Thiên Thứ Nhất
Chương Hai
Nền Học Thuyết Ấn Độ Trước Phật Giáo
Tiết Mục:
I. Điểm xuất phát của các tôn giáo
II. Lục đại học phái
II. Lục sư ngoại đạo
IV. Tổng quát các nguồn tư tưởng Ấn Độ đương thời.
Kinh sách tham khảo: Kinh Phạm Động, kinh Sa Môn Quả, Luận Quảng Bá, Ấn Độ Phật giáo Sử lược.
Đề yếu: Do hoàn cảnh, tâm niệm khác nhau, con người có những xu hướng tư tưởng sai biệt. Để hiển minh sự kiện đó, tiết thứ nhất trong đây nói về điểm xuất phát của các tôn giáo gồm ba nguyên nhân: tin tưởng thần linh, tìm hiểu sự thật, cầu thoát khổ. Lục đại học phái ở tiết thứ hai tuy nội dung phức tạp, nhưng vì chịu ảnh hưởng hệ thống Phệ Đà, nên đại khái đều xây dựng trên tư tưởng triết học hàm ẩn quan niệm Nhất thần giáo. Tựu trung, hai phái Phệ Đàn Đà và Du Già rất được thạnh truyền. Tám thế kỷ sau Tây lịch, Thương Yết La lấy giáo nghĩa đạo Phật bổ sung cho học thuyết Phệ Đàn Đà, làm cho phái này thêm phần khởi sắc. Bà La Môn giáo hay Ấn Độ giáo hiện thời chính là di sản của phái này. Lục sư ngoại đạo ở tiết thứ ba, được phát xuất bởi hai điểm: tư tưởng tự do khởi cứu, và quan niệm yếm thế, hoài nghi, phẩn uất do chế độ giai cấp bất công. Trong đây có Kỳ Na Giáo là thịnh hành hơn cả. Trong khi các phái kia dần dần tiêu diệt, thì dư thế phái này dường như hiện thời vẫn còn. Kỳ Na Giáo có nhiều tên khác như: Thiền na, Lộ hình, Đồ khôi, Ni kiền, và vị giáo tổ cũng có lắm biệt danh, nên các nhà khảo cứu thường lầm lẫn, biệt lập phái này ra ngoài lục sư ngoại đạo. Tiết thứ tư tổng kết 62 giáo phái thành tám hệ thống. Sáu mươi hai phái là nói về thời trước Phật giáo, còn từ khi Phật giáo ra đời đến sau, từ tám hệ thống đó nảy sinh thêm thành 96 phái ngoại đạo. Cho nên trong nhà Phật có câu: "Cửu thập lục gia tà trí huệ. Bá thiên vạn kiếp thọ luân hồi". (Chín sáu tà sư mê chánh trí. Trăm ngàn muôn kiếp chịu luân hồi).
Tiết I: Điểm Xuất Phát Của Các Tôn Giáo
Giữa cuộc đời sai biệt, con người tất cũng có những sở thích và tư tưởng khác nhau. Cuộc sống thế gian không làm cho nhân sanh hoàn toàn hạnh phúc. Để thỏa mãn những tâm niệm ấy, các giáo phái đã hiện ra đời. Điểm xuất phát này đại để có ba nguyên nhân:
1. Do khổ muốn cầu thoát ly: Trên con đường gập ghềnh, giữa lúc trời trưa nắng gắt, khách lữ hành mõi mệt ước ao có một cơn gió, một bóng cây mát để nghĩ ngơi. Trên đường đời cũng thế, sự vui dù có, cũng chỉ là tương đối. Vì vui tương đối nên mới có khổ, mà sự khổ lại thường chiếm phần tối đa. Và vì khổ, con người mới nảy sinh tư tưởng cầu thoát ly.
2. Do sự sùng tín trước hiện tượng của vũ trụ: Trong thời đại tối sơ, con người chưa giải thích nổi những nghi vấn trước hiện tượng của vũ trụ. Cho nên họ quan niệm rằng: mọi ánh sáng giữa bầu trời đều là những phẩm cách thần thánh. Cũng vì thế, họ mới sùng bái các hiện tượng sáng suốt như: mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, làn chớp, ngọn lửa. Họ tin tưởng đủ mọi phương diện. Tựu trung, mục đích sùng bái của họ không ngoài dục vọng sinh tồn cho bản thân. Rồi do đó mới có những hình thức thờ phượng để trừ tai, cầu phước và những hành nghi cúng tế, ca tụng thần thánh. Vì thế mới có các lối tư tưởng sai biệt, mà người ta gọi là Đa thần giáo.
3. Do sự cầu giải thích nguyên lý nhơn sanh, vũ trụ: Lại có một hạng người, trước đối tượng vũ trụ bao la, họ động tánh hiếu kỳ, muốn tìm hiểu các sự tu tập của bản thân, họ tự do khảo cứu và lập ra các phái triết học.
Tóm lại, điểm xuất phát của các giáo phái, đại để như: cầu thoát khổ được an vui, dựa trên tin tưởng sùng bái, và tìm hiểu mọi sự bí mật để đem con người trở về vũ trụ. Giáo nghĩa Phệ Đà mà chúng ta đã thấy ở chương đầu, và các học thuyết sau đây, là những điểm chứng minh cho các nguồn tư tưởng ấy.
Tiết II: Lục Đại Học Phái
Như trên đã nói, giáo lý Phệ Đà diễn biến trong ba giai đoạn mà chúng ta gọi là ba thời đại: Phệ Đà thiên thơ, Phạm Thơ và Áo Nghĩa Thơ. Trong lúc ấy, lại có những phái chịu ảnh hưởng Phệ Đà, căn cứ vào đó mở mang thêm cho giáo lý của mình có hệ thống; cũng có nhiều học giả thoát ly ngoài tư tưởng Phệ Đà, chủ trương tự do khảo cứu, rồi lập thành phái triết học tự nhiên. Vì thế ở Ấn Độ thuở bấy giờ có nhiều phái nối nhau xuất hiện như Địa luận, Phục thủy luận, Hỏa luận, Phong tiên luận, Thời luận, Phương luận, Hư không luận...
Các phong trào tư tưởng đó, hoặc dung hòa, hoặc xung đột lẫn nhau, làm cho nền học thuyết của Ấn Độ lâm vào một tình trạng rất rối ren. Tuy nhiên, nếu kiểm điểm lại, ta có thể chia các tư trào lúc bấy giờ thành hai hệ thống: hệ thống Phệ Đà và hệ thống phản Phệ Đà. Hệ thống Phệ Đà tuy nhiều nhưng đáng kể chỉ có Lục đại học phái. Còn hệ thống phản Phệ Đà thì có Lục sư ngoại đạo. Trước tiên, chúng ta thử xét qua học thuyết của sáu môn phái lớn thuộc hệ thống Phệ Đà, tức là Lục đại học phái:
1. Phái Phệ Đàn Đà (Vedanta: Tự tại thiên): Vị khai tổ của bản phái là Bà Đạt La Gia Na (Bàdarayana). Phái này lấy kinh Phệ Đàn Đà do Bà Đạt La Gia Na trứ tác làm căn cứ. Kinh Phệ Đàn Đà cũng dựa theo giáo nghĩa chánh thống của Phệ Đà, song được phát minh thêm. Phái này chủ trương rằng Phạm (Brahma) là nguồn gốc của muôn loài, là một thứ biểu hiện về tinh thần, không phải vật chất mà là năng lực. Phạm là duy nhứt, siêu việt, bao trùm cả muôn loại trong thế gian. Tự ý chí của Phạm khai triển thành hiện tượng giới, trước tiên là Hư không, rồi từ hư không phát sinh ra Gió, từ gió phát sinh ra Lửa, từ lửa phát sanh ra Nước, từ nước phát sinh ra Đất. Năm nguyên tố này một mặt được tổ chức thành khí thế gian, mặt khác thành hữu tình thế gian. Theo kinh Phệ Đàn Đà thì Phạm và Tự ngã là một thể. Trong giai doạn chưa khai triển, Tự ngã là bào thai của Phạm; nhưng khi ở giai đoạn đã khai triển, thì Tự ngã có địa vị độc lập, chịu phần chi phối của Phạm. Đặc chất của Tự ngã là Trí huệ. Bởi hành vi con người nương theo sự phán đoán của tự do ý chí, nên gây ra nhiều tác nghiệp. Do sự huân tập của tác nghiệp, nên chúng sinh bị lạc mất nguồn gốc trí huệ, chịu nhiều nỗi khổ trong nẽo luân hồi. Theo phái này thì loài hữu tình là một bộ phận của Phạm, có đầy đủ thể tánh thanh tịnh như Phạm. Muốn trở về với Phạm, cần phải rời khỏi mọi sự chấp trước sai biệt, y theo môn giải thoát mà tu hành. Do công tu tập lâu ngày, Tự ngã lại được dung hợp với Phạm. Đến giai đoạn này mới gọi là hoàn toàn giải thoát.
2. Phái Di Man Tát (Mìmàmsà - Thanh thường trú): Vị khai tổ của bản phái là Sà Y Nhĩ Ni (Jaimini). Phái này lấy kinh Thanh thường trú (Mìmàmsà-sutra) làm căn cứ, những điều cấm chế vẫn y theo thánh điển Phệ Đà. Đồ chúng của phái Di Man Tát rất chú trọng về phương diện luân lý triết học, và chủ trương thuyết Âm thanh thường trú. Về chủ thuyết này, giáo chúng chia ra làm hai phe; Một là do hạng Bà la môn chấp theo bốn bộ luận Phệ Đà. Họ cho rằng khi tụng kinh Phệ Đà phát ra phạm âm, lời và tiếng đều khế hợp với thật nghĩa, nên gọi là "thường". Các thứ tiếng khác không hợp với thật nghĩa, nên gọi là vô thường. Hai là sở chấp do hạng Bà La Môn học theo Tỳ dà la luận (tức Học tập thanh luận); phe này lại có hai chi:
Chi Thanh hiển luận cho rằng: tánh của tiếng là thường trú, đợi các duyên tầm, từ và danh, cú, văn thân mới phát. Danh, cú, văn thân là âm hưởng nên vô thường; tiếng là "thường".
Chi Thanh sanh luận thì cho rằng: âm thanh bản lai không thật có, đợi các duyên mới phát. Nhưng khi âm thanh đã phát sanh, thì là thường trú bất diệt.
Tóm lại, phái Di Man Tát dựa trên tư tưởng tôn trọng giáo quyền giữ theo lề lối đọc tụng tế lễ xưa. Cho nên chủ thuyết Âm thanh thường trú của họ, không ngoài sự giải thích và bảo tồn nghi thức trong tôn giáo. Về lý tưởng giải thoát, họ cho rằng: muốn được hạnh phúc, cần phải có những hình thức hy sinh. Kết quả của sự hy sinh ấy, tùy theo nhân hạnh nhiều ít, sự an lạc sẽ đến nhiều ít với ta trong tương lai hay hiện tại.
3. Phái Ni Dạ Gia (Nyàya: Chánh lý luận): Vị khai tổ của bản phái là Túc Mục tiên nhơn (Aksapàda). Tư tưởng của phái triết học này thuộc về đa nguyên luận, lấy kinh Chánh Lý (Nyàya sutra) làm căn cứ. Về quan niệm nhơn sanh, phái Ni Dạ Gia lấy phương châm lìa khổ đến chỗ giải thoát làm mục đích. Phái này cho rằng con người giữa cõi trần có đầy dẫy nỗi khổ, mà nguyên nhân thọ sanh là tác nghiệp (Pravrtti). Tác nghiệp lấy phiền não (Dosa) làm cơ sở, và căn bản của phiền não là vô tri (Mithyajnàna). Vậy, muốn dứt khổ phải tiêu diệt vô tri, khi vô tri hoàn toàn đoạn trừ, hành giả liền chứng vào cảnh an vui giải thoát (Nihsreyasa). Lý thuyết này tương tợ với Thập nhi nhân duyên của Phật giáo.
Về phương thức nghị luận để bảo vệ cho lập trường của mình, phái Ni Dạ Gia dựa theo Ngũ phần tác pháp (luận thức năm phần): Tôn (Pratijnà), Nhân (Hetu), Dụ (Udahadana), Hợp (Upanaya) và Kết (Nigamana). Phương thức này, nếu đem so sánh với môn luận lý phương Tây (tam đoạn luận Syllogisme của Aristote), thì Tôn tương đương với bộ phận Đại tiền đề (Majeure). Nhưng phương thức luận lý của phái Ni Dạ Gia còn thêm hai chi là Hợp và Kết, tự biểu lộ một lập trường luận lý rất vững vàng. Về sau, phương thức luận lý này được hoàn bị hóa qua hai bậc thạc học trong Phật giáo là Thế Thân và Trần Na, và được chuyển làm môn luận lý học của đạo Phật.
4. Phái Phệ Thế Sư Ca (Vaisesika: Thắng luận): Vị khai tổ của bản phái là Can Na Đà (Kanada, có nơi gọi là Ẩu Lộ Ca tiên Ulùka). Phái này lấy kinh Phệ Thế Sư Ca (Vaisesika-sutra) gồm 370 câu làm căn cứ.
Về phương diện vũ trụ quan, phái Thắng luận phản đối thuyết Hữu thần, kế thừa tư tưởng của phái triết học tự nhiên, rồi đề xướng lên thuyết Duy vật đa nguyên. Họ dùng sáu cú nghĩa hay sáu yếu tố mà thuyết minh nguyên lý thành lập vũ trụ. Sáu yếu tố ấy là:
Thật: Bản chất của vũ trụ; gồm có chín thứ: địa, thủy, hỏa, phong, không, thời, phương, ngã, ý.
Đức: Tính chất có đủ trong bản thể; gồm có 24 thứ: sắc, hương, vị, xúc, số, lượng, biệt tánh, hợp tánh, ly tánh, bỉ tánh, thử tánh, giác, lạc, khổ, dục, sân, cần dũng, trọng tánh, dịch tánh, nhuận, hành, pháp, phi pháp, thanh.
Nghiệp: Tác dụng của bản chất; gồm có năm thứ: thủ, xả, thân, khuất, hành (lấy, bỏ, dũi, co, làm).
Đại hữu tánh: Có nghĩa duy nhất; sự tồn tại của thật, đức, nghiệp đồng nương về một thể đại hữu ấy.
Đồng dị tánh: Vạn hữu mỗi thứ có một đặc tính, nên chúng mới thành sai biệt. Như đất với đất là đồng, đất với nước là dị.
Hòa hợp tánh: Một đặc tính có thể làm cho thật, đức, nghiệp được hòa hợp nhau không tan rã.
Sáu yếu tố trên đây, ba thứ trước nói về thể, tướng, dụng của cũ trụ; ba thứ sau nói về sự quan hệ của chúng.
Về phương diện nhân sinh quan, phái này cho rằng con người được thành lập là do bởi tám yếu tố: yếu tố thứ nhất là Tự ngã (Atman), thật thể của nó vốn không sinh diệt. Yếu tố thứ hai là Ý (Manas), cơ quan liên lạc giữa Tự ngã và ngũ căn. Năm yếu tố kế là ngũ căn. Năm căn này hoàn toàn do vật chất tạo thành: Nhãn căn do hỏa đại, nhĩ căn do không đại, tỷ căn do địa đại, thiệt căn do thủy đại, thân căn do phong đại. Đối tượng của ngũ căn là ngũ trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Tự ngã là trung tâm, còn Ý và Ngũ căn chỉ là cơ quan phụ thuộc để nhận thức và hành động. Yếu tố sau hết là Nghiệp lực (Adrsta), động cơ của sự sống chết luân hồi.
Lý tưởng giải thoát của phái Thắng luận là con người cần phải tu khổ hạnh để diệt trừ nghiệp lực. Khi nghiệp lực đã tan, hành giả liền đạt đến cảnh giới thuần túy của Tự ngã, chứng quả Niết bàn an vui tự tại.
5. Phái Tăng Khê Da (Sàmkhya: Số luận): Vị khai tổ của bản phái là Kiếp Tỷ La (Kapila), tục gọi Hoàng Xích tiên nhơn. Kinh điển căn cứ của phái này là Chế số luận (Sàmkhya-sùtra).
Về giáo lý, phái Tăng Khê Da dung hòa cả hai tư tưởng hữu thần và duy vật mà cấu thành học thuyết của mình. Họ cho rằng "số" là căn bản để đo lường các pháp, từ nơi "số" mà khởi "luận", "luận" hay sinh "số" nên mới có mệnh danh là "số luận". Theo nhà Số luận, thì nguồn gốc của vũ trụ không ngoài "thần ngã" là nguyên lý tinh thần, và "Tự tánh" là nguyên lý vật chất. Do hai nguyên lý này kết hợp mà sinh 23 đế, và đó là thứ tự tạo ra vũ trụ. Khi hai nguyên nhân thần ngã và tự tánh kết hợp, thần ngã là động lực, tự tánh là chất liệu. Vì thế phái này cũng gọi là Minh nhị nguyên luận. Về tuần tự hai nguyên lý sanh 23 đế, xin tạm trình bày theo biểu đồ như sau:
Thần ngã Tự tánh
Năm tri căn (ưu tánh): mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
Năm tác căn (ưu tánh): tay, chân, miệng, sanh thực khí, bài tiết khí.
Giác (Đại) Ngã mạn
Tâm Căn
Năm duy (hỷ - tánh): sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Năm đại (ám tánh): đất, nước, gió, lửa, hư không.
Trong 25 đế trên (kể cả thần ngã và tự tánh), Tự tánh là căn nguyên phát triển thành vạn hữu, nên cũng gọi nó là vật chất căn bản. Kiếp sống con người có bao nhiêu nỗi đau khổ, là do cái thể xác tự tánh sinh ra. Chúng sinh đã nhận lầm những sự kiện tạo ra thân thể là vật của mình. Muốn diệt trừ mọi nỗi đau khổ, hành giả phải dứt điều ngộ nhận ấy, tách đôi sự kết hợp của hai thứ trên, mà trở về bộ mặt thật của Thần ngã. Đây là phương thức giải thoát của phái Số luận để thể hiện "Thần ngã độc tồn".
6. Phái Du Già (Yoga: Tương ưng): Vị khai tổ của bản phái là Bát Tử Xà Lê (Patanjali), giáo điển y cứ là kinh Du Già (Yoga-sùtra). Phái này chú trọng về pháp môn thiền định để đạt đến mục đích Ta với Thần hợp nhất. Phương pháp thật tu chia làm tám giai đoạn: Cấm chế (Yama), Khuyến chế (Niyama), Tọa pháp (Asana), Điều tức (Prànayama), Chế cảm (Pràtyàkara), Chấp trì (Dhàranà), Tĩnh lự (Dhyàna), Đẳng trì (Samàdhi). Cấm chế, cần phải giữ năm điều: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không tham lam, thuộc đức độ tiêu cực. Khuyến chế, cần phải làm năm việc: Thanh tịnh, mãn định, khổ hạnh, học tập kinh điển, định thần, thuộc đức độ tích cực. Tọa pháp, để điều hòa thân thể. Điều tức, để chỉnh đốn hô hấp. Chế cảm, để thống ngự ngũ căn. Chấp trì, để tập trung tư tưởng. Tĩnh lự, để lóng gạn thức tâm. Đẳng trì, để tâm trở thành vắng lặng như hư không.
Cứ y theo phương pháp trên đây tu tập, lâu ngày tâm cảnh sẽ sáng suốt, chứng được tam muội, chỉ còn một "Thần ngã" tự tại. Đây là lý tưởng giải thoát của phái Du Già.
Tiết III: Lục Sư Ngoại Đạo
Trên đây là sáu môn phái lớn thuộc hệ thống Phệ Đà; còn hệ thống phản Phệ Đà tuy cũng có nhiều môn phái, song được nổi danh nhất chỉ có lý thuyết của sáu học giả, mà kinh Phật thường gọi là Lục sư ngoại đạo. Nhưng, sáu môn phái này chỉ bộc phát một thời gian rồi tiêu diệt. Lý thuyết của Lục sự ngoại đạo đại khái như sau:
1. Phú Lan Na Ca Diếp (Pùrana Kacyapa: Mãn Ẩm Quang): Ông chủ trương thuyết ngẫu nhiên, không tin luật nhân quả, cho rằng tất cả sự khổ vui họa phước của con người, chỉ là ngẫu nhiên mà có. Lại nữa. Mãn Ẩm Quang là một nhà thuyết lý của Hoài nghi luận. Theo ông thì thiện ác không có tiêu chuẩn nhất định, bất quá do tập quán xã hội gọi thế mà thôi. Xã hội cho là thiện hoặc ác, vị tất đã là thật thiện, thật ác. Cho nên, làm lành hoặc dữ, đối với ông, không có quả báo chi cả. Phật giáo gọi phái này là Không kiến ngoại đạo.
2. A Di Đa Xúy Xá Khâm Bà La (Aj-takesa-Kambali: Vô Thắng Tử): Trong kinh có nơi gọi ông là Lộ Dà Gia hoặc Chước Bà Ca (Lokayata). Ông chủ trương thuyết Cực đoan duy vật luận, cho rằng con người do đất, nước, gió, lửa hòa hợp mà thành, chết rồi là hoại diệt, thân tứ đại lại trả về chất tứ đại. Theo ông, mục đích của nhân sinh là tận hưởng những thú vui vật chất. Vô thắng Tử cực lực bài xích luân lý đạo đức, cho đó là những điều khắc khe vô lý. Học thuyết của phái này tương tợ triết học Dương Chu ở Trung Quốc, hoặc triết học Hiện sinh của phương Tây. Nhà Phật gọi họ là Thuận thế ngoại đạo.
3. Mạt Già Lê Câu Xá Lê (Makkhali Gosala: Ngưu Xá Tử): Ông chủ trương thuyết Cực đoan định mạng luận, cũng gọi là Tự nhiên luận hay Túc mạng luận. Theo Ngưu Xá Tử, vận mạng con người đều do luật tự nhiên chi phối, không phải ai muốn là được. Khi túc mạng đã định con người phải chịu khổ, vui, hoặc giải thoát, thì tự nhiên được khổ, vui, giải thoát. Ông đề xướng giáo lý vô vi điềm đạm, gần giống với học thuyết của Lão, Trang. Phật giáo gọi phái này là Tự nhiên ngoại đạo hoặc Tà mạng ngoại đạo.
4. Bà Phù Đà Ca Chiên Diên (Pakudha-Katyayana: Hắc Lãng): Danh từ này lại có một cách gọi khác là Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên. Ông chủ trương thuyết Cực đoan thường kiến luận, phản đối thuyết Đoạn kiến của Thuận thế ngoại đạo, Bà Phù Đà Ca Chiên Diên lập thuyết Tâm vật nhị nguyên bất diệt, cho rằng con người do bảy yếu tố: Địa, thủy, hỏa, phong, khổ, lạc, sinh mạng hợp thành. Bản chất của bảy yếu tố này là thường trụ, không vì sự sống chết mà sanh diệt theo. Với ông, thí dụ như người bị chết chém, đó chẳng qua là lưỡi dao ấy tạm thời làm cho địa, thủy, hỏa, phong... (vật) phân tán mà thôi, không quan hệ đến sự tồn vong của khổ, lạc và sinh mạng (tâm). Ông dùng lý luận này để cổ lệ con người bất tất phải sợ chết. Phật giáo gọi phái này là Thường kiến ngoại đạo.
5. San Xà Dạ Tỳ La Lê Tử (Sanjaya Belatthiputta: Đẳng Thắng): Danh từ này, theo lối tân xưng, gọi là Tán Nhạ Gia Tỳ La Lê Tử. Ông chủ trương thuyết Vô cầu, sở hành hằng ngày là tu tập thiền định. Theo ông, đạo quả giải thoát không cần tìm cầu, cứ để trải qua nhiều kiếp luân chuyển, tự nhiên sẽ đến kỳ sự khổ dứt trừ. Thí dụ như cái trục cất nước, khi quây hết dây thì gàu nước tự ra khỏi giếng. Vì thế, ông đưa ra lập thuyết "Mãn tám muôn kiếp, tự nhiên đắc đạo". Phật giáo gọi phái này là Ngụy biện ngoại đạo.
6. Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử (Nigantha Nataputta: Ly Hệ Thân Tử) Ông là vị tổ hữu danh đã khai sinh ra Kỳ Na giáo, cũng gọi Thiền Na giáo (Jaina). Ly Hệ Thân Tử người thuộc dòng Sát đế lỵ, ở xứ Cung Đồ Bổ La (Kyndapura), phụ cận kinh thành Tỳ Xá Ly (Vaisali). Ông xuất gia hồi 31 tuổi, chuyên tu khổ hạnh trải qua 12 năm. Sau khi ngộ đạo, ông đi du hóa khắp nơi, thâu phục đồ đệ rất nhiều, gây thế lực mạnh mẽ ở vùng thượng lưu sông Hằng, nhất là hai xứ Tỳ Xá Ly và Ma Kiệt Đà (Magadha). Trong lịch sự tư tưởng Ấn Độ, ông có vai trò trọng yếu không kém đức Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật có mười hiệu, ông cũng có nhiều danh hiệu như: Thiền Na (Jaina: Thắng Giả), Đa Tha Dà Dà (Tathagata Như Lai) Phật Đà (Buđha: Giác Giả), Ma Ha Tỳ La (Mahàvira: Đại Hùng). Kinh Phật nói có bảy đức Thế Tôn, phái của ông cũng có thuyết 23 bậc Thắng Giả. Sau 29 năm du hóa, ông viên tịch ở xứ Ba Bà (Pavà) thọ được 72 tuổi, nhằm lúc đức Phật đang còn giáo hóa ở nhân gian.
Tư tưởng triết học căn bản của Ly Hệ Thân Tử xây dựng trên Thật thể (Dravya). Thật thể này chia ra hai trạng thái là Sinh mạng yếu tố (Jìva, Ajìva). Sinh mạng yếu tố thì gồm đủ hai phần: Lý trí và tình cảm. Phi sinh mạng yếu tố được chia làm năm thứ: Không (Àkàsa), Vật chất (Pudgala), Pháp (Dharma), Phi pháp (Adharma), Thời gian (Kata). Không là nguyên lý bao trùm khắp mọi nơi. Vật chất là nguyên lý tạo thành nhục thể. Pháp là nguyên lý vận động. Phi pháp là nguyên lý đình chỉ. Thời gian là nguyên lý biến hóa. Bởi hai yếu tố Sinh mạng và Phi sinh mạng liên kết nhau, nên con người sinh ra phiền não, bị quanh quẩn trong nẽo luân hồi. Muốn được giải thoát, hành giả phải xa lìa sự chấp trước trên hai yếu tố mà trở về Thực thể.
Về phương diện thực tiễn, Ly Hệ Thân Tử chủ trương khổ hạnh tột độ để xa lìa tham nhiễm. Ông đặt ra năm giới là: Không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, giữ tịnh hạnh và không tham cầu. Đồ chúng xuất gia của ông phần nhiều đều lõa thể, lấy tro bôi trát cùng mình, sống một cách cơ cực, khi khất thực thì dùng hai tay tiếp lấy rồi đưa vào miệng ăn liền. Vì thế, nhà Phật gọi phái này là Vô tâm ngoại đạo.
Tiết IV: Tổng Quát Các Nguồn Tư Tưởng Ấn Độ Đương Thời
Về thời gian sáng lập, sáu đại học phái và lục sư ngoại đạo nói trên, xuất hiện trước Phật giáo không bao lâu. Lúc đức Thích Ca mới xuất gia, Ngài có đến phỏng đạo những vị thủ lănh của mấy giáo đoàn ấy như các ông: Nhã Đề Tử, Bạt Già Bà, A La Ra, Uất Đà La...
Nói chung, tư tưởng giới Ấn Độ thời bấy giờ gần giống như tư tưởng giới đời Chiến quốc bên Trung Hoa. Xét về mặt xã hội thì trước Phật giáng sinh khoảng 100 năm, nhằm thời đại tiền kỷ nguyên độ bảy thế kỷ, đạo Bà la môn thịnh hành đến cực điểm. Nhưng cũng do sự độc quyền của phái tăng lữ, mà đạo đức tôn giáo thời đó chỉ có nghi thức phô trương bề ngoài. Hơn nữa, lại vì chế độ giai cấp không công bình, nhân dân không được tự do, rồi sinh ra tư tưởng yếm thế. Bởi duyên cớ ấy, một phương diện bị mê tín hoành hành, người ta hy sinh tu theo khổ hạnh. Họ quan niệm rằng có gần sự khổ mới quen với cái khổ, và sẽ xem thường, không còn thấy khổ. Có kẻ tin tưởng tu khổ hạnh sẽ được sinh lên cõi trời hưởng các điều vui. Lại một phương diện khác, người ta nảy ra tư tưởng hoài nghi, phủ nhận tất cả tôn giáo, nhân quả và đạo đức. Nương theo quan niệm ấy, họ cổ xúy tư tưởng phản kháng. Do đó, ngoài những giáo phái thuận theo hệ thống Phệ Đà truyền lại, các chủ nghĩa khác tiếp tục nổi lên. Như ông Phú Lan Na Ca Diếp đại biểu cho chủ nghĩa Hoài nghi, ông Vô Thắng Tử đại biểu cho chủ nghĩa Khoái lạc, ông Đẳng Thắng đại biểu cho thuyết Ngụy biện, ông Nhã Đề Tử đại biểu cho thuyết Khổ hạnh.
Theo kinh Phạm Võng và Sa Môn Quả thì lúc bấy giờ có đến 62 phái ngoại đạo khác nhau. Nhưng nhìn tổng quát, ta có thể chia ra tám hệ thống lớn:
1. Thường kiến luận (Sassatavada): Chủ trương thế giới và tự ngã thường còn.
2. Bán thường bán vô thường luận (Ekaccasassatika): Chủ trương tất cả hiện tương đều có một bộ phận thường còn và một bộ phận biến diệt.
3. Hữu biên vô biên luận (Anatanantika): Chuyên thảo luận về thế giới hữu hạn hay vô hạn.
4. Ngụy biện luận (Amaravikkhepihà): Lý luận không dứt khoát đối với tất cả vấn đề không có một giải pháp quyết định.
5. Vô nhân luận (Adhiccasamuppada): Chủ trương mọi hiện tượng đều ngẫu nhiên phát sinh, không quan hệ đến nhân quả.
6. Tử hậu hữu tưởng vô tưởng luận (Udhamaghatamika): Chuyên thảo luận về vấn đề: sau khi chết ý thức còn tồn tại không và sinh ra những trạng thái như thế nào?
7. Đoạn kiến luận (Ucchedavada): Chủ trương chết là đoạn diệt.
8. Hiện pháp niết bàn luận (Ditthadhammanibbanam): Chủ trương hiện tại là cảnh giới lý tưởng tối cao.
Trong tám hệ thống trên, bốn hạng trước lập luận trong phạm vi đời hiện tại, nên có tên là Bản kiếp bản kiến. Còn bốn hạng sau lập luận trong phạm vi đời vị lai, nên có tên mạt kiếp vị kiến. Đây là những điểm mà căn cứ vào đó, ta có thể thấy tất cả sự hổn tạp của tư tưởng giới đương thời.
Như trước đã nói, điểm xuất phát của các tôn giáo đại để: do tâm cầu thoát khổ, do tin tưởng sùng bài, do trí huệ tìm cầu sự thật mà sinh ra. Cho nên sự xuất hiện của 62 môn phái cũng không ngoài ba yếu điễm này. Nhưng dù sao, những học thuyết rối ren hồi đó, cũng là cơ vận để mở mang một thứ tôn giáo canh tân. Thời đại ấy, phải có một bậc vĩ nhân xuất hiện, để đả phá thành kiến giai cấp bất công và phân tích, dung hội tất cả tư tưởng phức tạp, vạch ra một đường lối chánh chân, giải thoát.
Và, đó là lý do Phật giáo ra đời.