháp, đủ sáu thần thông tự tại.
Lại thấu nhập tánh hạnh và căn trí của tất cả chúng sanh để ban tuyên kinh pháp chưa hề lười mỏi.
Không bao giờ mong mỏi lợi dưỡng. Chỉ thích đem chánh pháp ban bố chẳng hề lẫn tiếc.
Trong lòng thanh tịnh không có sai phạm, nhẫn nhục sáng suốt không có lầm lỗi.
Sự nghiệp được làm đều có thể đến trọn vẹn cả.
Thanh tịnh tinh tiến tâm tánh an hòa, nhứt tâm thanh tịnh trừ bỏ cội cấu, giác ý thản nhiên trí huệ thanh tịnh, tu bốn phạm hạnh không hề buông lung để thành tựu công nghiệp độ thế.
Thiền định tam muội được nên chánh thọ đến Bồ Tát đạo và Phật đạo Vô thượng.
Có thể thành tựu được khắp những hành nghiệp được làm, chẳng giữa chừng biếng nghỉ, đến bực bất thối chuyển.
NầyTịch Ý ! Bồ Tát đại sĩ nhập vào nhà pháp tổng trì công đức vô lượng vòi vọi như vậy. Giả sử có vị Bồ Tát ở thế gian trăm ngàn năm chẳng làm việc gì khác, chỉ chuyên khen ngợi hạnh tổng trì ấy cũng chẳng thể tuyên nói hết được ».
Bấy giờ Tịch Ý Bồ Tát nói với Hiền Vương Thiên Tử : « Ngài được lợi lành rất lớn vô cùng. Hôm nay đức Như Lai khen ngợi công đức của Ngài rỡ ràng như vậy ».
Hiền Vương Thiên Tử nói với Tịch Ý Bồ Tát : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Ở nơi các pháp ấy thiệt ra không thể được công đức để ngợi khen. Lại các pháp ấy không có sắc, không có tượng, không có hình mạo, công hạnh như vậy không thể tuyên xướng ngợi khen hết được ».
Hiền Vương Thiên Tử tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả các pháp chẳng nhận lấy được, không có ngô ngã cũng không ngã sở. Vì thế nên chẳng thể truyền thọ cho người cũng chẳng thể tập họp lại được.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người thích tu hành pháp nầy thì nên hành bình đẳng, hoặc siêng phụng hành tu pháp bình đẳng thì đến được pháp môn nầy.
Như đại địa đây, đất ở trên nước, nước ở trên gió. Khắp trong thiên hạ trên mặt đất nầy, giả sử có người đào đất ra công gắng sức thì được có nước để uống dùng không cần phải tìm ở phương xa.
Trí huệ Như Lai vào khắp trong tánh hạnh của tất cả chúng sanh. Như Lai giải thoát, tùy theo pháp môn mà tu tinh tiến, do phương tiện nầy thành đại huệ quang minh.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì thế nên thiện nam thiện nữ muốn cầu Phật đạo phải thường tu hành tinh tiến. Lấy gì để tinh tiến ? Phải dùng các pháp môn ấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Như kẻ sanh manh không thấy được màu sắc bao giờ. Giả sử có người chẳng tu hành tinh tiến thì gọi là kẻ ngu tối manh minh chẳng thấy các pháp hoặc gốc hoặc ngọn.
Bạch đức Thế Tôn ! Như người mắt sáng nhờ ánh sáng mà được thấy. Chẳng có ánh sáng thì tăm tối không thấy, ngoại trừ tiên nhơn thiên nhãn. Cũng vậy, người rời xa bạn lành không được khai hóa chẳng hiểu được các pháp quán để thấy những pháp được thọ.
Như thiên nhãn thấy chẳng cần ánh sáng, nếu có thiện nam được trí huệ tự nhiên thành đại trí đức.
Bạch đức Thế Tôn ! Như chim bay trong đồng trống ngang qua đầm rộng chẳng thấy hư không cùng đồng ruộng có thêm có bớt. Cũng vậy, tất cả Bồ Tát tinh tiến tu hành nhập vào đạo phẩm chẳng thấy Phật đạo có tăng có giảm.
Bạch đức Thế Tôn ! Như núi tuyết kia, mưa tuyết rơi sương sanh trưởng cây cối chẳng bị các cơn gió làm tai hại. Cũng vậy, Bồ Tát theo đúng thời tu hành phát sanh trí huệ sáng soi thấu cả chúng sanh không có số lượng, đi ở chỗ nào không có quên mất.
Bạch đức Thế Tôn ! Như Chuyển Luân Thánh Vương sanh trong dòng quý tộc đủ bảy báu xuất hiện. Những gì là bảy báu ? Một là xe tử kim có ngàn căm. Hai là voi trắng có sáu ngà. Ba là ngựa thần nhiều màu : đầu đen bờm đỏ. Bốn là châu minh nguyệt có tám cạnh. Năm là vợ ngọc nữ miệng thơm hoa sen thân thơm chiên đàn. Sáu là đại thần chủ tạng linh như thánh. Bảy là chủ binh đại tướng coi binh bốn cõi.
Cũng vậy, Bồ Tát đại sĩ lúc bảy báu xuất hiện thì tự nhiên đạo bửu xuất hiện thế gian. Những gì là bảy báu ? Đó là báu Bố thí ba la mật, Trì giới ba la mật, Nhẫn nhục ba la mật, Tinh tiến ba la mật, Thiền định ba la mật, Bát nhã ba la mật và báu Thiện quyền phương tiện ba la mật xuất hiện thế gian cứu độ tất cả.
Như vua Chuyển Luân đi khắp bốn cõi nước chẳng tính đếm được nhơn dân có bao nhiêu tâm niệm. Cũng vậy, Bồ Tát đại sĩ dùng pháp tứ ân nhiếp cứu chúng sanh chẳng tưởng chúng sanh có bao nhiêu phẩm loại hiểu nó là bổn lai không có.
Như vua Chuyển Luân cai trị bốn cõi, ngồi yên trên ngai, không người đấu tranh, không xử phải quấy, mà dân chúng tự nhiên thuận theo mạng lịnh của nhà vua. Cũng vậy, Bồ Tát ngồi tòa Phật Pháp không kẻ đấu tranh, các bè đảng ma dầu cưu lòng ác mà tự nhiên đến hàng phục.
Bạch đức Thế Tôn ! Như cõi Đại Thiên nầy trước nhứt thiết lập núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di. Cũng vậy, Bồ Tát trước nhứt gầy dựng Đại thừa, kế lập đại bi, chí tánh nhơn hòa là vô thượng hơn cả.
Như mặt nhựt mới mọc trước tiên chiếu ánh sáng đến núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di rồi sau đó mới chiếu đến các chỗ khác. Cũng vậy, Bồ Tát phóng sáng trí huệ chiếu khắp ba cõi,dùng tâm nhơn hòa trước soi đến chúng sanh, ánh sáng Đại thừa trừ tối ba độc đều được thần thông.
Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả cây cối quận huyện thôn ấp đều y cứ trên đất liền. Trăm giống cỏ cây đều nhờ nương nơi đất mà sanh trưởng. Từ mặt đất, muôn vật sanh ra mà được tự tại. Cũng vậy, tất cả cội công đức của Bồ Tát đều nhơn nơi đạo tâm nuôi lớn thánh huệ mà thành chánh giác vậy».
Đức Phật khen Hiền Vương Thiên Tử : « Lành thay, lành thay ! Thiện nam tử khéo dẫn ví dụ để nói lên công hạnh Bồ Tát.
Lại nầy thiện nam tử ! Như Chúng sanh giới cùng với pháp giới được đến tổng trì. Trí huệ của Bồ Tát cũng như vậy, được biện tài vô ngại lời nói không cùng tận không bị ngăn che không ngớt không nghĩ. Với kinh pháp của chư Phật tuyên thuyết chẳng khiếp chẳng sợ. Vì Bồ Tát đã được môn tổng trì nên chỗ nói ra chẳng có lòng khiếp sợ.
Bồ Tát như vậy được ba vô ngại :
Một là tổng trì vô ngại.
Hai là Biện tài vô ngại. 
Ba là đạo pháp vô ngại.
Bồ Tát lại có ba sự được vào hạnh nghiệp thanh tịnh :
Một là tự nhiên thanh tịnh. 
Hai là bổn vô thanh tịnh. 
Ba là bổn tế thanh tịnh.
Lại có ba sự Bồ Tát được vào vô tận :
Một là kinh pháp không cùng tận. 
Hai là nghĩa văn tự không cùng tận. 
Ba là tuyên lời dạy bảo không cùng tận.
Bồ Tát lại được vào ba chỗ vô trụ xứ :
Một là thánh huệ vô trụ xứ. 
Hai là ngôn từ văn nghĩa vô trụ xừ. 
Ba là chỗ tu kiến lập cũng vô trụ xứ.
Bồ Tát lại có ba quyết định :
Một là ứng theo cơ mà tuyên bày. 
Hai là liền phát biện tài. 
Ba là trí huệ đúng thời.
Bồ Tát lại được có ba trí huệ giải quyết nhanh:
Một là giải quyết nghi ngờ khiến không còn thắc mắc. 
Hai là dứt hẳn dụ dự khiến không còn trầm ngâm. 
Ba là làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh ».
Lúc đức Phật nói lời trên đây, trong đại hội có tám ngàn Bồ Tát được môn tổng trì.
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Cúi mong đức Thế Tôn kiến lập pháp điển, sau đức Thế Tôn diệt độ, trong thời mạt thế sau cùng, chánh pháp lưu bố khắp Diêm Phù Đề được còn lâu chẳng dứt mất ».
Đức Thế Tôn quan sát khắp bốn phương xong nói kệ rằng :
« Nhiếp căn thì được thắng
Dứt căn không bị hại
Không vốn đã dứt không
Phục bè đảng binh ma.
Giải thoát biết thanh tịnh
Vô úy biết chỗ sợ.
Vất bỏ cả gánh nặng
Là thần chú y sư.
Hàng phục ngoại dị học
Dùng pháp để cứu nhiếp
Hộ trì người hành pháp
Thần chú của Phật nói.
Vô ngã để trừ ngã
Nghĩa ấy phải vượt qua
Đối với Tứ Thiên Vương
Nói câu không nhuần thấm.
Mạnh siêng giữ chương cú
Tịnh lại tịnh Chánh giác
Phạm Thiên Thiên Đế Thích
Làm nên thừa như đây.
Từ thị thông nhẫn kia
Bởi quán sát đại bi
Được Phạm Thiên ái kính
Người ấy không chỗ phạm.
Khoáng Dã rời không trống
Không căn gọi là tịnh
Hàng phục binh tướng ma
Nên nói thần chú nầy.
Đấng Thế Tôn kiến lập
Kinh lời nghĩa hay nầy
Bấy giờ lưu bố khắp
Tùy cơ hay lãnh thọ.
Bởi nói chú thuật nầy
Trời đất đều chấn động
Chư ma thảy đều đến
Đều tuyên nói như vầy :
Dùng lời giữ đầu cổ
Đây gọi là Pháp Sư
Nếu tay được kinh nầy
Về đến chỗ Phật nói ».
Lúc ấy đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Đã kiến lập kinh điển nầy rồi, nay kiến lập không ai làm loạn động được. Tại sao vậy ? Ta nhớ lại thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bửu Nguyệt Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới ấy tên là Vô Duyệt.
Trong đời đức Phật Bửu Nguyệt ấy có hai Tỳ Kheo làm Pháp Sư. Một vị tên là Trí Tịch, một vị tên là Trì Chí Thành. Hai vị đều có oai thần biến hóa đức cao vòi vọi. Hai vị lãnh thọ chương cú thần chú nầy nơi Phật Bửu Nguyệt mà phụng trì. Sau khi Phật Bửu Nguyệt diệt độ, hai vị ấy trì pháp nửa kiếp. Sau đó trăm ngàn ức loài ma trong cõi Đại Thiên đều được khai hóa tuân theo đạo Vô thượng chánh chơn.
Nầy Mật Tích ! Ông muốn biết hai vị Tỳ Kheo Pháp Sư thuở xưa ấy là ai chăng ? Trí Tịch Pháp Sư là tiền thân của ta, Thích Ca Mâu Ni Phật vậy. Còn Trì Chí Thành Pháp Sư là tiền thân của Mật Tích Kim Canh Lực Sĩ vậy.
Các chương cú ấy làm cho kinh pháp nầy được nhiều sự lợi ích hộ trì thành tựu chánh pháp ».
Bấy giờ đức Thế Tôn nhìn xem tất cả chúng hội bốn phía mà tuyên bố rằng : « Chư vị Chánh Sĩ ! Ai là người có thể gánh vác được đạo tổng trì vô thượng chánh chơn mà đức Như Lai đã từ trăm ngàn ức triệu vô số kiếp chứa công tích đức, tất cả chúng sanh nhờ đây mà được tế độ, chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều do đây mà sanh ».
Trong chúng hội có ba vạn hai ngàn vị Bồ Tát rời chỗ ngồi đứng dậy vòng tay cúi đầu lễ Phật rồi nói kệ rằng :
« Xả bỏ thân mạng mình
Tư duy khéo vắng lặng
Thọ trì kinh pháp nầy
Được chư Phật khen ngợi.
Kinh điển nầy như thuốc
Chữa trị tất cả bịnh
Thọ trì ngôn giáo nầy
Phát sanh tâm ý Phật ».
Liền đó Hiền Vương Thiên Tử cùng năm trăm Thiên Tử nói kệ rằng :
« Tất cả chúng sanh
Siêng quán tưởng chứa đức
Thọ trì kinh điển nầy
Được tối thắng thâm diệu ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cũng nói kệ rằng :
« Nghĩa ấy không văn tự
Mà lại tuyên văn tự
Đức Thế Tôn ban tuyên
Tôi nay phả i phụng trì ».
Lúc bấy giờ đức Như Lai bảo Phạm Thiên và Thiên Đế Thích : « Như Lai có ba điều chẳng thể hạn lượng được, nên thành bực cúng dường vô thượng công đức vô cùng cực.
Những gì là ba ?
Một là chí tâm nhơn hòa phát đạo tâm mình.
Hai là đem đạo tâm đã được phát mà hộ trì chánh pháp.
Ba là đúng như pháp được nghe mà giảng giải cho mọi người.
Đích thân thật hành ba điều như vậy nên được đến công đức chẳng thể tính lường được.
Phạm Thiên nên biết do ba sự ấy mà chứa công tích đức, dầu cho ta ở đời một kiếp phân biệt rộng nói cũng chẳng thể nói hết được.
Nầy Phạm Thiên ! Thế nên phải tùy thuận cung kính phụng sự ba điều của Như Lai.
Phạm Thiên cúng dường Như Lai lãnh thọ bốn câu kệ tụng mà ba đời chư Phật đã tuyên nói, lãnh thọ rồi ủng hộ.
Tại sao Vậy ?
Chư Phật Thế Tôn đều từ pháp nầy mà sanh. Vì thế nên cúng dường pháp.
Cúng dường pháp chẳng cần đến áo cơm. Bởi pháp cúng dường là hơn hết trong những sự cúng dường. Vì thế nên Phạm Thiên phải đem chánh pháp để cúng dường nhau, là cúng dường chơn đế, không dùng áo cơm.
Đức Phật tự nhớ Phạm Thiên Vương thuở quá khứ từng sanh làm Vương Thái Tử tên là Ý Hành, mến ưa đạo pháp. Một hôm nằm mơ nghe bốn câu kệ tụng nầy :
« Nếu mãi buông lung không đường thoát
Vì chúng sanh nên phát đạo tâm
Ở rảnh rang tùy thuận siêng tu
Xả thí không tham mình người an.
Vương Thái Tử nghe dạy bài kệ tụng ấy, sau khi tỉnh giấc suy gẫm rành rẽ, trong lòng rất vui mừng, liền nói kệ ca ngợi lời kệ tụng ấy :
Mừng thay rất an vui
Được pháp tạng vô tận
Nên thí cho kẻ nghèo
Khiến mọi người no đủ.
Nầy Phạm Thiên ! Khi ấy Vương Thái Tử được tạng an lập đế, hiểu văn tự vốn không, tự nghĩ rằng : đem nghĩa bài kệ ấy làm cho chúng sanh nghèo thiếu được no đủ.
Vương Thái Tử đến thưa Vương phụ và Vương mẫu, chừng có kho bảy báu : vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, xa cừ, mã não, san hô chăng ? con rất vui mừng nếu được đem bố thí cho người nghèo khó.
Phụ mẫu nên biết rằng tất cả của cải chẳng phải là vật báu bền chắc, thường bị nước lụt, hỏa hoạn, trộm cướp, oan gia trái chủ, quan quyền, con bất hiếu làm tiêu tan. Trí huệ nghe rộng học nhiều không cần áo cơm rất là khó được. 
Vương phụ, Vương mẫu nói : Hay lắm, cho phép con lấy của kho bố thí, như lòng con muốn.
Vương Thái Tử Vương liền bố thí khắp các người nghèo thiếu. Rõ biết ba cõi rỗng không làm cho họ được trí huệ vô tận khó được.
Vương Thái Tử nghe một bài kệ bốn câu mà giáo hóa được tám ngàn người khuyên phát đạo tâm Vô thượng Bồ đề, vô số chúng sanh được sanh cõi trời.
Thế nên, nầy Phạm Thiên ! Người nào lãnh thọ pháp thâm diệu nầy, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói, nghe đó vui mừng, thì được công đức vô lượng, được tạng vô thượng.
Nầy Phạm Thiên ! Hành pháp Đại thừa có ba sự pháp lợi ích rất nhiều cho Bồ Tát :
Một là giải và hạnh được lập nhẫn thọ không nhàm. 
Hai là lấy giải để kiến lập, lấy hạnh làm trọng yếu, giữ gìn lời nói là thứ nhứt, chẳng móng tâm tổn hại chúng sanh. 
Ba là chẳng rời bỏ đại bi.
Đó là ba sự. Vì thế nên, Phạm Thiên nầy ! Muốn làm lợi ích cho chúng sanh thì phải siêng khuyến trợ kinh điển nầy.
Lại có hai sự mà hạnh nguyện được lập ra chẳng bị quên mất :
Một là lúc Phật mới thành đạo, đến thỉnh cầu đức Phật chuyển chánh pháp luân. 
Hai là Phạm Thiên phải thỉnh cầu, trong Hiền Kiếp nầy, một ngàn vị Phật đương lai chuyển chánh pháp luân giáo hóa những chúng xuất gia làm hạnh Bồ Tát, như đức Phật Thế Tôn làm Pháp Vương tự tại khéo giáo hóa dạy dỗ ít ai bằng được. 
Nầy Phạm Thiên ! Vì lẽ ấy nên đức Phật làm cho tất cả mọi người trừ bỏ già bịnh chết đến quả vô vi, với sắc chẳng chấp trước. Vì hiểu lẽ ấy nên chịu được các sự khổ, không vọng mong cầu, làm chúa tể trời người, tạo lập ba pháp nhẫn, chấp trì chánh pháp thọ trì đọc tụng. Lãnh thọ kinh nầy là rất khó.
Phải quan niệm rằng : Bồ Tát trong trăm ngàn ức triệu kiếp tu hạnh thanh tịnh, trang nghiêm thanh tịnh Phật độ, ủng hộ chánh pháp, mau được thành bực Chánh giác ».
Lúc bấy giờ đức Phật phán bảo Ngài A Nan: « Nầy A Nan! Ông phải lãnh thọ kinh nầy, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho mọi người ».
Ngài A Nan bạch đức Phật : « Thưa vâng. Bạch đức Thế Tôn ! Con sẽ thọ trì làm cho được kiên cố ». 
Đức Phật dạy : « Nầy A Nan ! Chớ đem pháp nầy truyền cho kẻ chẳng phải pháp khí, chớ trao cho ác tri thức. Nên truyền cho thiện hữu, những người mộ đạo thích học, những người nầy sẽ phụng trì thủ hộ.
Nầy A Nan ! Kinh điển nầy chẳng về nơi phi pháp mà sẽ về nơi người hạp căn khí, họ có thể phụng hành pháp nầy và thương cứu chúng sanh.
Lại kinh nầy không có vọng tưởng. Tinh tiến hành trì thì có thoại ứng hiện tiền. Người hành trì kinh nầy thì được nhiều phước báo ». 
Ngài A Nan thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Con sẽ thọ trì kinh nầy, nương oai thần của đức Phật, con sẽ làm cho thường được lưu bố khắp nơi. Nếu ai lãnh thọ pháp nầy, thừa oai thần của đức Phật, quang minh chiếu xa. Những người ấy chẳng còn theo nghiệp hạnh sái quấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy danh hiệu là gì, phụng hành thế nào ? ».
Đức Phật phán dạy : « Kinh nầy tên là Lời dạy của đức Phật. Lại có tên là Pháp nghĩa của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tuyên bố. Lại tên là Công huân báo ứng của Như Lai. Lại có tên là Phẩm pháp bí yếu của Như Lai.
Nầy A Nan ! Ông phải phụng trì như vậy. Vì người khác phân biệt giảng nói chớ có mong cầu lợi dưỡng. Chỉ vì vô lượng công đức mà thuận theo pháp luật nên phụng trì vậy. Tại sao ? Giả sử dùng Phật nhãn thấy khắp Phật độ và cõi nước mười phương, từ mặt đất lên cao đến trời Đao Lợi, trong đó đầy những bảy thứ châu báu và trăm thứ uống ăn đem cúng dường đức Như Lai, nếu có người lãnh thọ kinh nầy, thọ trì đọc tụng phụng hành, vì người mà giảng nói không có lòng cầu lợi dưỡng thì được công đức nhiều hơn.
Và có người nào đem y thực vật dùng cúng dường kinh yếu nầy, tuyên công đức của Như Lai thì được phước vô lượng, không gì để ví dụ được ».
Lúc đức Phật nói kinh nầy, có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vô số Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn. Vô ương Bồ Tát đến bực nhứt sanh bổ xứ.
Ngài A Nan, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, Tịch Ý Bồ Tát và chư đại Thanh Văn, chư Thiên, chúng Nhơn cùng hàng A Tu La, Càn Thát Bà, tất cả chúng hội nghe lời đức Phật phán dạy không ai chẳng vui mừng, cúi đầu đảnh lễ rồi lui ra.

PHÁP HỘI MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ - 
THỨ BA
HẾT