47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát

27 Tháng Bảy 20168:36 CH(Xem: 2255)
47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát

KINH ĐẠI BẢO TÍCH 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh 
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XLVII 
PHÁP HỘI BỬU KẾ BỒ TÁT 
 
THỨ BỐN MƯƠI BẢY
 
Hán Dịch: Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ 
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 

Tôi nghe như vầy:

Một thuở, đức Phật ở tại nước La Duyệt Kỳ, núi Linh Thứu, cùng bốn vạn hai ngàn chúng Tỳ Kheo.

Tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đều từ thế giới chư Phật mười phương đều đến tập hội. Chư Bồ Tát nầy đều đã thông đạt nhứt sanh bổ xứ, được vô sở trước vô chướng ngại, từ dũng mãnh phục tam muội mà xuất súc sanh, được thượng liên hoa tam muội, kim cương đạo tràng tam muội, thiện kiên trụ tam muội, thuần thục tu tam muội, tràng anh vương tam muội, kim cương tam muội, tịnh đức sự tam muội, phân biệt quyền hành đều được thân cận pháp của chư Phật, ở dưới Phật thọ hàng phục độ các ma giới mà được kiến lập Phật độ, được thành vô tận thuyết pháp tổng trì, được biết căn nguyên của tất cả chúng sanh, dùng biện tài vi diệu làm vui đẹp lòng đại chúng, là bước đi sư tử hùng mãnh vô úy, nếu vào giữa chúng hội thì ứng nghiệm thời nghi tuyên nói văn tự cú, thành tựu các hạnh thì dùng tướng oai đức để tự nghiêm sức, bỏ các sở hữu thế gian, xa rời các ngoại đạo, công đức hiển bày tiếng tăm suốt mười phương. Chư Phật ngợi khen công đức vô lượng, đều từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến , nhứt tâm, trí huệ mà thành, tu tập đạo nghiệp từ vô số kiếp trăm ngàn na do tha , thấy biết bệnh của tất cả chúng sanh đúng bệnh cho thuốc đều khiến lành bệnh nhập vào pháp duyên khởi để bỏ các sự chấp đoạn diệt và có thường , đức hạnh thanh tịnh chí nguyện không vết nhơ tâm tánh sáng suốt, khai hóa quần sanh và đều nhiếp hộ khiến họ được thành tựu, dạy bảo rõ ràng ý được tự tại, thế lực kiên cường chẳng bỏ tâm từ, đầy đủ bảy thánh tài : tín, giới, văn, thí, tàm, quý và trí huệ, muốn độ chúng sanh nên dùng thiện phương tiện ở vắng vẻ rảnh rang cố sức tu tập thệ nguyện lành tốt, thánh đức vô lượng, tâm như hư không.

Danh hiệu của chư Bồ Tát ấy là : 

Quang Quán Bồ Tát, Thường Minh Diệu Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ 

Tát, Sư Tử Ý Bồ Tát , Sư Tử Bộ Bồ Tát, Sư Tử Lôi Âm Bồ Tát, Tôn Ý Bồ Tát, Kim Cương ý Bồ Tát, Kim Cương Bộ Bồ Tát, Kim Cương Tràng Bồ Tát, Kim Cương Chí Bồ Tát, Bộ Bất Động Tích Bồ Tát, Độc Bộ Thế Bồ Tát, Thiện Minh Bồ Tát, Liên Hoa Mục Bồ Tát, Liên Hoa Tịnh Bồ Tát, Bửu Tịnh Bồ Tát, Câu Tỏa Bồ Tát, Bửu Tràng Bồ Tát, Bửu Sự Bồ Tát, Bửu Ấn Thủ Bồ Tát, Đức Diệu Vương Bồ Tát, Tịnh Vương Bồ Tát, Chấp Ly Ý Vương Bồ Tát, Điện Quang Nghiêm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Nhuyến Âm Bồ Tát,Vũ Âm Bồ Tát, Bất Ly Âm Bồ Tát, Ý Tịnh Bồ Tát, Lôi Âm Bổ Tát, Giải Phược Bồ Tát v.v…Còn có Phổ Thủ Chi v.v …mười sáu vị chánh sĩ, Chúng Hương Thủ v.v…sáu mươi Thánh sĩ, Tử Thị Chi v.v …ba mươi hai thanh tịnh hạnh sĩ, đây đều là chư Bồ Tát trong hiền kiếp vậy.

Còn có hàng ma Thiên Tử, Tịnh Phục Tịnh Thiên Tử, Thiện Diệu Thiên Tử, Hiền Hộ Thiên Tử, Hoạch Thắng Thiên Tử, Ỳ Thắng Thiên Tử, Tịch Hóa Âm Thiên Tử, Ý Tư Thiên Tử v.v … hai vạn Thiên Tử đều chí nguyện Đại thừa.

Trời Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương, Ma Vương, Nhuyến Mỹ 

Thiên Tử, cùng vô số chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn đồng câu hội.

Lúc ấy đức Thế Tôn cùng đại chúng vô số trăm ngàn quyến thuộc vây quanh mà vì họ thuyết kinh. Đức Phật ngồi tòa đại sư tử thanh tịnh dũng mãnh vô úy làm sư tử hống, như mặt nhựt chiếu khắp, như mặt nguyệt tròn sáng, như lửa trừ tối, tòa sư tử ấy sáng chói oai quang hơn hẳn trời Thích Phạm, thân Phật lồ lộ như núi Tu Di hiện giữa đại hải. Kinh điển được đức Phật nói, trước sau lời ý đều diệu thiện, đầy đủ nghĩa hay cứu cánh thanh tịnh. Đại Từ rộng tuyên bày Bồ Tát hạnh, giảng Bồ Tát pháp. Chỗ nên tuân tu gọi là tịnh hạnh.

Phương Đông cách cõi nầy chín trăm hai mươi vạn Phật độ, có thế giới tên Thiện Biến, Phật hiệu Tịnh Trụ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác đương hiện tại thuyết pháp. Bên đức Phật ấy có Bồ Tát hiệu La Đà Lân Na Châu cùng chung với tám ngàn Bồ Tát, nơi Phật độ ấy bỗng ẩn mất, đến cõi Ta Bà nầy an trụ tại trời Phạm Thiên dùng một bửu cái che trùm cõi Ta Bà khắp mua hoa trời đủ các màu sắc. Chư Bồ Tát ấy ở tại Phạm Thiên nói kệ rằng :

Chư Thiên nhơn dân được lợi lành 
Lòng nguyện thấy Phật Thích Sư Tử 
Vì tiêu khổ não các việc tục 
Tâm ngưyện kiên cố tu Phật đạo 
Vô số Bồ Tát như hằng sa 
Được thành Phật đạo lìa ưu phiền 
Tôi từ phương Đông mà đến đây 
Thế giới tên là Thiện Biến 
Phật hiệu Tịnh Trụ hiện giáo hóa 
Tôi muốn được lạy Thích Sư Tử 
Giả sử có người muốn nghe pháp 
Hoặc thấy mười phương chư Bồ Tát 
Như muốn đảnh lễ đức Thế Tôn 
Phải mau gấp đến núi Linh Thứu 
Chư đại Đạo Sư khó được gặp 
Pháp yếu kinh điển gặp cũng khó 
Thân người khó được rỗi rảnh khó 
Tin chắc cấm giới còn khó hơn 
Giả sử hiện thời tạo đức bổn

Thì thấy chúng sanh tối và tà 
Có thể khai thị khiến diệt độ 
Mau cùng nhau đến chỗ đức Phật 
Nếu muốn giải thoát ba ác thú 
Để được nhơn thiên chỗ an ổn 
Sớm chứng vô vi tiêu sanh tử 
Phải mau đến chỗ đức Như Lai 
Đấng đại Y Vương thí cam lộ 
Đấng đại Đạo Sư chỉ đường chánh 
Đấng đại Pháp Vương cầm pháp bửu 
Hàng phục tất cả loải chúng sanh.

Bửu kế nói kệ ấy rồi đem tiếng kệ ấy truyền rao khắp cõi Đại Thiên.

Nghe tiếng kệ ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Tiếng kệ nghĩa vi diệu ấy tử đâu phát xuất ? ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Xá Lợi Phất ! Cách đây về phương Đông chín trăm hai mươi vạn Phật độ, có thế giới tên Thiện Biến, Phật hiệu Tịnh Trụ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện tại thuyết pháp. Hầu hai bên đức Phật ấy có Bồ Tát tên Bửu Kế cùng chung với tám ngàn Bồ Tát đồng đến cõi Ta Bà nầy muốn thấy ta để thưa hỏi kinh pháp , cũng muốn thấy chư Bồ Tát mười phương tại pháp hội, nên dừng ở Trời Phạm Thiên nói kệ và khiến kệ ấy truyền khắp cõi Đại Thiên cho vô số chúng sanh gieo trồng cội lành đồng đến chỗ ta, Thích Ca Mâu Ni Phật.

Bấy giờ Bửu kế Bồ Tát cùng tám ngàn Bồ Tát và vô số Thiên Tử vây quanh, trỗi trăm ngàn kỹ nhạc, mưa các thứ diệu hoa, phóng đại quang minh chấn động cõi Đại Thiên, đến chỗ đức Phật đảnh lễ chưn Phật, nhiễu quanh Phật bảy vòng rổi đứng trước Phật.

Bửu Kế Bồ Tát bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Đức Tịnh Trụ Như Lai kính thăm vô lượng ý chí khương ninh đi đứng khinh tiện thế lực an ổn chăng ?

Ngưỡng mong Thế Tôn ban ân lành vì chư Bồ Tát mà ban dạy điều phải nên làm. Bồ Tát theo đó được đầy đủ cứu cánh thanh tịnh, mặc giáp tất cả công đức, chứa đầy hạnh lành bình đẳng thanh tịnh tu thân. Thấy sở niệm của tất cả quần sanh xem tướng hành của họ rổi theo sờ ưng mà khai hóa. Dùng trí huệ làm dâm nộ si mà giảng thuyết pháp khiến nên diệu hạnh.

 
Nếu thấy chúng ta ở nơi tà pháp thì vì họ mà diễn bày giáo pháp bình đẳng.

Được chư Như Lai hộ niệm giúp đỡ. Tất cả mọi loài chúng sanh đều được nương nhờ. Tất cả chúng ma không thể phá hoại. Được thấy chư Phật không hề trở ngại. Chỗ được tuân tu đều thành hạnh thanh tịnh của Như Lai .

Những lợi lành như vậy do nhơn gì mà được ? ».

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Lành thay, lành thay, nầy Tộc Tánh Tử ! Ông hay hỏi đức Như Lai những nghĩa như vậy. Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ. Ta sẽ giải nói hạnh thanh tịnh của chư Bồ Tát thật hành’’.

Bửu Kế Bồ Tát và đại chúng vâng lời dạy lắng nghe.

Đức Phật phán dạy : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát có bốn pháp, thật hành theo đây thì được thanh tịnh :Một là hành độ vô cực Ba la mật đa.

Hai là thường phài huân tu đạo phẩm của chư Phật .

Ba là đầy đủ thần thông.

Bốn là khai hóa chúng sanh.

 
Bồ Tát hành độ vô cực thì chỗ được khuyến trợ không đâu chẳng cùng khắp, vào tất cả cội công đức.

Bồ Tát tu đạo phẩm là sử dụng đạI tử biết rõ đúng thờI vào đạI trí huệ.

Bồ Tát có đủ thần thông là phân biệt tâm niệm hành nghiệp thiện ác của nhơn dân.

Bồ Tát khai hóa chúng sanh là đạI bi kiên cố biết rõ chí nguyện căn tánh của tất cả mọI loài.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Sao gọI là Bồ Tát bố thí độ vô cực thật hành thanh tịnh ? Đó là tâm tập xan tham đều vứt bỏ cả, tâm tập bố thí đã có thể phóng xả, phá mất sự tham ái xấu dơ, khuyên gắng bố thí, tất cả sở hữu ban cho chẳng tiếc. Bồ Tát làm việc bố thí rồI mà ở nơi bốn sự chẳng có quan niệm sai biệt :

Một là các loài chúng sanh không sai biệt.

Hai là tất cả kinh pháp chẳng sai biệt.

Ba là chỗ được khuyến trợ cũng không sai biệt

Bốn là chí tánh bố thí cũng không sai biệt.

Thế nào là ở nơi chúng sanh không có sai biệt ? Bồ Tát chẳng quan niệm : tôi sẽ thí cho 

ngườI nầy không cho ngườI kia, thí ngườI nầy được phước nhiều, thí ngườI kia được phước ít, hậu thí cho ngườI nầy bạc thí cho ngườI kia, cúng thí đây xong đến thí cho kia, nên thường thí đây đôi lần thí kia, đích thân mang thí đây không cần đích thân đến thí cho kia, thí đây đầy đủ thí kia sơ sài, ngườI nầy giữ giớI ngườI kia phá giớI, ngườI nầy được đạI chúng giúp đỡ ngườI kia ít được giúp đỡ , ngườI nầy hay trọn đức chúng giúp đỡ ngườI kia không được trọn, ngườI nầy tu chánh ngườI kia hành tà, ngườI nầy hay thật hành hạnh bình đẳng ngườI kia đọa lạc nghiệp tà vạy.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát bố thí đều nên vứt bỏ các thứ tâm niệm như vậy mà tu tâm bình đẳng chẳng có sai biệt, thường nhờ đến chúng sanh mả cung ứng vớI tâm niệm bình đẳng để khai hóa họ, ý chí bình đẳng, từ bi vui vẻ cứu hộ không hề sót quên. Nói bình đẳng là như hư không chẳng có tăng giảm. Đây gọI là chúng sanh không có sai biệt ».

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Thế nào là các pháp chẳng sai biệt ? Giả sử Bồ Tát thuyết pháp mà tuyên bình đẳng, cũng chẳng quan niệm ngườI phụng tu thì tôi sẽ cho kinh kẻ chẳng thuận pháp sẽ không cho, nếu đủ tất cả pháp tôi sẽ cho còn ngườI không đủ sẽ không cho, ngườI muốn hưng đạo giáo thật hành pháp thí mà bố thí cho phàm phu chẳng gọI là tổn hao bố thí cho hiền thánh chẳng gọI là trưởng ích, lạI biết pháp vốn thanh tịnh bình đẳng không sai biệt vì lẽ ấy mà chỗ bố thí nên bình đẳng. Đây là ở nơi các pháp chẳng sai biệt.

Thế nào là chỗ được khuyến trợ cũng không sai biệt ?

Những vật bố thí cùng đồ cúng dường có được khuyến trợ Bồ Tát cũng không quan niệm sai biệt. Nếu lúc bố thí, Bồ Tát chẳng quan niệm tôi sẽ được phước mong ngôi vị Đế Thích, Phạm Vương, chư Thiên, chẳng ham chỗ năm loài sanh tử xoay vần, chẳng cầu thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Chỗ bố thí chỉ dùng chí nguyện cầu đạo vô thượng chánh nhơn. Đây gọI là khuyến trợ mà chẳng sai biệt.

Thế nào là chí tánh bố thí chẳng sai biệt ? Những gì được phóng xả ? Bổ Tát chí tánh ở nơi đạo, không có lòng sai biệt, hiệp hộI cùng biệt ly tâm Bồ Tát không hề tăng giảm, chẳng cần đền đáp chỉ mong khai hóa tế độ kẻ chẳng bằng vượt đến bờ kia, tâm Bồ Tát nầy chất phác không có dua siểm, hoài bão đốc biến đổI, khi bố thí vật trân ái lòng rất vui mừng, có ai đến cầu xin mà có thể thí cho được thì Bồ Tát nầy càng vui mừng hơn. Đây gọI là Bồ Tát chí tánh bố thí cũng chẳng sai biệt.

Trên đây là Bồ Tát thí độ vô cực không có sai biệt vậy ».

Đức Phật phán tiếp : « Còn có tám sự vứt bỏ đương lúc thật hành việc bố thí : 

Một là chẳng thấy ngô ngã, hai là chẳng thấy có ngườI, ba là chẳng thấy có thọ mạng, bốn là chẳng thấy có đoạn diệt, năm là chẳng thấy có thường, sáu là chằng an trụ ba chỗ, bảy là chẳng thấy chỗ không có, tám là nếu bố thí phài nghiêm tịnh bố thí.

Bồ Tát bố thí trừ bỏ bốn trụ nghiệp :

Một là bỏ phi pháp thì dùng kinh điển khai hóa phàm phu. Hai là bỏ tâm Thanh Văn chí cầu đạI đạo. Ba là bỏ pháp Duyên Giác mà tu pháp bình đẳng. Bốn là xa lìa những chỗ y ỷ chấp trước.

Bồ Tát còn rờI lìa bốn điều tư tưởng : thường tưởng, an tưởng, tịnh tưởng và ngã tưởng.

Còn có bốn sự là bố thí thanh tịnh : thân tịnh, ngôn tịnh, tâm tịnh và tánh tịnh.

Còn cò ba sự bố thí vượt khỏI các trở ngạI : bỏ lòng hy vọng, bỏ lòng hờn giận và lìa Tiểu thừa.

Còn có ba sự xa lìa thì bố thí rời khỏi các sợ sệt : bỏ cống cao, lìa khinh mạng và xa ma nghiệp.

Còn có bốn bố thí dùng pháp được ấn chứng : nộI không, ngoạI không, nhơn không và đạo không.

Còn có bốn bố thí chỉ chuyên tinh tiến : Cho chúng sanh no đủ, đầy đủ Phật pháp, thành tựu đủ tướng hảo nghiêm dung và sửa sang thanh tịnh Phật độ.

Còn có bốn bố thí lòng thường chẳng quên bỏ : Ý thường nhớ đạo pháp, thường muốn thấy Phật, tu tâm đạI từ và diệt trừ uế cấu trần lao của chúng sanh.

 
Còn có ba bố thí nghiêm tịnh đạo tràng : Thanh tịnh mình, thanh tịnh ngườI và đến đạo tràng thanh tịnh.

Còn có bốn bố thí chỗ đem cho thanh tịnh : Dùng trí huệ bố thí, hay làm vui đẹp lòng chúng sanh, rành rẽ khuyến trợ và hiểu rõ quan sát kinh điển.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Đó là pháp nên được tu của Bồ Tát bố thí độ vô cực thành hạnh thanh tịnh ».

Đức Phật phán bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát hành giớI độ vô cực có một sự thành hạnh thanh tịnh : Đó là hiểu tâm Bồ Tát không ngang sánh, tâm ấy siêu quá tất cả thế gian tốI tôn vô tỉ, vượt trên tâm các Thanh Văn, Duyên Giác, tâm ấy hay hàng phục tất cả các ma, vào trong chúng sanh, đến chỗ nào đều thành danh đức làm vô lượng bửu, các pháp được tuân tập khắp hộ trì lòng chưa hề quên. Đây là một sự thành hạnh thanh tịnh.

Còn có hai sự giớI độ vô cực thành hạnh thanh tịnh : Thường có lòng từ mẫn không hạI chúng sanh và tâm chí ở nơi đạo điều như tánh hạnh.

 
Còn có ba sự giớI độ vô cực thanh tịnh : 

Một là thân thanh tịnh ba điều thì giớI không thiếu sót rốt ráo trọn đủ.

Hai là ngôn thanh tịnh tất cả lờI được nói ra không có dua gièm. 

Ba là ý thanh tịnh trừ bỏ các tham dục sân hạI cấu uế.

Còn có bốn sự giớI độ vô cực thanh tịnh : Đủ giớI thanh tịnh, giữ giớI cấm chẳng phạm, dùng giớI pháp ấy giáo hóa chúng sanh và thấy ngườI trì giớI thì kính họ như kính Phật.

Còn có năm sự giớI độ vô cực thanh tịnh : Chẳng tự khen mình, chẳng chê ngườI, bỏ chí Thanh Văn, lìa ý Duyên Giác và không hề tham trước.

Còn có sáu sự giớI dộ vô cực thanh tịnh : Thường niệm Phật chẳng phạm cấm giớI, thường niệm kinh Pháp thuận tu chánh hạnh, thường niệm Thánh chúng chẳng trái Phật giáo, thường niệm bố thí bỏ hết trần dục, thường niệm cấm giớI chẳng còn tham mộ tất cả ngũ thú và thường niệm chư Thiên tuyên những đức lành.

Còn có bảy sự giớI độ vô cực thanh tịnh : Đốc tin ưa thích pháp chư Phật, thường nhớ tàm tu làm trọng nhiệm của chúng, thường nhớ quý thẹn suy nghĩ pháp đạo phẩm mà chẳng tự cao đạI, luôn hòa ái chẳng não phiền hình ngườI, không tàn hạI sợ tộI họa đờI sau, chẳng làm phiền nhiễu ngườI ngăn lòng lo buồn và thấy chúng sanh tạI khổ não thì xót thương họ.

Còn có tám sự giớI độ vô cực thanh tịnh : 
Không dua gièm, không lòng mong cầu, chẳng tham lợI dưỡng, bỏ tham lam, không ỳ lạI, biết vừa đủ nơi sở hữu của mình, hành hiền thánh thiền định đủ lòng đạm bạc, ở chỗ rảnh vắng không tiếc thân mạng và thích ở một mình xa lìa chúng hội, ưa đạo pháp sợ ba cõi chẳng lấy vô vi.

Còn có chín sự giới độ vô cực thanh tịnh : Y luật giáo hóa chúng sanh cho họ đắc độ, lần lần tập chánh định để tu sửa tâm họ, khiến tâm cứu cánh chẳng có lòng nóng giận, tìm cầu sự tịch mịch ngăn tâm động niệm, tập làm oai nghi lễ tiết nghiêm chánh, vượt qua cấm giới chằng thấy thân mình, chưa hề khi hoặc xót thương quần sanh có đủ Đại thừa, cứu cánh thành tựu giới hạnh chẳng còn thiếu kém và lòng thường hoài niệm siêng tu đức lành. 

 

Còn có mười sự giới độ vô cực thanh tịnh : Thanh tịnh thân ba việc, thanh tịnh khẩu bốn việc, thanh tịnh ý ba việc, nhớ bỏ dua gièm chí tánh chất trực chẳng nhỏ nhen, tâm tánh vào khắp tất cả không ai chẳng nhờ tế độ, tất cả cảm giác đều biết tiết hạn lấy lòng thương làm gốc đều cởi mở các kiết sử, tâm không cứng rắn giáo hóa chúng sanh đều dùng hạnh điều hòa, thường tu thân mình thấy kẻ đồng hàng thì khép nép cung kính, với chúng giúp đỡ thì khuyên dạy pháp sự và cung cấp áo cơm khiến lìa bỏ nghiệp thế gian.

Còn có hai sự giới độ vô cực thanh tịnh : Bị người hủy nhục thà chết chớ chẳng phạm cấm giới chẳng khởi tưởng niệm chẳng mộ của cải và không xoay quanh tham cầu tất cả các pháp giới hạnh rỗng không vô tướng.

Còn có hai sự : Nội tịnh trừ các cảm xúc và ngoại tịnh bỏ các cảnh giới .

Còn có hai sự : Thanh tịnh đạo tâm của mình vì hiểu tướng tự nhiên và giới phẩm thanh tịnh vì không có các tướng vậy.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Đó là Bồ Tát giới độ vô cực hạnh thanh tịnh ». 

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : «Nầy Tộc Tánh Tử ! Thế nào là Bồ Tát nhẫn độ vô cực hạnh thanh tịnh ?

Nếu bị người mắng nhiếc Bồ Tát nín nhịn không mắng lại là khẩu thanh tịnh , bị đánh chịu đau không đánh trả là thân thanh tịnh, bị giận thì thương mà không hận là ý thanh tịnh, bị hủy nhục mà không oán hờn là tánh thanh tịnh.

Lại nữa, Bồ Tát nếu nghe có kẻ phát lời thô lỗ vì hộ chúng sanh mà chẳng khởi giận hờn, dầu có bị đao gậy chém đập, bị ngói đá ném đánh, vì hộ đời sau nên chẳng có lòng giận hại. Dầu bị rã rởi chi thể, Bồ Tát chẳng vì đó mà lo buổn bởi thuận theo đạo vậy. Bị người đòi cầu chẳng hề hờn giân bởi tế độ bốn ơn vậy. Phát tâm đại từ mà chẳng sân giận bởi gần Phật đạo vậy. Sanh tâm đại bi bởi đầy đủ đại nguyện vậy. Công huân bủa rộng không ai chẳng phụng mạng bởi nhiều lòng thương vậy. Lòng nhơn từ nói lời ca ngợi công đức chỗ đem bố thí đều vì đạo pháp bởi xa bỏ thiên ma vậy. Lại nữa, Bồ Tát niệm Phật đạo mà hành nhẫn nhục vì thành tựu thân Phật vậy. Nếu niệm giác ý mà hành nhẫn nhục vì đủ thập lực vậy ? Nếu niệm trí huệ mà hành nhẫn nhục vì để đủ tam đạt vô chướng ngại vậy. Niệm thương xót mà hành nhẫn nhục vì thành lòng đại từ vậy.Niệm độ hư vọng mà hành nhẫn nhục vì trọn lòng đại bi vậy. Niệm không kinh sợ như sư tử chứa vì vô sở úy vậy. Niệm vô kiến đảnh tướng mà hành nhẫn nhục vì ở giữa chúng sanh mà không tự cao đại vậy. Niệm đủ tướng hảo mà hành nhẫn nhục vì muốn cứu tế khắp các thế gian vậy. Đủ các Phật pháp mà hành nhẫn nhục vì thành tựu thông tuệ vậy !

Nầy Tộc Tánh Tử ! Có hai sự pháp mà sức nhẫn nhục thanh tịnh : Chuyên ròng tu đạo nghiệp và hiệp họp nghĩa lực. Bị người nặng lời mà hay nhẫn nhịn thân tâm an lạc, đó là hiệp họp nghĩa lực. Nơi tất cả pháp không hề chấp trước mà hành nhẫn nhục đó là tu đạo nghiệp.

Người có tâm nhẫn thanh tịnh thì hay nhẫn nhịn chúng sanh biết rõ không có người, nhẫn được các pháp thảy đều đạm bạc, đây là tịnh nhẫn. Tại sao ? Vì ở nơi ấy không có gì là đáng nhẫn và chẳng phải nhẫn. Nơi tất cả pháp không có gì để được mới gọi là nhẫn. Nơi ngưởi nhẫn cũng chẳng thấy có, nơi tất cả pháp không chỗ chấp trước mới gọi là nhẫn. Không chỗ nương, không chỗ nhẫn chẳng thọ các pháp đây gọi là nhẫn, chẳng lấy sở thủ cho là nhẫn nhục vậy.

Người chẳng chấp ngã nhơn thọ mạng các pháp đây gọi là nhẫn nhục. Người chẳng chấp có thân mạng xem như loại tường vách ngói đá mới gọi là nhẫn vậy.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát có hai nhẫn : một là hiểu rõ thân thể chi phần ly tán, hai là biết rõ các pháp đều bổn vô, như vậy mới thành nhẫn nhục.

Đây là Bồ Tát nhẫn độ vô cực hạnh thanh tịnh”.

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : “ Nầy Tộc Tánh Tử ! Thế nào là Bồ Tát tinh tiến độ vô cực thành hạnh thanh tịnh ?

Bồ Tát chẳng bỏ đạo tâm, nơi công nghiệp được làm chẳng hề khiếp nhược, thường siêng tu tập mà chẳng ngủ nghỉ, chẳng rời cội công đức, chứa họp công dức, nơi độ vô cực chẳng thối qchẳng lui, nếu đến nhà tu hành thì phương tiện cầu pháp, có thể vì người mà giảng thuyết kinh pháp, bảo hộ chánh pháp độ thoát nhiều người, chẳng nhàm đại huệ khai hóa chúng sanh, nghiêm tịnh Phật độ độ hàng Tiểu thừa, đầy đủ bổn nguyện cứu cánh thánh huệ, chưa từng trái mất thí giới đa văn, thân cận quyền huệ đã đến nhà phước đức, nên dùng ý nào để cứu tế chúng sanh cho họ không kiêu mạn. Trên đây gọi là tinh tiến.

Những gì là tịnh ?

Nếu hiểu rõ thân như bóng như vang, nói lời nhu nhuyến, ý niệm chẳng mỏi, trí huệ cứu cánh mà tâm tịch tĩnh, sáng suốt nơi việc làm trọn chẳng cùng tận, phân biệt các diệt huệ không có sở khởi, đây là tịnh vậy.

Bồ Tát ấy có ba sự rời lìa tinh tiến : Nương chấp nhơn duyên, hành điên đảo sự và vọng tưởng nơi diệt pháp. Nếu ở nơi tam giới mà không sở trước chấp nương gá thì là tinh tiến.

Còn có ba sự : Mắt không sờ trước, chẳng nương gá nơi sắc trần và chẳng tham nơi thức phân biệt. Như nơi mắt, nơi tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng vậy, đều không sở trước, không gá nhân và không ham phân biệt, đây gọi là tinh tiến.

Không bố thí mà chẳng xan tham, không trì giới mà chẳng phạm, không nhẫn nhục mà chẳng tranh cãi, không tinh tiến mà chẳng giải đãi, chẳng thiền định mà chẳng tán loạn, không trí huệ mà chẳng ngu si, không tạo đức bổn mà không gì là chẳng lành, không cầu Phật đạo cũng chẳng lấy bực Thanh Văn Duyên Giác, không sở hành mà không chẳng làm, đây thì thành hai tinh tiến thanh tịnh hạnh : Một là nội tâm vô sở trụ mà hưng khởi các nhơn duyên, hai là bỏ ngoại kiến các tưởng các thức, đây là hai tinh tiến.

Còn có hai hạnh thanh tịnh : Nội tâm tịch định và chẳng duyên ngoại cảnh cũng chẳng phóng dật. Đây là hai hạnh thanh tịnh, căn tánh tinh tiến, nơi càc sở hành vẫn không có sở hành cũng không có khinh rẻ đùa bỡn. Đây là Bồ Tát tinh tiến độ vô cực hạnh thanh tịnh ».

Đức Phật phán bảo Bửu Kế Bồ Tát : « Thế nào là Bồ Tát tịch độ vô cực hạnh thanh tịnh ?

Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát ân cần nơi sự hiệp họp nhứt tâm quán chỗ nên quan sát mà dùng chánh thọ. Bồ Tát nầy nếu được nhứt tâm thì trong thiền định chẳng chấp trước nơi sắc cảnh, vứt bỏ các thức phân biệt đau ngứa tư tưởng sanh tử. Thiền giả như vậy chẳng chấp trước các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, chẳng chấp trước các trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng chấp trước các đại dịa, thủy, hỏa, phong, không, chẳng chấp trước các ngôi vị Đế Thích, Phạm Thiên, tôn hào, chẳng chấp trước các cõi Dục, Sắc, Vô Sắc, chẳng nương đời nay đời sau, chẳng an trụ nơi thân thể cũng không có chỗ ở, chẳng nương ngôn từ, tâm chẳng mỏi lười, đều không có sở trụ, chẳng sốt chẳng bạo, chẳng an trụ biên tế, được không có sở niệm. Thiền giả như vậy chẳng thấy có thân thể, chẳng hưng khởi các kiến chấp, chẳng tham ngã, nhơn, thọ, mạng, chẳng thấy những sự vi diệu khả bất khả, chẳng thấy đoạn diệt, chẳng thấy vô thường, chẳng thấy sanh diệt hữu xứ vô xứ. Thiền giả như vậy cũng chẳng dứt hẳn nguồn các lậu, chẳng tham trước chư Phật, chẳng nhập vào vị quả chứng tịch diệt, cũng chẳng ở mãi nơi không có sở hành.

Người hành thiền như vậy nhứt tâm thấu hiểu nơi không mà không lấy không làm chỗ chứng nhập, cầu nơi vô tướng vô nguyện mà không chứng nhập vô tướng vô nguyện.

Ngưởi hành thiền nầy mặc giáp đại đức, hành từ vô cực trụ ở đại bi, tất cả đầy đủ phụng hành không sự.

 
Thế nào là đầy đủ phụng hành không sự ?

Hảnh giả nầy chẳng tưởng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ, chẳng tưởng thiện quyền các sự khai hóa, chẳng tưởng từ bi hỉ nộ, cũng chẳng hy vọng nhập vào thánh huệ, chẳng tưởng đạo tâm có chỗ quán sát, chẳng tưởng chí tánh có chỗ sở ứng, chẳng tưởng tứ ân các lợi ích huệ thí nhơn ái lợi ích cho người và tất cả sự cứu tế, chẳng tưởng tâm ý an tường mà có sở tồn, chẳng tưởng ý chỉ ý đoạn thần túc, căn lực, giác ý và bát chánh đạo, chẳng tưởng tịch mặc mà quán sát các pháp, chẳng tưởng các hạnh điều định nhu nhuyến, chẳng tưởng tàm quý có chỗ hổ thẹn, thường an trụ Phật đạo chưa hề đoạn tuyệt, theo chánh giáo pháp nhãn cầm đuốc sáng lớn, tùng Thánh chúng thường tu giới đức sạch bóng, an lập chúng sanh thành tựu thân Phật, dùng đức trang nghiêm mà theo đấng Thế Hùng nghe âm thanh cụ túc, phụng Phật tam muội được biện tài chánh giác thần túc, thọ mười tám Phật pháp bất cộng vi diệu, chẳng hiệp đồng với Thanh Văn, Duyên Giác, nhổ bỏ chỗ ở các dục trần ô uế, chẳng rời thần thông dùng bốn biện tài khai đạo chúng sanh, sáng tỏ các pháp hiện đời độ đởi, giáo hóa chúng sanh siêu dị quần chúng , chất trực xuất gia qua khỏi dòng chảy xiết dứt các sở hữu, nơi được ở tự nhiên tĩnh mịch pháp giáo đạm bạc, quán nơi thân và pháp đều không tham ái kiên chí nơi Phật pháp, trọn xong trí tự nhiên vượt khỏi các trụ hành , nin lặng lời nói, nếu có nói thì thường tuyên Phật ngữ, dùng sự chí thành ấy tiêu diệt thường niên khai hóa chúng sanh. Đây gọi là đầy đủ hành không vậy.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Ví như trong cõi Đại Thiên tất cả nhơn dân đều làm họa sư có sở tập riêng khéo giỏi chẳng đồng nhau, có kẻ chuyên họa nhà cửa mà chẳng thạo vẽ thân hình, có kẻ giỏi mô hình mà chẳng giỏi tô màu, có những người khéo vẽ chưn tay, người khéo vẽ mắt mũi, người vẽ đầu mặt chẳng ngay mà thân hình đẹp đẽ, có ngưởi vẽ làm vừa lòng kẻ khác, hoặc không vừa lòng, mỗi mỗi thợ vẽ đều tài năng khác nhau.

Nhà vua triệu tập tất cả họa sư khiến họa các hình tượng tam giới mà truyền rằng : Mỗi người tự họa tượng đều đem trình lên ta.

 
Các họa sư họp ở một chỗ đều riêng họa hình tam giới. Trong số ấy có một họa sư tối thượng vẽ được trọn vẹn.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Ý ông thế nào? Họa sư tối thượng ấy có thể đủ khắp các sở năng hội họa chăng?”.

Bửu Kế Bồ Tát bạch đức Phật : “ Bạch đức Thế Tôn ! Có thể đủ sở năng”.

Đức Phật phán dạy : “Mượn ví dụ được dẫn ra ấy để hiểu nghĩa nầy. Như một họa sư vẽ đủ các hình tượng đều được đắc thể chẳng sai sót. Cũng vậy, người học pháp nầy ân cần tinh tiến tịnh tu phạm hạnh đến thành tựu Phật pháp dùng một chánh hạnh trọn đủ các sự, do đó mà đầy đủ không hạnh không gi chẳng thông đạt bèn được thành tựu tất cả Phật đạo, trừ hết trần dục các tưởng điên đảo cống cao tự đại, chẳng thích phóng dật, dầu ở trong các uế àc mà chẳng cùng hiệp đồng. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ không hạnh”.

Lúc đức Phật nói lời trên, có tám ngàn Bồ Tát khắp đủ không hạnh được pháp nhẫn.

Đây là Phật nói tịch độ vô cực hạnh thanh tịnh.

 
Đức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: “ Nầy thiện nam tử ! Thế nào là Bồ Tát trí độ vô cực hạnh thanh tịnh?

Có mười hai sự làm hạnh thanh tịnh : Thấy quá khứ huệ không chướng ngại, thấy đương lai huệ không chướng ngại, thấy hiện tại huệ không chướng ngại, các pháp hữu vi vô vi đều hay hiểu rõ, tất cả nghệ thuật thế gian đáng được tạo nghiệp đều hiểu rõ để độ đời, phân biệt nói nghĩa chơn đế biết sở tập của chúng mà tuyên rõ bổn mạt, tất cả chúng sanh căn tánh đến đâu người ngu liệt, người minh đạt và người trung dung trí huệ biết quá khứ vị lai không có chướng ngại, thánh trí nguy nguy vượt hơn thế trí. Thấy rõ trí tánh sở hành của chúng sanh hình sắc biến dị, nghĩa thâm áo khó hiểu khó đến tiêu hóa các kiến chấp rời lìa các sự tà các chỗ ở chướng ngại vào nơi thánh huệ, cùng khắp chúng sanh vào nơi pháp huệ, hiểu rõ nghĩa thú trong thánh tạng rõ thấu chơn tế, trí sáng soi rõ không sai loạn cũng không chướng ngại, quan sát thời tiết vô lượng thích đáng, sự được thấy đều rành rẽ không hề sót mất, hiểu biết chắc thiệt chẳng diệt tận, trí này quan sát tất cả vô ngại, bởi dùng một hành duy nhứt mà không có sở hành thấy hết chỗ phụng hành oai nghi lễ tiết của chúng sanh, tâm chí sở thu của nhơn dân thế gian Bồ Tát nầy đều thấy rõ, chẳng rời thế gian mà tập siêu độ cảnh giới các thế gian, còn chưa thành tựu Phật quốc độ mà đều vượt khỏi tất cả nhơn duyên sở tác khai hóa chúng sanh, hơn các hạnh mà khắp cứu cánh các đức hạnh , rộng độ tất cả nhơn duyên tâm hành, đều thấy tâm niệm của chúng sanh hộ pháp thế gian không đâu chẳng khắp, chẳng bỏ thế tục chỗ làm được chúng sanh tín nhiệm, xét trí huệ ấy không có gấp vội, chẳng phạm hí luận, các căn tịch định chưa hề mỏi lười tán loạn, tương ưng thánh huệ thường hiệp thánh đức, đến Bồ đề thọ ngồi đạo tràng hàng phục chúng ma trừ bỏ ngoại đạo, hành đại lợi ích, thánh trí suốt khắp cũng không có sở thủ, đại thánh kiến lập được an trụ chư Phật làm an vui chúng sanh, thấy hết định huệ vào khắp các nghĩa thú tất cả các pháp đều đồng một vị, nắm quyền phương tiện trí độ vô cực vượt đến bờ kia chẳng hạn lượng được.

Đây mới gọi là trí độ vô cực, đều có thể rõ hiểu tất cả nhơn duyên, ý tưởng phát ra thoại ứng liền hiện cảnh lạ liền biến , tâm hành niệm khởi đều được cứu cánh. Đây gọi là đến bờ kia.

Lại trí huệ nầy có hai điều thanh tịnh. 
Một là hạnh vô ngại huệ tưởng thanh tịnh. 
Hai là nghiêm tịnh, chẳng thể có ai đương nổi tướng trí huệ ấy. 
Còn có hai thanh tịnh : Một là trừ sạch phiền não, hai là bỏ hết các kiến chấp.

Lại nữa Bồ Tát ấy hiện hành trí huệ không đâu là chẳng vào khắp. Đầy đủ thánh minh hiểu rõ chúng sanh biết thấu kinh điển.

Bồ Tát nầy dủng trí huệ ấy hiểu vô sở hữu mà đều vào trần lao hóa hiện ái dục sanh trong các loài ở trong các cõi, kiến lập trí huệ đi khắp quốc độ đều hiểu rõ cảnh giới, trí huệ chắc thiệt chẳng vượt kia đây cũng ở trung gian. Huệ ấy khắp vào thấy cả mười phương vô ngại. Dụng thì không che khuất, đến không biên tế, huệ thấy chắc thiệt hiểu rõ tất cả các pháp : gốc, ngọn, bộ, đảng, thời tiết. Đã có thể biết rành chơn đế trí huệ ý nghĩa đến đâu, không ứng chẳng ứng, không đồng không khác, chẳng lười chẳng lui, chẳng đôi chẳng lẻ, thấy các pháp cũng không ứng hiệp.

 
Nầy Tộc Tánh Tử ! Nếu Bồ Tát thật hành những sự trí huệ, dùng trí huệ làm nhà thì thành phước đường đốc tín danh đức, tột đến đạo pháp an trụ tổng trì, đầy đủ tất cả phân biệt trí biện, đầy đủ sự nghiệp trí huệ.

Đây là Bồ Tát phụng tu trí độ vô cực hạnh thanh tịnh vậy”.

Đức Phật giảng dạy lời trên xong, trong pháp hội có hai vạn hai ngàn người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn, năm ngàn Tỳ Kheo lậu tận ý giải, một vạn Thiên Tử xa trần lìa cấu đắc pháp nhãn tịnh.

Lúc ấy chư Thiên lên tiếng khen rằng : Nếu có chúng sanh nào được nghe pháp môn các độ vô cực đạo hạnh thanh tịnh nầy thì được chư Phật thọ ký. Huống là người được nghe rồi thọ trì đọc tụng thật hành như lời”.

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : “Sao gọi là Phật đạo phẩm pháp hạnh thanh tịnh của Bồ Tát :

Bồ Tát tự quán thân mình biết vốn không có thân đây là ý chỉ. Do hai sự mà lập chí mình : Một là xét sự hoang uế, hai là quán hạnh thanh tịnh.

 
Sao gọi là hoang uế ? Bồ Tát xét thấy thân thể vô thường chứa đầy vật bất tịnh, thân nầy sức mỏng kém yếu, không thế lực, thân nầy chống đứng như nhà nghiêng xẹo.

Sao gọi là quán tịnh ? Bồ Tát suy nghĩ rằng : Tôi phải dùng thân bất tịnh nầy siêng cần hiểu pháp không được thân pháp thân Như Lai. Pháp thân đồ sộ, đức thân vô hạn vì các chúng sanh mà thị hiện sắc tượng làm lợi vui cho tất cả.

Bồ Tát quán thân hai sự như vậy để lập ý chí mình.

Lại nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát quán thân thấy không có thân rồi thì được hai pháp thanh tịnh : Một là thấy vô thường, hai là xét vô thường thân nầy vô thường chẳng còn lâu già bịnh hội họp tất sẽ phải chết. Đã thấu nghĩa ấy nên chẳng đem thân tạo các tà nghiệp. Vì không tham thân thì tu pháp yếu vững bền, thật hành ba pháp vững bền là thân yếu, mạng yếu và tài yếu.

Thân nầy vô thường mà chúng sanh quí trọng có lợi ích gì thật đáng thương xót.

Sao gọi là thân yếu ? Thân chẳng phạm ác, khiêm ti cung thuận cúi lạy bực đại trí.

 
Sao gọi là mạng yếu ? Quên mình bố thí cung cấp nguời nghèo thiếu.

Thân nầy chẳng phải sở hữu của ta, miệng thốt ra lời phần nhiều có lỗi, dua nịnh gièm pha thô tục bất chánh, bỏ hết hành vi ấy chẳng còn phạm quấy nữa.

Đã thấy không có thân nên chẳng bảo trì thọ mạng, dầu bị hại cũng chẳng gây tội ác. Hiểu thân nầy vô thường là thứ chia lìa nên chẳng phạm lỗi. Tất cả sở hữu đem bố thí không tham tiếc. Đã biết không có thân nên đưọc đức lành công huân hiểu rõ chẳng thể hạn lượng được.

Sao gọi là hữu thường ? Nếu Bồ Tát quán thân thấy không có thân phải thời nhiếp lấy giữ gìn, huệ tâm quán chiếu Nhứt thiết trí, chẳng trái lời Phật dạy, chẳng mất Pháp ngôn, chẳng hư Thánh chúng, khuyến hóa lê thứ ngự trị nhơn dân, đây gọi là hữu thường. Nói là thường vì là vô tận vậy. Nói là vô tận chính là vô vi vậy. Cùng đạo hiệp đồng vô chung vô thỉ huyền diệu hằng còn, đây gọi là vô vi. Vô vi ấy là thường vậy.

 
Bồ Tát an trụ nơi ấy, dùng các cội công đức quán sát thông huệ đến nơi vô vi, đây gọi là hữu thường. Gọi là thường, do vì là không, vô tướng, vô nguyện. Tu đạo Bồ Tát thường phụng hành không, quán vô tướng, chẳng chấp vô nguyện, khắp có đủ hạnh tinh tiến, đây gọi là hữu thường.

Nói là thường, nghĩa là như hư không. tâm Bồ Tát bình đẳng như hư không vậy, không có tư tưởng . Phụng hành như thế mới là Bồ Tát. Đây gọi là hữu thường vô thượng chánh chơn ».

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Bồ Tát quán thân lấy vốn không có thân thì gọi là ý chỉ. Tất cả thân người đều vốn không có. Bởi biết thân không có nên ý không chấp trước. Bồ Tát quán chúng sanh thân đứng tại Phật thân. Nên quán như vầy : Nếu thân Như Lai không có các lậu thì thân tôi cũng vậy. Xét nơi các pháp mà phụng hành đạo nghĩa chẳng sai lời Phật dạy. Được thân vô lậu mà quán chúng sanh phân biệt các tướng, dùng thân vô lậu thanh tịnh vô lậu, bổn tế cũng thanh tịnh, như cội đức ấy kiến lập các công hạnh khuyến trợ cội đức cũng không có các lậu. Bởi hay kiến lập nên pháp vô lậu nên có thể an trụ các lậu.

 
Sao gọi là các lậu ? Đó là dục lậu, hữu lậu và kiến lậu.

Bồ Tát dứt hết dục lậu dầu có sanh nơi Dục giới mà khai hóa chúng sanh. Đã dứt hữu lậu dạo đi trong sanh tử , ở nơi các cảnh thọ mà giáo thọ nhơn dân.

Lại kiến lậu là lậu vô minh mê tối. Nơi đây, Bồ Tát tinh tiến chằng lười, cứu cánh tinh tiến nhổ sạch gốc nguồn nó.

Bồ Tát nầy nếu quán thân phụng tu ý chỉ vượt khỏi các hạnh nghiệp chẳng nên làm từ thuở xa xưa, rời lìa những uế ác mà an trụ tịch tĩnh, đây mới là quán thân .

Bồ Tát nầy không có sở độ cũng không có sở sanh không có sở vị, đây mới là quán thân.

Bồ Tát nầy quán thân rồi chẳng thấy có thân cũng không có đối tượng quán sát, bỏ niệm tham thân chẳng chấp ngô ngã. Đã không có ngô ngã thì không có sở tham. Đã không có sở tham thì không có sở tránh. Đã không có sở tránh thì không có hận thù. Đã không có hận thù thì được pháp nhẫn. Đã được pháp nhẫn thì không có sở qui. Đã không có sở qui thì không có sốt bạo. Đã không có sốt bạo thì chẳng tự tại mà an trụ nơi pháp. Đã ở nơi pháp thì chẳng hành phi pháp. Người thuận pháp hành thì thường cùng chung với pháp.Người tu đạo pháp thì được pháp từ. Đã thọ pháp từ thì nghe pháp âm. Đã hành pháp âm thì chẳng nghe âm thanh thế giới. Đã vắng bặt âm thanh thế giới thì được tam muội. Đã được chánh thọ thì trí quán sát thiệt. Đã quán sát thiệt thì không có sở tưởng. Đã không có sở tưởng thì không có sở tác. Đã không có sở tác thì không có phi tác. Đã ở nơi các sở tác không có tác không có phi tác đến pháp chánh chơn thì các pháp bình đẳng. Đã bình đẳng các pháp thì đến nhứt thiết trí.

Đây là Bồ Tát quán thân biết vốn không có thân ý chỉ hạnh thanh tịnh ».

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Sao gọi là Bồ Tát thống dượng ý chỉ ? Bồ Tát quán thống dượng vốn không có thống dượng mới là ý chỉ. Quán các thống khổ đều thấy chúng sanh, những kẻ đang bị hoạn nạn, vì họ mà rơi lệ thành tựu đại bi. Bồ Tát nghĩ rằng chúng sanh bị khổ não nếu được an ổn thì không có thống dượng, vì họ mà dứt trừ tất cả sự nguy hại. Dẫn đến quán sát thống dượng biết vốn không có thống dượng, hiện hành ý chỉ. Đã diệt trừ thống dượng rồi vì các quần sanh mà mặc giáp đại đức, trước tự tiêu sạch các hạnh nghiệp phi pháp nơi thân, cũng chẳng tưởng niệm diệt trừ thống dượng của mình. Nếu có gặp sự đau khổ, thì khắp vì tất cả chúng sanh mà sanh lòng đại bi, vì họ thị hiện thường an lạc tiêu trừ hẳn các hoạn nạn. Vì người tham dục khởì lòng đại bi, trước tự trừ tham dục chẳng bị dục tham trói buộc, dầu thân bị khổ cũng chẳng lấy làm khó khăn. Vì người sân giận mà phát khởi đại bi tự trừ lòng sân giận, quan sát thấy sự thống dượng không khổ không vui vậy. Vì người ngu si mà khởi đại bi diệt trừ dây ngu si của mình, quan sát thống lạc không chấp trước tiêu trừ các kiết sử mà tự do an ổn, nếu bị khổ thống chẳng lấy đó làm lo buồn, bỏ các hữu vi thì có thể phụng tu khiến không có chỗ vui để phá trừ ngu si, nếu gặp lạc thống thì không tích tụ, nếu gặp hoạn nạn thì rõ thân vô thường quan sát khổ thống vốn không có ngã. Bồ Tát quan sát lạc thống tu hành an ổn, quan sát khổ thống thì bị hoạn nạn, vì thế nên gọi là chẳng vui chẳng khổ. Dầu có thấy sự an lạc đều qui về vô thường, còn các sự khổ cũng đều vô ngã.

 
Bồ Tát quán lạc thống tu hành an ổn, quán khổ thống là bịnh hoạn, vì thế nên gọi là chẳng lạc chẳng khổ. Giả sử xem thấy những sự an lạc thì đều qui về vô thường, có những sự khổ thì quán nơi người khổ, là chẳng khổ chẳng lạc cũng là vô ngã.

Bồ Tát nếu thấy các sự an lạc thì biết rõ tất cả vốn là không an ; quan sát thống dượng biết thống dượng không có gốc nó vừa sanh khởi thì liền dứt diệt ; biết rõ các pháp không thể lâu dài, xét nơi vạn vật như ngọn lửa sanh rồi bỗng tắt ; xem tất cả các pháp sanh ra như bóng : nó từ đâu đến mà liền tan mất ; quán nguồn gốc các pháp như nhìn bàn tay từ đâu đến rồi đi đến đâu, liền biết nó không từ đâu lại, đi không chỗ đến. Do quán các pháp như vậy nên chẳng bị câu phược mà thấy khắp tất cả chơn thiệt tịch diệt, nhơn đây mà thành đạo, cũng không có sở đắc chẳng còn thối thất. Tại sao ? Bởi có thể thấy được tất cả chúng sanh căn bổn sanh khởi mà cầu tịch diệt chớ chẳng vì thân mình mà cầu tịch diệt vậy.

Đây là đại Bồ Tát thiện quyền phương tiện dùng đại bi quán thống dượng biết rõ không có thống dượng, hành ý chỉ tiêu trừ các kiến chấp biết rõ nơi đây, chẳng lấy sự diệt trừ các thống dượng siêu quá tam giới mà thủ chứng chơn tế vậy.

Bồ Tát nầy ở nơi các thống dượng quan sát nơi đức Phật tán thán căn bổn hiểu thấu các thống dượng tịch mặc điềm đạm vốn không có sở hữu cũng không bị khổ hoạn. Vĩnh viễn không bị khổ hoạn các pháp đều không rời lìa ngô ngã, luống thấy các pháp hiệp hội đều nương nhơn duyên đều không có chủ cũng không ngô ngã, bỏ các sở kiến không có trưởng dục. Bồ Tát quán sát như vậy thì thấy chơn đế, nhơn duyên hội hiệp đều vô sở đắc, đã bất khả đắc thì quan sát như vầy : như nhơn duyên không từ nơi ấy kiến lập các pháp cũng không. Đã đạt nghĩa không rồi mới là quán thống dượng vốn không có thống dượng là hành ý chỉ vậy. Đó là tịch mịch thân đạm bạc tuyển trạch các nghĩa đạo thánh trí huệ.

Đây là đại Bồ Tát quán thân thống dượng rõ thấu vốn không có thống dượng thành ý chỉ tịnh hạnh ».

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Bồ Tát quán tâm rõ thấu vốn không có tâm thành ý chỉ hạnh, lập đạo tâm. Đã được lập tâm liền dùng ý huệ của mình mà tìm tâm bổn : chẳng thấy nội tâm chẳng thấy ngoại tâm. Xét tâm bổn ấy chẳng thấy ngũ ấm, không có các đại chủng, không có các nhập, tâm Bồ Tát liền tịch định tìm nơi chỗ tịch định từ đâu khởi lên ? Bồ Tát lại suy nghĩ : hễ tâm khởi thì duyên khởi. Rồi lại suy nghĩ : tâm ấy khác hay nhơn duyên khác ? Liền tự hiểu rằng giả sử nhơn duyên khác tâm ấy thì có hai tâm. Giả sử nhơn duyên là tâm và tâm là nhơn duyên, nếu như vậy thì tâm chẳng thấy được tâm, người chấp nơi tâm chẳng phải là chẳng thấy tâm. Như các bụi trần hư giả không thiệt, đứng nơi hư không bị dao bén đứt ngón tay thành vết thương, ngón tay đã lành không còn đau khổ. Cũng vậy, tâm chẳng thấy tâm, cái mà tâm thấy ấy là không chỗ bị thấy.Nên quán như vầy : chỗ tâm an trụ cũng chẳng sanh tội, chẳng thấy đoạn diệt cũng chẳng nghĩ là thường còn. Cũng không có thân, thân thể như tường vách nhơn duyên chẳng sai loạn chẳng rời chẳng một chẳng khác, đây là tâm vậy.Gìn tâm như vầy : do pháp mà tâm động, tâm không có sở trụ cũng không có sở hành, tâm chẳng thể thấy, tâm tướng tự nhiên. Hiểu rõ như vậy thì chằng rời sở kiến mà tâm vắng bặt biết rõ không có bổn tánh.

Đây là Bồ Tát quán tâm không có tâm làm ý chỉ vậy.

Lại nầy Tộc Tánh Tử ! Nếu tâm chẳng khởi lên mà chẳng thể thấy thì không có tưởng không có ứng không có chẳng ứng cũng không khinh mạn thì chẳng phóng dật. Đây là quán tâm biết vốn không có tâm làm ý chỉ vậy.

Lại như tâm không có sắc, nhân duyên hòa hiệp ấy và các biện tài cũng đồng như vậy, đức vốn không có sắc.

Như tâm vô vi, đức cũng không có sắc, đạo tâm được quan sát cũng không có sắc. Nếu đạo tâm và trợ đạo không có hình sắc thì đạo cũng như vậy đều không chỗ có. Vì thế nên nói rằng : như tâm ấy các hành cũng như đó.

Nếu trợ và đạo tâm đều như, như đạo tâm ấy, nhân tâm vốn thanh tịnh cũng như đạo. Đạo tâm vốn thanh tịnh, tất cả các pháp cũng như vậy. Như tâm ấy mà hiểu rõ khắp vào, đây là Bồ Tát quán tâm không có tâm làm ý chỉ vậy.

 
Các khổ hoạn não hại chưa hề dừng nghỉ, như khỉ vượn, như dòng sông chảy xiết, cũng như ngọn đèn dầu ánh sáng tỏa ra bỗng chiếu đến chỗ xa, không có thân hình mà dễ thối chuyển, tham lẫn các cõi, bị sáu căn làm hại dùng làm nhà cửa, giây lát biến hoại thì đều tan đi. Tâm không có nơi chỗ mà riêng mình du hành, không có vững thiệt cũng không chẳng thiệt, vắng lặng riêng mình quán sát.

Đây gọi là quán tâm không có tâm ý thanh tịnh vậy.

Tâm được trí huệ, pháp giới của tâm là chỗ ở của trí huệ, sáng ấy vốn thanh tịnh sạch sẽ không ô uế, biết tâm chơn thiệt, tâm rõ hiện tại, mắt chỗ được thấy, tâm pháp bình đẳng, trí huệ cũng như tâm, tâm bình đẳng tam thế. Đã được bình đẳng thì biết chơn thiệt tâm huệ tự nhiên không hộ không trì không thể thấy được. Đây gọi là quán tâm không có tâm làm ý chỉ vậy.

Nếu tâm vốn thanh tịnh thì là tự nhiên. Tâm vốn thanh tịnh thì rõ tâm chúng sanh vì tâm thanh tịnh vậy. Khai hóa nhân dân vì họ thuyết pháp để họ hiểu biết.

 
Tâm đã tự nhiên, tất cả chúng sanh cũng đều tự nhiên. Nếu hay phân biệt tâm như vậy thì thấy tâm tướng họ mà vì họ thuyết pháp.

Như tâm tướng tự nhiên, chúng sanh tâm tướng tự nhiên như vậy, nếu hay đạt tâm tướng ấy thì hay vì họ mà thuyết pháp. Tâm mình không thì tâm chúng sanh cũng không, mình hiểu không mà vì họ thuyết pháp.

Chế ngự tâm mình bình đẳng thì có thể bình đẳng chế ngự họ mà vì họ thuyết pháp.

Thân mình bình đẳng, tâm mình đã bình đẳng thì bình đẳng chúng sanh. Đã bình đẳng chúng sanh thì bình đẳng các pháp. Đã bình đẳng các pháp thì bình đẳng chư Phật. Hiểu chơn đế nầy thì chẳng khiến tâm mình rời lìa tham dục mà chẳng ở nơi dục. Tâm đã dừng dứt rồi thì vào pháp giới đến nơi tự nhiên, tâm vô sở trụ ở nơi pháp không động.

Đây gọi là Bồ Tát quán tâm không có tâm ý chỉ thanh tịnh vậy ».

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : « Nầy Tộc Tánh Tử ! Bồ Tát quán pháp biết vốn không có pháp là ý chỉ hạnh.

Bồ Tát nghĩ rằng : Pháp khởi thì khởi, pháp diệt thì diệt, xét nơi gốc ngọn cũng không có thân ta, không có nhơn, thọ mạng, chúng sanh, sanh lão bịnh tử, chết mất đến kia. Trong các pháp ấy, các pháp hiệp hội, nhơn nó hiệp hội mà làm tập tục, nếu không có duyên hiệp hội thì không có pháp ấy. Từ nơi quen thích ấy làm nhân mà có duyên hội hiệp thì sanh khởi gốc lành cùng gốc dữ để rồi quy về vô thường không có duyên hội hiệp. Chẳng từ không có quen ưa mà khởi các pháp.

Bồ Tát quán như vậy hiểu rõ các pháp, thấy chỗ quy về cũng không chỗ có, là không, vô tướng, vô nguyện. Chỗ làm công đức và không công đức, các việc làm ấy đều như ảo huyễn vô thường, phải hành tinh tiến.

Nếu hưng khởi nhơn duyên có mười điều tuân hành cứu cánh vô ngại từ bỏ nhơn duyên chí vững đại pháp. Những gì là mười ?

Thân thanh tịnh không có cấu uế đủ các tướng hảo, vô kiến đảnh kiến siêu độ tất cả những sự xâm hại, chí tánh thanh tịnh đủ có mười sự, nội tâm thanh tịnh đầy đủ chánh hạnh; sáu mươi ức âm thanh từ miệng nói ra làm vui đẹp các chúng sanh; tâm thường nhơn từ thường xót tất cả không hề làm tổn hại; ý thường tại định không hề tán loạn; biện tài thanh tịnh phàm có giảng thuyết đều đúng pháp đúng nghĩa biện tài vô tận; đại từ thanh tịnh khuyến hóa chúng sanh tất cả đều khuyến khích cảnh Niết bàn; đại bi thanh tịnh vô ương số kiếp chẳng chán sanh tử; thanh tịnh mười trí lực hiểu rõ căn tánh ý niệm của chúng sanh đều riêng biệt chẳng đồng; thanh tịnh vô úy phân biệt chấp trì vô ương số pháp, chúng sanh tích tụ muốn đủ pháp bất cộng của chư Phật; trí huệ biết tam thế quá vị hiện tại vô ngại; pháp thanh tịnh của chư Phật có thể ứng dụng tự tại vì quy hướng thánh huệ vậy. Đây là mười điều.

Bồ Tát đã được mười hạnh đại pháp vi diệu cứu cánh vô ngại rồi xứng lượng tư duy chẳng hề mỏi nhàm tích tập công huân mà chẳng hư mất sa vào hạnh vô đức, luôn ân cần tinh tiến.

Sao gọi là các pháp căn nguyên bổn lai kiến không có xứ sở ?

Vượt khỏi sở trụ các tích tập trần lao, đã hiểu rõ vạn vật tất cả vô thường thì có thể thành vô thường tam muội. Người được chánh định nầy chẳng rời tam muội, theo bổn nguyện của mình thị hiện thọ sanh, đến có chỗ sở nhập mà lại xuất sanh, dùng các hạnh công đức tuyên thuyết khai hóa các chúng sanh.

Đây là đại Bồ Tát thiện quyền phương tiện khắp diễn thuyết kinh điển, quán nơi các pháp thấu biết không có pháp làm ý chỉ vậy.

Có người nào đến đạo tuân tu đúng như kinh điển. Nếu hay hiểu rõ các pháp đạo phẩm, chẳng làm các sự lành, chẳng thấy có thường cũng không chấp trước, chẳng trừ các pháp ác, đạo tâm hiển rõ chẳng dứt, cũng chẳng chấp có thường chẳng đọa đoạn diệt. Nếu có Bồ Tát dứt bỏ các sự chấp thường chấp đoạn, giữ lòng bình đẳng vô sở trụ mà ở trung gian. Sao gọi là trung gian ? không khởi niệm, trừ hết vô minh, đây gọi là trung gian. Không có giáo hóa không có dạy truyền, không có ngôn không có thuyết, đây gọi là trung gian. Tóm lại mà nói, vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thống ái, thủ, hữu, sanh lão, bịnh tử, ưu bi khổ hoạn đều đã trừ hết, đây gọi là trung gian.

Người an trụ trung gian, không bị sai khiến cũng không kẻ khiến, xét sờ hữu thì không có giáo lịnh không có dạy truyền, xét bổn mạt thì không thể biết được không có xứ sở, chẳng nắm bắt được thì không chỗ chấp lấy, tịch mịch đạm bạc bỗng nhiên đã dứt diệt, đây gọi là trung gian.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Ví như tiếng vang không có xứ sở, người thấy chơn đế thì sa vào nơi chơn ngụy. Trung gian đây không có ngôn không có thuyết, không có thấy cũng không có xứ sở.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Nhơn do hưng phát là việc của thức và sắc cùng giáo lịnh, nhơn do hiệp thành là từ hai duyên đối đãi. Trung gian ấy là không có giáo lịnh không có ngôn thuyết, đây gọi là trung gian.

Nhơn duyên hiệp thành chẳng cần nghĩa lý. Nghĩa lý ấy là bất khả đắc ấy là chẳng trùng lai. Chẳng trùng lai ấy gọi là trung gian.

Lại người quán ngã thì rõ vô ngã, nơi đây tịch diệt, đối với ngã và vô ngã tự nhiên thanh tịnh, đây gọi là trung gian.

Quán nhơn thọ mạng, đối với nhơn thọ mạng mà không có sở kiến thanh tịnh tự nhiên, đây gọi là trung gian.

Đối với tưởng và vô tưởng mà không có tưởng vui, đây gọi là trung gian.

 
Những sự sở đắc điên đảo được hưng khởi mà không có sở hữu, đây gọi là trung gian.

Hư vọng ngu si cùng giáo thuyết chí thành đều chẳng có được, đây gọi là trung gian.

Bờ đây bờ kia tiêu hóa thân mình không để có chỗ dính mắc, hữu vi vô vi chẳng hành chẳng tập, đây gọi là trung gian.

Bỏ trừ sanh tử mà đến Niết bàn, đều không có ngôn giào, đây là ở trung gian.

Nầy Tộc Tánh Tử ! Người quán sát nơi pháp biết pháp vốn không có làm y chỉ, chẳng hoại pháp giới tâm ý tự nhiên mà được ý chỉ, nhập vào pháp giới hiểu rõ các pháp, quán pháp giới ấy cùng với nhơn giới, nơi pháp giới kia cũng không hư hoại chẳng hư nhơn giới. Pháp giới và nhơn giới, hai sự ấy đồng như hư không giới. Bồ Tát nầy dùng một giới mà thấy khắp các pháp. Dùng huệ nhãn thấy thì dùng pháp giới quán sở hành của Phật.

Giả sử có người chẳng tuyển trạch pháp, Bồ Tát nầy không thấy, do cớ đây nên các pháp bao nhiêu đều thấy không có bổn pháp chẳng thấy có bao nhiêu.

Nếu do quán pháp mà thấy vốn không có, thì chẳng nhục nhãn thấy, chẳng thiên nhãn thấy, chẳng huệ nhãn thấy. Tại sao? Vì nhãn ấy rời lìa phân biệt vậy.

Chẳng nhục nhãn thấy thì nhãn ấy chẳng sa vào hành sanh tử. Chẳng thiên nhãn thấy thì chẳng dùng nhãn ấy hành nơi phóng dật. Chẳng huệ nhãn thấy thì quán pháp rõ pháp vốn không có. Khắp thấy các pháp không có xứ sở, pháp không có sở trụ. Đã thấy các pháp không có sở trụ thì hành pháp ý, thì chẳng trái mất thệ nguyện xa xưa. Đây là Bồ Tát tùy thuận lời Phật dạy mà tự lập ý quán sát các pháp thâm diệu chẳng bỏ Vô thượng Bồ đề vậy.

Đây là Bồ Tát quán không có pháp ý chỉ hạnh thanh tịnh”.

Đức Phật phán dạy Bửu Kế Bồ Tát : Bốn ý chỉ hành bốn tinh tiến. Những gì là bốn ?

Quán thân không có thân, trừ bỏ chấp kiến điên đảo thấy có thiệt, bất tịnh cho là tịnh.

Quán thống không có thống, trứ bỏ tưởng điên đảo cho khổ là vui.

Quán tâm không có tâm, trừ tưởng chấp vô thường cho là thường.

 
Quán pháp không có pháp, trừ tưởng không ngã cho là có ngã.

Nơi bốn điên đảo nầy mà tu bình đẳng thì không có chấp trước.

 Bồ Tát nếu có thể tu hành bình đẳng thì có thể thanh tịnh tất cả cộng hạnh

Bồ Tát phụng hành công hạnh bình đẳng thanh tịnh vi diệu nầy thì đến pháp nhẫn tên là bốn ý đoạn pháp nhẫn.

Sao gọi là ý đoạn ?

Hành giả thanh tịnh giảng thuyết đạo pháp, do đây tự nhiên tùy thuận thiện bổn, chẳng theo ác bổn, chẳng phát sanh lỗi lầm. Những mầm mống ác bổn chưa sanh thì chẳng cho sanh khởi. Vì tu tinh tiến nên những ác ngôn phàt khởi sự phi pháp liền dứt diệt. Vì tu tinh tiến nên các sự thiện đúng pháp được khuyến khích phát sanh. Những pháp lành đã khởi thì càng thêm tinh tiến làm cho tròn đủ chẳng để quên mất.

Lại nữa, Bồ Tát vốn tu tịnh nghiệp, hay tự kiềm chế giữ gìn chẳng để mất pháp lành được an trụ tự tại lần lần tăng trưởng hiển dương thiện pháp. Thiện pháp đã hưng thạnh rồi thì chằng còn quên mất.

 
Bồ Tát nầy tu hành thanh tịnh bốn ý đoạn ấy đầy đủ Bồ Tát hạnh tâm được tự tại tinh tiến chẳng loạn, thanh tịnh vô cấu chẳng trái với trí huệ Phật, thuận theo đạo giáo thật hành đại bi, tâm tâm thấy nhau, xem nơi sờ niệm chẳng mất tinh tiến đã hiện hành bình đẳng, đây gọi là được ý đoạn.

Tại sao vậy ?

 Vì từ nơi bình đẳng an lành chẳng cần trái bỏ ác tà. Do nơi an lành chẳng theo ác tà bèn được ý đoạn bình đẳng tam muội, Đã được tam muội rồi thì gọi là bốn ý đoạn bình đẳng vậy”.

Đức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : “ Nếu hay tu hành bốn ý đoạn ấy thì hay phụng hành đầy đủ bốn thần túc :

Dứt trừ tham dục, phụng hành tinh tiến thì làm cho đạo tâm tịch tĩnh không nhiễm uế ít suy tư. Đã bỏ phí pháp rồi thì được khinh an thành tựu đại bi. Tinh tiến khinh an được quyền phương tiện, nhơn đây thành bốn thần túc thăng lên nhà đạo được bốn tự tại.

Những gì là bốn tự tại?

Một là thọ mạng tự tại, Bồ Tát nầy đã được trường mạng. Vì thọ đã vô hạn nên ở trong đoản mạng mà đầy đủ vô lượng thọ khuyến hóa chúng sanh nghe pháp quán sát. Hoặc với người nhàm mỏi thì hiện đoản mạng cho nó khát ngưỡng chánh pháp ân cần cầu học. Bồ Tát nầy sanh chỗ nào, hoặc trên trời nhân gian đều được tự tại nơi thọ mạng của mình.

Hai là thân khẩu tự tại. Bồ Tát nầy thân khẩu như ý, tâm chẳng dựa nơi thân tùy ý hiện hình dung mạo sắc tượng, nhơn nơi chúng sanh oai nghi lễ tiết, thân nó xấu tốt, dài ngắn lành dữ. Bồ Tát nầy nhập chánh định tư duy dùng luật nghi nào có thể khai hóa, họ ? Theo đó Bồ Tát hiển hiện hình mạo mình ngồi đứng tới lui. Trong khoảnh khắc tác ý, Bồ Tát nầy hóa hiện đủ tất cả nhân sĩ thân hình nhan sắc đổng loại với họ, rồi vì họ mà thuyết pháp.

Ba là thuyết pháp tự tại. Bồ Tát nầy ở trong tam giới nắm giữ chánh pháp độ thế, chẳng làm pháp thế tục. Dầu tùy theo tập tục hiển hiện các sự cảnh mà chẳng xa rời trí huệ độ thế , cũng không lầm lỗi, thường hiệp với đạo thâm áo trí huệ vô ngại . Hoặc tại thiên thượng, hoặc tại nhơn gian. Bồ Tát nầy tùy theo ngữ ngôn của mọi loài làm cho vô số chúng sanh đều thuận luật giáo; đều được quả toại nơi chỗ nguyện cầu.

 
Bốn là quốc độ tự tại. Bồ Tát nầy tâm đã được tự tại rồi, nhiếp bao nhiêu đại hải trong cõi Đại Thiên hiệp vào một đại hải, cũng không có qua lại để biến hóa. Đem bao nhiêu núi Tu Di lập lập làm một núi, mà tất cả trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi đều chẳng hay biết sự hiệp tan qua lại ấy. Hoăc hiện rừng cây, hoặc hiện cả hư không, hoặc hiện các thứ châu báu, tùy ý kiến lập phương tiện cứu độ chúng sanh. Công việc xong rồi thoạt nhiên hoàn lại như cũ.

Nầy Bửu Kế ! Bồ Tát ấy dùng bốn hạnh thần túc để tự tu tập, cùng chư Phật mười phương chung đàm công luận, ngồi đứng kinh hành không rời bên Phật. Đồng thời cùng Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, các Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn, tất cả mọi loài chúng sanh luận đàm thuyết pháp đứng ngồi đến đi.

Tại sao vậy ?

Vì Bồ Tát nầy thần túc vi diệu tự tại quảng đại vô lượng.Do nơi Bồ Tát từ xa xưa tu hành pháp hành không hề kém khuyết nên được như vậy.

 
Sao gọi là tu thần túc ?

Bồ Tát ấy từ xa xưa tu hành pháp lành, coi nhẹ thân mình, cung kính bực tôn trưởng, phụng thờ hầu hạ chẳng biết mỏi nhàm, khiêm ty hạ ý, chẳng có lòng tự đại tự cao, miệng luôn nói lời lành làm vui dẹp mọi người, kính yêu tất cả, cúi đầu tự quy, đầy đủ lễ tiết, ngôn hạnh tương xứng, lòng dạ mềm mỏng không kiêu không tự, không có ác ý, luôn luôn khiêm cung điều phục tâm ý, nghe nhận lời tôn trường, thuận giáo quỳ lạy, giữ lòng mềm dịu chế ngự ý chí tinh tiến tu hành chưa hề rời bỏ. Bồ Tát nầy đầy đủ lễ tiết oai nghi đúng chánh giới, cử động khác người, lòng chẳng biến lười khinh mạn, cũng chẳng phóng dật thuận theo tâm niệm tham dục, sân khuể, ngu si. Dứt trừ đây rồi thì không có tham lam tật đố, tham của tham ăn tự hết, tịch tĩnh vô sanh, bịnh tật tiêu lành, các cái chướng năm ấm gánh nặng đều dứt khỏi. Đem ơn huệ ban bố cho chúng sanh. Làm cầu làm đò, dùng thuyền đò đưa tất cả chúng sanh qua khỏi dòng nước sâu rộng. Theo cơ khai hóa chúng sanh : kẻ loạn làm cho chánh, kẻ rối lảm cho định, kẻ vạy làm cho ngay, kẻ hủy báng thì cười, chẳng ngại nghịch cảnh, giải quyết hồ nghi, nói điều hay lạ, trấn an động điêu, thương cứu mọi loài, giác ngộ kẻ mê, của quí đem bố thi về sau không hối tiếc, giúp đỡ chúng sanh khuyến khích đạo tâm.

Bồ Tát nầy nếu thấy người tích lũy cội công đức thì thay họ mà vui mừng, chưa hề tự khen tự an, thấy người được an thì mừng rỡ khen ngợi.

Bồ Tát nầy dễ nuôi, hay biết đủ chẳng mong lợi lộc của người khác.

Bồ Tát nầy ưa thích xuất gia, khuyên người khác xuất gia tu học đại từ đại dũng, đạo tâm kiên cố, oan thân bình đẳng như hư không. Thấy người nhọc mệt thì sắp đặt xe cộ, thường đem vô úy ban cho chúng sanh.

Bồ Tát nầy thấy bực học vấn thì kính như Ph ật, thấy người chưa học thì chẳng khinh mạn, thấy người thiếu thốn thì ban cho của cải nghề nghiệp, với người tật bịnh thì cấp cho thuốc men để cứu mạng họ, với người cứu hộ thì hiếu thuận để báo ơn, thấy người giữ giới tự tu thì cúng dường phụng sự chẳng để trái ý, thấy kẻ không cung cách thì khuyến hóa họ vượt qua thế tục.

 
Bồ Tát nầy đi đến đâu đều chẳng phạm lỗi ác, không hề nhiễm thế sự, thường phụng hành các công đức.

Bồ Tát nầy tu các thần túc vi diệu quảng đại chẳng lui chẳng mất mãi đến thành Phật. 

Đây là Bồ Tát thần túc hạnh thanh tịnh”.

Đức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát : “Thế nào là Bồ Tát đủ căn hạnh thanh tịnh?

Bồ Tát chẳng thọ các pháp mà tu đạo nghĩa đó là tín căn vậy. Bồ Tát nguyện vượt qua bỉ ngạn chẳng cầu mong người đó là tinh tiến căn vậy. Bồ Tát vì tất cả chúng sanh mà chẳng rời bỏ đạo tâm đó là niệm căn vậy. Bồ Tát nắm giữ đại bi muốn cứu tế nguy ách đó là định căn vậy. Bồ Tát hay phụng thọ tất cả các pháp mà tu tịch diệt đó là huệ căn vậy. 

 (còn tiếp)