Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
Danh Mục Tam Tạng
THƯ MỤC TÁC GIẢ

Quyển thứ chín

11 Tháng Giêng 20171:12 CH(Xem: 2365)
Quyển thứ chín
KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN
- Hán dịch: Tam-tạng Pháp sư Huyền Trang
 - Việt dịch: Thích nữ Tâm Chánh, Chùa Phổ Tế, Nha Trang.
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh,
Tỳ-kheo Tâm Hạnh
---o0o--- 

Quyển thứ chín

Phẩm thứ sáu: THIỆN NGHIỆP ĐẠO

 

Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa sân hận thì được tất cả chúng sanh thương yêu, tâm vị ấy thanh tịnh, lìa hết mọi cấu uế. Do đó, thiện căn dần dần được thành thục. Chúng sanh từ bao đời trước ra vào trong năm đường, chìm đắm mãi trong biển sanh tử luân hồi là do sân giận nên thân, miệng, ý tạo ra không biết bao nhiêu ác nghiệp chướng, phiền não chướng, hữu tình chướng, tất cả pháp chướng và vô minh chướng; tự mình làm hay dạy người làm, thấy nghe đều tùy hỷ.

Lại cũng do xa lìa tâm sân hận này nên chuyển hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này được trời, người thương mến, không nghi ngờ. Tâm vị ấy thanh tịnh, lìa mọi cấu uế nên khi lâm chung thân tâm đều không bị các sự buồn khổ bức bách, cũng không bị sự luyến ái của vợ con quyến thuộc quấy nhiễu. Lúc lâm chung không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi mà tâm ý vui vẻ, thành thục, chỉ nghĩ đến thiện pháp và những bậc đầy đủ giới, phước đức, là ruộng phước chân thật làm thiện tri thức. Thân tâm vui vẻ phát sanh lòng thành kính sâu xa. Khi mạng căn đã hết, liền được tái sanh vào cõi người, được các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sanh ra ở đâu tâm người ấy cũng được thanh tịnh, xa lìa mọi cấu uế, thân lại được xinh đẹp, thông minh, gặp mọi điều an ổn, hỷ lạc. Lại gặp được người có đầy đủ giới, phước đức, thành thục mọi thiện pháp, là ruộng phước chân thật làm bạn thiện tri thức, nương theo vị ấy tu học, lìa xa các pháp sân giận. Như thế mới có thể đoạn trừ tất cả các pháp ác bất thiện, thành tựu tất cả các pháp thiện thù thắng. Vị ấy có thể tìm cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập biển trí tuệ mênh mông, cho đến chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Người ở cõi Phật thì xa lìa hết các uế trược, như gió, mây, uất khí, bụi trần cùng các vật dơ xấu, được các châu báu trang nghiêm, rất là ưa thích. Tâm không còn kiêu mạn, dung mạo đoan chánh, uy nghiêm, các căn không thiếu khuyết, tâm thường tịch tịnh. Các hữu tình như vậy thì được sanh vào cõi nước đó, được trang nghiêm đầy đủ bằng các công đức từ bi.

Đức Như Lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng tùy cơ thuyết pháp cho các hữu tình, để sau khi nhập Niết-bàn chánh pháp vẫn được trụ lâu ở đời, đem lại lợi ích an lạc cho các chúng hữu tình.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ chín xa lìa sân giận của đại Bồ-tát. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này thì đối với Thanh văn thừa không còn lầm lạc, đối với bậc Thanh văn thừa không còn lầm lạc; đối với Độc giác thừa không còn lầm lạc, đối với bậc Độc giác thừa không còn lầm lạc; đối với Đại thừa không còn lầm lạc, đối với bậc Đại thừa không còn lầm lạc; thường hay làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Khi làm đệ tử xuất gia của chư Phật, hoặc là pháp khí hay không là pháp khí, cho đến chỉ đắp một mảnh vải ca-sa, cạo bỏ râu tóc cũng đều không còn lầm lạc; ở trong pháp Đại thừa thường được thăng tiến, không có thối chuyển, phước huệ thù thắng đều được tăng trưởng. Với các pháp định, đà-la-ni, các pháp Thập nhẫn, Thập địa đều được tự tại, không có thối chuyển. Thường được gặp bậc thiện tri thức, cùng tùy thuận theo. Thường được thấy tất cả chư Phật cùng hàng đệ tử Thanh văn, Bồ-tát. Thường được nghe giáo pháp, được gần gũi cúng dường chúng Tăng. Đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu mà tâm không hề nhàm chán. Thường phát tâm Bồ-đề tu các hạnh nguyện mà không nhàm chán. Đó là được các quả báo đã nói rộng ở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào có thể trọn đời xa lìa các tà kiến thì được tất cả chúng sanh thương yêu, tâm vị ấy thanh tịnh, xa lìa mọi sự phân biệt, tà vọng; do đó thiện căn mau được thành thục. Nhiều đời luân chuyển trong năm đường, đắm chìm trong biển sanh tử cũng do nhân tà kiến mà ra. Thân, ngữ, ý tạo ra các nghiệp ác chướng, phiền não chướng, các hữu tình chướng cùng tất cả pháp chướng làm chướng ngại chánh kiến. Tự làm hay dạy người làm, thấy nghe đều tùy hỷ. Do xa lìa các bánh xe tà kiến này mà diệt trừ hết phiền não, không còn thọ quả báo, ngay trong đời này được trời người thương mến, không nghi ngờ, thân tâm đều được an vui. Tâm vị ấy thanh tịnh, lìa xa mọi tà kiến phân biệt. Khi lâm chung, thân và tâm không bị các sự khổ não bức bách, không bị sự luyến ái của vợ con quyến thuộc quấy nhiễu. Khi lâm chung, không bị vua Diêm ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi mà tâm ý vui vẻ, thành thục; chỉ nghĩ đến thiện pháp và những bậc đầy đủ giới, phước đức, là ruộng phước chân thật làm bạn thiện tri thức, phát sanh lòng hoan hỷ, tin kính sâu xa. Khi đã qua đời, nếu trở lại trong cõi người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sanh ra nơi nào tâm người ấy cũng được thanh tịnh, xa lìa các tà kiến phân biệt, được thân xinh đẹp thông minh, an ổn khoái lạc; lại được gặp bạn thiện tri thức có đầy đủ giới, phước đức, là ruộng phước chân thật, thành tựu các thiện pháp, nương theo vị ấy tu học, xa lìa hết tà kiến, đoạn trừ tất cả pháp ác bất thiện, thành tựu tất cả thiện pháp thù thắng, cầu học mọi giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần thể nhập vào trong biển lớn Đại thừa, cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, vào ở cõi Phật; xa lìa các nhân pháp nhị thừa Thanh văn, Độc giác; xa lìa các đồ chúng trong cõi Thiên ma; cũng không làm bạn với ngoại đạo; được các châu báu trang nghiêm rất là ưa thích; xa lìa mọi điều kiết hung, vọng chấp thường kiến, đoạn kiến, ngã và ngã sở kiến.

Các loại hữu tình như vậy thì được sanh vào cõi nước ấy, được tuổi thọ lâu dài, được thọ dụng một vị, gọi là vị Đại thừa. Như Lai tự thân thọ mạng vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn chánh pháp vẫn được trụ lâu ở đời, đem lại lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Thánh giáo chỉ có một vị, không chống trái nhau, được lưu thông rộng rãi, xa lìa các chướng nạn.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân thứ mười xa lìa tà kiến của đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa được không lầm lạc, đối với bậc Thanh văn thừa được không lầm lạc; đối với Độc giác thừa được không lầm lạc, đối với bậc Độc giác thừa được không lầm lạc; đối với Đại thừa được không lầm lạc, đối với bậc Đại thừa được không lầm lạc; thường làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với hàng đệ tử xuất gia của chư Như Lai hoặc là bậc pháp khí, hoặc không phải là bậc pháp khí, cho đến chỉ quấn một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc đều không có lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được thăng tiến mà không thối chuyển, phước huệ thù thắng đều được tăng trưởng. Đối với các pháp thiền định, đà-la-ni, các pháp nhẫn, pháp địa mau được tự tại không còn thối chuyển; thường gặp các thiện tri thức cùng tùy thuận theo; thường được thấy tất cả chư Phật và hàng đệ tử Thanh văn, Bồ-tát; được nghe chánh pháp, được gần gũi cúng dường Tăng chúng. Đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu, không hề nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện sáu Ba-la-mật mà không nhàm chán... Được các quả báo như đã nói rộng ở trước.

Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào thành tựu được mười pháp luân như vậy có thể mau chứng đắc quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Vì sao? - Vì ở đời quá khứ, tất cả Như Lai Ứng chánh đẳng giác đều xa lìa mười nghiệp đạo ác, đều khen ngợi tán thán mười nghiệp đạo thiện này mà được phước báo; vì muốn trưởng dưỡng tất cả chúng sanh đều được lợi ích an lạc trong đạo Bồ-đề; vì muốn diệt trừ tất cả khổ phiền não cho chúng sanh, không còn một chút mảy may nào; vì muốn làm khô cạn ba đường ác; vì muốn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; vì muốn đoạn trừ tam giới; vì muốn chấm dứt uẩn, xứ, giới; vì muốn làm cho tất cả chúng sanh mau vào thành Niết-bàn vô úy... Xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện nói rộng như trên sẽ được phước báo.

Vì thế, này thiện nam tử! Nếu không mong cầu một cách chân thật mười nghiệp đạo thiện như vậy để chứng thành quả Phật, cho đến cũng không chân thật giữ gìn nghiệp đạo thiện nào, đến khi mạng chung mà tự xưng rằng: “Ta là bậc chân thật hành pháp Đại thừa, ta cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác”, nên biết người như thế là dối gạt vô cùng, là đại vọng ngữ; đối trước chư Phật Thế Tôn khắp mười phương thế giới làm mê hoặc thế gian mà không biết tàm quý; nói các pháp là không, là đoạn kiến để dụ dỗ, lừa dối người ngu si; đến khi qua đời sẽ đọa vào đường ác.

Này thiện nam tử! Nếu chỉ dùng lời nói hoặc nghe biết, không do tu hành mười nghiệp đạo thiện mà có thể đắc Niết-bàn Bồ-đề ở trong một kiếp, hoặc trong chừng một niệm, có thể làm cho vô lượng chúng sanh ở trong khắp các cõi nước trong mười phương cũng đều chứng quả Bồ-đề Niết-bàn là điều không thể có. Vì sao? - Vì mười nghiệp đạo thiện là căn bản của Đại thừa, là nhân của Bồ-đề, là thềm thang vững chắc để chứng nhập Niết-bàn.

Này thiện nam tử! Nếu chỉ phát tâm, phát thệ nguyện lực, không do tu hành mười nghiệp đạo thiện, mà lại có thể đắc quả Bồ-đề Niết-bàn ở trong một kiếp, hoặc trong một niệm mà có thể làm cho vô lượng chúng sanh ở khắp các cõi nước trong mười phương đều chứng quả chánh giác, nhập Niết-bàn là điều không thể có. Vì sao? - Vì mười nghiệp đạo thiện là căn bổn các quả báo công đức thù thắng của các pháp thế và xuất thế.

Này thiện nam tử! Nếu không tu hành mười nghiệp đạo thiện, dù có trải qua vô số kiếp ở các cõi nước khắp mười phương tự xưng là Đại thừa; hoặc nói, hoặc nghe, hoặc chỉ phát tâm, hoặc phát thệ nguyện, hoàn toàn không thể chứng Bồ-đề Niết-bàn, cũng không thể làm cho người khác thoát được khổ sanh tử.

Này thiện nam tử! Cần phải tu mười nghiệp đạo thiện. Ở thế gian có các Sát-đế-lợi, Bà-la-môn giàu sang quyền lực; Tứ đại thiên vương cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, nhẫn đến Vô thượng Chánh đẳng giác đều là do tu hành mười nghiệp đạo thiện mà thọ các phẩm loại sai khác.

Thế nên thiện nam tử! Nếu muốn mau viên mãn quả Vô thượng Chánh đẳng giác đại nguyện, cần phải tu mười nghiệp đạo thiện này để tự trang nghiêm, chứ chẳng phải do mười pháp ác, phi luật nghi mà có thể đạt được. Hoặc cầu mau thể nhập cảnh giới Đại thừa, mau chứng Vô thượng chánh đẳng giác, mau viên mãn tất cả thiện pháp thì trước hết nên hộ trì mười nghiệp đạo thiện. Vì sao? - Vì mười nghiệp đạo thiện có thể tạo lập căn bản công đức của các thiện pháp, là nhơn cho mọi quả báo thù thắng của thế và xuất thế gian, do đó phải tu mười nghiệp đạo thiện.

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên nên nói kệ:

- Muốn trừ tất cả khổ

Chứng đạo quả Bồ-đề

Nên tu mười nghiệp thiện

Tinh cần, chớ phóng dật

Đối với pháp ba thừa

Cùng các bậc ba thừa

Người tu học xuất gia

Đều chớ nên lầm lạc

Tin, thọ, hành Đại thừa

Lợi lạc khắp quần sanh

Ngộ pháp thắng tịnh độ

Mau chứng đại Bồ-đề

Nếu xa lìa sát sanh

Được mọi điều yêu kính

Không bệnh, được trường thọ

An vui, không tổn hại

Sanh ra ở nơi nào

Thường ưa làm Phật sự

Thường gặp Phật, Pháp, Tăng

Mau thành Vô thượng giác

Nếu xa lìa trộm cắp

Người trí đều tôn kính

Dứt trừ nghiệp tham lam

Phát sanh được vô tham

Đời đời thường giàu có

Làm bậc đại thí chủ

Đầy đủ các châu báu

Tốt đẹp như nước Phật

Nếu lìa dục tà hạnh

Diệt phiền não xấu xa

Khô cạn biển tham ái

Mau đến nước lạc bang

Cứu độ các chúng sanh

Ra khỏi bùn nhơ dục

An trú nơi Đại thừa

Tinh cần tu phạm hạnh

Xa lìa lời hư dối

Được Thánh trí tự tại

Thường nói lời thành thật

Diệt hết khổ hư vọng

Một lời nói chứng thật

Thường gặp Phật, Pháp, Tăng

Mau đến quả Bồ-đề

Khuyên tu chớ vọng ngữ

Xa lìa lời ly gián

Thành tựu muôn pháp lành

Thường gặp Phật, Pháp, Tăng

Không còn bị đoạn diệt

Đắc quả Vô nhiễm trước

Đà-la-ni bảo tạng

Vào sâu trong biển pháp

Mau chứng Vô thượng giác

Nếu lìa lời thô ác

Thường nói lời nhu hòa

Chúng sanh đều kính mến

Diệt hết nghiệp đời trước

Khiến ai cũng thấy vui

Thành Bồ-tát đạo sư

Biết muôn việc của Phật

Vượt qua địa thứ mười

Không nói lời tạp uế

Người trí đều tôn kính

Khi vì người mà nói

Có đủ năm công đức

Thường nghe được lời Thánh

Vui mừng cầu chánh đạo

Đầy đủ biển chư Phật

Mau được Nhất thiết trí

Nếu lìa hết tham dục

Không chê bai Thánh giáo

Cúng dường áo ca-sa

Hoằng truyền pháp tam thừa

Liền sanh về tịnh độ

Chỗ ở bậc đạo sư

Nương nơi Vô thượng thừa

Mau được trí tối thắng

Nếu xa lìa sân hận

Một lòng tu tâm từ

Mau chứng đắc đẳng trì

Ưa hành xứ chứng Thánh

Sẽ sanh về cõi Phật

Xa lìa các tội ác

Ở đó chứng Bồ-đề

Xa lìa lòng sân hận

Nếu dứt sạch tà kiến

Thuần tu tâm tịnh tín

Vui khai thị ba thừa

Cúng dường khắp chư Phật

Thoát hẳn các đường ác

Gặp được chư Thánh Hiền

Đủ các đức Bồ-tát

Đắc được trí Vô thượng

Ta nói mười nghiệp thiện

Hướng Bồ-đề tối thắng

Sanh trưởng các đẳng trì

Đà-la-ni nhẫn địa

Luân này oai đức lớn

Diệt hết mọi đường ác

Phá hoại muôn chướng nghiệp

Mau thành đạo Bồ-đề.

 

 

Phẩm thứ bảy: PHƯỚC ĐIỀN TƯỚNG 

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát có luân mười tài thí đại giáp trụ. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này từ khi mới phát tâm có thể đoạn trừ tất cả ngũ dục, vượt hơn cả các hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Các hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Thế nào là mười? - Nghĩa là bố thí các loại thức ăn uống, y phục, đồ trang sức quý báu, voi, ngựa, xe cộ cùng với tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy, não, xương cốt, da thịt, máu mủ, quốc thành, vợ con, tôi tớ, ruộng vườn, nhà cửa.

Như thế, mỗi khi bố thí đều không luyến tiếc thân mạng, không vì mình mong cầu sự an vui ở thế gian và xuất thế gian mà phát tâm bố thí, chỉ vì muốn cho tất cả chúng hữu tình nuôi lớn mầm đại từ, đại bi mà phát tâm bố thí. Vì muốn chúng sanh phát khởi phương tiện thiện xảo, trí tuệ thù thắng nên phát tâm bố thí. Vì muốn làm cho tất cả chúng hữu tình được an lạc nên phát tâm bố thí. Vì muốn trừ diệt mọi khổ não cho chúnghữu tình nên phát tâm bố thí. Cũng không vì tâm muốn hơn người, tâm hung dữ, tâm tật đố, tâm keo lẫn mà bố thí. Đối với các vật thí - dù nhiều hay ít, cho đến một bữa ăn - cũng không mong cầu phước báo cho mình mà phát tâm bố thí. Cũng không mong cầu quả vị Thanh văn mà phát tâm bố thí, cũng không mong cầu quả vị Độc giác mà phát tâm bố thí. Đối với các vật thí - hoặc nhiều hoặc ít, cho đến một bữa ăn - chỉ vì mong cầu Nhất thiết chủng trí mà phát tâm bố thí.

Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nào thành tựu luân mười tài thí đại giáp trụ như thế từ mới phát tâm thì có thể đoạn trừ tất cả năm dục lạc, vượt hơn hàng Thanh văn, Độc giác; làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Vì sao? - Vì hàng Thanh văn, Độc giác phát tâm bố thí không có đại từ bi, chỉ vì xả bỏ nghèo cùng cho tự thân mình, muốn mình thoát khỏi các khổ não, muốn cho mình được an lạc, muốn cho mình chứng đắc Niết-bàn đạo quả, chứ không vì tất cả chúng hữu tình mà làm bố thí. Còn đại Bồ-tát phát tâm bố thí thì có đại từ bi, vì muốn cho chúng hữu tình xa lìa bần cùng, muốn cho chúng hữu tình thoát khỏi mọi khổ não, muốn cho chúng hữu tình được an lạc tự tại, muốn cho chúng hữu tình chứng đạo quả Niết-bàn. Đó là không vì tự thân mà phát tâm bố thí. Do nghĩa này nên vượt hơn hàng Thanh văn, Độc giác. Lại vì muốn làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác, tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Khi đại Bồ-tát tu pháp tài thí Ba-la-mật-đa, đối với mọi thú vui ngũ dục, tâm không đắm nhiễm, tự mình hưởng thọ đầy đủ các pháp an lạc, đem bố thí hết cho chúng hữu tình, đem tâm giúp đỡ tất cả chúng hữu tình, đem tâm nhẫn chịu tất cả khổ não của mọi loài, đem tâm diệt khổ cho tất cả hữu tình, đem tâm làm an vui cho mọi người và đem tâm đại Niết-bàn cho các loài hữu tình mà bố thí. Do ý nghĩa này vượt hơn các hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh-văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Này thiện nam tử! Nếu đối với ngũ dục mà tâm không đắm nhiễm, đem tâm đại từ bi mà bố thí như thế thì gọi là Bồ-tát, cũng gọi là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu không đoạn trừ các ngũ dục ở thế gian, không có đại từ bi mà bố thí, tuy xả bỏ vô lượng vô biên tài vật cũng không được gọi là Đại Bồ-tát, cũng chẳng phải là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác, không được ấn chứng vào quả vị Thánh. Cho nên phải đoạn trừ ngũ dục ở thế gian, phải có đầy đủ tâm đại từ bi để làm bố thí. Nếu không như thế mà bố thí thì chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải là ruộng phước chân thật.

Này thiện nam tử! Đem tâm nhiễm trước các thứ ngũ dục mà hành luân pháp bố thí còn không thể diệt trừ một chút phần phiền não của bản thân mình, huống là có thể diệt trừ vô lượng các khổ não của tất cả chúng sanh.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói rõ lại nghĩa trên nên tuyên đọc bài kệ:

- Thành tựu tài thí luân

Người trí tâm thanh tịnh

Xa lìa hết năm dục

An lạc chúng hữu tình

Vì an lạc chúng sanh

Không cầu được quả báo

Dầu chỉ thí chút phần

Là ruộng phước chân thật

Tuy bố thí rất nhiều

Mà đắm nhiễm ngũ dục

Chẳng thể vào đạo Thánh

Trụ trong tụ bất định

Tùy làm việc thí ít

Mà không duyên ngũ dục

Là ruộng phước chân thật

Của Thanh văn, Độc giác

Nên phải bỏ ngũ dục

Thường hành thí thanh tịnh

An lạc chúng hữu tình

Thành ruộng phước chân thật.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát có luân mười pháp thí đại giáp trụ. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu luân này từ khi mới phát tâm, có thể đoạn trừ tất cả ngũ dục, mau có thể đắc định Nhật đăng quang, vượt qua các hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanhvăn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Thế nào là mười? - Nghĩa là chánh pháp do chư Như Lai thuyết ra, hoặc là chánh pháp tương ưng với Thanh văn thừa, hoặc chánh pháp tương ưng với Độc giác thừa, hoặc chánh pháp tương ưng với Đại thừa, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặcp háp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, hoặc pháp bất nhị.

Đại Bồ-tát đối với mười pháp này đều có lòng tin kính sâu xa, lắng nghe tất cả rồi tùy theo khả năng mà suy xét lãnh thọ, tư duy, quán sát đến chỗ rốt ráo thông suốt, tùy theo thích ứng mà diễn thuyết cho người khác. Lúc thuyết pháp lại không có tâm ganh ghét, tâm bỏn xẻn, tâm kiêu mạn; tâm không cầu lợi, không khinh người, tâm không cống cao mà có tâm cung kính, có tâm làm lợi ích khắp cùng, tâm đại từ, tâm đại bi.

Nói pháp Thanh văn cho hàng Thanh văn, không nói pháp Độc giác thừa hoặc Đại thừa cho họ.

Thuyết pháp Độc giác cho hàng Độc giác, chứ không thuyết pháp Thanh văn hay Đại thừa cho họ.

Đối với hàng Đại thừa, thuyết pháp Đại thừa, không thuyết các pháp Thanh văn hay Độc giác thừa cho họ.

Tùy theo căn cơ của các chúng sanh mà thuyết chánh pháp cho họ. Nếu không phải căn cơ thì không nói pháp.

Đối với hàng Đại thừa, hoàn toàn không khuyên tu Độc giác, hành hạnh Thanh văn. Còn đối với Độc giác, có lúc cũng khuyên họ tu hạnh Đại thừa.

Đối với hàng Thanh văn, có lúc khuyên tu theo Độc giác thừa, hoặc khuyên tu Đại thừa.

Nếu ai đối với những lời thuyết pháp của đức Như lai - cho đến một bài tụng, thậm chí nửa câu - đều tin kính sâu xa, hoàn toàn không phỉ báng, làm chướng ngại, vùi lấp; đối với vị Pháp sư thuyết pháp tưởng như đức Thế Tôn, với đại chúng nghe pháp tưởng như người bệnh, với pháp được nghe tưởng là lương dược. Đoạn trừ ngũ dục, không còn mong cầu mà tuyên thuyết chánh pháp.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân mười pháp thí đại giáp trụ của đại Bồ-tát. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu được mười luân này thì có thể đoạn trừ ngũ dục, mau chứng được định Nhật đăng quang, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa này nên thuyết kệ:

- Bậc trí tu pháp thí

Tùy cơ nói ba thừa

Không thuyết các thừa khác

Sợ nghe rồi báng pháp

Đúng căn cơ thuyết pháp

Chẳng phải thì không thuyết

Tùy theo sự ưa thích

Khuyên tu khiến an lạc

Trọn không khuyến Đại thừa

Chỉ khiến tu nhị thừa

Hoặc lúc khuyên nhị thừa

Tiến lần lên thượng thừa

Thường cung kính nghe pháp

Tin sâu, không hủy báng

Cúng dường đến Pháp sư

Tưởng như bậc Thế Tôn

Khuyên nghe thuốc diệu pháp

Để trừ bệnh não phiền

Bỏ lợi dưỡng, danh dự

Mà tuyên bày chánh pháp.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát lại có luân tịnh giới đại giáp trụ. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu luân này từ lúc mới phát tâm thì có thể đoạn trừ mọi ngũ dục, vượt hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Thế nào là luân tịnh giới đại giáp trụ? - Này thiện nam tử! Tịnh giới của Bồ-tát có hai tướng:

1- Cọng.

2- Bất cọng.

Thế nào là luân Cọng tịnh giới của Bồ-tát? - Nghĩa là các luật nghi đã thọ của hàng tại gia cận sự, cận trụ, hoặc giới biệt giải thoát của hàng xuất gia và thọ giới Cụ túc. Luật nghi, giới biệt giải thoát như vậy gọi là luân Cọng tịnh giới của Bồ-tát, cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác thừa. Bậc Bồ-tát không do luân tịnh giới này mà có thể trừ được tất cả phiền não ác kiến thú và có thể giải thoát nghiệp chướng sanh tử. Đây không gọi là luân đại giáp trụ, cũng không do đây mà gọi là đại Bồ-tát và cũng không gọi là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Thế nào là luân Bất cọng tịnh giới đại giáp trụ? - Nghĩa là các Bồ-tát đối với chúng hữu tình ở khắp mười phương đều bình đẳng, không quấy nhiễu, không oán hận mà hộ trì tịnh giới.

Đối với tất cả người trì giới, kẻ phạm giới, người bố thí, kẻ xan tham, người từ bi, kẻ sân giận, người tinh tấn, kẻ giải đãi, các hữu tình thượng - trung - hạ đều đem tâm không sai biệt, tưởng không sai biệt mà hộ trì tịnh giới.

Đối với hữu tình trong tam giới không sân giận, cũng không làm các ác hạnh mà hộ trì tịnh giới.

Đối với uẩn - giới - xứ trong ba cõi không có phân biệt mà hộ trì tịnh giới.

Cũng không nương theo Dục giới mà hộ trì tịnh giới, cũng không nương theo Sắc giới mà hộ trì tịnh giới, không nương theo Vô sắc giới mà hộ trì tịnh giới.

Không quán tất cả quả báo của các cõi mà hộ trì tịnh giới. Không nương theo tất cả cái được và cái không được mà hộ trì tịnh giới.

Không nương theo các hành mà hộ trì tịnh giới.

Đó gọi là luân Bất cọng tịnh giới đại giáp trụ của Bồ-tát.

Này thiện nam tử! Nếu đai Bồ-tát nào thành tựu được luân tịnh giới đại giáp trụ này từ khi mới phát tâm, có thể đoạn trừ tất cả ngũ dục, nên được gọi là đại Bồ-tát, vượt hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ tụng để làm rõ nghĩa trên:

- Luật nghi hàng tại gia

Biệt giải thoát xuất gia

Cùng chung cho nhị thừa

Không là Ma-ha-tát

Bậc trí tu pháp không

Không nương theo thế gian

Cũng không nương các cõi

Mà hộ trì tịnh giới

Lìa chấp tướng Thi-la

Không nhiễm, không phiền não

Hộ trì giới như thế

Là ruộng phước chân thật

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát còn có luân An nhẫn đại giáp trụ. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ khi mới phát tâm có thể đoạn trừ hết ngũ dục, vượt lên hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Thế nào là luân An nhẫn đại giáp trụ? - Này thiện nam tử! An nhẫn của Bồ-tát có hai tướng:

1- Thế gian.

2- Xuất thế gian.

Thế nào là An nhẫn thế gian của Bồ-tát? - Nghĩa là nhẫn hữu lậu, là nhẫn phát sinh do duyên theo chúng hữu tình, có chấp thủ, có tướng; do nương theo quả báo, nương theo các phước nghiệp; nhẫn phát sinh do nương theo sắc, thanh, hương, vị, xúc của bản thân; nhẫn hữu phát thú, nhẫn vô kham năng, nhẫn lực luy liệt, nhẫn khí chúng sanh, nhẫn hữu cuống trá, nhẫn kiều duyệt tha, nhẫn không làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Đó gọi là An nhẫn thuộc thế gian của Bồ-tát. An nhẫn như vậy cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác. Đây không thể gọi là luân đại giáp trụ, cũng không do đây gọi là đại Bồ-tát, hay là ruộng phước chân thật cho hàng Thanh văn, Độc giác.

Thế nào là luân An nhẫn xuất thế đại giáp trụ của Bồ-tát? - Nghĩa là nhẫn vô lậu. Tất cả bậc Hiền Thánh đại pháp quang minh vì lợi lạc cho các chúng hữu tình mà an nhẫn không dính mắc, đoạn trừ hẳn tất cả sự nghiệp. Ngôn ngữ, nhơn tướng, văn tự, âm thanh, việc làm đều dựa theo an nhẫn. Tu hạnh nhẫn này có thể đoạn trừ tam kết, tam thọ, tam tưởng, tam thế, tam hữu, tam hành, tam bất thiện căn, tứ chủng, tứ bộc lưu, tứ ách, tứ thủ, tứ chủng thân hệ. Khi tu các hạnh nhẫn này thì tâm được an tịnh. Đó gọi là luân An nhẫn xuất thế đại giáp trụ của Bồ-tát.

Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu được luân An nhẫn đại giáp trụ này từ lúc mới phát tâm, có thể đoạn trừ hết ngũ dục nên gọi là đại Bồ-tát, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Bấy giờ, Thế Tôn dùng lời kệ tụng để nói rõ nghĩa trên:

- An nhẫn có hai loại

Là hữu tướng, vô tướng

Hữu tướng thường chấp giữ

Bậc trí không khen ngợi

Tu nhẫn nương tam hành

Nương theo uẩn - giới - xứ

Đó là nhẫn hữu lậu

Chẳng phải tướng Bồ-tát

Để diệt bốn điên đảo

Tu nhẫn vô nhiễm trước

Tịch tịnh cùng tam hành

Nhẫn này được xưng tán

Muôn hạnh đều an tịnh

Lìa tất cả phân biệt

Bình đẳng như hư không

Nhẫn này nên tán thán

Muôn pháp quy về một

Không, vô tướng, tịch diệt

Tâm không chỗ dính mắc

Nhẫn này lợi ích lớn.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát có luân Tinh tấn đại giáp trụ. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ khi mới phát tâm có thể đoạn trừ được ngũ dục, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Thế nào là luân Tinh tấn đại giáp trụ? - Này thiện nam tử! Tinh tấn của Bồ-tát có hai tướng:

1- Thế gian.

2- Xuất thế gian.

 Thế nào là Tinh tấn thế gian của Bồ-tát? - Nghĩa là các Bồ-tát tinh tấn dõng mãnh, chuyên cần tu ba loại phước nghiệp thế gian. Ba loại đó là gì?

1/ Thí phước nghiệp sự.

2/ Giới phước nghiệp sự.

3/ Tu phước nghiệp sự.

Pháp tu này là ba loại tinh tấn. Tinh tấn như vậy duyên theo các chúng sanh hữu lậu chấp thủ, nương theo các quả báo, nương theo các phước nghiệp. Đây gọi là tinh tấn thế gian của Bồ-tát. Tinh tấn này chùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác nên không gọi là luân đại giáp trụ, cũng không vì thế mà gọi là đại Bồ-tát hay là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Thế nào gọi là luân Tinh tấn xuất thế đại giáp trụ của Bồ-tát? - Nghĩa là Bồ-tát này tinh tấn dõng mãnh, đối với tất cả chúng sanh đều bình đẳng, trừ hết mọi nghiệp khổ phiền não cho họ. Tinh tấn như thế được tất cả Hiền Thánh khen ngợi, là vô lậu, không chấp thủ, không có chỗ nương theo.

Đối với tất cả người tinh tấn, kẻ giải đãi, người bố thí, kẻ xan tham, người trì giới, kẻ phá giới, người từ bi, kẻ sân giận, các chúng sanh thượng - trung - hạ không phân biệt, không có tướng phân biệt mà tinh tấn dõng mãnh.

Đối với chúng sanh trong tam giới đều bình đẳng không hai, vì họ mà từ lời nói, việc làm, suy nghĩ đều nương vào chỗ không chấp trước mà tinh tấn dõng mãnh.

Đối với uẩn -xứ - giới trong tam hữu đều tinh tấn dõng mãnh, không phân biệt; không nương theo Dục giới mà tinh tấn dõng mãnh; không nương theo Sắc giới mà tinh tấn dõng mãnh; không nương theo Vô sắc giới mà tinh tấn dõng mãnh; không quán tất cả quả báo của các cõi mà tinh tấn dõng mãnh; không nương theo tất cả cái được và không được mà tinh tấn dõng mãnh; không nương theo các hạnh mà tinh tấn dõng mãnh; không nương theo ba loại phước nghiệp sự ở thế gian mà tinh tấn dõng mãnh. Vì muốn đầy đủ ba phước nghiệp sự xuất thế mà tinh tấn dõng mãnh.

Đó gọi là luân tinh tấn xuất thế đại giáp trụ của Bồ-tát.

Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu được luân tinh tấn đại giáp trụ này từ khi mới phát tâm, có thể dứt trừ được ngũ dục, được gọi là đại Bồ-tát, vượt hơn hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài kệ để làm rõ nghĩa này:

- Do sáu căn nhiễm trước

Chìm nổi theo năm dòng

Tuy tinh tấn dõng mãnh

Người trí đều chán xa

Duyên chúng sanh tinh tấn

Hữu lậu và chấp thủ

Chẳng phải ruộng phước chân

Không gọi là Bồ-tát

Bậc trí siêng tinh tấn

Xa lìa mọi nhiễm trước

Tâm không bị lệ thuộc

Là ruộng phước chân thật

Không dính mắc danh sắc

Lìa các uẩn - xứ - giới

Làm chỗ nương cho chúng

Gọi là Ma-ha-tát

Giữa đời như trăng nước

Tu tinh tấn luân này

Có thể đoạn trừ hết

Phiền não của chúng sanh.

Lại nữa, này thiện nam tử! Đại Bồ-tát có luân Tịnh lự đại giáp trụ. Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ lúc mới phát tâm, có thể đoạn trừ được ngũ dục, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Thế nào là luân Tịnh lự đại giáp trụ? - Này thiện nam tử! Tịnh lự của Bồ-tát có hai tướng:

1- Thế gian.

2- Xuất thế gian.

Thế nào là Tịnh lự thế gian của Bồ-tát? - Nghĩa là các Bồ-tát nương theo các uẩn mà tu tập tịnh lự, nương vào các giới mà tu tập tịnh lự, nương vào các xứ mà tu tập tịnh lự, nương vào Dục giới mà tu tập tịnh lự, nương vào Sắc giới mà tu tập tịnh lự, nương vào Vô sắc giới mà tu tập tịnh lự, nương vào ba luật nghi mà tu tập tịnh lự, nương vào ba giải thoát mà tu tập tịnh lự, nương vào bốn niệm trụ mà tu tập tịnh lự, nương vào bốn chánh đoạn mà tu tập tịnh lự, nương vào bốn thần túc mà tu tập tịnh lự, nương vào năm căn mà tu tập tịnh lự, nương vào năm lực mà tu tập tịnh lự, nương vào bảy giác chi mà tu tập tịnh lự, nương vào tám Thánh đạo mà tu tập tịnh lự, nương vào địa giới mà tu tập tịnh lự, nương vào thủy giới mà tu tập tịnh lự, nương vào hỏa giới mà tu tập tịnh lự, nương vào phong giới mà tu tập tịnh lự, nương vào không giới mà tu tập tịnh lự, nương vào thức giới mà tu tập tịnh lự, nương vào lạc thọ mà tu tập tịnh lự, nương vào khổ thọ mà tu tập tịnh lự, nương vào bất khổ bất lạc thọ mà tu tập tịnh lự, nương vào hư không vô biên xứ mà tu tập tịnh lự, nương vào thức vô biên xứ mà tu tập tịnh lự, nương vào vô sở hữu xứ mà tu tập tịnh lự, nương vào phi tưởng phi phi tưởng xứ mà tu tập tịnh lự, nương vào đời này mà tu tập tịnh lự, nương vào đời khác mà tu tập tịnh lự, nương vào tiểu tưởng mà tu tập tịnh lự, nương vào đại tưởng mà tu tập tịnh lự, nương vào vô lượng tưởng mà tu tập tịnh lự.

Tịnh lự như thế là hữu lậu, có chấp thủ, có chỗ nương theo, gọi là Tịnh lự thế gian của Bồ-tát. Tịnh lự này cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác. Đây không thể gọi là luân đại giáp trụ, cũng không gọi là đại Bồ-tát hay là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Thế nào là Tịnh lự xuất thế gian của Bồ-tát? - Nghĩa là Bồ-tát đã xa lìa các uẩn mà tu tập tịnh lự, xa lìa các giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa các xứ mà tu tập tịnh lự, xa lìa Dục giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa Sắc giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa Vô sắc giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa ba luật nghi mà tu tập tịnh lự, xa lìa ba giải thoát mà tu tập tịnh lự, xa lìa bốn niệm trụ mà tu tập tịnh lự, xa lìa bốn chánh đoạn mà tu tập tịnh lự, xa lìa bốn thần túc mà tu tập tịnh lự, xa lìa năm căn mà tu tập tịnh lự, xa lìa năm lực mà tu tập tịnh lự, xa lìa bảy giác chi mà tu tập tịnh lự, xa lìa tám Thánh đạo mà tu tập tịnh lự, xa lìa địa giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa thủy giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa hỏa giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa phong giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa không giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa thức giới mà tu tập tịnh lự, xa lìa lạc thọ mà tu tập tịnh lự, xa lìa khổ thọ mà tu tập tịnh lự, xa lìa bất khổ bất lạc thọ mà tu tập tịnh lự, xa lìa hư không vô biên xứ mà tu tập tịnh lự, xa lìa thức vô biên xứ mà tu tập tịnh lự, xa lìa vô sở hữu xứ mà tu tập tịnh lự, xa lìa phi tưởng phi phi tưởng xứ mà tu tập tịnh lự, xa lìa đời này mà tu tập tịnh lự, xa lìa đời khác mà tu tập tịnh lự, xa lìa tiểu tưởng mà tu tập tịnh lự, xa lìa đại tưởng mà tu tập tịnh lự, xa lìa vô lượng tưởng mà tu tập tịnh lự.

Tịnh lự như thế mới có thể phát ánh sáng rộng lớn của chư Hiền Thánh, vô lậu không chấp thủ, không có chỗ nương theo. Đó gọi là luân Tịnh lự xuất thế đại giáp trụ của Bồ-tát.

Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào thành tựu luân Tịnh lự đại giáp trụ này từ khi mới phát tâm, có thể đoạn trừ hết ngũ dục, được gọi là đại Bồ-tát, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn.

Bấy giờ Thế Tôn tuyên nói bài tụng để làm rõ nghĩa trên:

- Vì mình bỏ gánh nặng

Tu dẫu có đắc định

Đoạn phiền não riêng mình

Chẳng phải bậc trí chơn

Quán chiếu theo khả năng

Cầu giải thoát tu định

Chấp trước bờ kia đây

Chẳng lợi ích hữu tình

Vì lợi lạc mọi loài

Tu định, bỏ gánh nặng

Diệt hết mọi não phiền

Là bậc chơn trí vậy

Vì lợi khắp chúng sanh

Tu định, không chấp trước

Chấm dứt mọi khát ái

Đó là bậc Đại huệ

Vì giải thoát các hữu

Vào trong thành Vô úy

Tu định được vắng lặng

Thật là đại Bồ-tát. 

KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN

Hết quyển thứ chín

 --- o0o ---