Kinh Hoa Thủ
(hay Nhiếp Chư Thiện Căn)
Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu quyển 16, số 657
Đời Hậu Tần, nước Quy Tư
Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Tỳ Kheo Thích Bảo Lạc dịch ra chữ Việt
Pháp Bảo ấn hành 1990
---o0o---
QUYỂN VI
19- Phẩm Tam Muội (1) thứ mười chín
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn thấy đại chúng đều đã vân tập đầy đủ, nên từ chỗ ngồi đứng dậy nhập Phật Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Từ Diệu Kim Cang tam muội xuất, nhập Phật Diệu Kim Cang. Từ Diệu Kim Cang tam muội xuất, nhập Phật tri thập phương ngôn âm sai biệt tam muội. Từ Phật tri thập phương ngôn âm sai biệt tam muội xuất, nhập Phật vô lượng trang nghiêm tam muội. Từ vô lượng trang nghiêm tam muội xuất, nhập Phật sư tử nguyệt tam muội. Từ sư tử nguyệt tam muội xuất, nhập Phật sư tử phấn tấn tam muội. Từ sư tử phấn tam muội xuất, nhập Phật vô biên duyên tam muội. Từ vô biên duyên tam muội xuất, nhập Phật quang vương tam muội. Từ quang vương tam muội xuất, nhập Phật diệu đà la ni tam muội. Từ diệu đà la ni tam muội xuất, nhập Phật vô tướng sanh tam muội. Từ vô tướng sanh tam muội xuất, nhập Phật sư tử tự tại lực tam muội. Từ sư tử tự tại lực tam muội xuất, nhập Phật tịnh nguyệt tam muội. Từ tịnh nguyệt tam muội xuất, nhập Phật nhứt tướng nghiêm tam muội. Từ nhứt tướng nghiêm tam muội khởi, nhập chúng tướng nghiêm tam muội. Từ chúng tướng nghiêm tam muội khởi, nhập Phật vô biên quang tam muội. Từ vô biên quang tam muội khởi, nhập Phật đại hải tam muội. Từ đại hải tam muội khởi, nhập Phật khởi nhứt thiết pháp hải pháp tánh định tam muội. Từ khởi nhứt thiết pháp hải pháp tánh định tam muội khởi, nhập Phật thị vô biên nguyện duyên tam muội. Từ thị vô biên nguyện duyên tam muội khởi, nhập Phật sanh nhứt thiết vô biên tự tại pháp tam muội. Từ sanh nhứt thiết vô biên tự tại pháp tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết pháp vô trụ xứ tam muội. Từ nhứt thiết pháp vô trụ xứ tam muội khởi, nhập Phật vô biên quang cao hoa tam muội. Từ vô biên quang cao hoa tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết pháp tư lương tịnh ấn tam muội. Từ nhứt thiết pháp tư lương tịnh ấn tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết pháp vô cấu ấn tam muội. Từ nhứt thiết pháp vô cấu ấn tam muội khởi, nhập Phật thị vô biên Phật tự tại lực tam muội. Từ thị vô biên Phật tự tại lực tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết chúng sanh diệt tướng tam muội. Từ nhứt thiết chúng sanh diệt tướng tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết pháp Như Lai sở hành tam muội. Từ nhứt thiết pháp Như Lai sở hành tam muội khởi, nhập Phật thị vô biên tự tại thần thông trang nghiêm tam muội. Từ thị vô biên tự tại thần thông trang nghiêm tam muội khởi, nhập Phật tam thế vô ngại nhứt thiết pháp tánh định tam muội. Từ tam thế vô ngại nhứt thiết tánh định tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết pháp trung đắc tự tại lực tam muội. Từ nhứt thiết pháp trung đắc tự tại lực tam muội khởi, nhập Phật nhiếp nhứt thiết pháp hải tự tại ấn tam muội. Từ nhiếp nhứt thiết pháp hải tự tại ấn tam muội khởi, nhập Phật kiên cố tam muội. Từ kiên cố tam muội khởi, nhập Phật thiện thông đạt tam muội. Từ thiện thông đạt tam muội khởi, nhập Phật vô động tam muội. Từ vô động tam muội khởi, nhập Phật quán kiến nhứt thiết pháp tam muội. Từ quán kiến nhứt thiết pháp tam muội khởi, nhập Phật phổ minh tam muội. Từ phổ minh tam muội khởi, nhập Phật phổ quán ấn tam muội. Từ phổ quán ấn tam muội khởi, nhập Phật vô minh ám tam muội. Từ vô minh ám tam muội khởi, nhập Phật vô kiến tam muội. Từ vô kiến tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết pháp vô ngại vô thủ tam muội. Từ nhứt thiết pháp vô ngại vô thủ tam muội khởi, nhập Phật vô tận tướng tam muội. Từ vô tận tướng tam muội khởi, nhập Phật vô tận định tam muội. Từ vô tận định tam muội khởi, nhập Phật vô tận duyên tam muội. Từ vô tận duyên tam muội khởi, nhập Phật nhất bảo tướng tam muội. Từ nhất bảo tướng tam muội khởi, nhập Phật đại trang nghiêm tam muội. Từ đại trang nghiêm tam muội khởi, nhập Phật vô biên trang nghiêm tam muội. Từ vô biên trang nghiêm tam muội khởi, nhập Phật vô sân hận tam muội. Từ vô sân hận tam muội khởi, nhập Phật thị nhứt thiết chúng sanh thiện căn tam muội. Từ thị nhứt thiết chúng sanh thiện căn tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết chúng sanh chủng thiện căn nhân duyên tam muội. Từ nhứt thiết chúng sanh chủng thiện căn nhân duyên tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết nhập tam muội. Từ nhứt thiết nhập tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết pháp tịnh hạnh tam muội. Từ nhứt thiết pháp tịnh hạnh tam muội khởi, nhập Phật bất hiện nhứt thiết pháp tam muội. Từ bất hiện nhứt thiết pháp tam muội khởi, nhập Phật chiếu minh trang nghiêm nhứt thiết Bồ Tát tam muội. Từ chiếu minh trang nghiêm nhứt thiết Bồ Tát tam muội khởi, nhập Phật tịnh nhứt thiết Thanh Văn nhãn tam muội. Từ tịnh nhứt thiết Thanh Văn nhãn tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết chúng sanh chủng vô ngại tịnh thiện căn tam muội. Từ nhứt thiết chúng sanh chủng vô ngại tịnh thiện căn tam muội khởi, nhập Phật tức tam ác thú khổ não tam muội. Từ tức tam ác thú khổ não tam muội khởi, nhập Phật nhứt thiết Phật độ trung chúng sanh chủng thiện căn tam muội. Từ nhứt thiết Phật độ trung chúng sanh chủng thiện căn tam muội khởi, nhập Phật bất động biến tam muội. Phật nhập Bất Động Biến tam muội.
Lúc bấy giờ Tịnh Cư chư thiên dùng kệ khen rằng:
Phật nhập định Bất Động
Oai đức cao vòi vọi (như Tu Di)
Phá luận thuyết ngoại đạo
Sáng rỡ khắp đại thiên
Tâm Phật khó nghĩ lường
Nhập vô y chỉ định
nhập định mà vô y.
Ấy Phật bất tư nghì
phá diệt hết lưới nghi
Thuyết pháp tâm từ bi
Hằng an định chẳng nghi
ba minh (2) lìa ba cõi
Đại trí Bồ Tát thảy
đều nhóm trong hội này.
Phật nhập đại định sâu
Mong giải quyết chúng nghi.
Phật định không nương mắt
cũng lại chẳng không nương
không hai, chẳng nhãn tướng
Bậc tịnh thánh đáng khen
Trong định nương mắt hằng
Phật hư dối hẳn chắc.
Biết mắt không sở hữu
Vì thế Phật chẳng nương
không nương cả sáu căn
mà cũng chẳng không nương.
Ngoại đạo lầm lẫn tưởng
thế gian chẳng thể giải.
20-Phẩm Cầu Pháp thứ hai mươi
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn từ tam muội Bất Động Biến an lành đứng dậy bảo Xá Lợi Phất rằng, chư Đại Bồ Tát có bốn pháp hạnh được trí bất thối, vì khéo biết giữ tâm từ bi trí huệ tam muội, cũng là trí vô ngại nên được thập lực của Phật. Đối với các pháp có trí phân biệt được vô ngại biện, vô đoạn biện, tiệp tật biện, nhạo thuyết biện, thâm biện, lợi biện, vô đẳng biện, được pháp tổng trì (3), thường gặp chư Phật, chánh tín xuất gia, phụng hành chánh pháp, đời đời sanh ra tài lợi dư dật, quyến thuộc sum vầy, sắc tướng không thiếu, thân không tật nguyền. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, sáu căn không thiếu; nói năng hoạt bát, trí không mê mờ, không hành tà đạo, chí không điên đảo, niệm không tán loạn. Nhớ tới việc trước tâm biết hổ thẹn, thường khéo suy xét, xa lánh việc ác. Chuyển thân đổi kiếp, không quên chánh niệm, chẳng mất bổn nguyện. Vì chư Phật mà gieo căn lành, vốn không chấp ngã và cái của ta; chỉ vì hết thảy chúng sanh đồng hành, không phân biệt tướng chúng sanh.
Tuy phân biệt pháp mà không nương pháp. Vì không nương pháp nên ma vương, dân ma và tà đạo không phá hoại được. Thẳng tiến Bồ Đề, ngồi tòa đạo tràng, định trong các pháp niệm tịnh ấn tam muội. Dùng nhất niệm hợp với trí tuệ nên biết hết thảy vạn pháp có thể đắc, có thể đoạn, có thể chứng, có thể tu. Hoặc pháp hữu lậu (thế gian) hoặc pháp vô lậu (xuất thế gian) ; hoặc thế gian hay xuất thế, hoặc gần, xa, lớn, nhỏ, dài, ngắn... Hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc tâm sở hành, trí sở hành, tâm suy lường hoặc trí suy lường; tâm duyên hay trí duyên, tâm tưởng hay trí tưởng. Tâm số hay pháp số, do chúng sanh số hay giả danh mà có nên có thật pháp. Các tướng chung hay tướng riêng và mọi pháp do nhân hoặc do sự mà nói pháp. Tại sao thế? Hoặc dùng ngôn ngữ hay sự tướng, hoặc dơ hoặc sạch... tất cả đều là những danh từ qua ngôn từ thế gian. Như gọi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đầu, chân, lông, tóc v.v... mỗi phần của cơ thể đều là danh từ cả. Cũng như các pháp bên ngoài gồm có đất, nước, lửa, gió... mỗi mỗi chỗ có danh từ khác nhau. Như nói mặt trời, mặt trăng, phạm vương, đế thích, chư thiên, dạ xoa... Tùy theo hình tướng mà nói về hình tướng; tùy chỗ phân biệt và thẩm xét, hoặc nhân hay duyên, đạo hoặc hạnh, buộc hay mở, phương tiện hoặc diễn tiến; trí hay huệ hoặc trí phương tiện, và những kỹ thuật thế gian đều là những việc đẹp xấu như thế. Trong hết thảy pháp tư lương tịnh ấn tam muội dùng nhất niệm hợp với trí huệ để đạt đến cứu cánh; trừ diệt phiền não không còn sót thừa. Những gì là bốn pháp? Này Xá Lợi Phất: Đại Bồ Tát phát tâm đại thừa, vì lợi ích tất cả chúng sanh mà phát tâm trang nghiêm rộng lớn. Phải suy nghĩ như thế nầy: tất cả chúng sanh vì tham dục, sân hận, si mê bừng bốc mạnh mẽ mà không có được lấy một hành vi thiện, khi chết rơi vào địa ngục, khó mong cứu thoát ra khỏi. Ta nay vì những chúng sanh này mà tích chứa phương thuốc đại trí huệ cứu chửa lành bịnh, làm cho chúng ra khỏi ba cõi; vì chúng sanh chẳng cần cầu thầy trị liệu nên được pháp tướng không hoại. Không hoại sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến đạo quả Niết Bàn...
Chư Bồ Tát lúc phát tâm, vì muốn cầu pháp nên phát nguyện rộng lớn trang nghiêm như thế. Vì sao gọi là pháp? Pháp có khả năng trợ đạo vô thượng Bồ Đề, ấy là Phật Pháp, đoạn nghi ngờ chúng sanh làm cho chúng hoan hỷ trong kinh tạng Đại Thừa để đọc tụng, thọ trì đúng như kinh điển mà tu hành. Tùy căn cơ lợi độn (ngu muội) của chúng sanh mà nói pháp. Bồ Tát chuyên tâm cầu pháp như thế, cho đến hiểu rõ một bài kệ bốn câu, dùng các phương tiện sâu xa với ý nghĩa cần thiết mà dẫn lời Phật thuyết. Hoặc thọ hay trì (5), đọc tụng, biên chép cho đến đem giảng pháp cho một người, trước hết nên phát nguyện là
muốn cho người này thuận theo giáo pháp, và tất cả chúng sanh cũng đều được hiểu rõ. Bồ Tát dùng nhân duyên thuyết pháp ấy làm trên và trước nhất, được chư Phật tùy hỷ, bậc trí tán dương. Như vậy, những gì là bốn pháp? Bốn pháp ấy là:
1) Đối với Phật Pháp được niệm bất đoạn và quyết định
2) Thân kham chịu làm pháp khí
3) Vì chư Phật hoằng pháp hoá dộ chúng sanh
4) Đạt được các pháp đà la ni (thiền định)
đời đời sanh ra gặp được Phật pháp, không rơi vào chỗ tà kiến.
Ở trong Phật pháp thường ưa xuất gia, xa lìa ngũ dục. Đó là bốn pháp.
Bồ Tát lấy bốn pháp đây làm nhân duyên gieo căn lành nên được 10 pháp. Những gì là mười? Ở trong các pháp trừ các mối hồ nghi, biết được tâm vui thích của chúng sanh nên đạt được giải thoát vô ngại của chư Phật. Do giải thoát nên thân Phật ở mỗi lỗ chân lông thường phát ra trăm nghìn vạn ức vô số hào quang rực rỡ. Mỗi tia sáng chiếu đến trăm nghìn, vạn ức a tăng kỳ cõi. Trong mỗi tia sáng đều có trăm nghìn vạn ức a tăng kỳ vô số những hoa sen báu. Trên mỗi hoa sen báu đều có đức Phật ngồi. Mỗi vị Phật đều nói một pháp độ thoát cho trăm nghìn vạn ức chúng sanh được pháp bất hoại. Như Lai do lực giải thoát này mà nơi mỗi một lỗ chân lông đều tỏa ra ánh sáng và trăm nghìn vạn ức tia chớp sáng như núi Tu Di, cũng như tỏa ra vô số chất nước luân lưu... đều nhờ lực giải thoát vô lậu làm cho cả ba nghìn đại thiên thế giới đều thu gọn trong một lỗ chân lông, bỏ chấp cõi khác.Trãi qua vô số hằng hà sa các quốc độ chúng sanh không còn bị bức hại, cũng như chẳng còn phân biệt có ý tưởng vãng lai nữa.
Này Xá Lợi Phất, nhờ lực gải thoát vô ngại này Phật hiểu rõ ngôn ngữ khác nhau của chúng sanh trong 10 phương, cũng như hiểu rõ tâm niệm của chúng sanh trong trăm nghìn vạn ức a tăng kỳ kiếp; cũng như trừ nghi cho chúng sanh trong vô lượng a tăng kỳ cõi, những nơi không có Phật pháp. Cũng do lực giải thoát vô ngại nên điều phục (7) sự bừng bốc và tâm phân biệt của chúng sanh. Biết tất cả tướng các pháp sai biệt để quyết định chắc rằng hết thảy đều là không; trong đó không có tướng ngã và ngã sở (8) mà xa lìa các tướng hữu vi. Tại sao thế? Vì Như Lai xét trong các pháp hữu vi có những điều sai quấy làm mất hết các công đức lành, nên không một vật gì có thể giữ lại được cả. Do hiểu rõ như thế nên được pháp vô ngại này.
Này Xá Lợi Phất, Như Lai do lực giải thoát nên đạt được bốn pháp. Những gì là bốn? Bốn pháp ấy là:
1) Đoạn diệt phiền não và tập khí (thói quen khó trừ)
2) Lúc Phật đi, nếu có chúng sanh nào sờ đụng chân Ngài thì trong 7 ngày được an lạc
3) Khi Phật xoay mình qua bên phải thì trong ngục sâu tám vạn bốn nghìn do tuần đều chuyển động như bánh xe xoay vòng.
4) Thường vui trong thiền định, tâm không tán loạn.
Này Xá Lợi Phất! Nói tóm tắt Bồ Tát cầu pháp phải dốc tâm trong Phật pháp. Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa này nên nói bài kệ:
Như người cầu Phật trí
muốn tâm đại từ bi
Đạt trí huệ giải thoát
phải tôn kính giáo pháp
Muốn thần thông đạt được
đi lại cõi ba nghìn
biết rõ tâm chúng sanh
phải nên tôn kính pháp.
Như muốn từ một niệm
biết hết tâm mọi loài
là tâm vô hình sắc
hư huyễn không bền chắc.
Do vì tôn kính pháp
thường được quả báo tốt
cũng biết rõ chư Phật
và vô lượng Phật pháp.
Do vì tôn kính pháp
thất niệm (9) thường không mất
Đời đời sanh chốn nào
được tăng thêm chánh niệm.
Do vì tôn kính pháp
sắc thân thường chẳng khuyết
Sanh ra tướng đoan chánh
các căn đủ khỏe mạnh
Và gặp được Phật Thánh
Gặp Phật tâm chánh tín.
Do vì tâm thanh tịnh
Thâm tín (10) cúng dường Phật
Đời đời sanh nơi đâu
niệm tin tăng trưởng sâu
lìa ác ngũ dục xấu
thường ưa hạnh xuất gia.
do niềm tin sâu xa
Chuyên trì các giới hạnh
an trú trong thiền định
Chẳng lấy giới tự khoe
Vui trong các phép thiền
vẫn không cho là đủ
vì cầu chân trí huệ
nên trừ hết các lậu
Ưa thực hành trí huệ
mà chẳng chấp tướng huệ
do hành huệ vô tướng
Phật pháp tìm đúng hướng
được pháp huệ tỏ sáng
Phật ngợi khen tán thán
Bậc pháp khí xứng đáng
Hộ vệ Phật thần thông
Người được Phật gia hộ
và bốn trí vô ngại:
Biện tài vô cùng tận,
Lợi tha mà thuyết pháp
Ba: luôn hộ trì pháp
đầu giữa và sau rốt
thường hay tán dương Phật
Chúng sanh nhuần lợi lạc
được chư thiên hộ sát
long thần thảy kính cung
chư Phật hộ niệm cùng
Mười phương danh vang lừng
tiếng tăm không mất thường
ưa làm các hạnh lành
Các pháp quấy xa lánh
Phật đạo thường tu hành
Làm đèn sáng chánh pháp
Mối nghi ngờ trừ diệt
Tánh trí huệ tịnh thanh
hay trừ não chúng sanh
An trụ trong đạo Thánh
Chẳng nói điều tà ngạnh
Pháp tối thắng tu hành
Đạo vô thượng thậm thâm.
Người ấy chẳng nương tâm
cũng chẳng phải không nương
biết tâm, pháp huyễn tướng
nên không thể dựa nương
Do tâm không nương đây
Phật đạo giữ tu thường
Đại chúng nhóm đủ đầy
mà tâm không chấp trước
Thích giáo hóa các phương
Tránh những nơi ồn náo
không tham danh đắm lợi
xa thân bằng, các mối
không một mảy bợn nhơ
Tâm tịnh như hư không
Bồ Tát ấy ai trông
mà lòng không cung kính.
Nghe pháp như thế ấy
phải nhứt quyết học ngay
đạt được Phật pháp này
Lợi lạc chúng sanh thảy
Nương theo diệu pháp đây
không gặp chướng ngại nào.
Ta nói pháp chánh đạo
cho kẻ trí nghiệm giáo.
Lại này, Xá Lợi Phất, như Đại Bồ Tát vì cầu pháp nên cần học rộng nghe nhiều, nghe nhiều các pháp phương tiện. Thế nào là học rộng nghe nhiều, nghe nhiều phương tiện?
Này Xá Lợi Phất, người đa văn nhờ nghe từ người khác mà được. Còn nghe nhiều phương tiện là tự mình chuyên tâm chánh niệm, nghe từ người khác, nghe chư Phật nói pháp, lời lẽ hợp đạo lý nên gọi là Tu Đa La, Kỳ Dạ, Xà Già La Na, Già Đà, Ưu Đà Na, Ni Đà Na, A Ba Đà Na, Y Đế Vị Đa Già, Xà Đa Già, Quảng Kinh, kinh Vị Tằng Hữu, Ưu Bà Đề Xá... đều gọi là nghe lời nói từ xa thuận hợp với đạo. Thế nào là tư lương chuyên tâm chánh niệm đối với các pháp phương tiện? Biết rõ năm ấm, mười hai nhập (11), mười tám giới (12), mười hai nhân duyên (13) ; từ duyên sanh pháp là đúng, sai, tốt, xấu, phân biệt, chọn lựa đều nhập pháp tánh, pháp tướng, pháp vị đều thông suốt như thế gọi là chánh niệm. Tại sao thế? Này Xá Lợi Phất ! Vì Như Lai phương tiện nói năm ấm chẳng phải năm ấm, nói 12 nhập, 18 giới mà chẳng phải nhập giới, nói 12 nhân duyên mà chẳng phải nhân duyên. Nói các pháp do duyên sanh nên không có định tướng; vì muốn độ chúng sanh mà nói như thế. Vì thế các Thầy nên theo nghĩa chớ y theo lời (14) . Người phàm phần nhiều không đủ trí nên theo lời; kẻ trí theo nghĩa chớ không theo lời.
Này Xá Lợi Phất, thế nào là ngôn thuyết? Sở dĩ có ngôn ngữ, văn tự khác nhau, do tướng tìm cầu, nhận biết, phân biệt, thấy, suy đoán, chứng minh, tu tập, có tướng, không tướng, theo tâm hay tâm số; có chỗ nghi lầm, có đây, có kia... Phân biệt bày tỏ các pháp như thế đều là ngôn thuyết. Này Xá Lợi Phất, thế nào là cái nghĩa phải nói ra để chỉ rõ mới gọi là nghĩa? Nếu chỉ phân biệt nghĩa gọi đó là ngôn thuyết. Vì thế, này Xá Lợi Phất ! Ông nên biết cái nghĩa không phải là ngôn thuyết. Do cái nghĩa đây, trong kinh ta nói Như Lai không giống người đời nói việc thế gian. Này Xá Lợi Phất, chỉ có Như Lai dùng phương tiện nói ấm, giới, các nhập, mười hai nhân duyên, từ duyên sanh pháp, ngoài ra không còn gì khác. Này Xá Lợi Phất, Phật thuyết pháp và chọn các pháp không tranh cãi. Sao gọi là pháp? Thế nào là chọn pháp? Này Xá Lợi Phất, mắt là pháp, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là pháp. Tại sao thế? Vì mắt ở quá khứ, vị lai còn chưa có, huống gì là hiện tại ư !. Tại sao thế? Vì tánh của mắt tự nó đã là pháp; tai, mũi, lưỡi, thân, ý, quá khứ, vị lai đều không, huống gì là hiện tại. Tại sao thế? Vì tánh của ý tự nó đã là pháp. Còn tuyển trạch là sao? Là chọn lựa như chọn mắt, vì mắt do duyên sanh không, không tướng nhất định. Nếu có định tướng mắt phải là mắt. Nếu mắt chính là mắt thì cả hai mắt như vậy có thể thấy được cả bên trong. Vì có sự sai lầm như thế nên tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều như vậy cả. Thế thì chọn lựa gọi là pháp nhãn. Trong nghĩa này, bậc chánh kiến đại sĩ nên quán sát mắt là từ giả danh. Nhãn, pháp và pháp nhãn trong ba thứ, cái nào là thật? Nên biết rằng, cả ba đều không, vì đều do ngôn thuyết, không một cái nào thật cả. Tại sao thế? Có ngôn thuyết, tức còn theo chỗ hiểu biết. Cái biết ấy hoàn toàn là pháp thế gian. Pháp thế gian không phải xuất thế gian mà hễ không phải xuất thế gian là nghĩa của ngoại đạo. Nếu nghĩa của ngoại đạo không phải của Phật thuyết. Tại sao? Vì Phật nói pháp xuất thế gian. Pháp xuất thế gian không phải là ngôn thuyết. Lời nói làm ngăn cách đạo, tâm hành, cảnh diệt. Vì thế, Phật tuy ngôn thuyết mà không chấp vào ngôn thuyết. Nghiệp thiện hay bất thiện đều do nhân duyên sanh. Tại sao thế? Vì mắt phân biệt vậy. Phân biệt là thế nào? Là từ mười hai nhân duyên phân ra thành tam hữu (15) .
Này Xá Lợi Phất, sao gọi là có phân biệt? Vì tự nghĩ rằng ta phải được con mắt như thế. Mỗi mỗi cái phân biệt, ưa thích là kết quả của mắt tiếp xúc với trần cảnh. Nếu mắt là mắt thật của ta thì ta làm chủ, nên gọi là có phân biệt. Hễ có tiêu diệt lại có phát sanh mạnh mẽ. Tất cả mọi khổ não đều vì TA và Cái của ta. Vì bị mắc kẹt hai bên nên gọi là có phân biệt. Này Xá Lợi Phất, cũng như chất đồng chạm nhau phát ra thành tiếng. Ông cho tiếng ấy đến từ bên ngoài hay phát xuất từ bên trong? Đáp: thưa Thế Tôn, tiếng do các duyên mà có, chẳng phải ở trong mà cũng chẳng phải ở ngoài.
Phật hỏi Xá Lợi Phất: ông đã thấu đạt được các duyên của pháp này chưa? Đáp: chưa đạt được. Phật bảo rằng, âm thanh vốn vô sở hữu, chỉ mượn các duyên lừa dối nhỉ căn thôi. Kẻ phàm phu con mắt thấy không thế nên sanh ra tham chấp. Trong con mắt, cái tướng của mắt hoàn toàn không có. Xét kỹ đến cùng như vậy không còn tham chấp, mới gọi là tuyển trạch. Sở dĩ nói vô nhãn, cũng như không có tướng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều như thế cả.
Lúc ấy đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa này nên nói bài kệ:
Nói rằng mắt vô thường
tức mắt vô sở hữu
Vì mắt vô sở hữu
Ai làm mắt vô thường.
Nói rằng tai vô thường
tức tai vô sở hữu
Vì tai vô sở hữu
Ai làm tai vô thường.
Nói rằng mũi vô thường
tức mũi vô sở hữu
vì mũi vô sở hữu
Ai làm mũi vô thường.
Nói rằng lưỡi vô thường
tức lưỡi vô sở hữu
vì lưỡi vô sở hữu
Ai làm lưỡi vô thường.
Nói rằng thân vô thường
tức thân vô sở hữu
vì thân vô sở hữu
Ai làm thân vô thường.
Nói rằng ý vô thường
tức ý vô sở hữu
Vì ý vô sở hữu
Ai làm ý vô thường.
Do theo mười hai nhập
nên có mười hai tên.
mười hai ấy tạo nên
mới có mười hai nhập.
Nhân đất, nước, lửa, gió
kết hợp nên con người.
Kẻ phàm theo danh tự
như chó đuổi bình đá.
Nếu người không theo danh
Ngã phân biệt không thành
Biết ngã do giả danh
là người được vắng lặng.
Trong vắng lặng không pháp
mang danh là vắng lặng.
Như thế nói vô thuyết
vô thuyết tức tịch diệt (vắng lặng) .
Vô khứ pháp ấy thiệt.
cũng chẳng phải vô khứ.
Người rõ pháp như thế
tức biết tướng tịch diệt.
Nếu tâm cảnh vắng lặng
dứt các đường ngữ ngôn
vô ngã, vô chúng sanh
ấy tịch diệt là danh
Chẳng phân biệt có, không
thì phân biệt cũng không.
Nếu tâm tưởng Niết Bàn
thì tâm cũng chẳng có
Trong pháp chẳng thấy xa
cũng chẳng thấy gần cả.
Thông đạt được huệ nhãn
nghĩa tịch diệt thấu rõ.
Nếu người nghe pháp đó
cố quán sát đắn đo
nên trừ mọi mối nghi.
Dứt sạch hết ngu si
không lầm cũng chẳng nghi
Thanh lặng chả sợ gì
An trụ thật tướng này
Đối pháp không ngăn ngại
Bồ Tát, Đại Bồ Tát
lưới mê tự trừ dứt
thương xót khắp chúng sanh
Nói pháp dứt nghi tình
Do nghĩa thâm diệu nầy
Pháp thật tướng hiển bày
Trừ mọi hý luận ngay.
Các vị chớ hồ nghi
Ngôn thuyết là tranh tụng
Nhân đọa vào ác thú
người tham chấp như thế
Nói chánh pháp không thể
Theo danh nghĩa như thế
thì không còn buồn lo
gần đạo vô thượng thừa
Nên thực hành nghĩa ấy.
Lại nữa, này Xá Lợi Phất, Đại Bồ Tát trong bốn việc này phải cần hành tinh tấn. Những gì là bốn?
1/ Vì xuất gia nên cần tinh tấn
2/ Ở nơi xa vắng nên cần hành tinh tấn
3/ Trong Phật giáo cần hành tinh tấn
4/ Thấy chúng sanh khổ cần hành tinh tấn, như thế là đạt được đạo vô thượng Bồ Đề.
Nên suy nghĩ thế này: khi nào ta được tỏ ngộ, diệt khổ chúng sanh nên phải thuyết pháp. Này Xá Lợi Phât, ta đang vì ông mà nói Bồ Tát phải cần hành tinh tấn, mới chóng đạt thành vô thượng Bồ Đề. Ông phải nghe cho kỹ, này Xá Lợi Phất, lui về quá khứ vô lượng vô biên số kiếp khó thể nghĩ bàn, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là An Vương thọ bảy vạn tuổi, vì chúng Thanh Văn mở ba hội nói pháp. Hội ban đầu có hai mươi ức người chứng quả A La Hán, hội thứ hai có 40 ức người chứng A La Hán và hội thứ ba có 60 ức người được chứng quả A La Hán. Lúc bấy giờ cõi Diêm Phù Đề rộng đến chín vạn do tuần; trong đó có 8 vạn 4 nghìn thành lớn. Mỗi một thành dài đến 12 do tuần, rộng 7 do tuần đều do kim ngân, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mã não, bảy báu hợp thành. Những thành ấy trang nghiêm, thanh tịnh bậc nhất. Nhân dân trong thành sung túc giàu vui an ổn. Những thành kia có bảy lớp hào bao bọc xung quanh đều toàn bằng bảy báu. Trong mỗi một hào đều có nước chảy bao quanh với những hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, đủ loại la liệt trên mặt nước; và nhiều loại chi thú lạ như diều, nhạn, uyên ương, hồng, hạc, khổng tước, đười ươi đùa giỡn trong đó. Trên bờ hào đều có bảy lớp báu, bảy lớp hàng cây như cây vàng, cành bạc, nhánh mã não, lá lưu ly. Pha lê là hoa thì mã não là quả, rễ trân châu. Cây bạc, cành vàng, nhánh pha lê, lá lưu ly, hoa xa cừ, quả mã não, rễ bằng trân châu. Cây bằng lưu ly thì san hô là cành, xa cừ là nhánh, lá mã não, hoa bạc, quả vàng, rễ pha lê. Cây bằng xa cừ thì mã não là cành, nhánh san hô, lá bạc, hoa vàng, quả pha lê, gốc lưu ly. Cây bằng mã não thì san hô là cành, nhánh bạc, lá vàng, hoa pha lê, quả lưu ly, rễ xa cừ. Cây bằng san hô thì cành vàng, nhánh bạc, lá pha lê, hoa lưu ly, quả xa cừ, rễ mã não. Tại mỗi thành đều có tám vạn hoa viên, ngang rộng đến hai mươi do tuần, tường vách bằng thất bảo bảy lớp vây quanh. Mỗi hoa viên đều có bảy báu, bảy từng lầu các, bảy lớp mành che, bảy lớp lưới giăng che phủ bên trên. Hào báu có bảy lớp thành trang nghiêm như thế và, trong những hoa viên có nhiều cây quí như chiên đàn, trầm thủy, ca la na... cũng có những loại cây tỏa mùi thơm, cây trổi âm nhạc và nhiều loại cây có hoa, cây ăn quả, những cây làm đồ dùng, cây dùng làm thuốc. Trong số những loại cây ấy cũng có những cây vàng, cây bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô. Có đủ loại hoa như a đề mục đa, hoa chiêm bặc, bà lợi sư hoa, hoa đà già lê, hoa văn đà la, hòa lợi hoa, đa lợi la hoa, hoa cù đa la lợi, hoa mạn đà la, hoa ngũ sắc, hoa nguyệt thượng... có nhiều loại hoa như thế. Trong vườn có bảy trăm ao lớn ngang rộng năm dặm, có nước tám công đức (16) đầy cả trong ao. Đáy ao trãi toàn bằng cát vàng và trang hoàng bằng bảy báu trang nghiêm, có bốn thang báu, lưới báu che phủ. Có những hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng đủ loại trãi trên mặt nước. Lúc bấy giờ vua cõi Diêm Phù Đề là Kiền Đức có xây cung điện trong tám vạn bốn nghìn thành lớn ấy. Mỗi cung điện có tám vạn bốn nghìn dâm nữ được chọn làm quyến thuộc. Trong những thành ấy có một thành lớn rộng đến 40 do tuần, dài 80 do tuần. Vua Kiền Đức ở trong thành lớn ấy. Thành đều dùng toàn đồ bảy báu trang hoàng cực kỳ lộng lẫy như trên. Nhân dân ở đó được giàu vui an ổn, sung túc. Trong đại thành ấy cung vua chu vi rộng 10 do tuần đều toàn bằng thất bảo đẹp đẽ. Trong cung vua có những điện đường, lầu quán. Trong đó có một điện lớn gọi là pháp điện trang nghiêm rực rỡ hơn điện Đế Thích. Tại cung nội có một hoa viên đẹp gọi là Thiện Pháp. Trong hoa viên có nhiều loại cây, nhiều thứ hoa, cây tỏa mùi thơm, cây trổi âm nhạc, và những cây anh lạc; các thứ cây làm quần áo, cây làm thuốc... đều bằng thất bảo, những cây ấy trang trí hoa viên.
Cung vua trang trọng nghiêm chỉnh rộng rãi, cao sang và có một đài lớn đều bằng thất bảo; bảy báu trải rộng giăng ra phủ kín cung nội.
Này Xá Lợi Phất, vua Kiền Đức có bà vợ thứ nhất sanh được thái tử mà trước đó đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nên được mọi người rất yêu kính vô cùng. Thái tử có oai tướng, phước đức đầy đủ. Nhà vua giao cho thái tử thành lớn ấy và buộc phải ở trong thành. Ngày sinh thái tử trong thành có 40 ức người nữ cùng sanh một lượt. Nhà vua liền ban sắc lệnh cấp họ cho thái tử làm gia quyến. Vua và phu nhân nhóm họp các đại thần lại, đặt cho con tên là Diệu Đức. Khi sanh thái tử, chư thiên mừng vui trổi các thứ nhạc khúc, mưa hoa mạn đà la, phát ra tiếng nói rằng, thái tử Diệu Đức nay sanh ra đời, thái tử ra đời nên gọi là Diệu Đức. Dần dần thái tử lớn lên cùng bọn dâm nữ quyến thuộc ấy vây quanh vào vườn thưởng ngoạn, cỡi thuyền chiên đàn vui chơi ngũ dục. Lúc đó dưới nước, đức Phật hiện ra thân tướng trang nghiêm chưa từng có, sáng sạch chói ngời như ánh hồng sáng chói qua năm tháng; như thoi vàng ròng, như núi lửa vàng, như trụ báu tốt. Phật có đủ 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp, nơi thân tỏa ra trăm nghìn vạn ức ánh sáng rực rỡ, chung quanh có chúng đệ tử theo nghe pháp. Thái tử được trông thấy xong, liền tự suy nghĩ: người này đoan chánh, tướng mạo đĩnh đạc, thì tại sao ta không được như thân tướng ấy? Lúc thái tử đang nghĩ ngợi như thế Phật liền biến mất. Vì không còn thấy Phật nữa, thái tử sanh lo buồn. Từ đó, thái tử không vui đùa với bọn dâm nữ nữa, không gần gũi nữ sắc nữa. Thái tử từ thuyền bước xuống, lên lầu thất bảo ngồi kiết già (17), tự nghĩ rằng: lúc nào ta mới được thân tướng như Phật? Lúc đó bọn dâm nữ muốn đến vui đùa, thái tử ngoảnh lại trông thấy liền phát nhàm chán, đóng cửa không tiếp. Thái tử nghỉ thế này: chúng sanh càng nhiều tham dục thì khổ não cũng nhiều. Ta mong muốn được thân tướng tốt đẹp và được đại trí huệ. Ta cùng bọn tham dục, bệnh phiền chúng sanh có gì khác biệt? Ta là hành nhơn, còn họ chẳng phải hành giả. Chúng sanh sân hận bừng bốc nên khổ não càng nhiều. Ta mong muốn được thân tướng trang nghiêm, trí huệ tột cùng. Ta cùng bọn chúng sanh sân hận, ưu phiền này có gì sai khác? Ta là hành nhơn, còn kia chẳng phải là hành giả, ta nên tự điều phục trong chúng sanh không còn giận phiền nữa. Chúng sanh phần nhiều ngu si quá đổi nên càng lắm khổ não. Ta mong muốn được thân tướng cực đẹp, có trí huệ sáng suốt. Nếu ta cũng giống bọn ngu si phiền muộn chúng sanh thì có gì khác biệt?. Ta là hành nhơn, còn kia đâu phải là hành giả. Chúng sanh bị keo kiệt, ganh ghét buộc chặt nên càng nhiều khổ não. Nếu chúng ta cũng đồng như những chúng sanh keo kiệt, ganh ghét có gì là khác biệt? Ta phải diệt tham dục, sân si, ở trong chúng sanh khởi tâm đại từ bi, vì muốn cầu chánh đạo. Nhờ chánh đạo mà xa lìa hết thảy tham lam, sân giận, si mê, keo kiệt, ganh ghét, và những tâm niệm bất thiện. Đã có tâm xa lìa như thế, nên ưa các phép nhiệm mầu chẳng còn thích du hí nữa mà muốn ngồi tư duy một mình để xa lánh những nơi ồn náo.
Lúc đó vua Kiền Đức và phu nhân nghe thái tử không còn ham du hí nữa, xa lánh ngũ dục và thấy bọn dâm nữ bị ngăn cấm không được vào. Hai người bèn suy nghỉ: ai làm phiền muộn thái tử khiến chẳng vui trong ngũ dục, không thích nô đùa, lại xa lánh nữ sắc? Chúng ta nên đến hỏi thái tử xem. Nghĩ thế rồi, vua và phu nhân liền đến chỗ thái tử dùng kệ nói rằng:
Con ở nơi thanh tịnh
cung nữ được đầy đủ
Cây báu, vườn lộng lẫy
sao con lại kém vui?
Ở trong đại thành này
pháp điện cao sang thay
bao giáp khắp bốn bên
Sao con lại kém vui?
Người nào gây nên sự
để phiền muộn tâm con?
Con ngồi rầu vóc mòn
như khách buôn mất của.
Ta là cha mẹ hỏi
con phải thật tình nói.
Ai giải tỏa thắc mắc
ta mới được an tâm.
Lúc đó thái tử dùng kệ đáp rằng:
Không ai gây ra cả
Sao phải nói dối trá
chớ vu họa cho người
mà phải trị tâm mình.
Trên nước con vui đùa
thấy Phật tướng tuyệt vời
như lõi vàng Diêm Phù
rực rỡ khắp mười phương
chói sáng tày nhật nguyệt.
Đèn chiếu và sao rọi
Phật quang làm mất dạng.
Con thấy tướng như vậy,
nên mong muốn đạt được
thân, trí huệ như Phật.
để độ già, bịnh, chết
mê, não, khổ chúng sanh
được thân tướng trang nghiêm
trí huệ khó nghĩ bàn.
Rộng lợi lạc hữu tình
khiến lìa cõi tử sanh.
Con dứt các dục tính
dâm nữ bọn gia quyến
Nay xuất gia hành thiện.
quyết làm Phật tu tiến
Mặc pháp phục đoan chánh
chuyên tu tập pháp lành.
Cha mẹ nên chí thành
xuất gia tu đạo hạnh.
phải tu tập pháp chánh
Bất an ngũ dục lánh
ái dục hại pháp lành
buộc lao ngục thọ sanh
không có phương cởi mở.
Con quyết tâm xa hẳn
thực hành hạnh thanh vắng
được huệ Phật tối thắng
Trong Phật pháp xuất gia
Nếu ai làm cản đà
Kẻ ấy chẳng lợi tha
Con thương họ làm sao !
Nhà, con, của ích nào
giàu sang ấy vô thường.
Những ai mãi ấp ôm
chẳng lâu thảy tiêu tan.
Xuất gia nhân hạnh tròn
Thiện pháp hiện phát sanh
Vào ra chốn tử sanh
Đời đời chịu khổ não
như thế tiếp nối mãi
không định rõ con ai.
Đối pháp không chánh quán
chấp gỉa danh như thế.
Chớ giữ con sanh tệ
Cùng xuất gia một thể.
Ta xa lìa nạn dữ
được thân người đầy đủ
thiện pháp đã tin sâu
nên gặp Phật An Vương
Nay mới xuất gia được.
Thái tử Diệu Đức nói bài kệ xong, liền đích thân đến chỗ Phật An Vương đầu mặt lạy sát chân Phật, chấp tay hướng về Phật mà nói bài kệ rằng:
Con sanh trong lưới ma
đầy dẫy các hạnh tà.
Nay muốn chừa bỏ cả
Nguyện theo Phật xuất gia.
Tình con, cha buộc chặc
trong bao mối ràng rịt.
Đây không thật bền vui
chỉ gốc của khổ thôi.
Con muốn mở trói ra
Bẻ dẹp các lưới ma
Nương Phật phát xuất gia.
Thành Túc Tôn Phật Đà.
Con kinh sợ dục lạc
Vì dục lạc bất an
Mong vì pháp dứt si
Hành đạo nên xã ly.
Này Xá Lợi Phất, lúc Phật An Vương nghe thái tử Diệu Đức xuất gia thọ giới, liền có 8 vạn 4 nghìn quyến thuộc cùng bọn dâm nữ cũng theo xuất gia. Lại còn hàng trăm ức chúng thiện tri thức khác cũng xuất gia theo. Nhà vua nghe thái tử xuất gia học đạo liền phái tứ binh cùng các đại thần đích thân đến đảnh lễ Phật An Vương, rồi chấp tay đứng một bên hướng về đức Phật mà nói kệ rằng:
Xuất gia không phiền não
Vắng lặng vui an hão
Dục lạc gốc đọa sa
Nguyện theo Phật xuất gia.
Xa vợ con, sơn hà
cùng thân bằng quyến thuộc.
Thọ dục lạc không nhàm
dơ uế thói thường phàm
kẻ thiển trí đắm tham
vui say trong ngũ dục.
Xưng tán tu pháp Phật
mọi khổ đau diệt sạch
bỏ tài sản, quốc thành
cúng Phật và chúng tăng
Mong Phật cho xuất gia
thành Phật khắp được tôn.
Vì lợi ích chúng sanh
độ hết thảy khổ ách.
Muốn xa lìa chướng hoạnh
hoạn nạn được vắng lặng.
Phật hoan hỷ tán dương
lành thay phát đại tâm !
Tôn kính Phật trí thâm
hay thay chí xuất gia !
Nghe xong vua ưng thuận
sanh tâm đại vui mừng
Lưỡng Túc Tôn (18) chắc thành
Ngưỡng Phật an ủi lành.
Vua quyết xuất gia liền
cùng với bốn chúng binh
Tâm Bồ Đề phát sanh
Đạo vô thượng chứng thành
Chúng đã xuất gia xong
chứng được pháp vô sanh.
trọn đời tu tập hạnh
thiên thượng được tái sanh
Gặp bậc đại danh văn
hai mươi ức đức Phật
đều nương nơi Phật pháp
Xuất gia hành chánh đạo
thường tu hạnh tinh tấn
được trí không sợ sệt
làm lợi lạc chúng sanh
thoát qua vô lượng khổ.
May gặp Phật như thế
thọ trì chánh pháp dễ
đem truyền bá rộng sâu
không hề tiếc tự thân
Được quả tốt thập phần
nhờ trí huệ tối thượng
Chứng pháp bất tư nghì
Ai chẳng cầu Phật đạo.
Phật bảo Xá Lợi Phất rằng, vua Kiền Đức lúc đó không ai khác hơn là chính thân ta đây vậy. Còn thái tử Diệu Đức chính là Kiên Ý đại Bồ Tát. Như thế, này Xá Lợi Phất, Đại Bồ Tát do pháp an lạc mà thấy chúng sanh bị phiền não khổ đau bức bách, khởi tâm đại từ bi giáo hóa làm cho chúng nương theo thiện pháp, do nhân duyên đó dần dần được giải thoát. Lại nữa, Xá Lợi Phất, chư Đại Bồ Tát ưa pháp nhiệm mầu nên cầu pháp vi diệu; rồi vì chúng sanh mà nói pháp nhiệm mầu ấy. Pháp nhiệm mầu là gì? Là những pháp mà người tinh tấn thường thực hành. Những người tinh tấn ấy chính là chúng Đại Bồ Tát -những người cầu đạo bất thối chuyển - là những vị thông đạt các pháp. Thông đạt các pháp là thế nào? Như người chấp tướng của mắt, tức là theo cái giả danh, chẳng phải kẻ thông đạt tướng các tướng. Cái danh chẳng phải ở trong, chẳng ở ngoài; chẳng phải ta hay cái của ta, chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng sanh, chẳng diệt. Tại sao thế? Vì tánh của nó thường hằng như vậy. Tánh pháp ấy không tạo tác, cũng chẳng phải có tạo tác. Ấy là mắt thông đạt các pháp mầu nhiệm. Người tìm cầu tướng của tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tức theo cái giả danh chẳng phải kẻ thông đạt các pháp. Cái danh thì chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ta hay cái của ta; chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng sanh, chẳng diệt. Tại sao thế? Vì tánh nó là như vậy. Tánh pháp không tạo tác, cũng chẳng phải có tạo tác. Ấy là ý thông đạt các pháp mầu nhiệm.
Này Xá Lợi Phất, người đạt pháp mầu nhiệm, tức thấu hiểu thật tướng các pháp. Như chấp giữ pháp ‘Không’ là người vọng chấp; còn như chấp không tướng tức là có tướng; không mong cũng là mong rồi vậy. Này Xá Lợi Phất, tánh của pháp bản lai vốn không tăng không giảm. Như thế mới gọi là thông đạt các pháp; cho nên chư Đại Bồ Tát là kẻ tinh tấn vậy. Này Xá Lợi Phất! Lấy nghĩa gì mà cho rằng Bồ Tát thật thấu suốt biết rõ không có chúng sanh pháp, nên gọi là Bồ Tát? Ấy là những người thực hành trí huệ làm đầu nên gọi là Bồ Tát. Các vị còn làm cho chúng sanh biết pháp thực hành đều là vô sở hữu nên gọi là Bồ Tát. Lại này Xá Lợi Phất, cái nghĩa của vô sở hữu là nghĩa Bồ Tát, vô sở nguyện cũng chính là nghĩa Bồ Tát, cho nên cái nghĩa ‘Bồ Tát’ không hai, không chướng ngại. Này Xá Lợi Phất, không lỗi, không mất là Bồ Tát. Xá Lợi Phất này, pháp Không chính là Bồ Đề. Không là gì? Tất cả các pháp đều KHÔNG nên gọi là không. Xá Lợi Phất, nếu trong các pháp mà còn thấy cho đến có một vật nhỏ nhiệm nào, là còn chấp tướng, chấp ngã, nhơn, tướng chúng sanh, tướng các pháp... Trong các pháp KHÔNG thì không có các tướng ấy, nên gọi là không. KHÔNG tức là Bồ Đề. Do nghĩa này nên tất cả các pháp đều gọi là Bồ Đề. Này Xá Lợi Phất! Ông nên theo lời Như Lai dạy, chớ nên đi ngược lại. Tại sao thế? Vì giáo pháp chư Phật là mầu nhiệm bậc nhất mà hết thảy người phàm phu không thể sánh kịp. Này Xá Lợi Phất! Vã lại, còn ở địa vị phàm phu các bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, người ta không thể thấy, cũng không quán sát, cũng như không thể đạt được. Các pháp chư Phật tuy tận dụng tri kiến cũng không thể quán xét hết được. Lấy gì cho rằng pháp hết trí hiểu biết hết? Không có một pháp nào hết cả. Như lìa các pháp đi vào chỗ rốt ráo tận cùng nên nói là trí hết, thật ra không biết được mỗi niệm có sự diệt tận như vậy. Vì chưa diệt tận như thế nên nói Thanh Văn, Bích Chi Phật, người thường không thể thông đạt được Phật pháp.
Này Xá Lợi Phất, trí vô sanh ấy trong các pháp còn không sanh một mảy may. Biết được như thế gọi là trí vô sanh. Bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, người thường không thể biết được, thế nên Phật trí khó nghĩ bàn, không ai sánh kịp. Lại nữa, trí ấy không có tà chánh nên bình đẳng. Này Xá Lợi Phất, trí tuệ Như Lai là trí chánh giác thấu suốt không sai lầm, nên gọi là Phật huệ, là trí tuệ của Phật. Trong vô biên a tăng kỳ kiếp phải tìm cầu mới được trí huệ ấy, nên gọi là Giác. Này Xá Lợi Phất, vì sao Như Lai gọi là bậc Giác? Vì tất cả chúng sanh ngủ say trong sanh tử nên bị lỗi lầm hay có mất đi cũng không hay biết. Chỉ có Bồ Tát duy nhất giác ngộ nên gọi là người tỉnh thức. Lại này Xá Lợi Phất ! Biết thấu rõ vạn pháp nên gọi là bậc giác. Chánh giác là gì? Là biết tất cả pháp, phi pháp, chẳng phải phi pháp, không dơ, không sạch, chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai; tùy theo tướng pháp mà biết nên gọi là giác. Cũng như biết được không pháp nào sanh hay diệt, đến hoặc đi nên gọi là bậc giác. Này Xá Lợi Phất ! Cái nghĩa "Giác" ấy dò tìm trong vô lượng vô biên bất khả tư nghì cũng khó cùng tận. Ví như nước biển chỉ có một vị không tăng không giảm, nhận các dòng nước mà vẫn không tràn, dần dần chuyển vào chỗ sâu thật sâu cho đến cùng. Này Xá Lợi Phất ! Biển trí Như Lai cũng thế, không, vô sanh diệt, chỉ một vị giải thoát, tùy theo thứ lớp thuyết pháp dần dần thành sâu mầu. Được tất cả trí gọi là thâm sâu bậc nhất, rốt ráo thông đạt vô thượng Bồ Đề. Đối với các pháp không sai lầm nên không tăng giảm. Mọi điều nghi vấn không cùng tận nên gọi là không giảm. Có thể chứa các công đức lành như tiếp nhận mọi dòng hải lưu. Này Xá Lợi Phất ! Như ta nói hết nghĩa "Như Lai", ai có thể kham nhận nổi ! Như vua rồng Ta Già La muốn làm mưa to chỉ dồn nước vào biển may ra chứa hết. Như Lai cũng thế, hoặc khai mở hết trí tuệ Phật; tất cả chúng sanh, đến Thanh Văn và Bích Chi Phật đều không thể kham nhận nổi. Chỉ có chư Đại Bồ Tát phát tâm Đại Thừa, nhờ thần lực của Phật gia hộ mới thọ trì được. Này Xá Lợi Phất, ở đời có bốn việc rất khó đạt được. Những gì là bốn?
1/ Được thân người là khó
2/ Sanh nhằm giữa quốc độ (chỗ có ánh sáng văn minh) là khó
3/ Tin Phật pháp là điều khó
4/ Đã tin giáo pháp, hiểu và đem ứng dụng thật là điều khó.
Bốn việc khó này các Thầy đều đã được, nên hỏi Phật điểm nghi trong giáo pháp. Ta đang lắng nghe các vị. Tất cả thế gian, trời, người... hãy suy nghĩ kỹ chỗ nghi đi. Như Lai chẳng bao lâu nữa phải nhập Niết Bàn, không để về sau ăn năn. Khi đó Xá Lợi Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai bên hữu quỳ gối sát đất, chấp tay hướng về Phật mà bạch rằng, bạch Thế Tôn: con muốn thưa hỏi, mong Phật thuận nghe. Phật bảo: Ta đã nghe, ông cứ tùy tiện hỏi, Ta vì các Thầy giải đáp chỗ nghi vấn. Xá Lợi Phất thưa: ngưỡng mong Thế Tôn nói. Con vì bậc thượng hạnh Bồ Tát dám hỏi Như Lai, liền nói bài kệ:
An trú công đức lành
Tu tịnh hạnh cao vời
Ưa hạnh nhẫn, nhu hòa
Nay hỏi các hạnh ấy:
Bồ Tát thì thế nào?
thí, tâm tư hoan hỷ?
Thế nào phát thiện tâm
làm lợi lạc chúng sanh?
Thế nào giữ tịnh giới?
Nhẫn nhục, tâm nhu hòa?
Còn thực hành tinh tấn;
bất thối chẳng nghỉ ngơi?
Thấy chúng sanh khổ não
làm sao thương cứu hộ?
Thâm tâm muốn giác ngộ
mong Thế Tôn giải rõ.
Làm sao vô lượng kiếp
trang nghiêm Bồ Đề đạo
tâm trọn chẳng lãng xao
mà sanh lòng hoan hỷ?
Thế nào tu thiền định,
và liễu ngộ trí huệ?
Phải cầu pháp thế nào
để thành người đa văn?
Những pháp gì nên nghe?
Và pháp gì cần dạy?
Phát tâm hạnh Bồ Đề.
Con xin hỏi việc này:
cầu chánh pháp thế nào
đang vui say dục lạc?
Phải làm sao ly dục
để vượt thoát xuất gia?
Lúc đã được lìa nhà
tâm làm sao hoan hỷ?
Được xuất gia hoàn mỹ
công đức thế nào cao?
Muốn khởi tâm hồi hướng
phải phương tiện thế nào?
Đời đời kiếp làm sao
không cho mất chánh niệm?
Lúc thọ trong thai bào
tâm Bồ Đề tập sao
cho được thấy chư Phật
không gặp chướng nạn nào?
Bớt tham dục làm sao
từ tâm, ít giận hão
Bớt ngu si làm sao
cho tâm đừng sai quấy?
Sanh nhằm dòng vua chúa
khéo trị quốc thế nào;
để xa lìa chướng nạn
được sanh chỗ vui an?
Làm sao lo việc nước
mà tâm vẫn hỷ hoan?
Niệm tưởng đến Như Lai
hằng mong được thấy Phật?
Làm sao đủ sắc thân
đoan nghiêm tột bậc nhất?
Cùng bà con quyến thuộc
đều phát tâm Bồ Đề.
Phải sanh nơi chốn nào
để xa lìa thân tộc;
ưa tập hạnh xuất gia
không nhiễm tâm tham trước?
Làm sao xuất gia được
chuyên thọ trì giới luật.
Sau khi Phật diệt độ
chánh pháp cần bảo hộ?
Làm sao trong đời loạn
vẫn giữ tâm thanh tịnh?
Thấy chúng sanh đa bịnh
mà đem lòng ủi an?
Làm sao nghe hành trì
chứng nhập đà la ni.
Dùng biện tài vô ngại
mà thuyết pháp vô thượng?
Làm sao biết chúng sanh
mỗi mỗi tâm sai khác?
Và ở trong thiện pháp
điều phục tâm thế nào?
Vì chư vị Bồ Tát
con hỏi đấng Nhị Túc (Tôn)
về các hạnh Bồ Tát
mong Phật phân biệt thuyết.
Như người vì Phật pháp
mà phát tâm Bồ Đề
khi nghe Phật giảng thuyết
hoan hỷ đại từ tâm.
Phật đối với các pháp
trí tuệ không chướng ngại.
Con đem trí hữu hạn
thưa hỏi đấng Thế Tôn.
Vì con có vấn nạn
chưa hiểu rõ tường tận
mong Phật diễn nói cho
những người không thể hỏi...
21- Phẩm TÁN THÁN ĐỨC thứ hai mươi mốt
Lúc bấy giờ Phật bảo Xá Lợi Phất: lành thay! lành thay! ông khéo hỏi Phật về cách thực hành Phật đạo sâu xa của chư Đại Bồ Tát, và những việc như tịnh công đức, tâm nhu hòa, nhẫn nhục... Công đức của ông thật vô lượng. Tại sao thế? Vì chư Đại Bồ Tát thường làm những việc khó. Ví như có người muốn đem chúng sanh cõi tam thiên đại thiên dời qua một cõi khác. Việc làm này có khó chăng? Xá Lợi Phất thưa: thật là khó, thưa Thế Tôn. Phật bảo: muốn sánh những việc khó Bồ Tát làm trong trăm phần không thể nào sánh được một; trong trăm nghìn vạn phần cho đến dùng thí dụ cũng không thể sánh kịp.
Này Xá Lợi Phất, như đem cõi ba nghìn đại thiên thế giới có chúng sanh để ở kiếp thiêu thì, ba nghìn cõi ấy chỉ trong một nhoáng lửa cháy. Nếu có người nào dùng cái thổi dập tắt được lửa cháy thì cái thổi ấy, hoặc trong ngục đại thiết vi, các núi Tu Di và nước của đại dương, quốc độ, cung thành, vườn rừng, xóm làng, thôn ấp vẫn còn đầy đủ như thế. Ý ông nghĩ sao? Người kia làm như thế có khó không? Xá Lợi Phất thưa: thật là khó, thưa Thế Tôn. Phật bảo; muốn so sánh việc làm của Bồ Tát lại càng khó hơn, trong trăm phần chưa bằng được một; trăm nghìn vạn phần cho đến dùng thí dụ cũng không sánh kịp. Lại nữa Xá Lợi Phất, ví như có người muốn dùng móng chân phá tan ba nghìn cõi đại thiên, người ấy có được gọi là đại lực không? Đáp rằng, thưa Thế Tôn: người kia đúng là đại lực vậy. Phật bảo: muốn sánh đại lực của Bồ Tát trong trăm phần không bằng được một; trong trăm nghìn vạn phần, cho đến thí dụ cũng không sánh kịp. Lại nữa, này Xá Lợi Phất, ví như trong ba nghìn đại thiên thế giới có cõi địa chủng dừng trên nước, nước dừng trong gió, có một người từ hướng gió nhẹ nhấc bỗng thế giới này lên, muốn kê đầu và vai vào vác, dang hai chân làm thang để đi lên tới cõi Phạm Thiên mà vẫn không rớt xuống. Ý ông nghĩ sao? Người ấy làm như thế có khó không? Xá Lợi Phất nói: người ấy làm phương tiện như thế thật là khéo. Mang theo ba nghìn đại thiên thế giới nương thang chân lên đến cõi Phạm Thiên mà vẫn không rơi xuống, là điều hết sức khó. Này Xá Lợi Phất, nay Như Lai muốn nói với ông lời thật này: muốn so sánh đại lực phương tiện của Bồ Tát trong trăm phần không bằng được một, trong trăm nghìn vạn phần, cho đến thí dụ cũng không thể nào sánh kịp. Tại sao thế? Vì chư Đại Bồ Tát thành tựu được vô lượng thân tâm tinh tấn, phát đại nguyện rộng lớn, khéo phương tiện, mở đại trí huệ nên có nhiều uy đức lớn. Bồ Tát cầu được vô úy, mắt sáng suốt, luôn luôn tỉnh thức, tâm đại từ bi và hạnh bất hư; quán sát như tượng vương, hùng mạnh như sư tử, quán tướng vô kiến đảnh. Bồ Tát cầu đại pháp của chư Phật như thế, cũng mong được hạnh uy nghi cao tột bậc nhất, công đức không gì sánh kịp, nhu hòa không chi so nổi; thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương tiện thông đạt tướng các pháp. Như Lai không thể nào sánh kịp thần lực tự tại qua ba lần chuyển pháp, khéo biết rõ tâm niệm và việc làm của chúng sanh, biết rõ mọi giả danh của chúng sanh, biết hết sự giải thoát, giải thoát tri kiến của chúng sanh. Phật biết rõ chỉ quán (tu thiền định) của chúng sanh, biết rõ tu tập đạo hạnh và chứng quả của chúng sanh; cũng rõ biết chỗ biết chân thật của chúng sanh, biết rõ ngôn ngữ, âm thanh sai biệt của chúng sanh trong mười phương. Phật biết rõ tham trước sâu cạn hay xa lìa tham trước của chúng sanh. Trong các pháp mong được huệ "vô thọ", nguyện hiểu rõ các pháp không, nghiệp báo, trí huệ. Này Xá Lợi Phất, nói tóm lại, chư Đại Bồ Tát sở cầu, sở nguyện, trí huệ, công đức và tùy hạnh nguyện, tùy chỗ thực hành mà đắc quả. Trong các việc ấy không thể dùng thí dụ, không thể nói nhân duyên. Đại nguyện công đức trang nghiêm như thế, chỉ có Phật mới biết rõ. Người nào gần Phật mới có thể hiểu được.
Này Xá Lợi Phất, Thanh Văn do niệm tin mà thâm nhập, chư Bồ Tát cũng do tín tâm mà thấu suốt. Ông đã làm việc đại công đức, nên hỏi Phật những việc như thế. Nay ta vì ông mà nói một ít. Tại sao thế? Như ông hỏi việc của Bồ Tát thì không thể trong một ngày, một tháng, một năm, 100 năm, 1000 năm, trăm nghìn vạn năm hay trong một kiếp, 100 kiếp, 1000 kiếp, trăm nghìn vạn kiếp mà có thể nói hết được. Này Xá Lợi Phất, ông nên biết việc ấy trong vô số bất khả tư nghì kiếp cũng không thể nói hết được.
Này Xá Lợi Phất, Như Lai biết rõ chư Bồ Tát lúc đầu phát tâm còn kém cõi, rồi công đức, quả báo trãi qua trăm nghìn vạn kiếp nói cũng không thể hết được, huống nữa trong một ngày, một tháng, một năm cho đến 100 năm tích chứa công đức, phước báu đâu có thể nói hết được. Tại sao? Vì chư Đại Bồ Tát lúc cầu đại trí đã khởi vô lượng công đức nhân duyên rồi. Xá Lợi Phất, chỗ thực hành của chư Bồ Tát không cùng tận muốn cho tất cả chúng sanh đều trụ trong pháp vô sanh (18) . Này Xá Lợi Phất, việc làm của chư Bồ Tát khó biết được, là cầu pháp nhiệm mầu. Vì chỗ thực hành của Bồ Tát sâu xa không nương tựa các pháp. Chỗ thực hành của Bồ Tát vô cùng không thể sánh được, nên đem trí tuệ Phật vô tận mới so sánh thôi. Chỗ thực hành của Bồ Tát vô cùng tận, không có giới hạn.
Thực hành bố thí như vậy, phương tiện như vậy; vật nào đáng cho, vật nào không nên cho, người nào đáng cho, người nào không đáng cho. Hạnh bố thí của Bồ Tát là xả bỏ tất cả vật chất đem cho chúng sanh. Bồ Tát giữ giới cũng không cùng tận, không kể ngày đêm, năm tháng, cho đến trọn đời mà có thể trong vô lượng a tăng kỳ kiếp. Vì hết thảy chúng sanh trong mười phương và Phật đạo mà tu hành tịnh giới, đó là việc làm của Bồ Tát vậy.
Này Xá Lợi Phất, chư Đại Bồ Tát làm một việc gì xong thường ngồi tọa thiền trụ trong tư lương tịnh ấn tam muội, dùng nhất niệm dung hợp với trí huệ cùng tận để thông đạt tất cả các pháp.
22- Phẩm KINH NGHIỆM HÀNH TRÌ thứ hai mươi hai
Phật bảo Xá Lợi Phất rằng, ông nên đem ba việc nghiệm tâm Bồ Tát. Những gì là ba?
1/ Xã bỏ tất cả sở hữu mà không mong đền đáp, nên biết đấy mới thật là chân tâm Bồ Tát.
2/ Cầu pháp không tham tiếc, thà mất thân mạng chứ không bỏ pháp. Ấy mới gọi là tâm Bồ Tát.
3/ Không đi ngược lại các pháp mầu nhiệm, nhờ lực tín giải (19) nên trong Phật pháp không tâm nghi hoặc. Ấy mới là chân thật Bồ Tát. Đem ba việc đây nghiệm tâm Bồ Tát vậy.
Này Xá Lợi Phất, lại còn ba việc nghiệm tâm Bồ Tát. Những gì là ba? Đó là thường hành tinh tấn, cầu pháp không tâm mỏi mệt, học hỏi kinh tạng Đại Thừa. Đem kinh tạng ấy làm tăng thiện căn chính mình và làm cho chúng sanh tăng trưởng thiện căn; thường theo pháp sư, cung kính cúng dường, trải qua 1000 năm để được nghe một bài kệ bốn câu hợp với thiện căn. Nghe xong thuận theo, không phản không nghịch, không bỏ không lui, theo đuổi pháp sư, đem lòng cung kính, thường tự trách: kiếp trước ta tội chướng nặng nề nên không được nghe pháp, không phải lỗi của pháp sư. Nay ta phải gần gũi theo hầu pháp sư, làm cho tất cả tội chướng, nghiệp báo của ta thảy đều tiêu trừ. Được như thế mới gọi là chân thiện Bồ Tát. Vì thế, ông nên biết rằng, thâm tâm Đại Bồ Tát cầu pháp tiến theo pháp sư, nên thành tựu được Phật pháp.
Này Xá Lợi Phất, nhìn lui về quá khứ trãi qua vô lượng vô số kiếp không thể nghĩ bàn, có một kiếp tên là Diệu Trí, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng thọ mạng nửa kiếp, chúng hội Thanh Văn đông hằng hà sa số, trong mỗi hội có vô số người đầy đủ ba minh (trí sáng) cũng được chứng quả A La Hán. Chúng hội Bồ Tát số đông như Thanh Văn, trong mỗi hội có vô số Bồ Tát được pháp vô sanh nhẫn, ở ngôi bất thối. Còn những người mới phát tâm thì vô số lượng. Lúc Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng sắp nhập Niết Bàn, ở cõi Diêm Phù Đề có hằng trăm ức người, mỗi vị là một đại pháp sư đều nhờ thần lực của Phật gia hộ. Sau khi đức Phật diệt độ, giáo pháp tồn tại đến tám trăm nghìn vạn ức na do tha năm. Lúc bấy giờ ở cõi Diêm Phù Đề có một vị pháp sư tên là Thanh Minh, nhờ thần lực của Phật gia hộ pháp sư, tùy pháp tồn tại mà ủng hộ giáo pháp; tu hạnh Bồ Tát được vô sanh nhẫn, ở ngôi bất thối. Sau khi đức Phật tịch diệt tám vạn năm, Thanh Minh pháp sư du hành các nước từ nơi này sang nơi khác, tại mỗi nơi đều diễn thuyết Phật pháp của Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng trong vô lượng vô số a tăng kỳ kiếp. Này Xá Lợi Phất, lúc đó biên cảnh cõi Diêm Phù Đề có một thành gọi là Kiên Lao. Trong thành ấy có một cư sĩ tên là Kiên Chúng. Cư sĩ từ nhỏ đến lớn chủ trị các thành, khởi tâm như vầy: ta phải làm sao có được trí huệ; đem trí huệ ấy làm cho chúng sanh tu hành đạo pháp, xa lánh trần tục. Nghĩ như thế rồi, liền có vị trời đến bảo rằng: cư sĩ nên biết, có đức Phật ra đời hiệu là Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng, nay đã tịch diệt. Lúc đó cư sĩ nghe danh từ Phật tâm rất hoan hỷ. Khi nghe Phật diệt độ, cư sĩ rất áo não. Vị trời hỏi cư sĩ: cớ sao ông trước vui mà sau lại buồn thảm? Cư sĩ đáp: tôi nghe Ngài nói có Phật ra đời nên tâm rất vui mừng, rồi lại nghe Phật diệt độ, tức mất hết lợi lớn nên rất buồn thảm. Vị trời lại bảo cư sĩ rằng: ông chớ lo sầu như thế, vì Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng lúc diệt độ dùng thần lực gia hộ cho một vị pháp sư tên là Thanh Minh. Giáo pháp của Phật còn được duy trì, tức Phật biết còn có người duy trì Phật pháp. Cư sĩ hỏi: Thanh Minh pháp sư nay ở đâu? Vị trời đáp: nay vị pháp sư ấy ở thành Ca Tỳ La, ở về phương Đông cách đây hơn ba trăm sáu mươi do tuần. Cư sĩ Kiên Chúng nghe như thế rồi, sáng hôm sau mang 80 ức tiền vàng, 1000 chuỗi ngọc anh lạc quí giá, cùng với quyến thuộc đích thân tới thành ấy; đến tận nơi tìm chỗ của pháp sư. Trông thấy pháp sư, cư sĩ liền đê đầu đảnh lễ sát dưới chân rồi đứng qua một bên. Pháp sư Thanh Minh vì họ mà nói pháp mầu nhiệm, trừ hết nghi ngờ, làm cho tâm họ hoan hỷ, thâm nhập tất cả Bồ Tát thiện căn, là kinh Đại Thừa.
Lúc bấy giờ cư sĩ nghe kinh xong lấy làm hoan hỷ. Vì tôn kính pháp, nên mang vàng ngọc đến dâng cúng pháp sư, cũng như đích thân hầu hạ cúng dường. Này Xá Lợi Phất, cư sĩ Kiên Chúng vì cầu pháp nên hết lòng cung kính cúng dường, hầu cận pháp sư và muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng kinh điển để tu hành. Từ lúc nghe pháp đầu tiên trải qua 60 ức năm thường theo hầu pháp sư. Ở trong khoảng thời gian ấy chưa được nghe pháp, huống gì là biên chép, thọ trì, đọc tụng? Cư sĩ cúng dường pháp sư Thanh Minh trong khoảng thời gian đó tâm không rời bỏ, lòng không dục nhiễm, sân giận, phiền não, thường đứng ngoài cửa của pháp sư, trọn ngày thâu đêm hầu cận chẳng hề ngủ nghỉ. Lúc đó có một ác ma tên là Thường Cầu Tiện, vì muốn cư sĩ Kiên Chúng đoản mạng, biến thành thân hình pháp sư Thanh Minh, cùng một người nữ giao hợp. Biến hình xong, cư sĩ thấy rõ, ma nói rằng, ngươi xem thầy ngươi thường được xưng là trí huệ bậc nhất như Phật, đa văn như biển. Nay ngươi quán xem việc làm phi pháp kia thì làm sao dạy người khác tu hành tịnh giới, vì tự chính mình đã hủy phạm điều cấm giới. Thầy ngươi tự cho rằng là kẻ tu hành phạm hạnh mà lại phá giới cấm. Vì người nói pháp thanh tịnh vi diệu mà nay tại sao tự làm điều phi pháp? Cư sĩ nên chấm dứt, lánh xa người ấy chớ cho là thầy nữa. Ông giữ giới thanh tịnh, thiểu dục, tri túc, tinh tấn, trí huệ, tịnh niệm kiên cố... những công đức ấy ông đã thành tựu. Tại sao ông còn cho người này là thầy? Lúc đó cư sĩ Kiên Chúng bèn nghĩ rằng, ta đang ở tại nhà có một vị trời đến bảo có Phật ra đời hiệu là Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng, nay đã tịch diệt. Lúc Phật sắp nhập diệt, Ngài gia hộ thần lực cho trăm ức mỗi vị pháp sư trong cõi Diêm Phù Đề. Ở cõi Diêm Phù Đề có một pháp sư tên là Thanh Minh. Pháp sư có thể thọ trì những lời của đức Phật ấy thuyết. Đó là Như Lai muốn duy trì người nối dòng Phật pháp, ông nên gần gũi vị ấy. Ta nghe nói thế cho là có lợi lớn, liền thân hành ra mắt pháp sư. Lúc đó pháp sư vì ta mà nói pháp trừ nghi chúng sanh, làm cho chúng hoan hỷ trong kinh tạng Đại Thừa, để hướng dẫn chỉ vẽ cho tôi. Lúc ấy tôi lấy làm hoan hỷ đem nhiều của báu dâng cúng pháp sư, cũng như đích thân cung cấp hầu hạ. Tôi nghĩ việc này là chân thật, nay người này đến chỉ cho tôi pháp sư như thế quá sai lầm không thể chấp nhận được, nên biết đó là ma. Tại sao thế? Vì Phật dùng thần lực gia hộ pháp sư, như có làm ra những việc kỳ dị kia cũng đều là ngụy tạo. Đây hoặc do chúa ma, dân ma hay kẻ dưới quyền bọn ma vậy. Tại sao thế? Vì pháp sư Thanh Minh nói pháp cho rằng không có việc như thế. Tôi đang quán sát tìm tướng nữ nhơn và pháp của người nữ, tướng của người nam và pháp của người nam. Nếu ta chạy theo tướng hư dối này không có điều ác nào mà chẳng phạm. Tại sao thế? Vì tất cả tội lỗi đều do trí tưởng tượng phân biệt mà ra. Nếu chạy theo các tướng đã trông thấy tức là khi dễ pháp sư, cũng như hủy báng Phật và phá hoại Phật pháp. Pháp sư ấy nhờ thần lực của Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Tăng gia hộ, nay đang phát lời thệ nguyện; nếu pháp sư nhờ thần lực của Như Lai Phổ Đức gia hộ cho, thì tôi đây cũng chính là kẻ thiết tha cầu pháp. Do nhân duyên phát nguyện như thế nên biết đây là tướng bất tịnh cần phải tiêu trừ. Liền đó tôi chấp tay nhất tâm niệm Phật, nói lời thành khẩn như thế thì người nữ biến mất không còn hiện nữa. Cư sĩ Kiên Chúng trừ ma xong, nghĩ thế này: ta nhất tâm cầu pháp như thế mà pháp sư Thanh Minh không nói pháp cho ta, tức là việc ma. Đây cũng là do tội báo nghiệp chướng đời trước của ta tạo chứ không phải lỗi của pháp sư. Ta nên tự cố gắng thực hành tinh tấn để trừ các việc ma. Nghĩ thế rồi ta đem lòng cung kính theo sát pháp sư, không sanh tâm sân si, kiêu mạn.
Này Xá Lợi Phất, ông xem tâm vị cư sĩ ấy thật là thanh tịnh kiên cố khó hoại. Từ lúc nghe xong, trải qua 60 ức năm, trong khoảng thời gian ấy do tâm cung kính không rời, nên ác ma dối gạt tìm đến tác hại như thế mà tâm không lay chuyển, lại càng tăng thêm lòng cung kính thanh tịnh. Cư sĩ Kiên Chúng trải qua 60 ức năm đến lúc mạng chung sanh lên cõi trời thứ 1000. Cõi ấy tên là Vô Tránh, ở đó có đức Phật hiệu là Đại Kiên, có một hội thuyết pháp cho chúng Thanh Văn đến chín mươi sáu ức người. Lúc bấy giờ Kiên Chúng Bồ Tát sanh nhằm dòng vua chúa. Lúc sanh có vị trời đến cho hay rằng: ông do nhân duyên nhất tâm cầu pháp nên được quả báo ấy. Kiên Chúng nghe xong liền nghĩ rằng, nếu như thế thì ta từ nay phải hết lòng cầu pháp. Ở đời được một nghìn năm rồi bèn xuất gia với Phật Đại Kiên, Phật vì ông mà thuyết pháp. Nhờ hạnh nguyện xưa và thần lực của Phật mà biết được đời trước. Phật Đại Kiên thuyết pháp yếu gì đều được Kiên Chúng thọ trì, trong nửa kiếp tu hành thanh tịnh, giáo hóa vô số chúng sanh đều được đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mất Kiên Chúng lại gặp được đức Phật hiệu là Tu Di Kiên; lúc sanh được bảy tuổi bèn xuất gia cầu đạo. Kiên Chúng do nhân duyên căn bản sâu bền như thế, và nhờ thần lực của Phật gia hộ, nên Phật Tu Di Kiên thuyết pháp yếu gì đều thọ trì. Từ lúc nghe pháp với đức Phật Đại Kiên, Kiên Chúng ghi nhớ mãi không xao lãng, lần lựa như thế được gặp 60 nghìn vạn ức na do tha các đức Phật. Chư Phật có thuyết pháp gì ông đều thọ trì, đọc tụng, giảng giải tu hành. Từ đó về sau, Kiên Chúng Bồ Tát trí huệ đa văn rộng sâu như biển; vô lậu sạch như hư không, thanh tịnh sâu nhiệm khó lường.
Này Xá Lợi Phất, ý ông ngờ rằng, cư sĩ Kiên Chúng nghe vị trời nói thế, đem vàng ngọc đến dâng pháp sư, nghe pháp tâm hoan hỷ vâng theo pháp sư; cũng như tự nguyện đem thân cung cấp hầu hạ, vì muốn cầu pháp nên thường theo pháp sư. Trong 60 ức năm chẳng nghe được pháp, nên bị ma dối gạt như thế - nghe thấy thầy phạm điều sai lầm-mà không sân hận, nhứt tâm theo đuổi cho đến chết. Thấy người lạ ấy không nên nghĩ là tia Phật quang. Này Xá Lợi Phất, ông quán sát tâm Bồ Tát cầu pháp tinh tấn như thế nên được đại quả báo. Vì thế ông nên biết, chư Đại Bồ Tát thật tâm cầu pháp nên đạt được đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá Lợi Phất, pháp sư Thanh Minh vì chư Phật mà hộ trì giáo pháp trong ba thời kỳ nên nay trong hội này. Xá Lợi Phất, lại còn ba việc nghiệm tâm Bồ Tát. 1) Một là Bồ Tát chuyên tâm cầu pháp nên có thể đi cùng khắp đến tất cả chúng sanh, đó là tâm ban đầu. Lại nữa, này Xá Lợi Phất, như Bồ Tát cầu vô lượng Phật pháp, nghe pháp nhiệm mầu mà không sợ hãi, tín thọ không trái giáo pháp.
2) Thứ hai, nghe pháp nhiệm mầu tâm tịnh không động, là chân tâm Bồ Tát. Lại này Xá Lợi Phất, có người đến chỗ Bồ Tát nói lời như thế này: nếu có ai phát tâm vô thượng Bồ Đề, ban cho chúng sanh sự an lạc, nay đây tôi là người khổ đệ nhứt. Trước phải thấy, rồi sau mới đi sát tất cả chúng sanh, nếu là Bồ Tát năng lực có thể tế độ cho tất cả mà không từ nan, cũng không thối thác. Vị ấy nghĩ như thế này: ta chưa làm cho người này vui được làm sao trợ giúp tất cả chúng sanh; nên biết đó chẳng phải là chân tâm Bồ Tát. Như thấy người cầu khẩn mà tâm không thối thác, lại đem lòng từ bi làm cho người ấy được an lạc. Ông nên biết đó là thật tâm Bồ Tát.
3) Này Xá Lợi Phất, nếu ban cho người đầy đủ mọi sự an lạc mà có bị lời ác mắng rủa, hủy nhục, tâm vẫn không tức giận, chỉ lấy lòng từ bi ban cho người. Như thế đã là điều phục được tâm rồi trừ diệt được vô lượng nhân quả nghiệp báo trong đường sanh tử, chóng gần Phật đạo. Trong mỗi niệm bao nhiếp vô lượng vô biên Phật pháp, ấy là Bồ Tát phương tiện tâm, thì ý chí không thể mất được. Nếu người cầu xin dùng lời ác mắng chửi, lúc đó Bồ Tát phải suy nghĩ: người này đem Phật pháp đến cho ta, nên trong lúc độ sanh không sanh tâm sân giận, tức là gần Phật đạo. Ấy gọi là Bồ Tát phương tiện tâm. Này Xá Lợi Phất, nếu có người đến chỗ Bồ Tát nói lời như thế này: pháp đạt vô thượng chánh đẳng chánh giác thật là khó, làm sao ông có thể thâm nhập được? Nếu nghe thế rồi sanh tâm thối chuyển chẳng phải thật tâm Bồ Tát. Nếu nghe người nói như thế mà tâm vẫn nghĩ là dễ mới gọi là chân tâm Bồ Tát.
Này Xá Lợi Phất, nếu có người đến bảo Bồ Tát rằng: người phát tâm vô thượng Bồ Đề đối với thân mạng còn chẳng tiếc, huống gì là tài sản. Này thiện nam tử! Ông nên từ bỏ tâm niệm ấy đi, phải tiếc thân mạng! Bồ Tát nghe như thế bèn tiếc thân mạng, sanh tâm thối chuyển. Nên biết đấy chẳng phải là thật tâm Bồ Tát. Nếu nghe việc như thế mà nghĩ thế này: tất cả chúng sanh mến tiếc thân mạng thì cái già, bịnh, chết sẽ ập đến cướp đi mất. Vì tiếc thân mạng nên gây ra bao nhiêu nghiệp tội, do gây tội nên phải đọa trong đường ác. Rốt cuộc rồi không ai giữ gìn được mạng sống của mình cả. Nếu ta tham tiếc giữ gìn thân mạng, chỉ gốc tạo tội nên đọa vào các đường ác, qua lại trong sanh tử có khác gì với người ngu đâu! Nay ta không nên tiếc giữ thân mạng, chỉ nên mến tiếc trí huệ Như Lai, hộ trì Phật pháp. Vì độ chúng sanh mà cần hành tinh tấn, xa lìa tham ái, phiền não... Ta nên vì chỗ không buộc không mở mà diễn nói các pháp cho chúng sanh. Suy nghĩ kỹ như thế rồi nên trả lời người kia rằng: ông nên biết rằng thân mạng chẳng được thường còn, các pháp tự nó đều như thế. Tiếc hay chẳng tiếc, thân mạng cũng chẳng thường còn. Ô hay thương thay! Tất cả các pháp đều không, không có chủ tể, không chỗ nương tựa, chỉ do các duyên mà có. Nếu quán xét đúng đắn như thế mới thật tâm Bồ Tát có pháp phương tiện khéo léo. Xá Lợi Phất, nếu có người đến bảo với Bồ Tát rằng: ông phát tâm vô thượng Bồ Đề, nay nên vì ta mà làm kẻ giúp việc. Bồ Tát nói lầm rằng: ta không riêng vì ông làm người giúp việc, ta làm việc cho tất cả chúng sanh. Tại sao thế? Vì ta là người gánh vác cho hết thảy chúng sanh, nhận sự an lạc, gánh việc không mỏi mệt, lo cho chúng sanh được an ổn, lo cho chúng được gặp Phật, giúp đỡ cho nghe Phật pháp, phụ trách việc thực hành giáo pháp, lo việc giải thoát; lo làm sao cho thân tâm không bị mỏi mệt giải đãi, để khỏi tự buồn phiền, cũng không phiền người. Ta đã không chịu khổ cũng đừng làm cho người khác khổ. Như lời ông nói là vì tôi mà làm kẻ giúp việc. Vậy ông có thể làm được những gì? Người kia trả lời: ông nên làm cho chính thân ông. Bồ Tát bèn nói: ta nay chẳng tiếc giữ thân mạng, chỉ thương cho ông đừng có đối với các pháp không, không chủ tể, không chỗ nương tựa như thế mà sanh tâm tự tại nên tạo ra nghiệp tội, đọa vào đường ác. Ô hay thương thay! Ta không muốn ông tạo thêm nghiệp tội đọa vào ác thú; tâm của ta là như thế. Nếu không tin là tùy ý ông. Nếu không tiếc thân mạng được như thế, mới gọi là chân tâm Bồ Tát, xa đường sanh tử, gần đạo Bồ Đề, đầy đủ trí huệ giáo hóa chúng sinh trang nghiêm cõi Phật; cũng làm tăng trưởng căn lành cho mình và người.
Này Xá Lợi Phất, như người cầm viên ngọc ma ni vô giá hơ lửa thì tỏa ra muôn màu óng ánh. Người thợ cầm ngọc báu ấy được lợi rất lớn. Vì viên ngọc có công dụng làm ra được các món đồ khác. Như người nào thấy ngọc không ai chẳng thích nên sanh tâm thèm muốn. Xá Lợi Phất, Đại Bồ Tát cũng thế, luôn hành các pháp bình đẳng, nên chỉ cho chúng sanh thấy được tâm Bồ Tát. Tùy chỗ thực hành các căn lành, tâm được trong sạch, chư Phật thường hộ niệm. Vô số chúng sanh đều muốn trông thấy, hết thảy thế gian, trời, người đều hướng về. Này Xá Lợi Phất, ví như có người trồng cây làm thuốc theo thời tươi bón, che chở nắng gió, làm cho cây dần dần lớn lên xanh tốt. Khi cây thuốc đã đủ lớn trừ được nhiều bịnh cho chúng sanh. Vì người không bịnh ai trông thấy cũng ưa. Đại Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Đề cũng như thế, là gieo các căn lành. Vì Phật trí nên nhất tâm cầu pháp, che khuất việc ma và các phiền não. Trong Phật pháp tùy chỗ tạo nghiệp, tâm Bồ Đề dần dần tăng trưởng. Tâm Bồ Đề đã tăng trưởng diệt được vô lượng bịnh phiền não cho chúng sanh. Có thể vì vô số chúng sanh chứa thuốc trí tuệ, đến lúc thành Phật tất cả chúng sanh dù thô hay tế đều muốn trông thấy, nên hết thảy thế gian, trời, người, a tu la đều tôn quí. Này Xá Lợi Phất, nếu có người đến nói với Bồ Tát rằng, người phát tâm vô thượng Bồ Đề là người phải sanh vào đại địa ngục. Tại sao thế? Vì cứu độ chúng sanh nên phải ở đại địa ngục trong vô số a tăng kỳ kiếp thọ khổ thay cho chúng sanh, rồi sau mới được Phật trí vô thượng Bồ Đề cứu độ chúng sanh. Nếu ông làm được việc ấy tức là cầu đạo vô thượng Bồ Đề. Bồ Tát nghe xong bèn thối thác đạo tâm, nghĩ là việc khó thành, nên biết đây là chân tâm Bồ Tát. Nếu nghe như thế mà liền nghĩ là chẳng lâu xa gì, ta có thể kham được nên không còn ý nghĩ thối lui nữa. Nghĩ thế này: nếu ta có nhân duyên vào địa ngục làm cho chúng sanh xa lìa hết khổ để thành Phật, ta có thể vì mỗi chúng sanh mà ở trong đại địa ngục chịu khổ qua vô lượng a tăng kỳ kiếp như thế. Tại sao thế? Do Bồ Tát đã được trí huệ không ai sánh bằng, Phật lực không ai sánh kịp, đạt tới vô sở úy của chư Phật, cũng như đạt được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì chúng sanh lập đại pháp hội, ban bố pháp bảo. Người nào nghe được phần pháp bảo ấy, trừ được vô lượng vô số khổ não; cũng như trừ được vô số các thống khổ trong a tăng kỳ kiếp ở đời vị lai, và được cái vui ly dục không thể so sánh. Vì thế ta phải vì vô số chúng sanh chịu khổ thay cho mỗi chúng sanh trong địa ngục mà tâm không thối chuyển.
Trong lúc đó, ta nghĩ trong chớp nhoáng nên không viễn tưởng xa vời, nghĩ có thể kham nhẫn được. Ông nên biết như thế mới gọi là chân tâm Bồ Tát.
Chú thích:
(1) Tam muội: hay còn gọi là tam ma đề hoặc tam ma địa: dịch là thiền định, đại định hay giải thoát. Phật, Bồ Tát, A La Hán đều nhập trong thiền định để giúp hộ thân và độ đời. Có nhiều hình tướng tam muội như Pháp Hoa tam muội, Tịnh Đức tam muội, Thanh Tịnh tam muội, Trang Nghiêm Vương tam muội, Thần Thông Du Hí tam muội...
(2) Ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Cõi dục chúng ta đang sống, cõi sắc là cõi của các tiên nhơn chung ở và cõi vô sắc của chư thiên.
(3) Pháp tổng trì: (tiếngPhạn là Dhàrani, dịch âm: đà la ni) : giữ lấy tất cả, tùy câuniệm, cách định ấn chú mà giữ lấy, thâu lấy tất cả giáo pháp của Phật, của ba cõi hay thâu sức anh linh trong vũ trụ. Pháp tổng trì hay đà la ni là chơn ngôn hay thần chú, có nghĩa là giữ gìn trọn vẹn điều thiện, không cho điều ác dấy khởi.
(4) Ngã và ngã sở: chấp thân mạng và của cải vật chất là vật sở hữu của ta, nên ra sức duy trì bảo vệ; càng cố duy trì và bảo vệ bao nhiêu càng xa rời chúng bấy nhiêu và càng lún sâu trong tội lỗi.
(5) Thọ và trì: nhận và giữ gìn hay hành trì đối với kinh điển hay giáo pháp của Phật, trong tinh thần hiểu biết và đem áp dụng pháp tu ngay vào cuộc sống.
(6) Pháp khí: chỉ người đạo đức tinh anh, có khả năng đem giáo pháp truyền bá khắp nơi như một khí giới tinh nhuệ, sắc bén không khiếp sợ trước một mãnh lực nào. Bậc pháp khí là người xứng đáng nhận lãnh sứ mạng thay thế dức Phật hoằng truyền đạo giác ngộ cho nhân quần xã hội như thời đức Phật có ngài A Nan, Ca Diếp; về sau có các Ngài Bồ Đề Đạt Ma, lục tổ Huệ Năng...
(7) Điều phục: chế ngự ba nghiệp: thân, miệng, ý; trừ diệt những việc làm xấu ác, lỗ lầm. Như Bồ Tát vì muốn điều phục những vị Tỳ Kheo phạm giới, nên chung cùng họ trong việc đạo đức sáng suốt, mà không chung cùng họ trong những thói tà lầm lạc, để hướng họ về với chánh đạo.
(8) Thất niệm: mất chánh niệm, tức rơi vào trong điên đảo vọng tưởng, si mê lầm lạc không còn biết đến giáo pháp nữa.
(9) Thâm tín: tin sâu vào giáo pháp, những lời Phật dạy và hiểu nghĩa lý để tu hành là được phước báu, nên hoàn toàn được mãn nguyện hay thành tựu được tất cả những gì theo lòng mong ước.
(10) 12 nhập hay 12 xứ gồm 6 căn: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý tiếp nhập với 6 trần: hình sắc, âm thanh, mùi, vị, tiếp xúc và các pháp hợp thành.
(11) 18 giới: giới là ngăn chia thành từng lãnh vực, giới hạn, do 6 căn, 6 trần như trên đã nói và 6 thức là nhãn thức, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý thức. Thức là cái tánh biết của 6 căn nên khác 6 căn. Như người có mắt mà không trông thấy được là thiếu nhãn thức rồi vậy.
(12) 12 nhân duyên: mười hai mối dây liên hệ buộc chặc với nhau như móc xích không rời nhau là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử dẫn chúng sanh đi thọ thai kiếp khác.
(13) Theo nghĩa chớ y lời: nên hiểu theo tinh thần hiểu biết chớ nên theo lời phao truyền sẽ rơi vào nẽo tà, lầm lạc trong vô minh điên đảo.
(14) Tam hữu: ba cõi có chúng sanh và cảnh vật, có nghiệp duyên, nghiệp quả và có
sanh tử. Tam hữu tức là ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc có chúng sanh chung nhau nương ở.
(15) Ngồi kiết già: ngồi thiền mà tư thế hai chân bắt tréo lên nhau như hoa sen; hai bàn chân để lên hai bắp đùi và ngồi ngay thẳng như pho tượng để quán tưởng.
(16) Lưỡng túc tôn: cả hai phần phước và trí hay huệ đầy đủ nên được tôn kính. Một tôn hiệu của Phật, vì Ngài viên mãn cả hai phần tu: phước đức và trí huệ.
( 17) Pháp vô sanh: pháp không sanh, tức vạn pháp vốn không sanh, nên cũng chẳng diệt, là cái lý chân như thật tướng. Chỉ có sự phát hiện, do các nhân duyên hòa hợp hay ly tán mà ta thấy có sanh, có diệt, có hiện hữu, có chấm dứt mà thôi. Điều này cũng có nghĩa là không có chúng sanh, thì không có các pháp.
---o0o---