Chương 3- Thế giới quan của đạo Phật

19 Tháng Sáu 20169:31 CH(Xem: 2718)
Chương 3- Thế giới quan của đạo Phật

Phật Học Tinh Yếu 2
HT Thích Thiền Tâm


Thiên Thứ Hai
Chương Ba

Thế Giới Quan Của Đạo Phật

Tiết Mục:

I. Tiểu thế giới
II. Ba luân bao bọc
III. Chín núi tám biển
IV. Bốn đại bộ châu
V. Địa ngục
VI. Thiên xứ ở núi Tu Di
VII. Không cư thiên

Kinh sách tham khảo: Luận Lập Thế A Tỳ Đàm, Luận Câu Xá, Kinh Bồ tát Tạng, Kinh Tăng Nhất A Hàm, Kinh Trường A Hàm, Kinh Khởi Thế Nhân Bản, Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt, Luận Thuận Chánh Lý, Kinh Tỳ Gia Tiên Nhơn, Truyện Thiên Nhơn Cảm Thông.

Đề yếu: Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tâm như người họa khéo. Vẽ vời cảnh thế gian" (Tâm như công họa sư. Thiên họa chư thế gian). Tất cả chánh báo y báo khổ vui xấu đẹp, đều do tâm chúng sanh huyễn hiện. Chúng sanh đã có vô lượng nghiệp thiện ác, tất y báo chánh báo cũng tùy đó có vô lượng sai biệt. Vì thế, nói theo tục đế, các cõi khổ vui đều có thật.

Thuở xưa, trong khi thuyết pháp đức Phật có nói đến ba cõi sáu đường cùng các thế giới tịnh uế. Về tam giới lục đạo, vì mục đích để chỉ cho đồ chúng biết những nhân quả thiện ác, đức Phật duy nói khái lược những điểm chánh yếu không phân tích tỉ mỉ như các nhà khoa học hiện nay. Vì vậy dù dày công khảo cứu kinh Phật, cũng khó mà biết một cách tinh vi về sự an lập và vận chuyển của các thế giới. Bản tánh người Đông phương phần nhiều thích đi sâu về huyền lý, không quan thiết lắm với thời gian, không gian. Còn người Tây phương thì lịch sử, địa dư, nhất nhất đều phải rành rẽ. Tuy nhiên, người học Phật không thể không biết qua thế giới quan của đạo Phật, dù rằng biết một cách sơ lược.

Vì mục đích trên, trong bản chương, bút giả cố gắng sưu khảo các kinh luận, để lược trình về điểm này.

Tiết I: Tiểu Thế Giới

1. Chủ thuyết: Giữa thời khoa học, nói đến thế giới quan của đạo Phật, các học giả Phật giáo không khỏi sanh quan niệm hoài nghi, vì trong vấn đề này, Phật giáo và khoa học có đôi điểm sai khác. Có kẻ đã ngờ rằng: hoặc giả đức Thích Ca muốn thỏa mãn lòng ước vọng của môn đồ, hay muốn tránh lỗi "thế gian tương vi" theo Nhân minh học, nên mới đem cổ thuyết về thế giới quan của Bà la môn giáo làm của Phật giáo. Nhưng theo sự nghiên cứu và so sánh gần đây của Diễn Bồi pháp sư trong quyển Tiểu thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, thì thế giới quan của Bà la môn giáo cho đến Kỳ Na giáo, đều khác xa với Phật giáo. Thế thì ức thuyết trên hoàn toàn không đúng.

Riêng Mộc Thôn Thái Hiền, một học giả Nhật Bản, lại bảo: "Thi chung đức Phật vẫn từ chối nói về thế giới quan, vì vấn đề ấy không cấp thiết, con người phải nghĩ ngay đến nỗi khổ, thân tâm hiện tại mà sớm tìm cách đoạn trừ. Vậy thế giới quan trong kinh A Hàm, có lẽ do người sau đặt ra, để làm thỏa mãn một tin tưởng thần thoại hay lòng hiếu kỳ nào đó của người học Phật". Theo bút giả, luận thuyết này không khỏi có tánh cách hàm hồ, bởi hai lẽ: A. Thế giới quan của đạo Phật không phải chỉ có nói trong kinh A Hàm, mà rất nhiều kinh luận Đại, Tiểu thừa đều đề cập đến. B. Đoạn thuyết pháp mà Mộc Thôn Thái Hiền ám chỉ, là đức Phật muốn ngăn quan niệm vẩn vơ của một vị tỳ khưu trước kia nguyên gốc người ở phái Anatanantika, chuyên thảo luận về thế giới hữu hạn hay vô hạn, hữu biên hay vô biên. Vậy không nên đem câu chuyện tùy cơ giáo hóa riêng cho một cá nhơn, mà gán ép rằng: đó là ý tưởng chung, không xê dịch, trong một đời thuyết pháp của Phật. Theo bút giả, khi xét về vấn đề thế giới quan của Phật giáo, ta nên thận trọng trong ba điểm:

A. Chớ một mặt theo lòng tin tưởng của mình: Đức tin cố nhiên là điều rất tốt cho người học đạo, nhưng lòng tin luôn luôn phải dung hòa với lý trí. Nếu nghe đâu tin đó, tất dễ bị lạc lầm. Điểm này chính đức Phật cũng có đem khuyên răn các đệ tử.

B. Đừng quá chấp nê theo lý trí: Lý trí là một hướng dẫn tinh thần tốt trên đường đời cũng như đường đạo. Nhưng ta chớ quên rằng lý trí con người vẫn ở trong phạm vi hữu hạn, theo sự thấy biết hay dự đoán của giác quan. Một thí dụ gồm cả chứng minh hiện thật: Như khi xưa vua Tự Đức và triều thần, vì chưa tiếp xúc với nền văn minh Âu Tây, nên khi nghe cụ Phan Thanh Giản đi Pháp về, nói có thứ đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không có ngựa kéo, người bơi hoặc trương buồm mà vẫn chạy được; ai nấy đều cho là vô lý, là đi xa về kiếm chuyện nói dối. Cho đến cụ Nguyễn Tri Phương là một bạn đồng liêu thân nhất của cụ Phan, cũng một mực lắc đầu không tin. Thế thì nếu căn cứ nơi lý trí của mấy vị ấy, đèn điện, xe hơi, tàu thủy không có hay sao?

Còn một điều không đáng tin nơi giác quan của chúng sanh, mà đức Phật gọi đó là "Biệt nghiệp vọng kiến". Thí dụ: người bị bịnh nóng sảng sốt, nhìn lên mái nhà thấy mấy cây đòn tay tưởng là những con rắn lăn quăn; biệt nghiệp vọng kiến của chúng sanh cũng như thế, loài người thấy chất ở dưới sông là nước, các thủy tộc thấy đó là nhà cửa, chư thiên nhìn ra là lưu ly, ngạ quỉ thấy là một vùng máu lửa. Có được sự thấy xác đáng nhất, âu chỉ là chư Phật. Kinh Pháp Hoa nói: "Bất như tam giới kiến ư tam giới chi tướng, Như lai tri kiến vô hữu thác mậu". Câu này có nghĩa: "Cái thấy tam giới của Như Lai; không phải lầm lạc như cái thấy tam giới của chúng sanh". Dẫn ra lời này dường như hơi xa vấn đề, nhưng để cho chúng ta đừng vội tự hào rằng lý trí của mình luôn luôn là đúng, và đừng đem tâm hiểu biết của phàm phu mà trắc lượng, phê bình sự hiểu biết của hiền thánh. Cho nên trong kinh có đoạn Phật bảo: "Phải suy xét kỹ, đừng vội tin một lời gì, dù người ta bảo đó là lời của Như Lai nói". Nhưng cũng có đoạn Phật bảo: "Phải tin nơi lời thành thật chắc chắn của Như Lai, vì cảnh giới này không phải là sức các người có thể hiểu biết được". Ta nên suy gẩm lại điểm ấy.

C. Không nên cực đoan y cứ theo khoa học: Xin lập lại, đây không phải ý nghĩa phủ nhận khoa học, mà là một cảnh giác nhắc ta nên dè dặt, đừng chấp nhận khoa học theo lối cực đoan. Vì dù sao, khoa học vẫn còn ở trên con đường suy luận, chưa đi đến chỗ kết luận. Đã có vài nhận định, trong thời gian quá khứ khoa học cho là đúng, nhưng trong hiện tại nó đã thành sai. Theo đó suy ra, việc này là xác thật ở hiện kim, biết đâu tương lai nó lại chẳng có thể hóa nên lầm lạc? Như trước kia người kia bảo trái đất vuông, bây giờ nó chẳng phải vuông mà là tròn, có thể mai sau nó sẽ thành hình méo. Hoặc như mặt trời người ta vẫn cho là định tinh, nhưng gần đây một vài nhà khoa học lại bảo rằng nhật cầu có sự xê dịch. Sở dĩ bút giả nêu lên điểm này, vì nhận thấy trước trào lưu văn minh mới đa số người Đông phương cho cái gì của Tây phương cũng là hay mà quên cái hay cố hữu của mình, cái gì của khoa học cũng là đúng, mà không xét kỷ xem nó có phải thật đúng hay không? Do đó, mới ghi ra đây một cảnh giác dè dặt như thế thôi.

Dung hội ba điểm trên để xét qua vấn đề thế giới quan của Phật giáo, ta có thể ước lượng như sau: có lẽ một ít chi tiết về thế giới quan của Phật giáo là sai lạc, chẳng hạn như trong một việc mà các kinh luận nói khác nhau, nhưng phần chánh yếu như các cõi trời, tứ đại bộ châu, địa ngục, thì quyết nhiên có thật vì các kinh lập luận tương đồng. Thí dụ như Hương Thủy hải là có, nhưng kinh Khởi Thế Nhân Bản nói biển Hương Thủy ngoài núi Tu Di bề ngang rộng 84000 do tuần. Luận Câu Xá nói rộng 80000 do tuần. Hoặc như tứ đại bộ châu có thể là bốn quả địa cầu như nhật cầu, nguyệt cầu chẳng hạn, nhưng có lẽ vì muốn giản dị hóa cho người thời bấy giờ dễ hiểu, hay vì lý do khoa học thuở xưa chưa được thanh minh, nên người ghi chép diễn tả một hòn đảo. Phần chi tiết có lẽ sai là thế, còn phần chánh yếu thỉ chung vẫn là đúng. Sự đúng này căn cứ nơi trí lượng, hiện thật lượng và thánh ngôn lượng mà quyết đoán, tuyệt không phải lời nói mơ hồ. Dù sao, bản ý của bút giả chẳng qua chỉ muốn ghi lại nơi đây một khái niệm về thế giới quan của Phật giáo vậy. Vì phạm vi của bài có hạn, cũng để khỏi đi xa vấn đề xin miễn giải thích về ba lượng đã nói, mong gặp lại một dịp khác. Kế đây, xin tiếp nói lược qua về tiểu thế giới.

2. Khái luận: Theo học thuyết Cổ Bà La Môn giáo, đại khái thế gian chia làm ba cõi là: Địa giới, Không giới và Thiên giới. Trong Phật giáo cũng có nói đến ba cõi nhưng khác hơn, ấy là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Bà la môn giáo cho rằng thế giới này do Phạm thiên tạo thành, từ lúc khởi nguyên cho đến khi diệt tận đều do thần quyền làm chủ. Trái lại Phật giáo không quan niệm như thế. Theo thế giới quan đạo Phật, thì các cõi từ sự thành lập, biến diệt đến tướng khổ vui, xấu đẹp, đều do nhân duyên, nghiệp lực của chúng sanh.

Lập trường của A Tỳ Đạt Ma, Phật giáo nhìn ba cõi trên phương diện vật lý. Vì thế, trong vấn đề hiện tượng luận của thế giới, học thuyết này không đề cập đến cõi Vô Sắc, bởi cõi ấy hoàn toàn thoát ly mọi quan hệ về vật chất. Được nói đến trong Thế giới hiện tượng luận, chỉ có Dục giới và Sắc giới. Trong một tiểu thế giới, núi Tu Di là trung tâm điểm. Về trực độ, trên từ trời Tha Hóa Tự Tại cho đến phong luân. Về hoành độ thì có cõi lục dục, chín lớp núi, tám lớp biển, mặt trời mặt trăng, bốn đại châu và địa ngục. Quả đất của chúng ta đang ở chỉ là một châu trong bốn châu của tiểu thế giới mà thôi.

Tiết II: Ba Luân Bao Bọc

Tiểu thế giới được ba lớp bao bọc. Lớp nhứt ở trong gọi là Kim luân (lớp cứng chắc), bề thâm hậu 3 lạc xoa 20,000 du thiện na, bề rộng 12 lạc xoa 3450 du thiện na. (Mỗi lạc xoa là một ức, số ức thời xưa có bốn bậc: 100.000, 1.000.000, 10.000.000, 100.000.000 du thiện na (yojana) tức do tuần, do tuần cũng có ba bậc: 16 dặm, 30 dặm, 60 dặm). Ngoài Kim luân, có lớp thứ hai gọi là Thủy luân, bề thâm hậu 8 lạc xoa du thiện na, bề rộng cũng 112 lạc xoa 3450 du thiện na. (Thủy luân khi còn là hơi nước, chưa bị gió thổi đọng lại, bề thâm hậu đến 11 lạc xoa 20,000 du thiện na). Do nghiệp lực của chúng sanh, nước không tan rã như thức ăn, khi chưa tiêu không sa vào thục tạng. Ngoài Thủy luân, có lớp thứ ba là Phong luân, bề thâm hậu 16 lạc xoa du thiện na, bề rộng có vô số du thiên na. Ngoài Phong luân lại có hư không rộng rãi vô biên tế. Kim luân an trụ nơi Thủy luân, Thủy luân an trụ nơi Phong luân, Phong luân an trụ nơi hư không. (Trích luận Câu Xá, theo các kinh luận khác như Trường A Hàm kinh, Khởi Thế kinh, Khởi Thế Nhân Bản kinh, Lâu Thán kinh, Lập Thế A Tỳ Đàm luận, thì có chổ lại thêm vào Địa luân, về bề thâm hậu cùng bề rộng của mỗi luân có đôi chút sai khác).

Tiết III: Chín Núi Tám Biển

Một tiểu thế giới có một núi Tu Di làm trung tâm điểm; đó là lớp núi thứ nhứt. Núi Tu Di (Sumeru - Diệu Cao sơn) an trụ nơi Kim luân, hình thể trên dưới rộng ra, khoảng giữa eo lại, bề cao từ mặt nước trở lên 80.000 do tuần (có chỗ nói 84.000 do tuần). Ngoài núi Tu Di có một vòng biển nước thơm gọi là Hương Thủy hải, chiều ngang cũng rộng 80.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ hai là Trì Song Sơn (Du Kiện Đạt La-Sudassana), bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương Thủy hải bao bọc, chiều ngang rộng 40.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ ba là Trì Trục Sơn (Y Sa Đà La - Isadhara) bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 20.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ tư là Chiêm Mộc Sơn (Khê Địa Lạc Ca - Nemindhara), bề cao từ mặt nước trở lên 10.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 10.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ năm là Thiện Kiến Sơn (Tô Đạt Lee Xá Na - Assakanna), bề cao từ mặt nước trở lên 5.000 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 5.000 do tuần. Kế biển này đến lớp núi thứ sáu là Mã Nhĩ Sơn (Ngạch Phạ Yết Noa-Karavika), bề cao từ mặt nước trở lên 2.500 do tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng.

Như thế có tất cả chín lớp núi, tám lớp biển. Núi Tu Di do bốn chất báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bảy lớp núi kế gọi là Thất Kim Sơn, đều do chất vàng tạo thành. Núi Thiết Vi do chất sắt tạo thành. Tu Di Sơn là chỗ chư thiên, chư thần ở. Thất Kim Sơn là chỗ chư thiên thần và ngũ thông tiên nhơn ở. Tiết Vi Sơn là chỗ của chúng ngạ quỉ, địa ngục ở. Chíp lớp núi đều an trụ trên Kim luân và chiều sâu từ mặt nước trở xuống đều 80.000 do tuần, chu vi của mỗi núi bằng bề cao từ mặt nước trở lên (1). Tám lớp biển đều sâu 80.000 do tuần. Bảy biển trước gọi là nội hải, dẩy đầy nước bát công đức ngọt thơm; một biển sau gọi là ngoại hải, thuộc về vùng nước mặn. Thế nào là bát công đức thủy của hương hải? Ấy là thứ nước có tám đặc tánh: ngon ngọt, mát mẻ, trong sạch, nhu nhuyễn, nhẹ nhàng, trơn nhuần, thơm tho không mùi hôi, uống vào trừ đói khát và bịnh hoạn, uống vào có thể trưởng dưỡng các căn (theo các kinh luận khác, chiều rộng của mỗi biển, và chiều sâu của mỗi núi từ mặt biển trở xuống có hơi sai biệt).

Tiết IV: Bốn Đại Bộ Châu

Bốn đại bộ châu vị trí ở vào vùng biển thứ tám là Đại hàm thủy hải.

Phía nam núi Tu Di là phương vị của Nam Thiệm Bộ Châu. Châu này cũng có tên là Diêm Phù Đề (Jambudvika), vì ở phương bắc của bản châu có thứ cây Diêm Phù, dưới cây ấy có chất vàng rất quí tên là Diêm phù na đàn (Thắng kim). Hình thế châu Nam Thiệm Bộ phương bắc rộng, phương nam hẹp, chu vi độ 7.000 du thiện na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Phía đông núi Tu Di là Đông Thắng Thần châu. Châu này tiếng Phạn gọi là Tỳ Đề Ha hay Phất Bà Đề (Pùrvavidela - Thắng Thần). Châu Thắng Thần hình bán nguyệt, phương đông hẹp, phương tây rộng, chu vi độ 9.000 du thiện na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Phía tây núi Tu Di là châu Cù Đà Ni (Aparagodàniya), cũng gọi là Ngưu Hóa châu. Nhân dân ở châu này dùng trâu, bò, ngựa, châu báu, để mua bán, đổi chác vật dụng cho nhau, nên do đó mà được mệnh danh (Ngưu Hóa). Lập Thế Luận thì cho rằng ở châu này có một quả núi rất to, hình giống như con trâu, vì thế nên được gọi là Cù Đà Ni. Tây Ngưu Hóa châu địa hình như mặt trăng tròn, chu vi độ 8.000 du thiện na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Phía bắc núi Tu Di là Bắc Câu Lư châu, cũng gọi là Uất Đan Việt (Uttara - Kuru - Tối Thắng). Cảnh sắc và nhơn vật ở châu này đều hơn ba châu kia. Về y báo thì tại bản châu non sông tú lệ, cây cỏ thanh u, nhiều hồ ao trong mát, hoa quả đủ màu sắc tốt tươi. Các loài chim như bạch nga, hồng, nhạn, oan ương kêu hót giao hào khắp nơi. Khí hậu quanh năm mát mẻ trong lành; không có gai gốc cùng loài ruồi, muỗi, độc trùng; các thứ gạo thơm tự nhiên sanh ra, đầy đủ vị ngon. Về chánh báo thì loài người ở đây toàn là giống da trắng, khỏe mạnh sống lâu, thân hình cao lớn xinh đẹp. Khi muốn ăn, họ lấy gạo thơm để trong bảo khí, phía dưới đặt hạt châu Diệm Quang ma ni, trong giây phút ánh sáng hạt châu tắt là gạo đã chín. Lúc muốn cần dùng y phục, vật dụng, họ đến cây Hương Thọ hái trái chín, trái này tự nứt ra, trong ấy có đủ y phục tốt đẹp, hoặc đồ dùng, hoặc thức ăn. Muốn nghĩ mát, họ đến dưới cây Khúc Cung, cây này cành lá dày nhặt xanh tươi, nắng mưa không lọt, có thể nằm ngủ ở dưới mà không lo ngại. Muốn dạo chơi, họ xuống bảo thuyền bơi nhẹ theo sông hồ, đề huề đàn sáo, khúc ca tiếng nhạc hòa điệu lẫn nhau, âm thanh du dương trong trẻo nhiệm mầu. Khi vầy đoàn tắm gội, họ xếp y phục để trên mé hồ, ai lên trước cứ gặp cái nào mặc ngay cái ấy, không cần tìm chọn đồ của mình, mặc xong cũng hóa vừa vặn xinh đẹp y như y phục cũ. Người ở Bắc Câu Lư châu hình mạo đều đồng, không có tật bình, tóc chỉ rủ xuống tới chân mày, màu xanh biếc. Lúc nghĩ đến sự dục lạc, người nam chăm chú nhìn người nữ; nếu bên nữ đồng ý, thì đem nhau đến vườn cây. Như nữ nhơn với nam nhơn vốn là người thân thuộc thì cây Khúc cung không phủ xuống, mỗi bên tự tản đi. Nếu không phải người trong thân, tự nhiên cây phủ chụp úp kín đáo, hai bên tùy ý ân ái một ngày đến bảy ngày rồi phân tán. Người nữ mang thai độ bảy tám ngày liền sanh. Lúc sanh ra, dù là trai hay gái, cũng đem để ở ngã tư đường; mỗi người đi qua đều đến đưa ngón tay vào miệng đứa bé, từ trong ngón tay tuôn ra chất sữa ngọt, hài nhi được no đủ. Như thế đến ngày thứ bảy, đứa bé cao lớn như thường nhơn, con trai thì đi theo đoàn người nam, con gái đi theo đoàn người nữ. Đất ở châu này nhu nhuyễn, dân chúng khi đi, chân đạp đến đâu đất nơi ấy tự êm dịu bằng phẳng. Lúc người đại tiểu tiện, đất tự nứt ra, khi xong rồi, cũng tự khép lại. Nhơn dân ở châu Uất Đan Việt thọ lượng đều đúng 1.000 tuổi, nên khi chết không ai khóc lóc tang điếu. Kẻ chết được đồng bọn gói gắm kỹ, đem để nơi đường vắng. Liền đó có loại chim to lớn tên là Ưu Uất Thiền Già gắp thây đem đi xa bỏ nơi khác. Chúng sanh ở nơi đây sở dĩ được phước báo như thế, là do vì đời trước có tu thập thiện nghiệp.

Châu Bắc Câu Lư hình vuông, chu vi độ 10.000 do tuần, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.

Các kinh luận đều nói, hình dáng của châu nào ra sao, thì khuôn mặt của dân chúng châu đó cũng như thế ấy. Như người ở Nam Thiệm bộ châu, khuôn mặt phần nhiều trên lớn dưới nhỏ. Người ở Đông Thắng Thần châu khuôn mặt tương tợ hình bán nguyệt. Người ở Tây Ngưu Hóa châu khuôn mặt như trăng tròn. Người ở Bắc Câu Lư châu khuôn mặt hơi vuông.

Tiết V: Địa Ngục

Lập thuyết địa ngục của Phật giáo, từ tư tưởng sơ kỳ đến tư tưởng chung cuộc được trình bày qua các kinh luận như: Kinh Tăng Nhất A hàm, Kinh Trung A Hàm (Ba ly), Kinh Bản Sanh, Kinh Trường A Hàm, Luận Lập Thế A Tỳ Đàm, Luận Thế Gian Thi Thiết, Luận Câu Xá, Luận Du Già Sư Địa.

Xứ sở và số lượng của địa ngục, tiết Thất thú nơi chương một của bản thiên đã có nói lược qua. Về vấn đề ngục tốt, các luận sư của Đại Chúng Bộ, Chánh Lượng Bộ cho là thuộc về loại hữu tình, nhưng bên Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ lại chỉ định là đại chủng biến hình của nghiệp ác. Duy Thức Nhị Thập Tụng Thuật Ký của Đại thừa cũng đồng ý với lập luận sau. Đến như thuyết Diêm Ma Pháp Vương thì kinh Trường A Hàm và luận Lập Thế A Tỳ Đàm đều quy thuộc về quỉ thần loại, có phận sự răn trách xử phạt tội nhơn.

Trở lại vấn đề địa ngục, xin y theo Câu Xá Luận, lược thuật hai chủng loại hàn, nhiệt của Nại lạc ca. Về nhiệt ngục từ khinh đến trọng có tám thứ: 1. Đẳng Hoạt (Cánh hoạt). 2. Hắc Thằng. 3. Chúng Hiệp. 4. Hiều Kiếu (Kiếu Hoán). 5. Đại Hiều Kiếu (Đại Kiếu Hoán). 6. Viêm Nhiệt. 7. Cực Nhiệt. 8. Vô Gián.

Hàn ngục cũng có tám thứ khinh trọng: 1. Án Phù Đà (Nhục Đoạn). 2. Ni Lại Phù Đà (Bào Đống). 3. A Tra Tra (Ha ha). 4. A Ba Ba (Nại Hà). 5. Ấu Hầu Hầu (Dương minh). 6. Ưu Bát La (Thanh Liên). 7. Ba Đầu Ma (Xích Liên). 8. Phân Đà Lợi (Bạch Liên).

Mỗi ngục trên đây đều có 16 ngục phụ, như thế kể cả bản ngục và phụ ngục của hai loại hàn nhiệt, tất cả có 272 ngục. Ngoài phụ ngục còn có nhiều tiểu ngục, ngoài tiểu ngục lại có vô số biên ngục. Đại khái, chúng sanh nào tạo thập ác thuộc về phẩm thượng thượng, sẽ bị đọa vào chánh ngục; chúng sanh nào tạo thập ác thuộc về phẩm thượng trung, sẽ bị đọa vào phụ ngục; chúng sanh nào tạo thập ác thuộc về phẩm thượng hạ, sẽ bị đọa vào tiểu ngục, biên ngục. Các ngục sở do đồng, sắt hoặc đá tạo thành, những hình cụ trong ấy nhiều đến vô lượng. Tất cả đều bởi nghiệp ác của chúng sanh mà huyễn hiện.

Tiết VI: Thiên Xứ Ở Núi Tu Di

1. Tứ vương và tùy thuộc: Như trên đã nói, núi Tu Di bề cao từ mặt nước trở lên được 80.000 do tuần, hình thế khoảng giữa eo lại, trên dưới rộng ra. Chu vi của hai đầu trên dưới đều 80.000 do tuần. Từ mặt nước lên đến giữa núi Tu Di có bốn tầng cấp, mỗi tầng cấp cách nhau 10.000 do tuần. Tầng cấp thứ nhứt bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 16.000 do tuần. Đây là chỗ ở của thần Kiên Thủ. Tầng cấp thứ hai bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 8.000 do tuần. Đây là chỗ ở của thần Trì Hoa Mang. Tầng cấp thứ ba bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 4.000 do tuần. Đây là chỗ ở của thần Thường Phóng Dật (Hằng Kiều Dược Xoa). Ba xứ sở này là nơi ở các thần dưới quyền thống lãnh của Tứ thiên vương. Tầng cấp thứ tư bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 2.000 do tuần. Đây là trụ xứ của bốn vị thiên vương, gọi là Tứ thiên vương (Oàturmahàràjakàyika).

Tứ thiên vương thống lãnh chư thần ủng hộ bốn đại bộ châu. Phương đông, giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Đề Đầu Lại Tra thiên vương (Trì Quốc thiên vương) và chư thiên tùy thuộc. Đề Đầu Lại Tra thiên vương thống lãnh các quỉ thần Càn Thát Bà và Tỳ Xá Xà, ủng hộ Đông Thắng Thần châu. Thiên xứ này thuộc về vùng bạch ngân cung điện phần lớn đều bằng chất bạc trắng, có một khu thành to rộng gọi là Thượng Hiền. Phương nam giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Tỳ Lưu Lạc Xoa thiên vương (Tăng Trưởng Thiên vương) và chư thiên tùy thuộc. Tỳ Lưu Lặc Xoa thiên vương thống lãnh các quỉ thần Cưu Bàn Trà và Tịch Hiệp Đa, ủng hộ Nam Thiệm Bộ Châu. Thiên xứ này thuộc về vùng thanh lưu ly, cung điện phần lớn đều bằng chất lưu ly xanh, có một khu thành to rộng gọi là Thiện Kiến. Phương tây giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Tỳ Lưu Bác Xoa thiên vương (Quảng Mục thiên vương) và chư thiên tùy thuộc. Tỳ Lưu Bác xoa thiên vương thống lãnh các Long thần và quỉ Phú Đơn Na, ủng hộ Tây Ngưu Hóa châu. Thiên xứ này thuộc về vùng hoàng kim, cung điện phần lớn đều bằng chất vàng ròng, có một khu thành to rộng gọi là Châu La, Phương bắc giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Tỳ Sa Môn thiên vương (Đa Văn thiên vương) và chư thiên tùy thuộc. Tỳ Sa Môn thiên vương thống lãnh các quỉ thần Dạ Xoa, La Sát, ủng hộ Bắc Câu Lư Châu. Thiên xứ này thuộc về vùng thủy tinh, có ba khu thành to rộng tên là: Khả Úy, Thiên Kính, và Chúng Quy. Tứ Thiên Vương mỗi vị đều có tám viên đại tướng, chín mươi mốt người con. Theo Trí Luận thì các thần núi, sông, đất, rừng, cây, thành quách, cung điện.... tất cả quỉ thần đều thuộc về quyền thống nhiếp của Tứ đại thiên vương.

2. Tam thập tam thiên: Trên đảnh núi Tu Di là xứ sở của trời Đạo Lợi (Tra yastrimsá - Tam thập tam thiên). Nơi đây địa thế rộng rãi tốt đẹp. Ở bốn góc trên đảnh núi Tu Di có bốn tòa núi nhỏ, bề cao và rộng đều 500 do tuần, có thần Dược Xoa tên là Kim Cương Thủ trụ nơi đây để tuần thị và hộ vệ chư thiên.

Chính giữa đảnh Tu Di có khu thành rộng lớn, bề chu vi 10.000 do tuần, tên là Diệu Kiến (Thiện Kiến, Hỉ Kiến), có 1.000 cửa. Giữa khu thành này lại có một tòa thành quách chu vi rộng 1.000 do tuần, cao một do tuần rưỡi, toàn bằng chơn kim, có 500 cửa. Đất nơi đây cũng bằng chất chơn kim nhu nhuyễn như nệm, khi bước đi tự nhiên êm dịu không làm tổn chân. Chỗ này là thành đô của trời Đế Thích, lâu các nguy nga tráng lệ, nghiêm suất bằng các thứ tạp bảo. Điện của trời Đế Thích ở, tên là Tỳ Thiền Diên, xung quanh có 101 tòa lâu các gồm 10.770 phòng, mỗi phòng có bảy thiên nữ, mỗi thiên nữ có bảy thể nữ hầu hạ. Các thiên nữ đó đều là chánh phi của trời Đế Thích. Đế thích ở chung với Xá Chỉ ngọc nữ, hóa thân của ông ở với bà phi.

Khoảng giữa thành Diệu Kiến và Tỳ Thiền Diên có bảy khu thị tứ là: Mễ Cốc, Ẩm Thực, Y Phục, Chúng Hương, Hí Nữ, Công Xảo, Hoa Mang. Tại bảy nơi đây đều có thị quan. Các thiên tử, thiên nữ khi đến du ngoạn, cũng bình luận món này món khác là đắt hay rẻ, y như cách thức mậu dịch, nhưng không ai bán cũng chẳng ai mua, thỉnh thoảng vị nào muốn cần dùng món gì, có thể tự tiện lấy đem đi. Trong thành Diệu Kiến lại có thiên châu, thiên huyện, thiên thôn, đầy khắp các nơi.

Xung quanh thành Diệu Kiến có 32 thiên xứ, mỗi nơi do một vị thiên chủ quản trị. Ba mươi hai thiên xứ này với trung đô của Đế thích, hợp lại 33 thiên xứ, nên gọi là Tam thập tam thiên.

Ngoài bốn phía thành Diệu Kiến, có bốn đại viên uyển; vườn Chúng Xa ở phương đông, vườn Thô Sáp ở phương nam, vườn Tạp Lâm ở phương Tây, vườn Hoan Hỷ ở phương bắc. Khi chư thiên vào vườn Chúng Xa, tùy nơi phước đức hơn kém, các thứ xe hoặc thắng hoặc liệt đều hiện ra, mỗi vị đều lên ngồi cỗ xe của mình mà dạo chơi. Lúc chư thiên sắp đánh với A tu la, liền kéo nhau vào vườn Thô Sáp, nơi đây các món giáp trượng tự hiện ra. Cảnh vườn này rất tươi đẹp, chư thiên khi vào du ngoạn tranh nhau đi trước đi sau. Vườn Tạp Lâm là nơi có nhiều cung điện, rừng cây u nhã, các thể nữ ở cung Tỳ Thiền Diên thường ra đây họp bạn với thiên chúng mà chơi đùa, thọ đủ năm sự dục lạc. Vườn Hoan Hỷ có một cảnh sắc đặc biệt, chư thiên vào đây đều sanh lòng hớn hở tươi vui. Mỗi khu vườn, bốn góc có bốn hồ Như Ý, mỗi hồ chu vi rộng 50 do tuần, trong ấy dẫy đầy nước bát công đức. Các thứ hoa trong mỗi hồ tranh nhau đua nở, phô trương vẻ đẹp thần tiên. (Theo các vị A La Hán sau Phật diệt độ, thì ở bốn khu vườn đều có bảo tháp thờ di tích của Phật. Như ở vườn Chúng Xa có khu tiểu viên tên là Chiếu Minh, nơi đây có tháp thờ tóc Phật. Vườn Thô Sáp có tháp thờ y của Phật. Vườn Tạp Lâm có thờ bát của Phật. Vườn Hoan Hỷ có tháp thờ răng của Phật).

Phía đông bắc thành Diệu Kiến, có cây Ba Lợi Chất Đa (Paricitra - Hương Biến Thọ) cao 100 do tuần, tàng rậm cũng 100 do tuần, như chiếc tán to lớn, đây là một thắng sở du ngoạn của chư thiên. Cây này hoa nở liên miên không dứt, mùi hương thanh nhẹ bay lan rộng xa, gặp khi thuận gió hơi thơm đầy khắp 100 do tuần khi nghịch gió cũng được 50 do tuần. Phía tây nam thành Diệu Kiến, có ngôi Thiện Pháp Đường. Ngôi điện này rất to rộng, có đến 84.000 cây cột. Đây là chỗ chư thiên tập họp để bàn luận về đạo lý, xử đoán các việc phi pháp của A tu la, và kiểm soát những điều thiện ác trong thế gian. Khi tập họp, trời Đế Thích ngồi tòa sư tử ở giữa, hai bên tả hữu đều có 16 thiên vương ngồi đối diện nhau. Mỗi thiên vương có hai thái tử cũng là hai vị đại tướng, ngồi hai bên ở sau mà tùy thị. Nơi vòng ngoài, Trì Quốc thiên vương cùng hàng đại thần ngồi ở phía đông, Tăng Trưởng thiên vương cùng tùy thuộc ngồi ở phía nam, Quảng Mục thiên vương cùng tùy thuộc ngồi ở phía tây, Đa Văn thiên vương cùng tùy thuộc ngồi ở phía bắc. Tứ đại thiên vương đem việc thiện ác ở thế gian tâu với trời Đế Thích. Nếu Thích Đề Hoàn Nhân (Năng Thiên Chủ) nghe ở hạ giới không có nhiều kẻ giữ giới, bố thí, thì sanh lòng lo buồn và bảo: "Thiên Chúng sẽ lần lần kém ít, các A tu la càng ngày lại tăng thêm!".

Nói chung, Tam thập tam thiên có tất cả bảy lớp thành, bảy lớp lan can, bảy lớp linh võng (lưới có treo linh báu), phía ngoài lại có bảy lớp hàng cây Đa la bao quanh, nhiều màu sắc xinh đẹp. Mỗi lớp thành có nhiều cửa, ở mỗi cửa cũng có lầu ngăn giặc. Ngoài ra còn những điện các, ao nước, rừng hoa, nhiều thứ chim hòa nhau kêu, thiên nhạc tự nhiên tấu theo giờ khắc. Màu sắc và ánh sáng mặt trời mặt trăng, chỉ có quang minh của cung điện, bảo thọ và chư thiên. Khi hoa sen hồng khép lại, hoa sen xanh nở ra, thiên chúng ưa ngủ nghỉ là ban đêm. Lúc hoa sen hồng nở ra, hoa sen xanh khép lại, chư thiên ít ngủ, thích đi dạo chơi là ban ngày. Thiên chúng ở trời Đạo Lợi vui đắm theo dục lạc như quên mất thời gian, ca múa nói cười, dạo hết cảnh này lại kéo nhau du ngoạn cảnh khác.

Tiết VII: Không Cư Thiên

Các tầng trời y cứ nơi núi Tu Di gọi là Địa cư thiên, vượt khỏi đảnh Tu Di trở lên thuộc về Không cư thiên. Không cư thiên là những thiên xứ rộng lớn hư phù giữa không gian như mây.

Từ cõi Đạo Lợi lên trên 160.000 do tuần, có một thiên giới lơ lững như mây, do thất bảo nhu nhuyển tạo thành, bằng phẳng an ổn, chu vi rộng 80.000 do tuần, cung điện lầu các, vườn cây ao hoa, tất cả đều trang nghiêm diễm lệ. Đây là cõi trời Dạ Ma (Yàma - Tu Diệm Ma, Trời Phận thiên). Từ trời Dạ Ma lên trên cách 320.000 do tuần, có một thiên giới bằng thất bảo, lơ lửng như mây, chu vi rộng 160.000 do tuần. Đây là cõi trời Đâu Suất Đà (Tusita - Đổ Sử Đa, Hỷ Túc thiên). Từ trời Đâu Suất lên trên cách 640.000 do tuần, có một thiên giới bằng thất bảo, lơ lững như mây, chu vi rộng 320.000 do tuần. Đây là cõi trời Hóa Lạc (Nirmànarati - Tu Niết Mật Đà, Hóa Tự Lạc Thiên). Từ cõi Hóa Lạc lên trên cách 1.280.000 do tuần, có một thiên giới bằng thất bảo, lơ lửng trên mây, chu vi rộng 640.000 do tuần. Đây là cõi trời Tha Hóa (Paranirmita - vàsavartin - Bà Xá Bạt Đề, Tha Hoá Tự Tại thiên), cũng là tầng trời cao nhất của Dục giới.

Trên đây là hiện tượng quen thuộc phạm vi một tiểu thế giới. Từ cõi Dục trở lên, lại có bốn tầng thiền thiên của Sắc giới, mỗi tầng khoảng cách nhau và bề rộng đều gấp bội. Duy có cõi Vô Sắc là không phương xứ. Về danh mục các cõi trời của Sắc và Vô Sắc Giới, trong chương một của bản thiên đã có nói rõ. Để tỉnh giảm bút mặc và tinh thần, nơi đây xin miễn đề cập đến.