Tiết Mục:
I. Đêm thành đạo II. Hai mươi mốt ngày suy nghĩ III. Đức Phật chuyển Pháp luân IV. Nhân duyên giáo hóa V. Đức Thế Tôn vào Niết bàn
Pháp Tạng trích dẫn: Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Phật Học Đại Cương, Kinh Trung A Hàm, Kinh Trường A Hàm, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Phật Thuyết Sơ Phần, Tỳ Nại Gia Tạp Sự, Mâu Ni Sử Lược, Ấn Độ Phật Giáo Sử, Kinh Kim Quang Minh, Kinh Du Hành. Đề yếu: Hai tiết mục đầu, kể lại lịch sử lúc Phật thành đạo và mối suy nghĩ khi Ngài sắp ra độ sinh. Tiết thứ ba, giải thích từ ngữ chuyển pháp luân, ý nghĩa của sự việc này, và sau rốt nói đến ba thứ bậc pháp luân, ý nghĩa của sự việc này, và sau rốt nói đến ba thứ bậc pháp luân, từ thiển cận đi vào thâm thúy. Tiết thứ tư lược thuật đại khái những nơi đức Thế Tôn du hóa và đồ chúng hữu danh của Ngài. Tiết thứ năm tuy có đề cập cả hai chúng tại gia xuất gia, song phần chủ yếu là nói về nếp sống của hàng xuất gia và lối tổ chức của giáo đoàn này. Tiết mục sau cùng, diễn thuật ý nghĩa Niết bàn và những lời di chúc của đức Thế Tôn mà đại yếu là: lấy pháp luật làm thầy, lấy giải thoát làm mục tiêu, lấy tam học làm phương tiện. Tóm lại, sáu tiết mục của toàn chương rút ngắn lại nửa đoạn đời về sau của Phật từ khi thành đạo, đi hóa duyên rồi vào Niết bàn, tuy thô sơ nhưng cũng tạm gọi là đầy đủ. Tiết I: Đêm Thành Đạo Sau khi hỏi đạo các nơi, không vị nào thuyết minh cho được thỏa mãn, Thái tử đi lần đến tụ lạc Ưu Lâu Bệ La (Uruvelà), bên mé sông Ni Liên Thiền (Nairanjanà) thuộc miền đông bắc Ấn Độ. Kế đó, Ngài vào vùng phụ cận là Khổ hạnh lâm, tu chung với hàng ngoại đạo tại núi Tượng Đầu, trong thời gian sáu năm. Mỗi ngày Thái tử chỉ ăn một hạt mè, một hạt đậu, thân thể gầy ốm đến đỗi chỉ còn da bọc xương. Trong sáu năm ấy, Ngài chống đối với các quân ma phiền não như: quân tham dục, quân ưu sầu, quân đói khát, quân ái nhiễm, quân hôn thụy, quân sợ hãi, quân nghi hối, quân sân hận, quân bi thương, quân tự cao, quân tà mạng... Trải qua thời gian dài tinh tấn khổ nhọc như thế mà vẫn không được gì, Thái tử phát kiến hai xu hướng sai lầm: cuộc sống quá phóng túng, hoặc trái lại quá khắc khổ, đều không phải là phương tiện giải thoát. Nhân đó, Ngài xuống sông Ni Liên Thiền tắm gội sạch sẽ, và thọ bát sữa cúng dường của mục nữ Thiện Sanh (Sujàta - Tu Già Đà). Sau khi thọ thực trở lại, khí lực và dung sắc Thái tử dần dần phục hồi. Năm người thị giả thấy thế, tưởng là Ngài đã thối chuyển, liền bỏ đi qua xứ Ba La Nại Tư (Bàrànasì). Thái tử một mình đi đến xứ Phật Đà Già Da (Buđhagayà), rải cỏ Kiết tường làm tòa, ngồi Kiết già nơi gốc cây Tất bát la (Pippala), mặt hướng về phương đông. Trước khi thiền định, Ngài phát thệ rằng: "Nếu không chứng được đạo Vô thượng Bồ đề, thì dù thân này có tan nát, ta cũng quyết không rời khỏi nơi đây". Phát nguyện xong, Thái tử yên lặng vào cảnh thiền tư trong vòng 49 ngày (Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm). Đêm ấy, nhằm hôm mùng tám tháng chạp, sau khi hàng phục ma quân, Thái tử ngồi lặng lẽ trong thiền định. Vào khoảng canh hai, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy biết nghiệp nhân của mình và tất cả chúng sinh nhiều đời về trước, từ việc làm lành làm dữ, cha mẹ quyến thuộc, giàu sang nghèo hèn, thọ yểu xấu đẹp, cho đến mỗi đời tên họ là gì, đều biết rành rẽ. Đến nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy rõ ba cõi sáu đường, những cảnh giới hoặc an vui, hoặc nhơ khổ, chúng sinh hoặc xinh đẹp, hoặc xấu xa, rõ ràng như nhìn trong gương. Và đến lúc sao mai mọc lên, Ngài chứng được Lậu tận minh, dứt sạch phiền não, rõ hết đầu mối nghiệp duyên, tâm thể lặng yên sáng suốt. Bấy giờ ngài đã thành Phật. Nội dung của sự giác ngộ chân chính này, có thể giải đáp vấn đề nhân sinh một cách mỹ mãn. Trước kia Ngài thắc mắc về hai yếu điểm: 1. Già, bệnh, chết và tất cả sự ràng buộc khổ não của kiếp người do đâu mà có? 2. Làm thế nào để giải thoát những điều ấy? Và đây là lời giải đáp: 1. Do Vô minh làm mê mờ bản thể, nên mới có sinh, già, bệnh, chết, lo thương buồn rầu. 2. Muốn được giải thoát phải có chánh kiến dứt trừ phiền não, trở về bản tánh, tức là phải tu theo con đường Bát chánh. Đây là đạo lý căn bản của Phật giáo nguyên thủy, khái quát cả pháp môn Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên. Thái tử Tất Đạt Đa thành đạo vào lúc 35 tuổi (có thuyết nói 30 tuổi), thánh hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai (Sàkyamuni - Năng Nhân Tịch Mặc) (Phật Học Đại Cương). Tiết II: Hai Mươi Mốt Ngày Suy Nghĩ Sau khi thành Chánh giác, trong bảy ngày đầu, đức Thế Tôn ngồi nơi cội cây Tất Bát La (Pippala), Phạm vương đến thỉnh Phật chuyển Pháp luân. Trong bảy ngày thứ hai, Ngài ngồi nơi cội cây A Du Ba La (Ajapala), bấy giờ Ma vương đến khuyên Phật nhập diệt. Trong bảy ngày thứ ba, Ngài ngồi nơi cội cây Mục Chân Lân Đà (Mucilinda), lúc ấy mưa to gió lớn nổi lên, Mục Chân Lân Đà long vương hóa ra bảy đầu, dùng thân che mưa gió cho Phật. Trong vòng 21 ngày đó, bảy ngày đầu đức Thế Tôn yên lặng suy xét và nhận lời thỉnh của Phạm vương; mười bốn ngày sau Ngài dùng Phật nhãn quán sát các căn cơ và phiền não theo thứ bậc thượng, trung, hạ của chúng sinh. Đã quyết ý ra độ sanh, đức Như Lai lại đến nơi cội cây La Xà Gia Hằng Na (Ràjàvatana) ngồi thiền định. Lúc ấy có hai người thương chủ là Đề Vị (Trapusa - Bạt Đà La Lê) và Bà Lỵ Ca (Bhallika - Bạt Đà La Tư Ca) cùng đồng bọn gồm 500 khách buôn đẩy xe đi ngang qua đó. Sau khi thọ thực cúng dường bánh và mật của hai thương chủ, đức Thế Tôn vì họ truyền tam quy: quy y Phật, quy y Pháp và quy y tương lai Tăng. Đây là những người đệ tử tại gia đầu tiên của Phật. Trước tiên, đức thế Tôn ngồi lặng yên không thuyết pháp, bởi nghĩ Phật đạo nhiệm mầu, chúng sinh khó thấu hiểu. Song vì lòng từ bi sâu rộng, Ngài lại nhận lời thỉnh của Phạm vương, quyết y theo chư Phật đời quá khứ, dùng vô số phương tiện dẫn loài hữu tình vào cảnh giới tự chứng của Như Lai. Khi đã có ý định ấy, đức Phật liền nhớ đến hai tiên nhơn căn trí thông huệ là A Ra La Ca Lan và Uất Đà La Ca Ma Tử (Uất Đầu Lam Phất). Hai vị này trước kia có khẩn cầu Phật, nếu thành đạo xin đến hóa độ mình. Song khi dùng đạo nhãn quán sát, Ngài thấy hai vị tiên ấy vừa mới qua đời. Đức Thế Tôn lại xét đến bọn ông Kiều Trần Như, thấy năm người đó đang ở tại vườn Lộc Dã xứ Ba La Nại. Nghĩ đến chư Phật đời quá khứ đều chuyển pháp luân lần đầu tiên nơi đây, nên Ngài liền đứng lên đi đến xứ ấy (Phật Học Đại Cương). Giữa đường, đức Thế Tôn gặp hàng dị học là A Kỳ Bà Ca (Àjìvaka - Hoạt Mạng), nguyên là một giáo đồ của đạo Kỳ Na. Thấy Phật dung sắc an điềm tươi tỉnh, A Kỳ Bà Ca sinh lòng cung kính hỏi: "Ngài học đạo nào, thầy Ngài là ai?" Đức Thế Tôn dùng bài kệ đáp: Ta là bậc tối thắng Đã thoát hết ái dục Không nhiễm một pháp nào Tự giác không có thầy Vì ngộ đạo vô thượng Đạo này không chi hơn Như Lai, thầy trời người Thành tựu, biết tất cả. A Kỳ Bà Ca lại hỏi: "Hiện thời, Ngài đi qua đâu?". Đức Phật đáp: Ta đến Ba La Nại Đánh trống diệu cam lồ Chuyển pháp luân vô thượng Người đời chưa từng chuyển. Khi đức Thế Tôn đến vườn Lộc Dã, bọn ông Kiều Trần Như từ xa trông thấy đều hẹn nhau không đứng dậy đón chào. Nhưng khi Phật vừa tới nơi, bất giác năm người đều đứng lên lễ kỉnh, rồi kẻ thì trải tòa ngồi, người đỡ lấy y bát, song vẫn còn gọi Ngài là Trưởng lão Cù Đàm (Kinh Trung A Hàm). Tiết III: Đức Phật Chuyển Pháp Luân Bấy giờ đức Thế Tôn bảo năm người rằng: "Các ông chớ nên xưng Như Lai là Trưởng lão mà phải gọi là Phật, vì Như Lai đã được Nhất thế trí, đã chứng pháp cam lồ, đã dứt hết nghiệp hữu lậu, đă vắng lặng tự tại. Hãy đến đây, ta sẽ nói phương pháp tu hành, khiến cho các ông hiện đời được trí huệ sáng suốt, dứt hết phiền não, thành tựu phạm hạnh và không còn thọ thân hậu hữu. Năm người nghe nói đều sinh lòng vui mừng, chiêm ngưỡng tôn nhan, lặng yên trông chờ diệu pháp (Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm). Đức Phật nói tiếp: "Người xuất gia có hai thứ chướng: Một là đắm theo dục cảnh không cố gắng thoát ly, đó là không phải là nhân giải thoát. Hai là không chịu suy nghĩ chín chắn, tự làm khổ thân mình để cầu thoát ly, đó cũng không phải là nhân giải thoát. Phải lìa hai lỗi thái quá, giữ theo mực trung mà tinh cần tu tập, mới có thể đến Niết bàn". Kế đó Phật lại ba lần chuyển pháp luân Tứ Đế (thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển). Bọn ông Kiều Trần Như năm người đều chứng quả A La Hán, tám muôn na do tha chư Thiên ở trên không nghe pháp mầu, đều được pháp nhãn tịnh. Lúc ấy năm người đã thấy đạo tích, liền đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con muốn xuất gia tu hành ở trong Phật pháp". Đức Phật bảo: "Thiện tai Tỷ khưu!". Liền đó, râu tóc năm người đều tự rụng, y phục nơi thân hóa thành áo cà sa. Bấy giờ thế gian mới có Tam bảo: đức Phật là Phật bảo, pháp luân Tứ đế là Pháp bảo, năm vị A la hán Tăng bảo (Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả). Chuyển Pháp Luân là thế nào? Chữ "Pháp" nguyên ngữ là Đạt ma (Dharma), có nghĩa: pháp luật, pháp tắc, là chân lý căn bản của muôn sự muôn vật. Chữ "Luân" nguyên ngữ là Chước ca la (Cakra), là môn vũ khí hình như bánh xe của Luân vương dùng khi dẹp giặc. Khi bậc Luân vương có oai đức lớn ra đời, thì trên hư không có bánh xe ấy xuất hiện; vua dùng bánh xe này đem quân binh đi đánh chỗ nào, giặc nơi ấy đều tan rã. Vì thế, cổ thuyết Ấn Độ thường gọi vị vua lớn chinh phục bốn phương là Chuyển pháp luân vương. Giáo pháp của đức Phật nói ra có thể phá tan điều ác cùng tà thuyết của ngoại đạo, nay đem ví giáo pháp ấy như bánh xe của Luân vương, nên khi Phật thuyết pháp gọi là Chuyển pháp luân (Phật Học Đại Cương). Đức Phật bảo: Các đấng Như Lai nói ra điều chi, đều gọi là chuyển pháp luân. Này thiện nam tử! Ví như luân bảo của Thánh vương có công dụng: những kẻ chưa hàng phục, đều có thể hàng phục; những kẻ đã hàng phục, hay khiến cho được an ổn. Pháp của chư Phật nói cũng như thế, vô lượng phiền não chưa điều phục, đều có thể điều phục; đã điều phục, hay khiến cho sinh căn lành. Này Thiện nam tử! Ví như luân bảo của Thánh vương hay tiêu diệt tất cả oán tặc; Như Lai thuyết pháp cũng lại như thế, hay khiến cho các mối giặc phiền não thảy đều lặng yên. Lại này Thiện nam tử! Ví như luân bảo của Thánh vương có thể xoay vần, lên xuống; Như Lai thuyết pháp cũng lại như thế, hay khiến cho những chúng sinh ở các cõi dưới sinh lên nẻo nhân thiên, cho đến khi thành Phật đạo (Kinh Đại Bát Nhã Niết Bàn). Khi ấy, Thắng Nghĩa Sanh Bồ tát thưa: Bạch Thế Tôn! Ban sơ nơi Lộc dã uyển, Ngài chỉ vì hạng người xu hướng về Thanh văn thừa mà chuyển pháp luân Tứ đế. Pháp luân này tuy kỳ đặc ít có, song cũng chưa liễu nghĩa, bởi còn có pháp khác cao thượng, bao quát hơn. Đó là chỗ mà các nguồn tranh luận có thể len lỏi vào. Trong kỳ thuyết pháp thứ hai, Thế Tôn vì hạng người phát tâm Đại thừa, nói tất cả pháp đều không tự tính, không sanh diệt, bản lai là Tự tính Niết bàn vắng lặng. Lối chuyển pháp luân bằng tướng ẩn mật này tuy rất kỳ đặc ít có, song cũng chưa liễu nghĩa, bởi còn có pháp khác cao thượng, bao quát hơn. Đó là chỗ mà các nguồn tranh luận có thể len lỏi vào. Hôm nay, trong kỳ thuyết pháp thứ ba, Ngài vì hạng người cầu Nhất thế thừa, nói tất cả pháp đều không sinh diệt, bản lai là thể Tự tánh Niết bàn vô tự tánh vắng lặng. Lối chuyển pháp luân bằng tướng hiển liễu này, thật kỳ đặc ít có bậc nhất, vì là pháp chân liễu nghĩa, không còn chi cao thượng bao quát hơn. Các nguồn tranh luận cũng không còn chỗ nào len lỏi vào được (Kinh Giải Thâm mật). Tiết IV: Nhân Duyên Giáo Hóa Đức Thế Tôn trải lòng từ bi bình đẳng, không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, tại gia hay xuất gia, Ngài đều tùy theo căn tánh mà hóa độ. Cho đến kẻ tiện dân như Ưu Ba Ly, hàng dâm nữ như Liên Hoa Sắc, kẻ hung ác như Ương Quật Ma La, Ngài cũng đem lòng xót thương mà khuyên dạy. Sau khi bọn ông Kiều Trần Như quay về chánh pháp tại bản xứ, Trưởng lão Gia Xá (Yasas) và nhiều thân hữu cũng quy y Tam bảo. Lúc đó, thế gian đã có sáu mươi vị A la hán. Mùa mưa năm ấy, đức Phật và đồ chúng an cư ở thành Ba La Nại Tư. Sau mùa an cư, đức Thế Tôn cho đệ tử đi các nơi tuyên dương đạo giải thoát, còn chính Ngài thì đi dọc theo mé sông Ni Liên thiền, đến chỗ hàng Bà la môn thờ lửa mà khuyến giáo. Tại nơi đây đức Phật hóa độ được ba anh em: Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (Uruvilvà - Kàsyapa), Na Đề Ca Diếp (Nadì-Kà), Dà Gia Ca Diếp (Gaya-Kà), cùng 1000 đồ chúng của họ (Ưu Lâu 500, Na Đề 250, Dà Gia 250 đệ tử). Kế đó, đức Thế Tôn cùng hàng môn đệ lại sang thành Vương Xá (Rajagrha), thủ đô của nước Ma Kiệt Đà (Bimbisàra). Sau khi nương về chánh pháp, vị quốc vương này sai trưởng giả Can Lan Đà (Karanda) xây dựng ngôi Trúc Lâm tinh xá giữa khu vườn rộng lớn trồng nhiều cây tre râm mát để hiến dâng cho ngôi Tam bảo. Ở bản xứ có hai vị cao đồ của ngoại đạo San Xà Dạ là Xá Lỵ Phất (Sàriputra) và Đại Mục Kiền Liên (Mahàmaudgalyàyana), thông minh tài trí, danh tiếng lẫy lừng. Một hôm đệ tử của Phật là A Thuyết Thị (Mã Thắng tỷ khưu) đi khất thực. Xá Lỵ Phất thấy vị Tỷ khưu này oai nghi đáng kính, liền đón lại hỏi: "Thầy ông là ai?" Mã Thắng đáp: "Thầy tôi là đức Phật Thích Ca Mâu Ni". Xá Lỵ Phất lại hỏi: "Ông ấy dạy những gì?" Mã Thắng dùng bài kệ đáp: Các pháp nhân duyên sinh Cũng theo nhân duyên diệt Nhân duyên sinh diệt này Như Lai hằng tuyên thuyết. Xá Lỵ Phất nghe bài kệ rồi, liền tỏ ngộ, trở về thuật lại với Mục Kiền Liên. Hai người đến quy y Phật và cùng chứng quả A la hán. Hai trăm năm mươi môn đồ của Xá Lỵ Phất và Mục Kiền Liên cũng đều xin quy đầu Phật pháp. Đến lúc này, đức Thế Tôn đă có 1250 vị A la hán thường đi theo Ngài trong các cuộc giáo hóa. Cũng tại bản xứ, đức Như Lai đã hiển thần thông hàng phục lục sư ngoại đạo, khiến cho dân chúng phát tâm tín ngưỡng, rất nhiều người bỏ tục xuất gia. Do đó dư luận phiền phức nổi lên, đức Phật nghe được liền hạn chế: ai muốn xuất gia phải có sự chấp thuận của cha mẹ. Sau thời gian du hóa nơi đây, đức Như Lai trở về thành Ca Tỳ La độ quyến thuộc và hàng Thích chủng. Ngài đã đem vua Tịnh Phạn và các vương tử vào chánh pháp. Trong các hàng vương tử, có chính con của Ngài là La Hầu La (Ràhula), người em khác mẹ là Nan Đà (Nanda), em họ là A Nan Đà (Ànanda), Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), A Nâu Lâu Đà (Anuruđha) đều xin xuất gia theo Phật. Một hôm, đức Điều Ngự ở vường Đa Căn thọ, bà Kiều Đàm Di đến thưa rằng: "Bạch Thế tôn! Người nữ có thể xuất gia làm Bí sô ni trong chánh pháp và chứng được quả thứ tư không?" Đức Như Lai biết ý, bảo: "Di mẫu nên cư gia mặc đồ trắng mà tu theo phạm hạnh". Bà Kiều Đàm Di ba lần thưa thỉnh như thế, song Phật vẫn điềm nhiên. Biết đức Thế Tôn không cho, bà ra ngoài khóc. Thị giả A Nan đi khất thực trở về, thấy thế hỏi ra biết được duyên cớ, liền khuyên bà nên chờ ở ngoài, rồi vào lập lại lời bà Kiều Đàm Di mà thưa hỏi Phật. Đức Thế Tôn bảo: "Người nữ tu hành cũng có thể chứng bốn đạo quả sa môn, nhưng nếu để cho nữ nhân xuất gia, thì chánh pháp không trụ lâu nơi đời. Ví như trong một nhà mà nữ nhiều nam ít, gia đình ấy dễ bị ác tặc phá hoại, và như ruộng lúa nếu bị gió mưa sương tuyết quá nhiều, thì lúa sẽ bị hư hao". Đức Phật còn dùng nhiều thí dụ, nhưng thị giả A Nan lấy cớ di mẫu có công với Phật và nài nỉ mãi. Sau cùng, đức Thế Tôn bảo: "Nếu người nữ muốn xuất gia trong chánh pháp của ta, phải giữ tám phép cung kính: 1. Nên cung kính theo bậc Tỷ khưu Tăng mà cầu xuất gia. 2. Mỗi nữa tháng phải đến nơi chư Tăng cầu dạy bảo. 3. Không được an cư ở chỗ không có chư Tăng. 4. Chư Tăng được quyền gạn lỗi của Ni, nhưng Tỷ khưu Ni không được gạn hỏi và nói lỗi của bên Tăng. 5. Tỷ khưu ni không được giận hờn, mắng trách Tỷ khưu Tăng. 6. Tỷ khưu Ni dù được 100 tuổi hạ, khi thấy Tỷ khưu Tăng mới thọ giới cũng phải cung kính đảnh lễ. 7. Tỷ khưu Ni nếu phạm Học pháp, khi bố tát phải đến trong hai chúng làm pháp Ma na đỏa. 8. Khi an cư xong, Tỷ khưu Ni phải đến trong hai chúng cầu xin tự tứ về ba việc: thấy, nghe, nghi. Do ưng thuận giữ gìn theo bát kính pháp, nên bà Kiều Đàm Di và 500 thị nữ đều được Phật cho xuất gia (Lược thuật theo kinh Phật Thuyết Sơ Phần và Tỳ Nại Gia Tạp Sự). Đức Thế Tôn lại đi đến thành Xá Vệ (Sràvastì) thủ phủ của nước Kiều Tát La (Xá Vệ quốc) mà hóa độ. Vị quốc vương bản xứ là vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), có người con là Thái tử Kỳ Đà (Jeta). Thái tử cùng một bậc phú hào trong nước là Trưởng giả Tu Đạt Đa (Sudatta) rất kính mến đức hóa của Phật. Hai ông phát nguyện hoàn thành ngôi Kỳ Viên Tinh Xá (Jetavana - Vihàra) để cúng dường Tam bảo. Sau khi đức Thế Tôn thành đạo được 5 năm, thì vua Tịnh Phạn qua đời Công nương Gia Du Đà La cũng được Phật độ cho xuất gia làm Tỷ khưu Ni. Trong vòng 45 năm thuyết pháp (có thuyết nói 49 năm), đức Thế Tôn đã đi du hóa khắp các địa phương. Vùng trung tâm là hai nước: Ma Kiệt Đà, Kiều Tát La; phương bắc thì xứ Ca Tỳ La Vệ ở gần triền núi Tuyết; phương Tây thì xứ Câu Diệm Di (Kosambi - nay Kosam), nước Ma Thâu La (Mathurà); phương Đông thì xứ Chiêm Ba (Campà); phương Nam thì xứ Ba La Nại Tư (Bàrànasì). Các địa phận này đều ở lưu vực sông Hằng và sông Kha Cách Ra (Grogra). Hàng Phật tử tại gia hiến dâng cho ngôi Tam bảo rất nhiều tinh xá, lâm viên. Trong đây, những nơi có danh như: Can Lan Đà trúc lâm (Kalandaka Vivapa) ở xứ Ma Kiệt Đà; Thệ Đa Lâm (Jetavana - Vường Kỳ Thọ Cấp Cô Độc) ở nước Xá Vệ. Cũng tại nơi đây, bà Tỳ Xá Khê (Visàkhà) có dâng cúng khu Đông viên (Mahàvana - Đại lâm), trong đó có ngôi giảng đường Lộc Tử Mẫu (Mrgamàtr Pràsàda) rất rộng lớn. Lại, đức Phật cũng thường cư trú những nơi mát mẻ như: Linh Thứu phong (Grdhra Kùta) ở gần thành Vương xá; Ôn Tuyền Lâm (Tapodàràma) ở gần thành Tỳ Xá Ly; Ngưu Giác Sa La Lâm (Gosrnga) ở bờ sông Di Hầu. Tuy nhiên, chỉ có hai Tịnh xá Kỳ Viên và Trúc Lâm là nơi đức Phật hay tới lui giảng đạo nhiều hơn cả. Đệ tử xuất gia của Phật, bậc hữu danh về bên tăng như: Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp Ba, A Nan, Phú Lâu Na, Ưu Ba Ly, Ca Chiên Diên, A Nâu Lâu Đà, Tu Bồ Đề, La Hầu La; trong kinh gọi mười vị này là Thập đại đệ tử. Bậc hữu danh về bên ni như: Kiều Đàm Di, Gia Du Đà La, Liên Hoa Sắc, Lộc Dã. Đệ tử tại gia của Phật, hạng hữu danh về bên nam như: vua Tần Bà Sa La, vua A Xà Thế ở nước Ma Kiệt Đà; vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La; đại thần Kỳ Bà, Trưởng giả Tu Đạt Đa...Hạng hữu danh về bên nữ như: bà Tỳ Xá Khê, bà Vi Đề Hi, bà Thiện Sanh, Mạt Lỵ phu nhân, Thắng Man phu nhân... Đại khái giáo đồ của Phật ở Ấn Độ thời ấy nhiều vô số, thế lực lấn hơn tất cả giáo phái khác. Tuy nhiên, trong một đời giáo hóa, đức Phật đã gặp nhiều sự phản đối của ngoại phái, nhất là giáo chúng đạo Kỳ Na. Trong hàng đệ tử của Phật, cũng có Đề Bà Đạt Đa lập mưu hại ngài ba lần: lần đầu cho người thả voi say rượu, lần thứ hai mướn kẻ bạo ác ám sát, lần thứ ba xô đá trên núi rớt xuống chỗ Phật nằm. Nhưng cả ba lần, mưu sự đều không kết quả, Đề Bà Đạt Đa lại tự xưng là bậc Đại Giác. Ông tự chế ra năm pháp với ý định lấn phá giới luật của Phật. Năm pháp ấy là: 1. Trọn đời mặc áo phấn tảo. 2. Trọn đời chỉ khất thực để nuôi sống. 3. Trọn đời, mỗi ngày chỉ ăn một bữa. 4. Trọn đời duy ở ngoài trời, không nương ngụ chùa, hang, tinh xá. 5. Trọn đời không dùng thịt, cá, sữa, mật và các thứ mỹ vị. Sự phá hoại của Đề Bà Đạt Đa cũng lôi kéo được một số người, và làm trở ngại cho công cuộc giáo hóa của Phật. Do lòng ác đó, không bao lâu ông bị sinh đọa địa ngục (Mâu Ni Sử Lược). Tiết V: Giáo Đồ Đạo Phật Trong thời kỳ độ sinh, đức Thế Tôn một mặt tự lãnh đồ chúng đi du hóa. Mặt khác, Ngài cho các Tăng đoàn, mỗi đoàn do một vị Tỷ khưu đức hạnh cầm đầu, đem đạo pháp truyền bá các nơi. Đệ tử của Phật được chia thành bảy chúng như sau: 1. Tỷ khưu (Bhiksu): Phái xuất gia nam, từ 20 tuổi trở lên, đã thọ giới Cụ túc. 2. Tỷ khưu ni (Bhiksuni): Phái xuất gia nữ, từ 20 tuổi trở lên, đã thọ giới Cụ túc. 3. Sa di (Sràmanera): Phái xuất gia nam đã thọ 10 giới. 4. Sa di ni (Sràmaneri): Phái xuất gia nữ đã thọ 10 giới. 5. Thức xoa ma na (Siksamàna): Phái xuất gia nữ, trong thời gian hai năm học giới để thọ giới cụ túc. 6. Ưu bà tắc (Upàsaka): Phật tử tại gia phái nam. 7. Ưu bà di (Upàsika): Phật tử tại gia phái nữ. Trong đây gồm có năm chúng xuất gia, và hai chúng tại gia. Giáo đoàn đạo Phật gọi là Tăng già (Sangha). Danh từ này có nghĩa: đại chúng hay hòa hợp. Tăng già có nghĩa rộng và hẹp, nên được khu phân thành ba loại: 1. Lý tưởng Tăng già: Hạng này không phân biệt tại gia hay xuất gia, vì ai nấy đều là Phật tử, nếu quyết tâm tu hành, đều có thể chứng ngộ, giải thoát. Lý tưởng tăng già có thể khảo sát theo hai phương diện; về phần lượng, tất cả chúng sinh đều bao hàm ở trong Tăng già; về phần chất, tất cả chúng sinh đều có thể chứng ngộ. 2. Hiện thật Tăng già: Hạng này chỉ dành riêng cho năm chúng xuất gia, đúng với hình thức, danh nghĩa và sự tổ chức. 3. Hội nghị Tăng già: Hạng này căn cứ vào nhân số trong các cuộc tập hợp mà thành lập. Nghi thức của sự tập hợp này cần phải có từ bốn người trở lên mới được gọi là Tăng già, từ ba người trở xuống chỉ gọi là "Quần" (Gana). Hội nghị Tăng già tùy theo pháp sự, có thể chia làm năm thứ: hội nghị bốn người, hội nghị mười người, hội nghị hai mươi người và hội nghị từ hai mươi người trở lên. Sau khi thành đạo, trong mười hai năm đầu, đức Thế Tôn không chế ra giới luật. Nhưng qua khoảng thời gian ấy, vì đồ chúng đông nhiều, không tránh khỏi cảnh có kẻ làm điều phi hạnh, nên đức Phật mới chế định giới luật để làm tiêu chuẩn sinh hoạt và tu hành cho các đệ tử. Những giới pháp ấy là: Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập giới, Thức xoa giới, Cụ túc giới và Bồ tát giới. Hai thứ trước thuộc về giới của chúng tại gia, ba thứ kế thuộc về giới của chúng xuất gia, còn Bồ tát giới thông cả tại gia và xuất gia. Về sự sinh hoạt, người xuất gia còn phải nương vào Tứ y pháp: 1. Y vào khất thực để sinh sống. 2. Y vào áo vải thô để che thân. 3. Y nơi cội cây để ngủ nghỉ. 4. Y vào thuốc hủ nát để chữa bịnh. Trọng tâm của pháp Tứ y là người xuất gia không thiên về cuộc sống xa hoa, mà chỉ lấy sự thanh đạm làm mãn nguyện. Tuy nhiên, tùy địa phương, thời đại và trường hợp, người xuất gia vẫn được thọ dụng: giảng đường, tinh xá, thức ăn mặc, thuốc men của đàn việt cúng dường mà không trái với Tứ y pháp. Vật sở hữu của người xuất gia, có cá nhân sở hữu và Tăng già sở hữu. Cá nhân sở hữu gồm những món đại khái như: áo cà sa, bát, đãy lọc nước, dao cạo, ống kim chỉ, tọa cụ, khăn tay...Tăng già sở hữu gồm những thứ như: vườn cây, giảng đường, tinh xá, giường bàn.... đều là những vật công cộng của toàn thể chư Tăng, ai cũng có quyền sử dụng. Công việc hằng ngày của người xuất gia là: buổi sáng hoặc ngồi thiền, hoặc cùng nhau đàm đạo ôn lại lời Phật dạy. Trước giờ ngọ phải đi khất thực, rồi đem về tinh xá hoặc nơi cội cây thọ trai đúng giữa trưa. Thọ trai xong đi kinh hành, kế chỉ tịnh. Xế qua, hoặc lại chuyên tu hành, hoặc giảng đạo hay nghe thuyết pháp. Buổi tối họp nhau bàn về pháp thoại rồi tham thiền. Đây là sự sanh hoạt theo đoàn thể, còn lối sinh hoạt cá nhân tùy theo người muốn giảng đạo hay chuyên tu lại có phần sai khác. Tóm lại, lối sống hằng ngày của người xuất gia là lấy sự độ mình độ người làm chủ yếu. Bộ phận về quy luật của hàng xuất gia là các loại giới pháp. Ngoài ra, còn có bộ phận khác gọi là Kiền độ (Khandaka), tức là những định chế về cách thức thọ giới, bố tát, an cư, tự tứ, gọi chung là Tăng sự. Trong các thứ thọ giới, riêng về giới Cụ túc, lại có hai hạng: một là hạng do các Trưởng lão Tỷ khưu trong Tăng đoàn truyền, giới tử phải là người sáu căn đầy đủ và 20 tuổi trở lên. Hạng này gọi là Phá kiết sử Tỷ khưu. Hai là hạng do Phật hứa khả, gọi là Thiện lai Tỷ khưu, tức là người có đủ đức tánh Tỷ khưu, thì không theo quy định trên. Về nghi thức Bố tát (Upavasatha), trong mỗi tháng có hai kỳ: tối trời và sáng trăng (hắc nguyệt, bạch nguyệt). Kỳ hắc nguyệt, pháp sự cử hành vào ngày cuối tháng, kỳ bạch nguyệt thì vào ngày trăng tròn. Trong những ngày ấy, người xuất gia vẫn tập riêng theo hai bộ Tăng, Ni ở trong một phạm vi kiết giới. Sau khi bạch yết ma làm lễ bố tát, một vị tụng bạch yết ma làm lễ bố tát, một vị tụng giới bổn, còn bao nhiêu lặng yên ngồi nghe. Tất cả đều tự phản tỉnh, nếu ai phạm vào điều luật nào, phải ra trước đại chúng tỏ bày, sám hối. Theo thời tiết, ở Ấn Độ mỗi năm có ba mùa, mỗi mùa có bốn tháng: 1. Mùa Nóng Tháng thứ nhất Chaitra Tháng thứ hai Vaisàkha Tháng thứ ba Jyeshtha Tháng thứ tư Àshàda 2. Mùa Mưa Tháng thứ năm Sràvan Tháng thứ sáu Bhàdrapada Tháng thứ bảy À'svina Tháng thứ tám Kàrttika 3. Mùa Lạnh Tháng thứ chín Màrga'sirsha Tháng thứ mười Pushya Tháng thứ mười một Màgha Tháng thứ mười hai Phalguna Xứ Ấn Độ thuộc về vùng nhiệt đới, nên mỗi năm vào mùa mưa, cây cỏ nảy mầm, côn trùng sinh dục. Hơn nữa, đường xá thường lầy lội, các khe suối nước lũ dâng cao có khi tràn ngập cả lối đi. Vì không muốn giẫm chết sinh vật, và để thuận tiện cho sự tu hành, mỗi năm vào mùa này, đức Phật dạy hàng đệ tử xuất gia tùy theo địa phương, hội họp lại ở yên một nơi trong vòng ba hoặc bốn tháng. Quy chế này gọi là Vũ kỳ an cư (Varsàvasàna). Đến ngày cuối của khóa an cư, là ngày làm lễ Tự tứ (Pravàrana). Tự tứ là trong thời gian an cư tu tập, nếu có vị xuất gia nào phạm lỗi mà trong đại chúng thấy, nghe, hoặc nghi ngờ, thì các vị khác được phép tự do cử tội. Đây cũng là một quy chế để Tăng đoàn được thêm nghiêm chỉnh, tinh tấn trên đường tu hành. Về phần giáo đồ tại gia, nếu ai có thọ Tam quy, kẻ ấy được chánh thức vào đoàn thể Phật tử. Và tùy theo khả năng, nếu vị nào có thể giữ Ngũ giới, Bát giới hay Bồ tát giới, thì đến Tăng đoàn mà cầu xin truyền thọ. Bổn phận chung của hàng Phật tử tại gia, là giữ quy giới tu hành, và tùy phận đem hết năng lực ủng hộ chánh pháp (Lược trích Ấn Độ Phật Giáo Sử, Phật Học Đại Cương). Tiết VI: Đức Thế Tôn Vào Niết Bàn Khi nghe đức Thế Tôn bảo rằng mình sắp nhập diệt, Diệu Tràng Bồ tát khởi lòng nghi: "Có hai nhân duyên được sống lâu: không giết hại và bố thí các thức ăn cho chúng sinh. Đức Thích Ca Thế Tôn đã tu thập thiện trong vô lượng kiếp, tại sao Ngài chỉ sống có tám mươi tuổi?" Trong khi Bồ tát nghĩ như thế, do oai thần của Phật, tịnh thất ấy bỗng hiện ra rộng rãi trang nghiêm như cõi tịnh độ. Trên hư không, phương Đông có Phật Bất Động, phương Nam có Phật Bảo Tướng, phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc có Phật Thiên Cổ Âm, ngồi nơi tòa diệu liên hoa, đồng thuyết kệ rằng: Có thể biết điểm giọt Của tất cả biển lớn Không ai đếm biết được Thọ lượng của Thích Ca. ...Có thể biết số bụi Của tất cả đại địa Không ai đếm biết được Thọ lượng của Thích Ca. Bốn đức Thế Tôn lại bảo: Này Thiện nam tử! Chúng sinh ở cõi Ta Bà căn lành kém mỏng, có nhiều sở chấp: nhân, ngã, đoạn, thường...Vì muốn cho họ được lợi ích, mau sinh chánh giải, nên Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Thiện nam tử! Đức Như Lai đây muốn cho chúng sinh thấy Phật vào Niết Bàn, sinh lòng thương lo mến tiếc, nghĩ rằng khó còn được gặp, mà đối với chánh pháp phát tâm siêng năng đọc tụng thọ trì, vì người giảng giải, không còn hủy báng, nên Ngài thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Tại sao thế? Nếu chúng sinh thấy Như Lai không vào Niết Bàn, tất không sinh lòng cung kính, không sinh niệm khó gặp, không siêng năng đọc tụng thọ trì vì người giảng giải; vì lẽ hằng thấy Phật nên ỷ lại xem thường. Ví như hoa Ưu đàm được người quí trọng vì lâu năm mới nở một lần, nhân duyên sớm nhập diệt của đức Thích Ca Như Lai, ý nghĩa cũng như thế (Kinh Kim Quang Minh). Một hôm, đức Thế Tôn cùng thị giả A Nan Đà ở ngôi giảng đường tại thành Ba Tra Lỵ Phất (Hoa Thị thành). Sau khi đi khất thực trở về dùng ngọ trai xong, đức Phật đến ngồi nơi cội cây Cung chế để, rồi gọi A Nan Đà mà bảo rằng: "A Nan! Thành này vật sản hoa lệ, cây cối tốt tươi, ao suối trong mát, hiện tại tuy đơn sơ, nhưng tương lai tất sẽ hưng thạnh. Đây là một kỳ cảnh của châu Nam Thiệm Bộ. Này A Nan! Nếu kẻ nào chứng pháp Tứ thần túc, có thể tùy ý trụ thọ một kiếp cho đến nhiều kiếp. Như Lai đã chứng pháp Tứ thần túc, nên muốn sống lâu một kiếp hay nhiều kiếp, đều được tự tại". Phật nói như thế ba lần, song Ngài A Nan vẫn làm thinh. Lúc ấy, Thiên ma Ba Tuần đến đảnh lễ Phật và thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Thời gian trước Ngài đã nói: khi nào trong hàng môn đệ có nhiều kẻ thông biện đủ khả năng tuyên dương chánh pháp dẹp phá tà luận, thì ngài sẽ vào Niết bàn. Hiện thời những điều kiện ấy đã có đủ, xin đức Thế Tôn nên sớm nhập diệt". Đức Phật bảo: "Người hãy gắng chờ ít lâu, ba tháng sau Như Lai sẽ vào cảnh Vô dư y đại Niết bàn". Thiên ma Ba Tuần nghe Phật hứa nhận, sinh lòng vui mừng, liền ẩn thân trở về thiên giới. Sau khi nói lời ấy, đức Thế Tôn liền nhập định, thâu ngắn thọ mạng trong vô lượng kiếp chỉ còn lại ba tháng. Lúc đó, đất đai chấn động, tinh quang rơi rớt khắp bốn phương, thiên cổ trên hư không tự nhiên kêu lên vang động. Đức Thế Tôn xuất định, nói bài kệ rằng: Tất Cả pháp sai biệt Như Lai đã diệt trừ Do đó được định tâm Như chim bay tự tại. Sau khi ấy, đức Phật cùng đồ chúng vượt qua sông Hằng, vào thành Tỳ Xá Ly. Nơi đây, nàng kỹ nữ Yêm Ma La dâng cúng khu vườn Nại thọ lâm và được Phật hóa độ. Bấy giờ đã đến mùa mưa, đức Thế Tôn muốn an cư ba tháng ở Trúc lâm thôn (Veluvana), một vùng phụ cận của đô thành. Nhưng gặp năm mất mùa, e sự cúng dường không được đầy đủ, Phật liền giải tán đại chúng, rồi riêng mình ở tại đó với thị giả A Nan. Trong thời gian tạm trú nơi đây, ngài A Nan thấy kim thể không an, biết Phật sắp vào Niết bàn, liền thưa thỉnh cách thức y chỉ về sau. Đức Phật bảo: "Ông nên lấy chính mình làm nơi quy y, lấy pháp làm nơi quy y, đừng nương theo ai khác bên ngoài. Hãy tự xét, xem mình tinh tấn hay giải đải, dứt trừ sự tham nhiễm lo buồn theo thế gian. Hãy quán thân, thọ, tâm pháp, thấu triệt lý bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, để đối trị bệnh chấp tịnh, lạc, thường, ngã, theo quan niệm chúng sinh. Đây là chân lý tự quán của ta khi thành chánh giác và cũng là căn bản quy y của người học đạo". Mãn ba tháng hạ, đức Thế Tôn đến ở Trùng Các giảng đường tại bản xứ. Ngài bảo các đệ tử: "Những giáo pháp ta đã nói khi trước như: tứ niệm trụ, tứ chánh cần, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát thánh đạo, các ông nên thường suy nghĩ tu tập, chớ nên biếng trễ. Các ông phải gắng tu tịnh hạnh, giữ gìn cấm giới để làm phước lợi cho thế gian" Rồi từ đó, đức Phật lại đi về phía Bắc, qua thôn Lộ Càn Trà (Bhandagama). Tại nơi đây, Ngài lại khuyên đồ chúng: "Các ông nên biết, nếu người tu không thông đạt bốn pháp, sẽ hằng bị đọa vào nẻo luân hồi. Bốn pháp ấy là gì? Chính là giới, định, huệ và giải thoát". Từ thôn Lộ Càn Trà, đức Thế Tôn đi vào xứ Ba Bà (Pàvà). Ở chốn này, Ngài thọ thức ăn nấu bằng nấm chiên đàn của người thợ bạc tên là Thuần Đà (Cunda), rồi đi sang thành Câu Thi na Yết La đến chỗ hai đôi cây Sa la bên mé sông Hi Liên Nhã Bạt Để (Kim hà). Đêm ấy, có người ngoại đạo là Tu Bạt Đà La (Subhadra) đi đến chỗ đức Thế Tôn, nghe thuyết pháp và chứng Thánh quả. Đây là vị đệ tử sau rốt của Phật. Đức Thế Tôn gọi A Nan và bảo: "Thuở xưa ta làm Chuyển luân vương, đã xả thân sáu lần nơi đây, cho nên nay Như Lai cũng nhập Niết bàn tại chỗ này". Ngài lại bảo đồ chúng: "Các ông đối với Phật, Pháp, Tăng bảo và Tứ thánh đế có điều gì nghi thì nên hỏi, ta sẽ giải đáp cho". Trong đại chúng vì không nghi vấn nên không ai hỏi. Bấy giờ đức Thế Tôn do lòng đại bi, tự cởi áo trên bày kim thân ra, và nói: "Này Tỷ khưu! Các ông nên nhìn kỹ thân tướng của Như Lai, vì chư Phật cũng như hoa Ưu Đàm Bát La rất khó gặp gỡ". Khi sắp nhập diệt, đức Phật còn bảo: "Các ông chớ cho rằng mình sẽ mất thầy giảng dạy. Sau khi ta nhập Niết bàn, những pháp (Dharma) và Luật (Vinaya) của ta đã nói, là thầy của các ông. Các pháp đều vô thường, có sinh tất có diệt; các ông hãy tinh tấn chớ nên biếng trễ. Đây là lời khuyên dạy sau rốt của ta". Khi nói xong lời ấy, đức Thế Tôn nhập tam muội theo thứ lớp chín lần thuận, chín lần nghịch, từ Sơ thiền đến Diệt tận định; rồi từ Sơ Thiền ra, Phật vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, và Niết bàn ở nơi đó. Lúc ấy, vào khoảng giữa đêm Rằm tháng hai, Ngài được tám mươi tuổi (Đối chiếu các kinh: Đại Niết Bàn, Du Hành, Trường A Hàm).
|