Chương 12- Sự phát triển của Đại thừa

19 Tháng Sáu 20169:12 CH(Xem: 2846)
Chương 12- Sự phát triển của Đại thừa

Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tịnh Liên Đồ Thư Quán Tái Bản Lần Thứ Nhất tại Hoa Kỳ 2002

 

 

 

Thiên Thứ Nhất
Chương Mười Hai
Sự Phát Triển Của Đại Thừa

 Tiết Mục:

I. Bốn bậc long tượng của Đại thừa. 

II. Chư pháp thật tướng luận. 

III. Các luận sư thuộc hệ thống Thật tướng luận. 

IV. A lại da duyên khởi luận. 

V. Các luận sư thuộc hệ thống Duyên khởi luận. 

Kinh sách tham khảo: Trung Quán Luận, Trí Độ Luận, Hải Triều Âm Văn Khố, Ấn Độ Phật Giáo Sử Lược, Phật Học Đại Cương.

Đề yếu: Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, tổng thể của nhất tâm có hai môn: Chân như và Sinh diệt. Chân như môn thuộc về Bản thể quan, Sinh diệt môn thuộc về Hiện tượng quan. Để phá quan niệm chấp có và thuyết minh chân tâm theo Bản thể quan, hai ngài Mã Minh, Long Thọ đề xướng thuyết Chư pháp thật tướng. Với mục đích trừ quan niệm chấp không và thuyết minh chân tâm theo Hiện tượng quan, hai ngài Vô Trước, Thế Thân đề xướng thuyết A lại da duyên khởi. Nhưng, Thật tướng chẳng phải thiên không, Duyên khởi chẳng phải trệ hữu, cả hai đều là thể diệu hữu chân không. Đây là điểm cốt yếu của hai hệ thống Đại thừa Phật giáo.

Kế thừa tư tưởng hai hệ thống này, tuy có nhiều luận sư, nhưng hiển trứ hơn cả, bên Không tông có hai ngài: Đề Bà, Thanh Biện, bên Hữu tông có hai ngài Hộ Pháp, Giới Hiền. Về sau, các chi phái Đại thừa tuy phát xuất ra nhiều, nhưng cũng không ngoài hai hệ thống Không và Hữu. Cho nên trong bản chương chỉ đưa ra Thật tướng luận và Duyên khởi luận để đại biểu cho sự phát triển của Đại thừa Phật giáo, chính là do chủ ý trên đây.

Muốn cắt dây leo, nên từ cội gốc; căn bản đã thông, chi mạt cũng thông. Tôn chỉ này, các học giả tất cả đã biết rõ.

Tiết I: Bốn Bậc Long Tượng Của Đại Thừa

Tư tưởng Đại thừa Phật giáo ở Ấn Độ, tổng yếu có hai hệ thống: hệ thống Bát Nhã chủ trương thuyết Chư pháp thật tướng, hệ thống Du Già chủ trương thuyết A lại da duyên khởi. Khai sáng lập thuyết trước, có hai ngài: Mã Minh, Long Thọ. Khởi xướng lập thuyết sau, có hai ngài: Vô Trước, Thế Thân. Nay tưởng cũng nên lược thuật qua sự tích của bốn đại học giả ấy:

1. Ngài Mã Minh (Asvaghosa): Niên đại xuất thế của Mã Minh Bồ tát, có nhiều thuyết khác nhau. Lại căn cứ nơi luận Thích Ma Ha Diễn thì có đến sáu ngài Mã Minh. Nhưng theo sự nhận xét của phần đông các nhà học Phật, thì trước sau chỉ có một Mã Minh Bồ tát. Và, riêng về thời đại trứ tác, bộ Đại Thừa Khởi Tín thuyết ngài xuất thế khoảng sau Phật diệt độ 600 năm, là có phần chính xác hơn hết.

Ngài Mã Minh dòng dõi Bà la môn, người thành Sa Kỳ Đa (Sakera) thuộc xứ Trung Ấn. Ngài là bậc học vấn uyên bác, biện tài vô ngại, văn chương, thi phú hơn người, thông suốt Phệ Đà cùng những môn học phụ thuộc, rành về các giáo quỷ chân ngôn. Ngài có những biệt danh là: Nan Phục, Nan Phục Hắc, Dõng Mẫu Nhi, Phụ Nhi, Pháp Thiện Hiện, Thể Huệ... Ban sơ ngài học theo ngoại đạo, biện luận thắng tất cả các học giả Phật giáo tại nước Ma Kiệt Đà. Nhưng sau gặp đại đức Hiếp Tôn Giả và Phú Na Dạ Sa (Pùrnayasas) ngài bị chiết phục, suy kính hai vị ấy làm bậc thầy. Khi đã nương về chánh pháp, ngài du hành các miền Trung, Bắc Ấn, đem tài hùng biện chiết phục ngoại đạo, tuyên dương Phật giáo, thanh danh vang dội khắp nơi. Tương truyền ngài có tài vừa đàn vừa ca, làm cho loài ngựa cảm động chảy nước mắt, kêu lên tiếng bi thương. Và, lúc vua Ca Nị Sắc Ca tiến đánh thành Hoa Thị, đòi một trong hai điều kiện: dâng ngài Mã Minh, hoặc nộp vàng chín ức. Chủ thành không có đủ vàng, đành phải đem ngài Mã Minh ra thay thế. Khi vua được ngài Mã Minh, liền rước về Bắc Ấn để hoằng dương Đại thừa Phật giáo. Có thuyết nói, trong thời kỳ kiết tập kinh điển lần thứ tư, ngài Mã Minh đã tham gia với phận sự nhuận sắc văn chương.

Về phần trứ thuật, tương truyền ngài có soạn hơn 100 bộ kinh luận, nhưng hiện nay chỉ còn mười tác phẩm như sau: Phật sở Hành Tán, Đại Trang Nghiêm Luận Kinh, Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo Kinh, Lục Thú Luân Hồi Kinh, Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng, Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh, Đại Tôn Đại Huyền Văn Bản Luận, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bách Ngũ Thập Tán Phật Tụng, và Bản Sanh Mang Luận. Trong bài tựa quy kính của Đại Trang Nghiêm Luận Kinh, ngài đã viết:

Phú Na, Hiếp tỷ khưu 

Các học giả Di Chức 

Chúng Tát Bà Thất Bà 

Bậc Ngưu Vương chánh đạo 

Những luận sư như thế 

Nay tôi đều kính thuận. 

Phú Na Dạ Sa và Hiếp Tôn Giả là bậc thầy của ngài. Di Chức là dịch âm của danh từ Mahìsàsakà, tức Hóa Tha Bộ. Tát Bà Thất Bà là dịch âm của danh từ Sarvàtivàsda, tức Nhất Thế Hữu Bộ. Ngưu Vương, có học giả cho là dịch âm của danh từ Kaukkutika, tức Kê Dẫn bộ. Xem thế thì biết sở học của ngài kiêm cả Đại thừa, Tiểu thừa. Bài tựa quy kính trên biểu lộ thái độ khoan hòa của một nhà học Phật, biết dung hợp tất cả giáo lý không cuộc hạn tông phái nào, cốt để tìm cầu chỗ hay, gạt bỏ chỗ kém. Có thể cho tư tưởng của ngài Mã Minh như một chiếc cầu nối liền giữa hai lãnh vực Tiểu thừa, Đại thừa vậy.

2. Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna): Ngài là người xứ Tỳ Đạt Bà (Vidharbha, có chỗ gọi Bối Liệp Nhĩ - Berar) ở Nam Ấn, thuộc dòng Bà la môn, ra đời vào khoảng 700 năm sau Phật diệt độ. Ngài có biệt danh Long Mãnh hoặc Long Thắng, bẩm tánh kỳ ngộ, trí huệ sâu xa, xem nghe một lần là nhớ tất cả, không cần phải hỏi lại. Lúc thiếu thời, ngài đã tinh thông các kinh điển Phệ Đà, cùng những môn thiên văn, địa lý, y học, toán số và nhiều học thuật khác. Nhưng các môn học đó không làm cho tự tâm được thỏa mãn, nên ngài quyết chí xuất gia tìm đạo lý cao siêu trong Phật giáo. Lúc đầu ngài học về giáo lý Tiểu thừa, sau lại nghiên cứu sang Đại thừa Phật giáo. Tương truyền rằng sau khi xuất gia, trong vòng ba tháng ngài đã đọc hết ba pháp tạng, muốn tìm kinh khác mà không được. Nhân khi du hành đến Tuyết Sơn, ngài gặp một vị Tỷ khưu truyền dạy cho các kinh điển Đại thừa. Thầy của ngài, tục gọi Tuyết sơn lão tỳ khưu, chính là tôn giả La Hầu La Bạt Đà La (cùng với đệ tử ngài Đề Bà tên đồng mà người khác). Khi đã thông hiểu giáo lý thâm huyền, vì chí nguyện hoằng pháp, ngài đi du hóa các nơi, dùng tài biện luận hàng phục ngoại đạo, và lập thành hệ thống Đại thừa Phật học. Địa điểm hoạt động của ngài có rất nhiều nơi, những chỗ trung tâm truyền bá là nước Kiều Tát La (Kosala). Vị quốc vương ở bản xứ vì mến đức độ của ngài, nên phát tâm quy y Phật giáo và kiến tạo một đại tinh xá ở Hắc Long Sơn (Bhràmaragiti) để cho ngài trụ trì. Tương truyền ngài dã dùng thần thông đi xuống Long cung, trong ba tháng đọc thuộc hết lược bản kinh Hoa Nghiêm, gồm mười vạn bài kệ. Sau ngài lại đến thiết tháp ở Nam Thiên Trúc, được Kim Cang Tát Đỏa Bồ tát truyền thọ cho kinh Đại Nhựt, nên tinh thông cả Trì minh tạng. Vì thế người đời gọi ngài là bậc xướng đạo cả hai giáo pháp Hiển và Mật. Về công trình hoằng dương Phật pháp, ngài được xem như đức Thích Ca tái hiện.

Trên lãnh vực trứ thuật, Long Thọ Bồ tát đã soạn ra nhiều bộ luận. Tựu trung các bộ như: Trung Quán Luận, Đại Trí Độ Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận... là được lưu hành hơn cả. Giáo nghĩa của ngài đề xướng tuy nhiều, nhưng hiển trứ hơn cả là thuyết Bát bất trung đạo và thuyết Vãng sanh. Bát bất trung đạo là: bất sinh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ. Trung đạo đây không phải ý nghĩa trung gian giữa sự có không, sinh diệt, đoạn thường, mà là ý nghĩa vượt ra ngoài vòng tương đối sai biệt để hiển lộ thể chân không diệu hữu, thuộc trường hợp dứt bặt lời nói và sự suy nghĩ. Còn thuyết Vãng sanh, như nơi phẩm Dị Hành trong luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa, ngài đã nói: "Từ địa vị phàm phu cho đến ngôi Vô thượng chánh giác có hai đường lối tu tập: nan hành dạo và dị hành đạo. Nan hành đạo là dụng công khắc khổ tu trì chẳng tiếc thân mạng, ngày đêm tinh tấn, mà được bất thối chuyển. Dị hành đạo là dùng phương tiện niệm danh hiệu chư Phật, mà được bất thối chuyển mau lẹ dễ dàng. Nan hành đạo thuộc về tự lực; Dị hành đạo kiêm cả tự lực và tha lực". Trong Dị hành đạo, ngài lại thiên trọng về phần niệm thánh hiệu Phật A Di Đà. Hai lập thuyết do Ngài đề xướng, đã ứng hợp với lời huyền ký của đức Phật trong kinh Lăng Già: "Sau xứ Nam Thiên Trúc. Có danh đức Tỷ khưu. Tôn hiệu là Long Thọ. Hay phá hữu, vô tông. Tuyên dương pháp đại thừa. Trong thế gian hiển ngã. Được Sơ hoan hỷ địa. Sinh về cõi Cực Lạc".

3. Ngài Vô Trước (Asanga): Sau Phật diệt độ 900 năm, có hai bậc đại học giả Phật giáo ra đời. Đó là ngài Vô Trước và Thế Thân. Sinh quán của hai ngài ở tại thành Bá Lộ Sa (Purasapura), thuộc nước Kiền Đà La miền Bắc Ấn. Hai ngài nguyên dòng dõi Bà la môn, thân phụ là Kiều Thi Ca (Kausika), thân mẫu là Tỷ Lân Trì (Virinci). Vô Trước có ba anh em, ngài là anh cả, Thế Thân là em lớn, Tỷ Lân Trì Tử (Virincivaisa) là em út. Cả ba anh em đều xuất gia đầu Phật. Ban sơ ngài Vô Trước tin theo đạo Bà la môn, sau bỏ Bà la môn đi xuất gia, học tập đạo pháp Tiểu thừa thuộc Hữu Bộ. Nhưng vì không mãn nguyện với giáo lý ấy, ngài lại chuyển sang nghiên cứu kinh điển Đại thừa. Tương truyền, ngài đã dùng sức thần thông lên cung trời Đâu Suất (Tusita) để nghe Bồ tát Di Lặc (Maitreya) giảng về pháp Đại thừa. Sau khi đó, ngài lại thỉnh Bồ tát giáng xuống hạ giới, ngự tại một giảng đuờng thuộc nước A Du Đà (Ayodhyà) miền Trung Ấn. Trong khoảng thời gian bốn tháng, cứ về đêm thì ngài nghe Bồ tát thuyết pháp, ban ngày lại đem những điều đã nghe được tuyên giảng cho đại chúng. Và cũng trong vòng bốn tháng. Bồ tát Di Lặc đã nói xong năm bộ đại luận: Du Già Sư Địa Luận, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, Thập Địa Kinh Luận, Trung Biên Phân Biệt Luận, Kim Cang Bát Nhã Luận.

Ngài Vô Trước cũng có nhiều trứ tác riêng, gây thành hệ thống Pháp Tướng Duy Thức Học. Nơi trung tâm hoằng pháp của ngài là hai nước A Du Đà và Ma Kiệt Đà. Ngài thọ được 75 tuổi.

4. Ngài Thế Thân (Vasubandhu Bà Tu Bàn Đầu): Sinh sau Vô Trước luận sư độ hai mươi năm, Thế Thân Bồ tát là một bậc thông minh tài tuấn. Ngài xuất gia theo Hữu Bộ, đến xứ Ca Thất Di La học giáo nghĩa Đại Tỳ Bà Sa, rồi trở về bản quốc là nước Kiền Đà La thuộc miền Bắc Ấn, soạn ra bộ Câu Xá Luận. Lúc đầu ngài hết sức hoằng dương giáo lý Tiểu thừa, bài bác Đại thừa. Sau nhờ anh là Vô Trước điểm hóa, ngài được khai ngộ, trở lại tuyên dương Đại thừa Phật giáo. Trước sau ngài trứ tác tất cả 500 bộ luận Tiểu thừa và 500 bộ luận Đại thừa. Căn cứ theo những bộ đã dịch sang chữ Hán, ta có thể chia tư tưởng học thuật của ngài thành năm thời kỳ: Tiểu thừa Hữu Bộ, Đại thừa Duy Thức, Kim Cang Bát Nhã, Pháp Hoa Niết Bàn và Tha Lực Tịnh Độ.

Sau các đại học giả: Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, ta có thể nói Thế Thân luận sư là một ngôi sao sáng chói nhất trên nền trời Phật học ở Ấn Độ thời bấy giờ. Những đặc sắc của ngài cũng đi song song với Bồ tát Long Thọ. Nếu Bồ tát Long Thọ là bậc hưng long Đại thừa Phật giáo ở thời đầu, thì ngài là bậc trung hưng giáo pháp này ở thời giữa. Bồ tát Long Thọ hoằng truyền Phật giáo ở Nam Ấn, ngài thạnh truyền chánh pháp ở Bắc Ấn. Bồ tát Long Thọ kế thừa hệ thống giáo lý của Đại Chúng Bộ, ngài kế thừa hệ thống tông nghĩa của Thượng Tọa Bộ. Bồ tát Long Thọ xương minh tư tưởng Chư Pháp thật tướng thuộc lập thuyết "Không", ngài đề xướng tư tưởng A lại da duyên khởi thuộc lập thuyết "Hữu". Bồ tát Long Thọ vang danh là Thiên bộ luận chủ, ngài cũng nổi danh là Thiên bộ luận sư.

Qua thời gian du hóa đó đây, cuối cùng Thế Thân luận sư trở về nhập diệt tại nước A Du Đà, hưởng thọ 80 tuổi.

Tiết II: Chư Pháp Thật Tướng Luận

Thuyết Thực tướng là một lối lý luận nói rõ thực thể của vũ trụ, đại để cũng như thuyết thực tại (réalisme) thông thường, thực tại thuộc về trực quan giới, không thể đem lời nói và văn từ mà diễn tả được. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng những tỷ dụ tương tợ để hình dung nó. Trung Quán Luận nói:

Các pháp nhân duyên sinh 

Ta nói tức là không 

Đó chính là giả danh 

Cũng là nghĩa trung đạo. 

Bài kệ này thuyết minh: bởi các pháp do nhân duyên sinh ra, nên nó là không, giả, và chính là trung đạo thật tướng. Để hiểu nghĩa này rõ ràng hơn, ta hãy quay sang phân tích về đạo lý "Bát bất".

Các pháp đã do nhân duyên hòa hợp mà sinh, nên chỉ là giả huyễn chớ không phải thật có; nếu quả thật có, tất ưng không đợi nhân duyên mới sinh. Vì nghĩa không phải thật sinh, nên gọi là "bất sinh". Khi thế lực nhân duyên suy tàn, tất cả các pháp phải diệt; nhưng trước kia đã không sinh, thì nay đâu thật có diệt, vì thế nên gọi là "bất diệt". Các pháp do nhân duyên mà có sinh trưởng đổi thay nên gọi là "bất thường". Vạn hữu trước có sau không gọi là đoạn, nay đã không thật có, nên cũng chẳng có chi là đoạn. Đây là nghĩa "bất đoạn". Các pháp sinh khởi trước sau chẳng giống nhau, như mộng với lúa không phải là một, đó là nghĩa "bất nhứt". Nhưng nếu quả mộng với lúa không phải là một, thì mộng không ưng sanh lúa, mà phải sanh cái khác; nay vẫn thấy sanh lúa, nên gọi là "bất dị". Vạn hữu đã như huyễn, thì sự đến đi dường như trong mộng không có thiết thật, nên gọi là "bất lai, bất khứ".

Trước mắt chúng ta, xưa nay các đối tượng vẫn hiện bày ngàn hình muôn trạng, tại sao ngài Long Thọ dùng thuyết "bát bất" để phủ nhận? Bởi theo quan niệm của thế gian thì các pháp có sanh, có diệt, có thường, có đoạn, có một, có khác, có lại, có đi; quan niệm này thuộc về lối mê chấp trên giả tướng. Để phá quan niệm ấy và hiểu rõ thật tướng trung đạo, ngài Long Thọ dùng tám thứ không là: không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không một, không khác, không lại, không đi. Thế thì sự phủ nhận trên, chỉ có tính cách bác phá quan niệm chấp tướng, chớ không phải thật phủ nhận các tướng, bởi hằng sa muôn pháp là diệu thể bồ đề. Đây là lối dùng không môn đi vào thật tướng.

Đại Trí Độ Luận nói: "Trong Phật pháp có nhị đế, là: thế đế và đệ nhất nghĩa đế. Vì thế đế nên Như lai nói có chúng sinh, vì đệ nhất nghĩa đế nên lại bảo chúng sinh không thật có". Trung Quán Luận cũng nói: "Chư Phật y theo nhị đế mà thuyết pháp cho chúng sinh, đó là thế tục đế và đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không biết mà phân biệt nhị đế, tất không thể hiểu nghĩa chân thật của đạo pháp nhiệm mầu". Căn cứ hai đoạn trên, ta thấy thế đế hay đệ nhất nghĩa đế đều là pháp giả lập để đối trị bệnh mê của chúng sinh, nếu chấp một trong hai phương diện thì không làm sao hiểu được Phật pháp. Như cái nhà do nhân duyên kèo, cột, vách, ngói hợp thành, nếu bảo đó là thật có hay thật không, đều là quan niệm trên mê chấp. Cho nên chư Phật không rời các pháp mà nói thật tướng, không động thật tướng mà lập các pháp. Vì thế, nhị đế tuy hai mà chẳng phải hai, chỉ vì phàm phu lầm diệu hữu là vọng hữu, nhị thừa mê chân không làm thiên không, nên mới dùng phương tiện để đối trị vậy thôi.

Như trên, hai đạo lý bát bất và nhị đế là tư tưởng căn bản của Chư pháp thật tướng luận. Thật tướng này, như trước đã nói, chỉ cùng thí dụ tương tợ để ngộ nhập, tuyệt không thể dùng lời nói cùng văn tự miêu tả được. Cho nên, Duy Thức tông gọi là "Phế thuyên đàm chỉ". Tam Luận tông gọi là "Ngôn vong lự tuyệt"; Thiên Thai tông gọi là "Bách phi câu khiển, tứ cú giai ly"; Thiền tông gọi là " Bất lập văn tự"; Hoa Nghiêm tông gọi là "Quả phần bất khả thuyết"; Chân Ngôn tông gọi là "Xuất quá ngôn ngữ đạo"; Tịnh Độ tông gọi là "Bất khả xưng, bất khả thuyết, bất khả tư nghị". Muốn hiểu Thật tướng, chúng ta nên thầm hội ý vị của những câu trên.

Tiết III: Các Luận Sư Thuộc Hệ Thống Thật Tướng Luận

Lập thuyết Chư pháp tướng pháp nguyên từ hệ thống Đại Chúng Bộ, do hai ngài Mã Minh, Long Thọ đề xướng, và căn cứ truyền giáo khởi thủy ở Nam Ấn. Thừa kế tư tưởng này, có ngài Đề Bà (Àryadeva Thánh Thiên). Đề Bà luận sư ra đời vào thế kỷ thứ III, sinh quán ở Tích Lan, sau qua Nam Ấn làm đệ tử của Bồ tát Long Thọ. Ngài có viết ra bộ Quảng Bách Luận, thường dùng lý thuyết "không" để hàng phục ngoại đạo, sau bị họ oán sợ mà ám sát. Đệ tử của luận sư Đề Bà là La Hầu La Bạt Đà La (Ràhula bhadra), gọi tắt là La Hầu Đa La, lại kế truyền học thuyết của thầy. Ngài là bậc thông minh, có tài biện luận, thường đến các nước ở vùng Trung Ấn để tuyên dương giáo lý Đại thừa. Chính ngài đã chú thích bộ Trung Luận của Long Thọ Bồ tát, nhưng rất tiếc không còn được tới ngày nay.

Đến thế kỷ thứ IV, có hai ngài Thanh Mục (Pingala) và Kiên Ý cũng tổ thuật tư tưởng của ngài Long Thọ. Thanh Mục luận sư chú thích bộ Trung Luận theo chủ nghĩa "Vô tướng giai không"; Kiên ý luận sư thì viết ra bộ Nhập Đại Thừa Luận. Qua thế kỷ thứ V, ở Nam Ấn có ngài Phật hộ (Buđhapàlita) ra đời, tuyên dương thuyết Trung đạo phi hữu phi không của Bồ tát Long Thọ. Pho trứ tác của ngài về sau lưu hành sang Tây Tạng gây thành hệ phái Trung Quán tông.

Cuối thế kỷ thứ V, cũng ở Nam Ấn, có luận sư Thanh Biện (Bhàvaviveka - Tình Biện), tạo ra bộ Chưởng Trân Luận và Bát Nhã Đăng Luận. Luận sư dung hòa Không thuyết của Long Thọ với Duy thức học, và đề xướng tục đế là pháp nhân duyên thể không, chân đế là pháp tánh thường trú. Thế là thuyết Vô tướng giai không của Bồ tát Long Thọ đến giai đoạn này đã có hơi chuyển biến. Đối với thuyết Y tha khởi của Duy thức thuộc Hữu tông, luận sư giải thích là nhân duyên không pháp. Lý luận này đã gây thành cuộc tranh biện dây dưa bất phân thắng bại của hai tông Không, Hữu.

Cuối thế kỷ thứ VI, có ngài Trí Quang (Jnànaprabha), đệ tử của Thanh Biện luận sư ra đời. Ngài khởi xướng lối phán thích giáo lý, đưa học thuyết của Bồ tát Long Thọ lên hàng tối cao. Đồng thời ở Nam Ấn lại có ngài Nguyệt Xứng (Candrakìrti) soạn bộ Trung Luận Thích, lập thuyết cũng tương phù với ngài Phật Hộ.

Đầu thế kỷ thứ VII có đệ tử ngài Trí Quang là Sư Tử Quang xuất hiện, giảng về Tam luận tại chùa Na Lan Đà. Ngoài ra, còn có các luận sư khác như Thắng Quang, Trí Hộ..., đều tuyên dương giáo nghĩa của ngài Long Thọ.

Như thế, hệ thống truyền thừa về Thật tướng luận thuộc Không tông, có thể sắp theo thứ tự như sau: Mã Minh, Long Thọ, Đề Bà, La Hầu Đa La, Thanh Mục, Phật Hộ, Thanh Biện, Trí Quang, Sư Tử Quang, Thắng Quang, Trí Hộ...

Tiết IV: A Lại Da Duyên Khởi Luận

Thuyết Thật tướng của hai ngài Mã Minh, Long Thọ, thể hiện nghĩa chân không của Như Lai tạng. Qua đến thời đại Pháp tướng học, hai ngài Vô Trước, Thế Thân, lại thuyết minh Như Lai tạng bằng nghĩa diệu hữu.

Từ trước, hàng Tiểu thừa chỉ thành lập có sáu thức là: Nhân, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý Thức. Song sáu thức là những tâm lý sinh diệt, vô thường. Như năm thức trước chỉ do sự kích thích của ngoại giới mà tả tượng vào nội tâm. Chúng không có những tác dụng tinh thần như: so sánh, suy luận hoặc truy niệm cảnh quá khứ. Có đủ những tác dụng ấy và chiếm được địa vị trọng yếu, duy có thức thứ sáu mà thôi. Nhưng ý thức cũng là một thứ tâm lý có gián đoạn, niệm trước đã qua, niệm sau mới đến. Và khi chúng ta chết rồi thì ý thức cũng tiêu tan. Thế thì cái gì duy trì nghiệp lực làm cho nó không gián đoạn sau khi chúng ta chết?

Lý do trên là nguyên nhân thành lập ra A Lại Da thức của phái Đại thừa. A Lại Da có nghĩa: Hàm tàng thức hoặc Chủng tử thức, là một tâm thể chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu, làm cội gốc duy trì và mở mang ra hiện tượng giới, có đủ ngàn hình muôn trạng bao la. Sáng lập ra thuyết A Lại Da duyên khởi là giáo Pháp tướng, cũng gọi là giáo phái Duy thức. Ngoài sáu thức của Tiểu thừa, phái này lập thêm hai thức nữa: Mạt na (Màna) thứ bảy, và A lại da (Alaya) thứ tám. Mạt na có nghĩa: Chấp ngã, một tâm lý lầm nhận cái ta là có thật.

Theo nhà Duy thức, nếu nói chân như làm duyên khởi cho vạn hữu, là không hợp lý. Bởi chân như thì bình đẳng đồng nhất, mà vạn hữu thì muôn hình sai biệt. Vậy căn nguyên phát khởi các hiện tượng muôn vàn sai biệt ấy, tất phải do muôn vàn chủng tử sai biệt. Nơi chứa đựng các chủng tử này là thức A lại da, và A lại da làm nhân duyên phát khởi các pháp, nên gọi là A lại da duyên khởi. Chính thức A lại da này cũng do nhân duyên mà thành. Từ vô số kiếp đến giờ, do nghiệp nhân lành dữ huân tập, nó vẫn luôn luôn sinh khởi không gián đoạn, chứa đựng tất cả mọi chủng tử và có khả năng vô hạn để phát hiện ra hữu tình giới và khí thế giới. A lại da có hai: Chúng sinh A lại da thức và Như Lai A lại da thức. A lại da của chúng sinh có tính cách biệt. A lại da của Như Lai có tính cách đồng. A lại da của chúng sinh vô thủy hữu chung. A lại da của Như Lai vô thủy vô chung. A lại da của chúng sinh thuộc Biến kế chấp tánh. A lại da của Như Lai thuộc Viên thành thật tánh.

Duy thức tông lập ra ba tánh: Biến kế chấp, Y tha khởi và Viên thành thật. Y tha khởi là các pháp do nhân duyên sinh khởi, đứng địa vị trung tâm. Trên Y tha khởi mà lầm nhận có không, đoạn thường, sinh diệt, quay cuồng theo hiện tượng là Biến kế chấp. Trên Y tha khởi mà tiêu diệt những quan niệm ấy, là Viên thành thật. Trong A lại da thức của chúng ta chứa đủ chủng tử mê và ngộ. Nếu chúng ta hiểu rõ nhân, pháp như huyễn, không còn quay cuồng mê chấp theo muôn trượng, thì tâm thức lắng yên, phiền não tiêu diệt, dần dần sinh ra giác ngộ. Vậy từ mê đến ngộ chỉ là sự thay đổi quan niệm.

Tóm lại, thuyết A lại da duyên khởi đứng về mặt diệu hữu mà thuyết minh Như Lai tạng. Thể tướng A lại da này làm nhân duyên cho nhau sanh khởi vô cùng; trong vô thường ẩn lý chân thường, trong sanh diệt ẩn lý phi sinh diệt, mê cùng ngộ chỉ bởi nơi người mà thôi. Cho nên lời văn trong bài tựa kinh Lăng Già nói: "Tâm không rời thức, hằng niết bàn nơi sự diệt sinh; thức chẳng lìa tâm, uổng sống chất trong vòng thường trụ" là chỉ cho ý nghĩa này vậy.

Tiết V: Các Luận Sư Thuộc Hệ Thống Duyên Khởi Luận

Tư tưởng A lại da duyên khởi phát nguyên từ hệ thống Thượng Tọa Bộ, do hai ngài Vô Trước, Thế Thân đề xướng, và căn cứ truyền giáo khởi thủy ở Bắc Ấn. Tư tưởng này được truyền bá hầu khắp Ấn Độ, đứng ngang hàng với lập thuyết Thật tướng luận của hai ngài Mã Minh, Long Thọ, gây thành hai hệ thống Phật giáo lớn lao và có thế lực nhất đương thời.

Thừa kế Duyên khởi luận, sau ngài Thế Thân, có các luận sư: Thân Thắng (Bandhusri), Hỏa Biện (Gitrabhàna), Đức Huệ (Gunamati), An Huệ (Sthiramati), Nan Đà (Nanda), Tịnh Nguyệt (Sudacandra), Hộ Pháp (Dharmapàla), Thắng Hữu (Visesamitra), Thắng tử (Jinaputra), Trí Nguyệt (Jnànacandra). Các luận sư trên đều là những nhân vật từ đầu đến cuối thế kỷ thứ VI, và cũng là mười đại luận sư của Duy thức tông. Trong đây, ngài Hộ Pháp là vị thừa kế chính thống và hoàn thành môn học của ngài Thế Thân. Ngoài ra còn có ngài Trần Na (Mahàdignàga Đại Vức Long) hoàn thành môn Nhân minh luận để phụ lực Duy thức học. Trong hàng đệ tử ngài Hộ Pháp có luận sư Giới Hiền (Silabhadra) cũng là một bậc thái đẩu của các học giả đương thời về môn Pháp tướng. Về sự nhận thức, tuy cũng đồng tuyên dương Pháp tướng học, nhưng tư tưởng của các luận sư trên có đôi chút khác nhau. Như các ngài: Thân Thắng, Nan Đà, Đức Huệ, Tịnh Nguyệt, chỉ thành lập có hai phần Duy thức là Tướng phần và Kiến phần. Ngài An Huệ thành lập thêm Tự chứng phần và bảo đó là tác dụng nhận thức có thực thể, còn Tướng, Kiến phần không có thực thể. Riêng hai ngài Hỏa Biện, Trần Na thì chủ trương cả ba đều có thực thể. Về sau, ngài Hộ Pháp lại lập thêm Chứng tự chứng phần để hoàn thành các thuyết trên.

Đến tiền bán thế kỷ thứ VII, khi ngài Huyền Trang ở Trung Hoa sang Ấn Độ cầu pháp, Giới Hiền luận sư đã hơn 100 tuổi già. Tại học viện Na Lan đà, luận sư đem pháp môn Duy thức truyền cho ngài Huyền Trang. Về sau Trang sư tập hợp giáo nghĩa của mười bậc đại luận sư trong tông Pháp tướng mà viết ra bộ Thành Duy Thức Luận. Về nội dung, ngài lấy giáo nghĩa của Hộ Pháp Luận sư làm phần chính, còn học thuyết của chín vị kia chỉ đứng ở phần phụ. Theo ký sự của ngài Huyền Trang, khung cảnh chùa Na Lan Đà gồm có tám viện, ba trăm phòng. Tăng chúng tập hợp tại đó đến năm ngàn vị, những bậc luận sư thuộc hai hệ thống Không, Hữu phần nhiều đều về ở đây. Người muốn lưu học lại chùa này, trước tiên phải qua một kỳ khảo sát về hạnh giải rồi mới được cho nhập học. Vì thế, các học giả đã tốt nghiệp ở chùa này, đều là những người tài đức trong Phật giáo.

Như trên đã nói, Thật tướng luận và Duyên khởi luận cấu thành hai tư trào lớn về giáo pháp Đại thừa, diễn xuất hết tinh hoa của đạo Phật. Đến cuối thế kỷ thứ VII lại có ngài Pháp Xứng (Dharmakìrti), một bậc học rộng tài cao, viết ra Tạp Lượng Luận, chấn hưng Nhân minh học của ngài Trần Na đến chỗ đặc sắc, làm cho pháp môn Duy thức nảy thêm những tia sáng tân kỳ. Song song với hai tư trào Không, Hữu, Mật giáo và Tịnh độ tông cũng được phát triển một cách cực thạnh.

Vấn đề này không đơn giản, trong phần khác sẽ nói đến. Và nội dung của bản thiên xin kết thúc ở nơi đây.