Chương 2

13 Tháng Bảy 201610:11 CH(Xem: 2583)
Chương 2

Phần 2

Lương Vũ Đế bỏ đạo theo Phật

Chùa Đồng Thái bồn lần xả thân

 

Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, tự là Thúc Đạt, người Nam Lan Lăng ( ngày nay là vùng Thường Châu, Giang Tô), là người đồng tộc với vị Vua lập ra nước Tề Nam Triều tên là Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành. Sau khi Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành mất, con trai là Tiều Tích lên ngôi xưng là Tề Vũ Đế, sau khi Tề Vũ Đế mất, Tề Loan lần lượt giết hại Uất Lâm Vương và Hải Lăng Vương, lên ngôi xưng là Minh Đế. Sau khi con trai của Minh Đế tên là Tiểu Bảo Quyển kế vị, ông ta đã tàn sát một cách tàn bạo họ hàng thân thuộc của Vua, rồi sai quân lính bất ngờ tập kích Tiêu Diễn, lúc bấy giờ là Ung Châu Thích Sử, trấn thủ Tương Dương. Tiêu Diễn cho quân đến đánh, rồi gia lệnh giết Tiêu Bảo Quyển, sau đó tự mình xưng là Hoàng Đế, đổi tên nước thành Lương, hiệu là Kiến Nguyên Thiên Giám, lúc bấy giờ là năm 502 sau Công nguyên.

Theo ghi chép, Tiêu Diễn là một con người đa tài, văn võ song toàn. Trước khi lên ngôi thay nhà Tề, ông ta đã từng cùng với một số văn nhân Nho sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ tụ tập ở ấp Tây mới được xây dựng của Tề Cảnh Lăng Vương Tiêu Tử Lương xây ở vùng núi Kê Lung. Ở đó cùng nhau làm thơ làm văn, cùng nhau bàn tán thời cuộc, nhóm của ông cũng có uy tín và ảnh hưởng đồng thời ông ta còn nhận thêm chức Tề Ninh Sóc tướng quân chấn thủ vùng Thọ Xuân; sau đó ông lại nhận thêm chức Quán Quân tướng quân, phụng lệnh nhà Vua dẫn quân đi đánh đạo quân của Bắc Nguỵ lúc bấy giờ xâm phạm lãnh thổ Nam Triều. Sau khi cuộc chiến đó kết thúc, ông lại nhân thêm chức Hựu Quân Tấn An Vương Tư Mã trấn thủ Hoài Lăng. Cuối cùng ông ta nhận thức Phó Quốc Tướng Quân Ung Châu Thích Sử, trấn thủ Tương Dương. Sau khi phế nhà Tề lập nên nhà Lương, về mặt văn hoá tư tưởng, Tiêu Diễn gia sức gây dựng và ủng hộ Nho Giáo và Phật giáo. Cũng giống như việc dựng lên nhà Tống và nhà Tề, Triều Lương sau khi được dựng lên đều có các tướng lĩnh đứng đầu các lực lượng quân sự cát cứ mỗi vùng. Sau khi có quân trong tay, họ lại dùng vũ lực để chống lại chính quyền Trung Ương từ đó mỗi người đều lập nên Vương triều của riêng mình. Trong tình hình như vậy, các Hoàng Đế phong kiến bị giết hại và bị phế truất rất nhiều, chỉ ở hai triều đại là Tề và Tống Nam triều có 16 vị Hoàng Đế, thì trong đó có hàng chục vị bị sát hại, bị phế truất đồng thời, nhà Đông Tấn dựng nước ở vùng Giang Nam, chỉ kéo dài được quãng hơn 100 năm, Nhà Tống Nam Triều chỉ có khoảng 60 năm, nhà Tề chỉ có 24 năm. Do có tình hình như vậy, ngay sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Lương Vũ Đế lập tức cho chỉnh đốn lại nội bộ của tập đoàn thống trị, mượn giáo lý tam cương ngũ thường của Nho gia để duy trì trật tự thống trị, đồng thời ông cũng tôn trọng Phật giáo, lấy đó để lung lặc tăng lữ và những tín đồ Phật giáo, hướng những điều họ quan tâm lợi ích trước mắt vào kiếp sau.

Ngày 8-4 của năm Thiên Giám thứ ba ( năm 504 sau Công nguyên), Lương Vũ Đế hạ chiếu: ông ta từ bỏ Đạo giáo, quy y Phật. Trong chiếu thư đó, ông đã nói rõ:” Đệ tử Tiêu Diễn này luôn luôn mê hoặc một cách mù quáng, đam mê Lão Tử, suốt ngày ôm ấp, đã nhiễm tà đạo này; giờ đây tập thiện nhân quả, từ bỏ mê tín, hoang đường để quay trở lại trí giác, từ bỏ với Đạo giáo, quay trở lại nương nhờ vào chánh giác(Phật giáo). Đồng thời ta cũng rất muốn hoằng dương kinh Phật để cho tôn giáo chánh giác được lưu hành ở thiên hạ”. Từ lâu lắm rồi Lương Vũ Đế Tiêu Diễn đã tôn thờ và đi theo Đạo giáo, trước khi lên thay nhà Tề, ông đã từng nhiều lẫn tiếp xúc với tín đồ Phật giáo dưới quyền của Cảnh Lăng Vương Tiêu Tử Lương, do đó ông ta đã chịu ảnh hưởng của họ rất sâu sắc, từ đó mà ông dần dần quay trở lại tín phụng Phật giáo. Do đó không bao lâu sau khi ông ta lên ngôi Hoàng Đế, ông lập tức tuyên bố mình từ bỏ đạo giáo để quy y Phật. Sau khi hạ chiếu Lương Vũ Đế lập tức dẫn một đoàn gồm hơn 2 vạn tăng sĩ và cư sĩ thế tục, đến trước lầu chính trong điện Trọng vân làm luôn bài “ Xả Đạo Quy Y Phật Văn”, tự mình làm gương cho mọi người, đứng trước dân chúng phát nguyện từ nay tín phụng Phật giáo, đồng thời yêu cầu Vương công quý tộc và bình dân trăm họ đều phải thờ Phật. trong bài văn đó ông nói rõ “ Công khanh bách quan, Tông tộc Vương hầu, tất cả đều nên chống lại cái giả để quay về với cái thật, từ bỏ tà đạo để đến với chánh Phật, hoăng dương kinh Phật, hoá độ những con người đang mê muội, giúp họ tỉnh ngộ, cùng nhau trở thành Phật; cho dù chúng ta quy y Phật rồi mà vẫn bị sa vào trong đạo ác, chúng ta cũng không muốn theo giáo lý của Lão Tử để mà bỗng chốc được sinh ra ở cõi trời”. Xét từ tư tưởng này của Lương Vũ Đế, cho dù sau này khi quy y Phật rồi mà bị sa đà vào một tà đạo, cũng không nên mê muội mà tin vào giáo lý của Lão Tử để rồi bỗng chốc được sinh ở cõi trời( tức là Thanh Niên), từ đó để thấy lòng quyết tâm rất lớn của ông ta khi từ bỏ Đạo giáo  để quy y Phật. Hành động này của Lương Vũ Đế, về mặt thực tế nó cũng giống như một quyết định của Vua lấy Phật giáo làm Quốc Đạo. Đây là cao trào phát triển của Phật giáo ở Nam triều thời Lương Vũ Đế.

Tuy rằng tuyên bố từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật, nhưng mà phải thụ giới thì mới trở thành một tín đồ chính thức của Phật giáo ( bằng một nghi thức nhất định nào đó, họ tiếp nhận giới luật của Phật giáo, sau đó sẽ trở thành tín đồ chính thức của Phật giáo). Năm Thiên Giám thứ 18 ( năm 519 sau Công nguyên) Lương Vũ Đế thọ Bồ Tát Giới tại điện Vô Ngại. Từ đó trở đi, mọi người đều gọi Lương Vũ Đế là Hoàng Đế Bồ tát. Nhưng Vũ Đế không chỉ thọ giới cho chính mình mà ông còn yêu cầu anh em mình trong Vương tộc, rồi đến con cái họ, rồi đến cả dân thường lẫn các tín đồ Đạo giáo tất cả đều phải thọ giới. Tương truyền sau khi Lương Vũ Đế thọ giới tất nhiên là phải trì giới ( tức là giữ giới). Ông ta thực hiện đúng yêu cầu giới luận của Phật giáo, hàng ngày ăn chay, qua giờ Ngọ là không ăn gì nữa ( giới luật Phật giáo quy định, những tín đồ chính thức của Phật giáo ( tức là các vị sư) quá giữa trưa rồi mặc dù là chưa ăn cũng không được ăn nữa); hơn thế nữa tín đồ Phật giáo không được đắm chìm trong xa hoa, lụa là gấm vóc; đồ đạc sinh hoạt, quần áo ăn mặc rất đơn giản, đi giày bện bằng cỏ, đội khăn bằng cỏ, đội khăn bằng tơ gai, phải cố gắng chịu nóng chịu lạnh,( tức là không được oán trách thời tiết nóng, lạnh) việc ăn việc mặc cũng nên như vậy ( tức là có gì mặc lấy, không đua đòi); Các phòng ngủ trong cung điện, mỗi chiều không được rộng quá một trượng ( quãng 3,5 m), thành chí có thể nhỏ hơn. Điều đó có thể thấy rằng, sau khi thọ giới Vua Lương Vũ Đế đã tự biến mình thành một tấm gương phản chiếu sáng ngời đối với  vô số các ông Vua, các vị Đế Vương ăn chơi xa hoa, hoang dâm vô độ trong lịch sử Trung Quốc.

Một nhà thơ nổi tiếng đời đường tên là Đỗ Mục đã từng làm thơ để miêu tả về trung tâm Phật giáo của Nam Triều ở Kiến Khang ( ngày nay là vùng Nam Kinh tỉnh Giang Tô); ở đó có rất nhiều chùa thờ Phật. Trong bài thơ “ Giang Nam Xuân Tuyệt Phú” ông Đỗ Mục đã ghi rõ:” Nam Triều có 480 ngôi chùa, vô số lầu các chìm trong sương tuyết”. Thực tế sau khi từ bỏ Đạo giáo để thụ giới và giữ giới Phật giáo, Lương Vũ Đế cũng rất muốn xây dựng thêm nhiều chùa chiền. Khi ông còn tại thế, ở vùng Kiến Khang có đến hơn 500 ngôi chùa, một phần trong các ngôi chùa đó là xây dựng theo sắc lệnh của Lương Vũ Đế. Như chùa Trí Độ là Lương Vũ Đế đã ra sắc lệnh xây dựng cho cha mẹ họ Trương của mình vào năm đầu tiên của Thiên Giám, với mong muốn rằng sau này cha mẹ mất đi sẽ được phù hộ che chở; Như chùa Quang Trạch, trước kia là nhà ở của Lương Vũ Đế sau khi ông từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật, ông đã cho sửa sang ngôi nhà ở cũ của mình thành một ngôi chùa thờ Phật; như chùa Giải Thoát do Lương Vũ Đế xây dựng cho Nguyên Phi của mình tên là Hi Đế, ông xây dựng vào năm thứ 10 của Thiên Giám ( năm 511 sau Công nguyên). Hi Đế đã qua đời từ khi Tiêu Diễn chưa lên ngôi Hoàng Đế. Sau khi Lương Vũ Đế lên ngôi, để tưởng nhớ Nguyên Phi, ông đã cho xây dựng chùa Giải Thoát; Như chùa Đồng Hành là do vào năm đầu tiên của Thiên Giám, Lương Vũ Đế cùng một số người trèo lên núi non trùng điệp, thế là liền ra sắc lệnh xây dựng chùa ở đây. Do đó ngôi chùa này còn có tên là chùa Thánh Du; Như chùa Đại Ái Kính, xây dựng ở vùng núi non trùng điệp, hiểm trở là do Lương Vũ Đế xây dựng cho cha mình tên là Tiêu Thuận vào năm Phổ Thông nguyên niên ( năm 520 sau Công nguyên); Như chùa Đồng Thái, vốn trước đây là công sở cho quan uý của triều đình, sau khi Lương Vũ Đế lên ngôi Hoàng Đế, ông liền ra lệnh xây dựng công sở thành một ngôi chùa, do ngôi chùa này rất gần cổng Đại Thông ( cửa lớn) của Hoàng Cung, cho nên ông đã lấy từ Đại Thông để đặt tên cho ngôi chùa này ( tức là ông đổi phụ âm đầu của hai chữ Đại Thông thành hai chữ Đồng Thái) nên ngôi chùa mới có tên là Đồng Thái. Ngôi chùa này rất gần Hoàng Cung, sau đó nó trở thành một ngôi chùa để Lương Vũ Đế tiến hành các nghi lễ tôn giáo chính. Để từng nhiều lần cưỡng bức người khác nhường lại ruộng đất. Được sự cổ vũ của Lương Vũ Đế, các thành viên của hoàng thất của các quan lại, các hào phú cũng thay nhau bắt chước Lương Vũ Đế, họ cũng thi nhau xây dựng chùa chiền, do đó số lượng chùa chiền ngày càng nhiều đến mức không đếm xuể.

Cùng với việc xây dựng chùa chiền, Lương Vũ Đế còn cho tạc hoặc đúc những bức tượng Phật to lớn. Các bức tượng Phật mà ông ta ra lệnh cho đúc hoặc tạc gồm có: Một bức tượng gồm 10 khối vàng và một bức tượng gồm 10 khối bạc ở chùa Đồng Thái, một bức tượng Phật Di Đà băng đồng cao một trượng tám ( quãng 6m) ở chùa Quang Trạch, tạc một bức tượng bằng gỗ chiên đàn cao một trượng tám ở chùa Đại Ái Kính. Lượng vàng, bạc, đồng v.v…dùng để đúc hoặc tạc tượng Phật to lớn này, Lương Vũ Đế đều lấy từ Quốc Khố (9). Không chỉ có đúc tượng, tạc tượng, Lương Vũ Đế còn yêu cầu phải bố thí cho nhà chùa. Vì ông ta tự phong cho mình là bồ tát Hoàng Đế, do đó bắt buộc ông ta phải làm điều thiện, chăm chỉ bố thí. Tương truyền có một lần, Lương Vũ Đế đã bố thí cho chùa 211 thứ gồm tiền, bạc, lụa, thiếc v..v….tổng trị giá là 10.960.000 quan (10) tiền. Vua đã làm như vậy, kẻ hạ thần cũng bắt chước. Thái tử, quan lại trong triều, thảo dân tất cả đều coi bố thí cho chùa là một biện pháp gieo giắc vườn phúc. Có một số thảo dân đã đem tiền bán vợ đợ con của mình đi bố thí cho chùa, điều đó có thể thấy sự lôi cuốn đã tiềm ẩn trong lòng người trong việc tôn sùng Phật giáo một khi đã được Hoàng Đế đích thân đề xướng.

Tổ chức những lễ hội Phật giáo linh đình cũng là niềm đam mê của Lương Vũ Đế. Theo sử sách, Lương Vũ Đế rất hay tổ chức lễ hội như lễ làm cỗ chay các món sơn hào hải vị, lễ làm cỗ chay tết Vu Lan, lễ hội Vô Ngại, lễ hội Bình Đẳng, lễ hội Vô Giá cho tứ bộ ( gồm tăng, ni, thiện nam, thiện nữ). Những lễ hội như vậy đã thu hút đến hàng nghìn, hàng vạn người tham gia. Trong những lễ hội về Phật Pháp như vậy, Lương Vũ Đế còn đích thân bước lên đài cao để giảng kinh, nhiều lần tổ chức sám hối tại các lễ hội Phật giáo, ông đã từng tổ chức lễ hội sám hối Phật giáo như: Sám Hối Niết Bàn,, sám hối Đại Bát Nhã, sám hối bát Nhã Kim Cang. Các bài sám hối này về sau được mọi người thu nhập lại đóng thành quyển gọi là “ Lương Đế Hối Kinh”, sau đó lại ghép vào trong cuốn” Đại Tạng Kinh” của Phật giáo. Cùng với việc tổ chức các lễ hội Phật giáo, có lúc Lương Vũ Đế còn tuyên bố đại xá cho thiên hạ, phóng thích những phạm nhân đang bị giam cầm, với ý muốn là cho những người này được hưởng ân trạch của Bồ Tát Hoàng Đế. Theo thống kê của những sử tịch có liên quan, trong 48 năm cầm quyền. Lương Vũ Đế đã từng tổ chức hơn 16 lần các lễ hội Phật giáo với khoảng hơn một vạn người tham gia, cứ trung bình ba năm tổ chức một lần.

Việc Lương Vũ Đế quy y Phật có một chuyện mà mọi người cứ tưởng như đó chỉ là chuyện trong các vở kịch mà thôi. Tứ là ông đã 4 lần xả thân ở chùa Đồng Thái. Bốn lần xả thân là:  Một lần xả bỏ vàng bạc của cải, đem toàn bộ quần áo tư trang của mình cúng dường cho chùa; một lần xả thân khác là, ông tự nguyện vào chùa làm các công việc như quét tước, lao dịch phục vụ cho chúng tăng, với ý muốn là tạo công đức sau này được hưởng phúc. Năm đầu tiên của Đại Thông ( năm 257 sau Công nguyên) lúc đó Lương Vũ Đế khoảng 61 tuổi, và ông làm Hoàng Đế được 25 năm. Vào tháng ba năm đó, ông đi xe kiệu đến chùa Đồng Thái, quyết tâm xả thân ở ngôi chùa này. Nhưng sau đó được các hạ thần và chúng tăng khuyên giải, bốn năm sau ông lại lên kiệu trở về cung. Lần xả thân lần này của ông không được thành công như mong muốn, nhưng ông ta đã lập tức đại xá cho thiên hạ, đồng thời đổi liên hiệu Đại Thông. Hai năm sau đó, tức là vào năm 259 sau Công nguyên. Lương Vũ Đế lại đi xe kiệu đến chùa Đồng Thái, ở đó ông mở lễ hội Vô Giá cho tứ bộ. Tại lễ hội đó, Lương Vũ Đế đã cởi bộ long bào mà mặc vào bộ pháp y, ăn nghỉ tại một căn phòng rất giản dị trong chùa, lần này quyết tâm quyết ý xả thân. Quần thần đã nhiều lần khuyên giải, nhưng ông vẫn quyết tâm không trở về cung. Không còn cách nào khác, quần thần đành phải lấy 100.000 quan tiền để xin nhà chùa cho chuộc lại Bồ tát Hoàng Đế. Tăng chúng tại chùa Đồng Thái thấy quần chúng muốn chuộc lại Bồ tát Hoàng Đế với số tiền vàng to lớn như vậy, nhưng họ vẫn một mực không đồng ý; quần thần lại nhiều lần van lạy Lương Vũ Đế về Cung, mãi đến lúc này Lương Vũ Đế đã từng hai lần gửi lại sách để lại chùa Đồng Thái, trong sách đó ông đã nói rõ những điều khó hiểu, và trong các quyển sách đó ông luôn luôn dùng hai chữ “Đốn Thủ”, điều đó cho thấy rõ thái độ thành tâm thành kính của Lương Vũ Đế với Phật giáo và tăng chúng. Lần này xả thân ở chùa Đồng Thái, Lương Vũ Đế đã hơn 66 tuổi.

Vào năm 546 sau Công nguyên, tức là cách 17 năm so với lần sả thân trước, lúc này Lương Vũ Đế đã 83 tuổi. Vào năm đó Lương Vũ Đế lại đi xe kiệu đến chùa Đồng Thái, lại quyết tâm xả thân ở nơi đây, mặc cho quân thần van xin khuyên giải. Không có ý muốn trở về cung, Lương Vũ Đế ở luôn trong chùa đó hơn một tháng, sau đó Thái Tử là Tiêu Cương đến, dẫn theo quân thần và một số tiền vàng lớn để mong chuộc lại, lúc này bất đắc dĩ Lương Vũ Đế mới trở về cung, nhưng ông ta yêu cầu trước khi mình dời chùa này, lại phải tổ chức một lễ hội Phật giáo nữa, đồng thời đại xá cho thiên hạ. Chiều ý của Lương Vũ Đế, Hoàng Thái Tử Tiêu Cương cùng quần thần đã cho mở lễ hội Phật giáo, sau khi đích thân Lương Vũ Đế ban sắc lệnh đại xá cho thiên hạ, lúc này ông mới trở về Cung. Vào năm sau, tức là vào năm 547 sau Công nguyên, Lương Vũ Đế lại đi xe kiệu đến chùa Đồng Thái, lại mở lễ hội vô giá, lại cởi bộ bào để mặc lên bộ pháp y, lại sống trong một căn phòng rất giản dị, quyết tâm chỉ xả thân. Lúc này Lương Vũ Đế đã 84 tuổi. Ông lại sống trong chùa Đồng Thái hơn một tháng, quần thần lại xin dùng số tiền hơn hàng tỉ quan(100.000)(11) để chuộc ông trở về, quần thần lại đồng ý để ông ta làm lễ tạ ơn, các tăng ni trong chùa như lần trước. Lương Vũ Đế bốn lần xả thân, trong đó có hai lần ông ta cương quyết nhất, lần trước và lần sau cách 20 năm, trong đó hai lần quần thần sẵn sàng đặt số tiền hàng tỉ quan để chuộc ông về. Do Lương Vũ Đế xả thân cầu đạo mà chùa Đồng Thái trở nên giàu có vô cùng. Sở dĩ Lương Vũ Đế muốn xả thân đến với Phật giáo mà không muốn tiếp tục làm Đế Vương nữa phần lớn là do tín ngưỡng chủ quan của ông. Ngoài việc ấy ra  trong bối cảnh tuổi cao sức yếu và tình thế chính trị ngày càng bất ổn, ông ta muốn tỏ lòng thành kính vô cùng của mình đối với Phật giáo, không còn lưu luyến gì với ngôi báu Đế Vương nữa. Đồng thời ông tự mình làm gương cho mọi người để dấy lên một phong trào tôn thờ Phật giáo trong nhân dân, mở rộng uy thế, tiếng tăm của Phật giáo, từ đó mà thu hút sự chú ý của mọi người. Ngoài ra, thông hành qua hành động xả thân, ông ta còn muốn kiểm nghiệm mức độ trung thành của con cái, những người thân thuộc, bách quan quần thần đối với mình, qua đó tăng cường xây dựng quyền uy tuyệt đối của mình. Nhưng việc Lương Vũ Đế xả thân đến với Phật giáo, cho dù là có mặt cũng đáng chê bai, cũng đáng nực cười, nhưng trong đó đã ẩn chứa ý đồ là một mũi tên trúng nhiều đích.

Do đó, không thể đánh giá một cách đơn giản rằng, Lương Vũ Đế từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật hay là xả thân cầu Phật. Trên thực tế trong 48 năm trị vì, ông ta là một con người thành tâm thờ Phật. Do ông đã thành tâm tôn thờ, nên Phật giáo đã được phát triển tương đối ở Nam Triều; một số hành động của ông đã khuyến khích sự phát triển của Phật giáo. Ông ta rất ưu đãi các tăng lữ Phật giáo, ban thưởng cho những ai học giáo lý Phật giáo. Hồi đó có một số tăng sĩ Phật giáo nổi tiếng như Bảo Lượng, Chí Tạng, Tăng Mân, Pháp Vân, Pháp Hiến, Tăng Thiên, Tuệ Siêu, Minh Triệt, v.v…đều nhận được sự sùng kính của Lương Vũ Đế. Lương Vũ Đế thường xuyên cho họ đi giảng kinh thuyết pháp, khích lệ họ làm các công việc như viết sách về đề tài Phật học. Đối với một số người theo học các tăng sĩ, Lương Vũ Đế đã dành cho họ những địa vị xã hội tương đối cao và được hưởng cuộc sống hậu đãi vô cùng hậu hĩ: Ngài trí Tạng có thể tự do ra vào Hoàng cung, thành chí có thể ngồi bên cạnh ngự toạ trong cung điện; một số tăng sĩ còn được Lương Vũ Đế trực tiếp mời về làm sư trong nhà; có một số người được bổ nhiệm làm Tăng Chính. Tất cả những hành động đó đã cung cấp những điều kiện tiền đề vô cùng thiết thực cho sự phát triển về lý luận của Phật giáo. Cũng thời gian này, Lương Vũ Đế còn ra sắc lệnh biên dịch thêm một khối lượng lớn điển tịch ( sách cổ) Phật giáo. Thời kỳ đầu Lương, ở vùng Phù nam ( ngày nay là Cam-pu-chia), các tăng sĩ Ca bà la và Manđàla đã đến vùng Kiện Khang, Lương Vũ Đế liền ra sắc lệnh yêu cầu hai vị tăng này dịch những bộ kinh Phật tiếng phạm họ mang đến. Ngày đầu dịch kinh, Lương Vũ Đế còn đích thân đến nơi dịch xem họ làm việc, đồng thời ông cũng ra sắc lệnh ông Bảo Xướng, Tuệ Siêu cùng một số tăng sĩ người hán khác giúp đỡ. Họ đã dịch được các bộ kinh như “ kinh A Dục Vương”, “ Giải pháp Đạo Luận” v.v…Tất cả là 11 bộ 38 quyển. Chẳng bao lâu sau, có một vị tăng chân đế tên là Ưu Thiền Ni từ Ấn Độ sang Kiên Khang, Lương Vũ Đế liền mời ông ta dịch một số kinh Phật như “ Nhiếp Đại Thừa Luận”. Khi Lương Vũ Đế còn trị vì, ông còn ra sắc lệnh yêu cầu các vị cao tăng phải biên soạn một số sách về Phật học, chủ yếu có cuốn “ Kinh Luật Dị Tướng” của Thích Bảo Xướng, cuốn “ Bát Nhã Sao” của Thích Tuệ Lệnh v.v…Trong đó có cuốn “ Kinh Luật dị tướng” của Thích Bảo Xướng là bộ sách đầu tiên về đề tài lịch sử của Phật giáo Trung Quốc.

Sau khi quy y Phật, Lương Vũ Đế không chỉ là Đế Vương của trần gian, mà ông còn được yêu cầu làm Tăng Chính mặc áo trắng. Tuy đã được các tăng sĩ khuyên can là chấm dứt làm việc đó, nhưng mục đích của việc đó là vì sự nghiêm khắc của giới luật Phật giáo. Sau khi không còn mặc áo trắng làm Tăng Chính nữa, Lương Vũ Đế liền cử ngài Pháp Siêu làm Tăng Chính, quản lí toàn bộ tăng ni. Ngài Pháp Siêu phụng mệnh của Lương Vũ Đế đã viết cuốn “ Xuất Yếu Luận Nghĩa” gồm 14 quyển sau đó giao cho Lương Vũ Đế  đi phân phát khắp đất nước, yêu cầu toàn bộ tăng ni Phật giáo trong toàn quốc làm theo quyển sách này. Phật giáo vốn không hề chủ trương ăn chay một cách tuyệt đối. Từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc  đến tận thời kỳ Lương, các tăng sĩ xuất gia nói chung vẫn còn ăn mặn ( tức là ăn thịt), nhưng mà họ chỉ ăn cái gọi là “ tam tịnh nhục”. “Tam tịnh nhục” là thịt súc vật mà không do tự tay mình giết, không phải giết để mời mình ăn, hoặc đó là thịt của con vật đã chết rồi; cách giải thích thứ hai thì “ tam tịnh nhục” là một thứ thịt xúc vật do mình không tận mắt chứng kiến họ giết, không nghe thấy tiếng kêu thét của con vật bị giết, không phải tự mình giết để mình ăn. Trước thời kỳ Lương Vũ Đế, các tu sĩ xuất gia của Phật giáo đều có thể ăn “ tam tịnh nhục”. Sau khi quy y Phật, Lương Vũ Đế phải quyết tâm thay đổi bằng được tập quán ăn thịt của các tu sĩ xuất gia. Để tuyên truyền và quán triệt chủ trương không ăn thịt, ông ta đã viết một quyển sách gồm 4 tập lấy tên là “Đoạn Tửu Nhục Văn”. Ông nêu rõ:” Tất cả những tăng sĩ đều được tin tưởng một cách đúng đắn luật nhân quả, kinh thuyết, Phật thuyết. Kinh Phật đã nói rõ làm ác chắc sẽ có ác báo, làm thiện sẽ có thiện báo, tu sĩ xuất gia cần phải coi việc thiện làm gốc, không nên ăn thịt ăn cá. Giờ đây đệ tử của Phật mà vẫn còn thèm thịt, thì điều đó là tội lỗi, lỗi này nhất định sẽ bị quả báo. Do đó, những tăng sĩ cần phải đoạn tuyệt với việc ăn thịt ăn cá và uống rượu”. Cơ sở lý luận của Lương Vũ Đế chủ yếu là theo giáo nghĩa Phật giáo đại thừa, tức là tăng sĩ cần phải có tấm lòng từ bi rộng lớn để rồi không thể gây lên tội lỗi nữa. Để chủ trương này được quán triệt, Lương Vũ Đế đã dùng quyền lực của một vị Đế Vương trần gian ra sắc lệnh yêu cầu tất cả tăng ni không được tiếp tục ăn thịt ăn cá nữa. Ông nói rõ: “ Tăng chúng ngày nay mỗi người đều phải cần kiệm, nếu như đã mặc áo của Như Lai (11) mà không làm việc của Như Lai thì đó chỉ là những kẻ giả danh tăng sĩ, họ chẳng khác gì những tên đạo tặc. Nếu như có tăng sĩ nào vẫn tiếp tục thèm thịt và thèm rượu, thì cứ theo phép Vua mà sử tội” do đó, kể từ thời Lương Vũ Đế trị vì ở đất Hán đã hình thành một phong tục mà tăng sĩ ( xuất gia) và các cư sĩ ( tại gia) nhất luận ăn chay. Đây là một điểm riêng so với giáo nghĩa Phật giáo ở một số nơi khác ( như vùng Tây Tạng và một số quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á và Nhật Bản).

Trong vòng 48 năm trị vì của mình, Lương Vũ Đế không chỉ tu hành theo đúng giới luật quy định cho một cư sĩ Phật giáo như ăn chay, không uống rượu, không xem và nghe ca, múa nhạc, kiêng khem việc ân ái vợ chồng v.v…Ông ta còn làm công việc viết sách Phật học. Các tác phẩm về Phật học của ông ta chủ yếu là một số chuyện chú giải về kinh Phật và văn sám hối, tổng hợp có hơn 16 loại. Có một số sử tịch ( sách sử cổ) còn nói rằng, Lương Vũ Đế không chỉ tin chánh pháp một cách đúng đắn, giỏi về kinh điển của Thích Ca Giáo, ý nghĩ luôn luôn trong sáng, làm việc gì cũng soi xét kỹ càng và làm đến nơi đến chốn. Ông ta không chỉ có trình độ khá cao về Phật học, mà ông ta còn giỏi về nhiều trong thứ lục nghệ của thế gian, giỏi chơi cờ cùng một số trò chơi khác, biết xem đất thổ địa, xem bói quẻ bói bài, thứ gì ông ta cũng biết, cũng giỏi. Ông ta cũng siêng năng văn chương học hành, cưỡi ngựa, bắn cung, không thứ gì không giỏi. Đúng như sử tịch ( sách sử cổ) đã từng ca ngợi về ông ta, Lương Vũ Đế quả thực là một con người đa tài năng. Ngoài việc viết sách về Phật học, Lương Vũ Đế cũng viết về một lượng sách đồ sộ về nho học và Đạo giáo. Theo ghi chép trong sử tịch, ông ta đã từng biên soạn hơn 200 cuốn sách như “ Chế Chỉ Hiếu Kính Nghĩa”,” Trung Dung Giảng Sớ”.” Mao Thi Vấn Đáp”,” Xuân Thu Vấn Đáp”,” Thượng Thư Đại Nghĩa”,” Lão Tử Giảng Sớ”.” Khổng Tử Chính Nghĩa” v.v…Ông ta còn viết bộ “ Thông Sử” gồm 600 quyển và bộ “ Kim Hải” 30 cuốn. Thông qua số lượng sách đồ sộ như vậy, ta có thể thấy rằng Lương Vũ Đế từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật, đồng thời ông sùng bái Phật giáo không giống như sự sùng bái mù quáng của một số Đế Vương phong kiến đối với Phật giáo, mà sự tôn sùng của ông có một số tư tưởng nhất định. Điều này được thể hiện rõ nét nhất ở chỗ là tư tưởng tam giáo đồng nguyên và tam tam giáo tịnh dụng của ông ta.

Ngay từ thời Tây Tấn, Đạo sĩ Vương Phù đã từng viết cuốn “ Lão Tử Hoá Hồ Kinh”, nói rằng Thích Ca Mâu Ni chính là đệ tử của Lão Tử mà Lão Tử đã hoá phép nên sau khi Lão Tử chuyển xuống sinh sống ở vùng miền Tây. Mục đích của cuốn sách đó là muốn nâng cao vị trí của Đạo giáo. Đến thời kỳ Nam Bắc Triều, một số tăng sĩ Phật giáo đã sửa lại truyện Lão Tử hoá phép thành người Hồ thành chuyện Phật hoá phép ra Lão Tử và Khổng Tử. Có một số kinh Phật thì nói rằng, sau khi Thích Ca Mâu Ni thành Phật ngài liền cử ba đệ tử lớn nhất của mình đến vùng Trấn Đán ( Trung Quốc ngày nay) để tiến hành giáo hoá. Một người được gọi là Nho Đồng Bồ Tát đó chính là Khổng Tử; một người được gọi là Tịnh Quang Bồ Tát, đó chính là ngài Nhan Hồi, đệ tử của Khổng Tử; một người nữa là Ma Ha Ca Diếp đó chính là Lão Tử, v.v…Tư tưởng Tam Giáo Đồng Nguyên và Tam Giáo Tịnh Dụng của Lương Vũ Đế vừa mới ra đời, lập tức ông lấy đó làm tiền đề. Ngay từ khi ông đã từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật, ông đã từng ra chiếu thư chỉ rõ:” Tôn giáo trên thế gian có 96 loại nhưng chỉ có Phật giáo là con đường đúng đắn, còn lại 95 loại đều là tà đạo. Nay ta muốn từ bỏ tà đạo vớ vẩn kia đi, mà chỉ coi Phật giáo là chính đạo. Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử, v.v…tuy đều là đệ tử của Như Lai, nhưng vẫn còn theo tà đạo, chỉ làm những việc thiện ở thế gian, không muốn vứt bỏ phàm tục để tu thành thánh. Do đó làm Phật sự là phải tin tưởng một cách tuyệt đối và phải có lòng kiên cường, còn làm việc Lão Tử thì niềm tin bay bổng và rất yếu ớt, do đó ta cần phải bỏ một niềm tin yếu ớt, bay bổng đó đi để theo chánh tín”. Trong chiếu thư đó Lương Vũ Đế đã coi Lão Tử , Chu Công, Khổng Tử là đệ tử của Phật đà, trên thực tế là ông muốn nói rõ Nho Giáo và Đạo giáo bắt nguồn từ Phật giáo. Trong lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo, Phật giáo là chính đạo, Nho Giáo Đạo giáo là tà đạo. Nho Giáo, Đạo giáo không thể giúp cho con người thoát được vòng luôn hồi sinh tử để tu thành Phật. Nhưng Nho Giáo, Đạo giáo giúp con người ta trở nên thiện hơn, hữu ích hơn, do đó vẫn cần phải đề xướng.

Trong cuốn “ Thuật Tam Giáo Thi” của mình, Lương Vũ Đế cũng thể hiện rõ tư tưởng tam giáo đồng nguyên và tam giáo tịnh dụng. Trong bài thơ ông có viết:” Thuở nhỏ ta đã học Chu Khổng, ta đã học hết sáu kinh. Hiếu nghĩa bầy ra trong sách, lòng nhân từ đầy trong sách sử. Lời thô tục thì quý ở chỗ không bay bổng, làm việc thiện tốt ở cái tâm cái đức của chúng sinh. Trong lòng ghi nhớ sách Đạo giáo hữu danh và vô danh, điều tốt đã khắc ở bảng vàng. Lời nói thẳng là có ý tốt, việc làm thường quý ở chỗ âm đức(12). Con người thanh cao thì được sống lâu. Cuối đời được đọc sách Phật, luôn luôn hiện sao sáng. Chịu khó tu tập thì trí tuệ sẽ sáng, luật nhân quả sẽ hiểu rõ hơn. Các giáo phái đều bình đẳng, đều trở về chỗ không sinh. Cần phải hiểu rõ tất cả đều là con của một gốc, cầm bút viết phải biết rằng mình không hề run sợ, một nguồn không thể có hai thánh, chân lý thiện không thể chia ba”. Những điều đó Lương Vũ Đế đã tổng kết suốt quá trình học tập của mình, tức là suốt quá trình từ khi đi học Nho Giáo, học Đạo giáo đến khi tôn sùng Phật giáo và học Phật Pháp. Ở đó ta cũng thấy rõ thái độ của ông ta đối với cả ba tôn giáo; ông ta cho rằng tam giáo đồng nguyên, nhưng chỉ duy nhất có Phật giáo là tôn giáo toả sáng nhất.

Từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật đó là sự thay đổi vô cùng lớn lao trong tín ngưỡng đối với bản thân Lương Vũ Đế. Mặc dù sự thay đổi này đã tạo nên ảnh hưởng xã hội vô cùng to lớn. Nhưng từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật không có nghĩa là Lương Vũ Đế từ bỏ luôn sự tôn trọng, sự mến mộ đối với Đạo giáo và Nho Giáo, hoặc là dùng Phật giáo để bài xích Nho Giáo và Đạo giáo để quy y Phật chỉ là biểu hiện điểm chủ yếu trong lĩnh vực tôn giáo mà thôi. Đối với học thuyết đạo gia và Đạo giáo, Lương Vũ Đế vẫn vô cùng sùng tín, bản thân ông ta vẫn thường xuyên giảng “ Lão Tử” và “ Trang Tử” cho các thần liêu. Hồi đó ông ta có mỗi quan hệ vô cùng đặc biệt với một đạo sĩ nổi tiếng của Đạo giáo tên là Đào Hoằng Cảnh. Khi nghe Lương Vũ Đế khởi binh, Đào Hoằng Cảnh lập tức cử em mình đến ủng hộ, lại viết lời sấm thành chữ “ lương”, sau đó lệnh cho em mình đem vào. Sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Lương Vũ Đế lại càng ưu đãi Đào Hoằng Cảnh , thường xuyên qua lại thăm viếng, chuyện trò với nhau. Đào Hoằng Cảnh đã dùng tài đạo thuật của mình làm lịch năm, thần đan cho Lương Vũ Đế. Lương Vũ Đế phục thần đan linh nghiệm càng tỏ ra kính trọng Đào Hoằng Cảnh, mỗi lần được Đào Hoằng Cảnh tặng sách, Lương Vũ Đế đều thắp hương làm lễ đón nhận rất thành kính. Lương Vũ Đế đã nhiều lần giáng sắc lệnh yêu cầu Đào Hoằng Cảnh xuống núi giúp ông việc quốc gia, nhưng đều bị ông từ chối; Lương Vũ Đế lại đành phải mỗi khi có đại sự hay có điềm báo trước hung dữ đều thân đến hỏi ý kiến của Đào Hoằng Cảnh, do đó mà Đào Hoằng Cảnh được người lúc bấy giờ đặt cho cái tên là “ Tể Tướng trong núi”. Điều đó có thể cho thấy, Lương Vũ Đế không hề hoàn toàn bỏ Đạo giáo.

Đối với Nho Giáo, Lương Vũ Đế càng coi trọng hơn. Một năm sau ngày ông từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật, liền hạ chiếu đặt “ngũ kinh” là  hàm bắc học. Thêm vào đó đặt “ Hiếu kinh” là một thứ trợ giáo. Bản thân ông ta còn viết cuốn trường thiên ( nhiều chương) “ Hiếu tư phú”, ca ngợi tư tưởng trung hiếu lưỡng toàn của Nho gia. Trong đó ông ta cũng có nhắc đến chuyện bản thân mình đã đọc “ Hữu tử truyện” mỗi lần ông ta nhớ đến câu chuyện cảm động về Thầy Tử Lộ đã kể chuyện với Khổng Tử về việc hiếu thảo với song thân, thì ông cảm kích vô cùng:” Mỗi lần nhớ đến câu chuyện ấy, việc đã qua nhưng ý tưởng vẫn còn, công ơn cha mẹ sao báo đáp hết được!” Về chuyện này, Lương Vũ Đế đã trở thành một hình tượng nêu lên tư tưởng hiếu nghĩa của Nho Gia. Ông ta từ bỏ Đạo giáo để quy y Phật, cho xây dựng thêm nhiều chùa, trong đó có những ngôi chùa như Đại Ái Kính, Chí Lộ, chính là những ngôi chùa mà ông xây dựng cho cha mẹ mình, điều đó đã biểu lộ tinh thần nhớ đến công ơn của cha mẹ, đồng thời cũng tuyên truyền hai thuyết giáo là trung hiếu của Nho Giáo và báo ứng của Phật giáo, trong đó ông cũng có ý muốn nối liền Nho Giáo và Thích Ca giáo. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng, Lương Vũ Đế vừa là vị Đế Vương phong kiến rất có tài năng, vừa là tín đồ Phật giáo am hiểu sâu về Phật giáo. Trong 48 năm trị vì, ông đã thúc đẩy Phật giáo ở vùng Giang Nam phát triển mạnh mẽ hơn, hơn thế nữa thông qua bản thân mình và thông qua sự đề xướng cũng như sự chỉ đạo của chính mình, ông ta bước đầu đã giải quyết được sự xung đột do mâu thuẫn giữa Phật giáo và nền tư tưởng văn hóa truyền thống của Trung Quốc. Đặc biệt là tư tưởng tam giáo đồng nguyên và tam giáo tịnh dụng của ông ta, thực ra đó là một sự tổng kết về sự xung đột do mâu thuẫn kể trên; nó cũng có ý nghĩa về mặt lịch sử nhất định. Nho Giáo thì nói rõ khi trị quốc bình thiên hạ, cần phải giữ tam cương ngũ thường của phong kiến, nội dung của Nho Giáo vừa có lý luận chính trị xã hội, vừa chứa đựng cả học thuyết đạo đức luân lí. Do đó Nho Giáo được các vị thống trị phong kiến Trung Quốc tôn thờ là tư tưởng thống trị chính thống; Còn trong Đạo gia và Đạo giáo có nội dung về phép thuật chính trị các mưu đồ, mưu lược, còn nói rõ giảm bớt ham muốn, tu dưỡng đức tính để thành tiên, vừa có thể thoả mãn ảo tưởng trường sinh bất lão mà giai cấp thống trị đang mong muốn, đang theo đuổi, nó lại vừa là tín ngưỡng tôn giáo bình thường và phổ cập cho toàn xã hội; Phật giáo thì dùng thuyết nhân quả báo ứng để giải thích sự giàu nghèo và thứ bậc cao thấp trong xã hội, lợi dụng việc giải thoát thế sự tu thành Phật để mang đến cho con người, một sự gửi gắm về tinh thần nào đó. Có thể thấy rằng, từ những góc độ khác nhau bằng cách đánh giá khác nhau, thì cả ba tôn giáo trên đều có một mục đích chung là duy trì và giữ gìn, củng cố trật tự cai trị của giai cấp phong kiến. Điều đó chính là chủ trương tam giáo đồng nguyên (13), và cũng là nền móng của chính sách tam giáo tịnh dụng(14) của Lương Vũ Đế.

 

Biện Tiên sau nạn khởi tiêu tường

Vũ Văn Ung hai lần hưng pháp hoạ 

 

Những năm cuối thời Bắc Nguỵ, mâu thuẫn giai cấp càng trở nên gay gắt, xã hội loạn lạc bất ổn,  sự đấu tranh để tranh quyền đoạt vị trong nội bộ giai cấp thống trị cũng ngày càng gay gắt, do đó mà chính quyền phong kiến phía Bắc Nguỵ đã cai trị phía Bắc Trung Quốc quãng 150 năm nay cũng nảy sinh chia rẽ. Năm Vĩnh Hi thứ 3( năm 534 sau Công nguyên) Bắc Nguỵ Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu phải chạy  về phía Tây đến  Trường An. Bắc Nguỵ Bộ tướng tên là Cao Hỉ lập người khác tên là Hiếu Tịnh Đế Nguyên Thiện Kiến, dời đô về Nghiệp Thành. Từ đó trở đi, chế độ thống trị ở phương Bắc Trung Quốc được cai quản bằng hai chính quyền phong kiến với hai trung tâm là Trường An và Nghiệp Thành. Về mặt lịch sử, người ta gọi đó là Tây Nguỵ. Năm 550 sau Công nguyên, con trai của Cao Hỉ là Cao Dương phế nhà Đông Nguỵ, thiết lập nên chính quyền Bắc Tề. Bảy năm sau, ông Vũ Văn Giác ở Trường An cũng đã phế nhà Tây Nguỵ, lập nên chính quyền nhà Bắc Chu. Năm 577 sau Công nguyên, Bắc Chu diệt Bắc Tề. Đến năm 580 sau Công nguyên, nhà Bắc Chu về cơ bản đã thống nhất toàn bộ phương Bắc Trung Quốc. Vào năm sau, một người họ hàng ngoại tộc nhà Bắc Chu tên là Dương Kiên đã phế nhà Bắc Chu lập lên nhà Tuỳ.

Do Thái Vũ Đế nhà Bắc Nguỵ có hành động diệt Pháp khiến cho Phật giáo ở phương Bắc lâm vào cảnh bị huỷ hoại một cách trầm trọng, nhưng Văn Thành Đế lại khát khao phục hưng Phật Pháp, nên Phật giáo Bắc Triều lại mau chóng được hưng thịnh trở lại. Chịu ảnh hưởng hoàn cảnh xã hội và văn hoá tư tưởng, nền Phật giáo Bắc triều cũng có đặc điểm hết sức nổi bật. Trước tiên, Phật giáo ở Bắc Triều chú trọng việc tu hành theo tông giáo thiền và giữ giới, điều này khác hẳn với tình hình Phật giáo ở Nam Triều là chỉ chú trọng giáo nghĩa, giải thích Phật giáo theo kiểu huyền bí khó hiểu; thứ hai nền Phật giáo ở Bắc triều rất chú trọng việc xây dựng chùa tạc tượng, lấy đó làm hành động tích luỹ công đức công đức để xây dựng nền móng cho kiếp sau. Theo sách sử, những năm cuối thời Bắc Nguỵ, sự phân bố các chùa ở Miền Bắc chỉ có Lạc Dương, và trong thành Lạc Dương thì có hơn 1000 ngôi chùa; tất cả các ngôi chùa ở đó đều được xây dựng và trang trí rất xa hoa lộng lẫy. Nhưng cũng theo ghi chép của sử tịch, chỉ sau hơn 20 năm xây dựng đất nước, trong nội địa nhà Bắc Tề có khoảng hơn 4000 ngôi chùa, tăng ni có quãng hơn 2 vạn. Trong nội địa nhà Bắc Chu cũng có khoảng gần 1000 ngôi chùa. Điều đó có thể cho thấy rõ sự hưng thịnh xưa nay chưa từng có của Phật giáo Bắc triều.

Sự phát triển đó của Phật giáo phương Bắc có mối liên hệ trực tiếp với sự khởi xướng phục hồi Phật giáo của các Đế Vương Bắc Triều. Nhưng môi trường phát triển của Phật giáo Bắc triều không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi. Quãng 100 năm sau khi Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế Thác Bạt Đạo huỷ diệt Phật Pháp, thì lại đến Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung một lần nữa khởi xướng việc huỷ diệt Phật Pháp.

Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung lên ngôi vào năm 560 sau Công nguyên. Theo ghi chép, lúc đầu mới lên ngôi, Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung rất có cảm tình với Phật giáo, ông đã từng cho tạc tượng Thích Ca Mâu Ni sơn son thiếp vàng cao 1 trượng (14) 6 xích (4,5m), đồng thời cho đúc và cho tạc quãng 220 bức tượng về Bồ tát, Thánh Tăng, Thầy Trò Kim Cương vây quanh Bảo Tháp v.v…ông còn ra sắc lệnh xây dựng các ngôi chùa như chùa Ninh Quốc, chùa Hội Xương, chùa Vĩnh Ninh v.v…ông còn để dành một khoản ngân khố (15) nuôi 1800 tăng sĩ, tổ chức người chép hơn 1700 bộ kinh luận Phật giáo. Điêu đó có thể thấy rằng, lúc đầu lên ngôi, về cơ bản Vũ Văn Ung là một con người rất có nhiệt huyết trong Phật sự. Lịch sử Phật giáo có sự chuyển ngoặt. Sở dĩ Bắc Chu Vũ Đến muốn diệt Phật Pháp là vì bị xúi dục và ủng hộ của một đạo sĩ Đạo giáo tên là Trương Tân và một tăng sĩ Phật giáo tên là Vệ Nguyên Tung. Nhưng trên thực tế, lúc đầu Bắc Chu Vũ Đế  hoàn toàn không có ý diệt Phật Pháp, mà chỉ muốn đứng từ góc độ sự tồn vong của nền chính trị phong kiến mà thảo luận kĩ xem trong ba tôn giáo là Nho Giáo,Đạo giáo, Thích Ca giáo , thì tôn giáo nào có lợi nhất trong nền thống trị của phong kiến, để rồi từ đó xếp đặt thứ bậc của ba tôn giáo. Trong quá trình thực hiện việc đó mà xếp đặt thứ bậc của ba tôn giáo. Trong quá trình thực hiện việc đó, giữa ba tôn giáo xảy ra một sự đấu tranh vô cùng gay gắt, đặc biệt là giữa Phật giáo và Đạo giáo. Hai tôn giáo này thì gần như một mất một còn, không ai chịu nhường ai. Cuối cùng là dẫn đến bi kịch của lịch sử là diệt Phật Pháp. Trong đó có một số cách lí luận và đánh giá của các ông như Vệ Nguyên Tung, Trương Tân và một số người khác đã dẫn đến lòng quyết tâm tiêu diệt Phật Pháp của Bắc Chu Vũ Văn Ung.

Vào quãng năm đầu tiên của Thiên Hoà ( năm 566 sau Công nguyên), Bắc Chu Vũ Đế đã nhiều lần hạ chiếu lệnh tập hợp các quần thần, các Sa môn, các Đạo sĩ Đạo giáo để thảo luận về vấn đề Nho Giáo, Thích Ca giáo và Đạo giáo. Ông ta yêu cầu các tăng sĩ cùng những người ở thế tục cứ tự do phát biểu, ai có ý kiến gì cứ thoải mái nói ra. Do đó sự đề xướng của ông ta, vào năm Thiên Hoà thứ hai( năm 567 sau Công nguyên), một tăng sĩ tên là Vệ Nguyên Tung đã dâng một chiếu thư lên Bắc Chu Vũ Đế , yêu cầu giảm bớt các chùa và các tăng sĩ. Ông Vệ Nguyên Tung là người Ích Châu thành bộ, thuở niên thiếu đã xuất gia làm tăng, đã từng được coi như một tăng sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ, nhưng hết thời. Theo truyền thuyết, Vệ Nguyên Tung rất giỏi về việc bói toán âm dương, xem ngày kén giờ. Ông ta cũng khá nổi tiếng với dáng vẻ giả điên giả dại, đi lang thang khắp nơi, thu thập các câu thơ về sấm ký để dự đoán về tương lai. Về sau ông mặc cả áo của thế tục đến trước Thục và vào Trường An, kết bạn với rất nhiều kẻ quyền quý ở Bắc Chu, và cũng được sự coi trọng của Bắc Chu Vũ Đế. Trong chiếu thư của Vệ Nguyên Tung dâng lên Bắc Chu Vũ Đế, ông ta đã liệt kê ra 15 điều. Nội dung chủ yếu của nó là: Thứ nhất, các chùa thờ Phật cùng các tượng Phật chẳng có lợi ích gì cho việc trị quốc an dân, vậy nên phá bỏ. Ông ta nói rõ, truyền thuyết từ thuở bình mình khai thiên lập địa đến nay, đất nước không hề có Phật giáo, thiên hạ vẫn ổn định; nhưng từ khi Phật giáo thịnh hành cùng Nam Triều, chùa chiền mọc lên san sát, nhưng ngược lại lại đẩy đất nước vào cảnh suy vong. Điều đó có thể thấy lòng ngưỡng mộ Phật không chỉ có ở chỗ xây dựng thật nhiều chùa chiền, mà phải hiểu cái tinh thần cơ bản của Phật giáo, tức là phải lấy đại từ đại bi làm gốc, cuộc sống dân được an lạc, lợi quốc lợi dân. Theo tinh thần này thì không nên bắt nhân dân phải đóng góp nhiều để xây chùa chiền, mà cũng chẳng cần phải quỳ bái mấy bức tượng Phật gỗ hoặc bằng đất sét. Thứ hai, cần phải cải cách triệt để Phật giáo, đặt Phật giáo vào trong quốc pháp của thế tục. Ông ta cho rằng, cần phải thiết lập một xã hội lí tưởng, trong đó ba tôn giáo là Nho Giáo, Phật giáo, và Đạo giáo cần phải hoà hợp. Trong xã hội đó, Hoàng Đế cũng giống như Phật tổ, cần phải được sự tôn kính quý trọng của tất cả mọi người. Các tín đồ Phật giáo, cho dù là các Tăng sĩ ( xuất gia) hay người thế tục ( cư sĩ), nếu từ bỏ sự chi phối của cuộc sống vợ chồng thì nó có thể đắc đạo. Không cần phải xây chùa, hệ thống tổ chức của giáo hội cần phải hoà hợp với xã hội ở thế tục, đạo đức của Phật giáo chính là đạo đức của xã hội. Thứ ba, cần phải thông qua biện pháp kinh tế để thay đổi thói hư tật xấu, tham lam gian trá trong giới Phật giáo. Ông ta chỉ rõ, đối với  một số người nghèo khổ nhưng có đức hạnh, thì chỉ cần thu tô mà miễn cho họ lao dịch, những tăng sĩ giàu có mà đức hạnh thiếu kém cỏi, thì ngoài việc thu nạp tô ra, cần bắt họ đi lao dịch, lấy đó là cơ sở để trừng trị thói tham lam bủn xỉn, giáo dục lòng trung hiếu, điều đó sẽ đạt được mục đích cần làm thay đổi thói tham lam đồi bại trong giới Phật giáo. Những luận điểm trên đây của ông Vệ Nguyên Tung chủ yếu là tấn công thẳng vào thực tế của hiện tượng chỉ giỏi lý luận suông mà vẫn tham lam hủ bại trong giới Phật giáo lúc bấy giờ. Từ đó mà ông ta nêu ra một biện pháp có tính chất cơ bản nhằm cải cách Phật giáo. Ông ta không hề có ý phế bỏ Phật giáo, nhưng ông ta muốn Phật giáo là một tôn giáo tồn tại với mục đích đại từ đại bi, bảo vệ lợi ích cho chúng sinh, an lạc bình đẳng, từ đó giúp cho Phật giáo tiếp tục phát triển. Do đó sau khi xem bức chiếu thư này, Bắc Chu Vũ Đế liền vô cùng vui thích. Nhất là trong bức chiếu đó, vệ Nguyên Tung lại tán dương Chu Vũ Đế là một con người tích cực lo việc nước, lợi nước lợi dân, quả đáng là một bậc Như Lai của Dương Thế; yêu cầu toàn bộ tăng ni thế tục trong cả nước phải tôn kính; điều này càng làm cho Bắc Chu Vũ Đế vui thích.

Sự kiến giải của Vệ Nguyên Tung ở một ý nghĩa nhất định nào đó đã càng củng cố cho lòng quyết tâm sắp đặt các ngôi thứ các tôn giáo của Bắc Chu Vũ Đế. Năm Thiên Hoà thứ 4 ( năm 569 sau Công nguyên) Chu Vũ Đế chiêu tập thần liêu, chúng tăng Sa môn, đạo sĩ Đạo giáo tại chính diện, thảo luận những ưu khuyết điểm của ba tôn giáo. Qua một hồi lâu thảo luận cùng tranh luận, Chu Vũ Đế đặt Nho Giáo lên hàng đầu, đặt Phật giáo ở cuối cùng và để Đạo giáo vào đầu tiên của vô danh, và đặt lên trước cả Thích Ca giáo( tức là Phật giáo). Sau đó không bao lâu Chu Vũ Đế lại triệu tập tiến hành cuộc thảo luận. Ông ta cho rằng:” Nho giáo, Đạo giáo xưa nay vẫn được nhân dân cả nước tôn trọng, còn tương lai của Phật giáo thì Trẫm cũng không mấy tin tưởng”. Do đó có một số người chủ yếu là các Sa môn có ý kiến bất đồng, nên Chu Vũ Đế lập tức ra sắc lệnh cử Tư Mã Đại phu tên là Trần Loan nghiên cứu kỹ càng hai tôn giáo là Phật giáo và Đạo giáo, kiểm định rõ mức độ tốt xấu của hai tôn giáo đó, xem cái nào là thật cái nào là giả, để Chu Vũ Đế ra quyết định cuối cùng.

Chẳng bao lâu sau khi Trân Loan nhận chiếu lệnh, ông ta liền viết cuốn “ Tiếu Đạo Luận”, gồm ba quyển, tất cả có 36 điều, luận cứ của chúng rõ rằng tỉ mỉ, lấy nhiều ví dụ điển hình, tiến hành phản đối và công kích Đạo giáo. Trong cuốn “ Tiểu Đạo Luận” trước tiên ông Trân Loan đã phân tích rạch ròi giữa tổ tiên Đạo giáo và các thế hệ sau, ông khẳng định “ Lão Tử” nhưng lại bài xích Đạo giáo. Tiếp theo ông lại đưa ra rất nhiều tư liệu, tiến hành kiểm tra và kiểm nghiệm đối với thuyết “ Lão Tử Hoá Hồ”; đồng thời cũng nêu lên những luận chứng về sự sai lầm của thuyết “ Lão Tử Hoá Hồ”, Tiếp theo ông chỉ rõ, thuyết thiên địa thần tiên của Đạo giáo là một thuyết rất hoang đường, cái pháp thuật uống thuốc thành tiên của Đạo giáo cũng rất nhảm nhí. Cuối cùng ông chỉ rõ, kinh điển của Đạo giáo chỉ là một thứ lăng nhăng bậy bạ. “Tiếu Đạo Luận” của ông Trần Loan là một cuốn sách đứng trên lập trường của Phật giáo tiến hành phân tích và bác bỏ rất rõ ràng tỉ mỉ đối với Đạo giáo, trong đó cũng phản ánh nội dung cốt yếu của việc tranh luận giữa Phật giáo và Đạo giáo ở Bắc Triều. Sau khi cuốn “ Tiếu Đạo Luận” hoàn thành, Chu Vũ Đế lại cho triệu tập cuộc họp giữa bách quan thần liêu cùng các Sa môn, đạo sĩ Đạo giáo để tiến hành thảo luận. Chu Vũ Đế cho rằng chữ “ Luận” ở đây có ý làm tổn hại đến Đạo giáo và đạo sĩ, do đó ông ra lệnh cho mọi người phải tiến hành huỷ ngay không cho phép nó được lưu truyền.

Sau khi cuốn “ Tiếu Đạo Luận” bị thiêu huỷ, một hoà thượng tên là Đạo An(Đạo An thời Bắc Chu, giống tên của Tăng đạo sĩ Đạo An thời Thập lục quốc) cho rằng: Thế tục rất hỗn loạn, sử tịch thì lộn xộn, nhảm nhí, cần phải tiến hành đánh giá xem xét kỹ càng mức độ tốt xấu của ba tôn giáo một lần nữa, do đó ông đã viết cuốn “ Nhị Giáo Luận”. Quyển sách gồm 12 chương, sử dụng đề tài là vấn đáp, người ra câu hỏi xưng tên là cậu bé Dật Tuấn người miền Đông, người trả lời xưng tên là ông Thông Phương của Tây Kinh. Đứng trên lập trường của Phật giáo, quyển sách đó nhằm thẳng vào quan điểm của ba tôn giáo đang thịnh hành lúc bấy giờ, quyển sách đó cũng đưa ra cách đánh giá của riêng mình. Ông ta cho rằng chỉ có Nho Giáo và Thích Ca giáo được coi là những tôn giáo nhằm giáo hoá chúng sinh, Đạo giáo không thể là một đạo độc lập, nó thuộc về Nho Giáo. Nho Giáo được coi như là một ngoại giáo, nó chỉ nhằm cứu vớt thể xác con người, còn Phật giáo được coi như là nội giáo, nó cứu vớt tinh thần con người. Nho Giáo chỉ bàn đến những vấn đề thuộc nội tâm con người, không thể giúp con người thoát khỏi vòng luôn hồi sinh tử, nhưng Phật giáo thuộc về một tôn giáo xuất thế, báo ứng thiện ác, nhân quả luôn hồi v.v…Nó dạy bảo con người hãy thoát khỏi những ràng buộc của thế gian để tìm đến cái chân thực của chính mình. So sánh hai tôn giáo đó, Phật giáo có nhiều ưu điểm hơn Nho Giáo. Ngoài ra cuốn “ Nhị Giáo Luận” còn phê bình cái trò lừa bịp vô căn cứ của Đạo giáo. Đạo An cho rằng, Đạo gia của Lão Tử, Trang Tử chủ trương không ham danh lợi, giảm bớt ham muốn, những điều đó là phù hợp với nguyên tắc của Đạo giáo; Nhưng về sau Đạo giáo lại nói rằng, việc uống thuốc “đan phục” sẽ được thăng thiên thành tiên, đó chỉ là thuyết bậy bạ vô căn cứ.

Cho dù là ông Trần Loan hay ông Đạo An, họ đều bàn luận về quá trình xắp đặt thứ tự của ba tôn giáo của Bắc Chu Vũ Đế, họ đều chĩa mũi nhọn vào Đạo giáo chỉ còn là cách phục tùng. Hoàng Đế rất tôn sùng Nho Giáo, do đó tuy rằng Trân Loan và một số người khác đánh giá thấp Nho Giáo, nhưng họ cũng không dám phủ định một cách triệt để Nho Giáo. Phật giáo thì suy tôn Hoàng Đế là Như Lai, nên họ cũng không giám tôn kính Hoàng Đế. Thêm vào đó, Hoàng Đế đã xắp đặt hai tôn giáo là Nho Giáo và Đạo giáo lên đầu, đặt Phật giáo xuống phía sau; do đó mặc dù chĩa mũi nhọn vào Đạo giáo, nhưng họ không dám bài xích Đạo gia của Lão Tử và Trang Tử. Lập trường và sự biện luận của họ mặc dù chỉ xoay quanh vấn đề là thứ tự của ba tôn giáo này nhưng nó đã biến thành một trận chiến công kích và tiêu diệt lẫn nhau giữa các tông giáo và giáo phái. Nó đã biến chủ đề xắp đặt thứ tự của ba tôn giáo này bắt đầu phát triển theo tính cực đoan.

Vào năm thứ 2 của Kiến Đức ( năm 573 sau Công nguyên) Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung quyết định xắp đặt ba tôn giáo này lần cuối cùng. Ông cho họp quần thần, Sa môn, đạo sĩ…tiến hành thảo luận những điều tốt xấu của Phật giáo và Đạo giáo. Vào năm sau tức là năm 574 sau Công nguyên, Chu Vũ Đế lại ra chiếu lệnh cho các tăng sĩ, đại sĩ, Đạo giáo về họp tụ tại Thiết Luật Trường trong điện Thái Cực tại kinh sư ( Kinh Đô) tiến hành bàn bạc và thảo luận kĩ về Đạo giáo và Phật giáo. Đại diện cho Phật giáo là Sa môn Trí Huyền đã tiến hành tranh luận một cách gay gắt trước mặt Chu Vũ Đế. Theo ghi chép trong sử tịch của Phật giáo, tại cuộc tranh luận đó thì các Sa môn Trí Huyền lại thua đạo sĩ Trương Tân, do đó mà Chu Vũ Đế lập tức che chở và bênh vực Đạo giáo, và ông cũng đã phát biểu nhận xét của mình đối với Phật giáo. Ông ta cho rằng, Phật giáo có “ Tam Bất Tịnh”, cái đó chẳng có lợi gì cho việc giúp nước. Cái gọi là “Tam Bất Tịnh” ở đây có nghĩa là: Một, Chủ giáo bất tịnh, tức là ngài Thích Ca Mâu Ni trước khi xuất gia tu hành thành Phật thì đã cưới vợ và sinh con, là Giáo chủ Phật giáo bất tịnh; Hai là chính tôn giáo đó cũng bất tịnh, tức là trong giới luật được phép ăn ba loại thịt được coi là thanh tịnh, tức là chỉ chúng tăng của Phật giáo hay có những hành động đồng bóng, gây nhiều tội, các tín đồ thì bất hoà, đánh chém lẫn nhau, đây chính là điều bất tịnh của tăng chúng Phật giáo. Từ đó mà Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung liền ra quyết định nói rõ rằng: Phật giáo từ giáo chủ, giáo pháp, chúng tăng đều bất tịnh, nay ý Trẫm quyết định gạt bỏ, để dẹp bớt loạn lạc hư ảo. Ở Đạo giáo không có những chuyện đó, nay Trẫm quyết định cho lưu hành để giúp nước giúp dân.

Nhưng chẳng bao lâu sau, Bắc Chu Vũ Đế lại ra chiếu cấm hẳn Phật giáo và Đạo giáo, đồng thời ông cũng bác bỏ ý kiến chỉ bãi bỏ Phật giáo mà giữ lại Đạo giáo. Trong chiếu thư ông cũng yêu cầu các Sa môn Phật giáo, các đạo sĩ Đạo giáo phải hoàn tục, đồng thời ông cũng cấm trò cúng tế mang tính mê tín dị đoan, hoang đường. Ông bắt đem toàn bộ những thứ mà Phật giáo và Đạo giáo cho là Tam bảo, tài phú chia hết cho các hạ thần, đem tất cả các chùa thờ Phật trước đây ban phát cho các Vương công. Ngoài ra, Bắc Chu Vũ Đế còn ra chiếu lệnh lập cái gọi là “ Thông Đạo Quán”. Ông cho chọn quãng 120 người có học vấn tương đối cao từ các lãng tử của Phật giáo và các đạo sĩ của Đạo giáo, gọi nhóm đó là các “ Thông Đạo Quán Học Sĩ”, bắt học phải học tập và nghiên cứu ba bộ là “ Lão Tử”, “Trang Tử”,” Chu Dịch”, để cho họ hiểu rõ ba phái giáo đó, đồng thời lại còn bố trí cho họ những người giúp việc và tuỳ tùng. Năm thứ sáu của Kiến Đức ( năm 577 sau Công nguyên), Bắc Chu diệt Bắc Tề, Chu Vũ Đế đích thân đến thủ đô của Tề là Nghiệp Thành, cho tụ họp toàn bộ tăng chúng của nước Tề, tuyên bố từ bỏ Phật Pháp; đồng thời cho phá hoại tất cả các chùa, các tháp thờ Phật của chính quyền phong kiến cũng như của nhân dân xây dựng từ hơn 100 năm nay trên toàn bộ nước Tề. Đem toàn bộ 4 vạn ngôi chùa, tháp thờ Phật ban tặng cho các Vương công, đại thần làm nhà ở, bắt ba vạn tăng chúng phải hoàn tục, cho về ở nhà dân. Như vậy Phật giáo ở phía Bắc Trung Quốc lại một lần nữa đứng trước nguy cơ bị tấn công.

Lần diệt Pháp này của Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung  hoàn toàn không giống với lần diệt Phật Pháp của Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế. Trước tiên, lần này Bắc Chu Vũ Đế đã phế bỏ một lúc hai tôn giáo là Phật giáo và Đạo giáo, không như Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế chỉ có nhằm tiêu diệt Phật giáo. Có một số sử tịch của Phật giáo thì ghi rằng, lần diệt Phật Pháp này của Bắc Chu Vũ Đế là do ông bị xúi dục bởi đạo sĩ Đạo giáo tên là Trương Tân. Sử sách ghi rằng: Trương Tân đã khiến cho Chu Vũ Đế  tin tưởng rằng, màu đen là điềm hung, màu vàng là điềm tốt. Đồng thời Trương Tân cũng xem bói cho Chu Vũ Đế và đoán rằng, sau này kẻ diệt nhà Chu sẽ là một người mặc áo đen. Vì các tăng lữ Phật giáo lúc bấy giờ đều mặc áo đen, do đó mà Chu Vũ Đế mới quyết tâm diệt Phật Pháp. Điều kết luận trên đây cũng không hoàn toàn đúng đắn. Nếu như Chu Vũ Đế chỉ bị Trương Tân xúi giục, thì tại sao ông ta lại diệt cả Đạo giáo lẫn Phật giáo? Nguyên nhân trực tiếp của việc ông ta cùng một lúc bãi bỏ Phật giáo và Đạo giáo là vì sự xung đột gay gắt, không thể khoan nhượng, không thể dàn hoà giữa hai tôn giáo này. Điều đó sẽ làm yếu đi xu thế của tư tưởng thống trị thế tục lúc bấy giờ, đó mới là điều khiến cho Chu Vũ Đế quyết tâm tiêu diệt Phật Pháp. Thứ hai, lần diệt pháp này của Chu Vũ Đế, tuy ông ta đã phá hoại một số lượng lớn chùa, đã cho thiêu huỷ rất nhiều kinh Phật, nhưng ông ta không hề sát hại Sa môn, đạo sĩ, Đạo giáo, mà chỉ bắt họ hoàn tục làm dân thường, việc làm này hoàn toàn không giống như việc Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế đã cho hạ sát hàng loạt Sa môn. Tiếp theo lần này diệt Phật Pháp của Chu Vũ Đế tuy rằng ông ta đồng thời tiêu diệt cả Phật giáo lẫn Đạo giáo, nhưng ông ta lại cho lập “ Thông Đạo Quán”, cho nuôi dưỡng một số Sa môn Phật giáo và đạo sĩ Đạo giáo để cho họ hiểu rõ Nho Giáo, Thích Ca giáo và Đạo giáo. Đương nhiên chính thống ở trong vẫn là Nho Giáo. Từ đó có thể thấy rằng lần diệt pháp này của Bắc Chu Vũ Đế  nếu xét từ góc độ quá trình lịch sử, thì nó trải qua một thời gian chuẩn bị tương đối dài. Trong nhiều năm liền ông đã cho liên tiếp triệu họp hội nghị trù bị có quy mô lớn, ở đây ông cho mọi người được thoải mái tranh luận; Từ xuất phát điểm đó ta có thể thấy, động cơ ban đầu của Bắc Chu Vũ Đế chỉ là muốn sắp xếp thứ tự của ba tôn giáo, nhưng do Phật giáo và Đạo giáo tranh chấp với nhau kịch liệt, ngươi sống thì ta chết từ đó mới dẫn đến bi kịch trong lịch sử là ông cho diệt Phật Pháp; Xét từ kq của việc diệt pháp, Bắc Chu Vũ Đế không hề có ý tiêu diệt tận gốc rễ Phật giáo. Do đó lần diệt Phật Pháp này của Bắc Chu Vũ Đế là tương đối thận trọng hơn so với lần diệt Phật Pháp của Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế.

Xét từ góc độ sâu xa hơn, Bắc Vũ Đế tuy có chịu ảnh hưởng không nhỏ của các ông Vệ Nguyên Tung, Trương Tân nhưng ông đã là Chúa của một nước, để xây dựng đại nghiệp thống nhất, ông ta cần phải coi Nho Giáo là chính thống. Tư tưởng Nho Gia không những giúp cho các Đế Vương phong kiến xây dựng nền tảng thống trị, mà nó còn là công cụ đắc lực bảo vệ đẳng cấp và trật tự phong kiến. Vũ Văn Ung xuất thân là người dân tộc thiểu số Tiên Ti, ông ta đã từng coi việc thống nhất thiên hạ là nhiệm vụ của mình, không tự coi mình là người hồ ( tức người miền Tây), mà coi mình là một trong những thành viên của dân tộc Hoa Hạ( tức là dân Trung Hoa). Như vậy ông ta sẽ thấy rằng, cần phải đặt tư tưởng Nho Gia làm chính thống. Theo cách đánh gia truyền thống, Phật giáo được coi như là một tôn giáo của những kẻ mọi rợ. Đạo giáo tuy là một tôn giáo sinh ra và phát triển trên đất Trung Hoa, nhưng nó cũng gây trở ngại cho nền chính trị phong kiến, do đó cả hai tôn giáo này đều bị phế bỏ. Cùng thời gian này, là một Đế Vương của nền thống trị phong kiến, Chu Vũ Đế cảm thấy việc tự do xây dựng tràn lan của các chùa thờ Phật đã làm hao tiền tốn của, vì vậy mà phế bỏ Phật giáo cũng có nghĩa là có lợi cho việc làm giàu đất nước và làm cho binh lực hùng mạnh. Ông ta đã từng nói rằng:” Phật giáo có kính trọng cũng chẳng trinh phục được ai, không thu hút được cảm tình của người, tự cứu mình cũng không xong, vậy thì làm sao mà có lợi cho đất nước? Từ khi phế bỏ Phật giáo cho đến nay, sai dịch trong nhân dân đã mạnh mẽ hơn, tô điều hàng năm đều được tăng, quân sự ngày càng hùng mạnh, do đó đất nước được bình an, phát triển nhộn nhịp và nhân dân được an lạc”. Trên thực tế sau khi Chu Vũ Đế tiêu diệt Phật giáo, một số lượng lớn tăng ni hoàn tục trở về làm dân thường hoặc là làm ruộng, từ đó mà giảm gánh nặng thuế khoá cho nhân dân, số lượng binh lính cũng tăng thêm, điều đó đã đặt ra một cơ sở vững chắc để cho Chu Vũ Đế diệt nhà Tề. Do đó, sau khi diệt nhà Tề, Chu Vũ Đế tiếp tục cho thi hành chính sách tiêu diệt Phật pháp. Điều hiển nhiên là, Chu Vũ Đế tiêu diệt Phật pháp theo một sách lược cơ bản là nhằm cho đất nước cường thịnh, quân đội hùng mạnh. Ngoài ra Chu Vũ Đế còn chủ trương hoà hợp ( tức là sát nhập) cả ba tôn giáo để giúp ích cho việc trị quốc an dân. Tuy ông ta coi Nho gia là chính thống, nhưng đồng thời cũng cho rằng, đối với việc bảo vệ nền thống trị của giai cấp phong kiến, thì Phật giáo, Đạo giáo cũng rất có tác dụng; nhất là nghĩa lý của Nho gia và Thích Ca Giáo tương đối gần nhau, người xuất gia hay là người tại gia đều là vì cai quản thiên hạ, đều là muốn quốc gia được hùng mạnh, nhân dân an lạc. Do đó, Chu Vũ Đế đã từng đặc biệt nhấn mạnh rằng, trong một xã hội phải có Hoàng Đế là người đứng đầu, cũng cần phải coi Hoàng Đế là chủ chủ của thế giới giống như bên kia mọi người tín phụng Như Lai.

Lần phế bỏ Phật pháp lần này của Bắc Chu Vũ Đế, về mặt khách quan thì đây là một sự tổng kết mang tính lịch sử từ mối xung đột gay gắt giữa tín ngưỡng Phật giáo và nền tư tưởng văn hoá truyền thống trong xã hội phương Bắc trong sau khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc. Trong quá trình chuẩn bị loại bỏ Phật pháp thì cũng đã có mấy lần tranh luận ở quy mô tương đối lớn. Tất cả các vấn đề đề cập đến đã khiến cho các bên tham gia tranh luận, đặc biệt là phía bên Phật giáo nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ khi nào Phật giáo phải thích ứng với bối cảnh của tư tưởng văn hoá truyền thống của Trung Quốc, thì lúc đó Phật giáo mới có sự phát triển liên tục của bản thân mình. Đồng thời qua việc diệt Phật pháp lần này thì một số tăng sĩ đầy lòng quyết tâm tu hành theo Phật pháp, hoặc là phải sống trà trộn trong nhân dân, hoặc là phải ẩn náu trong rừng sâu, trong đó một số tăng sĩ phải vượt sông xuống phía Nam, về mặt khách quan việc này lại thúc đẩy mối giao lưu giữa Phật giáo phía Bắc và phía Nam.

Vào đầu năm của Bắc Chu Tuyên Chính ( năm 578 sau Công nguyên ) Vũ Đế Vũ Văn Ung qua đời Tuyên Vũ Đế Vũ Văn Vân kế vị. Tháng giêng năm sau, Vân Đế ra chiếu lệnh mời bảy người trong các sa môn cũ về tu đạo ở điện Chính Vũ phía Tây. Vào tháng hai, Văn Đế truyền ngôi cho Tĩnh Đế Vũ Văn xiển, Vũ Văn Xiển lúc đó mới bảy tuổi, tự xưng là Thiên Nguyên Hoàng Đế. Vừa mới lên ngôi, Tĩnh Đế liền ra sắc lệnh cho phép trăm họ được tín thờ Phật, về sau lại ra lệnh cho phép những người tu hành không cần phải xuống tóc cạo râu, ra chiếu lệnh cho 120 người được phép tu đạo cho đất nước tại chùa Trắc Hộ; lại ra chiếu lệnh hồi phục lại việc đúc tượng Phật và các bức tượng Thiên Tôn của Đạo giáo. Năm thứ hai của Đại Tượng ( năm 580 sau Công nguyên), Tĩnh Đế chết yểu, triều chính do Dương Kiên nắm quyền điều hành ( Dương Kiên là bố vợ cả của Tuyên Đế, bà vợ cả này tên là Dương Thị, tức Thiên Nguyên Đại Hoàng Hậu). Dương Kiên hạ lệnh hồi phục lại Phật giáo và Đạo giáo, các sa môn, các đạo sĩ Đạo giáo cũ nếu còn mong muốn vẫn có thể gia nhập đạo. Từ đó trở đi Phật giáo được chính thức hồi phục. Vào năm sau Dương Kiên phế nhà Chu Lập lên nhà Tuỳ, sự phát triển của Phật giáo cũng bước vào một thời kỳ mới.

 

Tuỳ Văn Đế phục hưng Phật pháp

Tuỳ Dưỡng Đế giao tiếp với cao tăng

 

Sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, trải qua quá trình phát triển 600 năm, đặc biệt là trải qua sự xung đột, đấu tranh và dung hợp với tư tưởng văn hoá truyền thống của Trung Quốc ở các thời kỳ Nguỵ, Tấn, Nam Bắc Triều, đến thời kỳ Tuỳ Đường, Phật giáo cơ bản đã thực hiện xong việc Trung Quốc hoá. Tức là, từ một tôn giáo ngoại lai, Phật giáo đã phát triển và biến thành một thứ tôn giáo theo kiểu Trung Quốc, phù hợp với bối cảnh văn hoá tư tưởng truyền thống Trung Quốc. Vào thời kỳ Tuỳ Đường, việc Trung Quốc hoá Phật giáo đã tiếp tục phát triển theo chiều hướng sâu hơn, mặc dù thỉnh thoảng có một vài người nêu lên việc tranh luận, xếp đặt thứ tự của Nho giáo, Thích Ca Giáo và Đạo giáo. Nhưng sự phát triển liên tục của các tông phái Phật giáo theo kiểu Trung Quốc ra nước ngoài, ra các vùng khác đã chứng tỏ Phật giáo trở thành một hiện tượng văn hoá của xã hội, chứa đựng tính xã hội một cách tương đối rộng rãi. Đồng thời Phật giáo đã trở thành một vũ khí tư tưởng trong nền thống trị của giai cấp phong kiến ở xã hội Trung Quốc cổ đại, vũ khí đó được giai cấp thống trị sử dụng khá quen thuộc và khá thành thạo, đồng thời nó càng ngày càng được sự trọng thị của các Đế Vương phong kiến.

Năm 581 sau Công nguyên, một người ngoại tộc của nhà Bắc Chu tên ; là Dương Kiên ( bố vợ cả của Tuyên Đế Vũ Văn Vân) lên thay nhà Bắc Chu, thiết lập chính quyền nhà Tuỳ ở phía Bắc Trung Quốc, xưng là Tuỳ Văn Đế. Năm 598 sau Công nguyên, Tuỳ Văn Đế Dương Kiên khởi binh 50 vạn quân tràn xuống phía Nam diệt nhà Trần, kết thúc sự thống trị của chính quyền Nam Triều. Từ đó trở đi sự chia cắt kéo dài quãng 300 năm ( bắt đầu từ cuối thời kỳ Tây Tấn) cuối cùng đã được thống nhất. Vương Triều Tuỳ là một vương triều thống nhất, nhưng cũng là một Vương triều trị vì ngắn nhất, tổng cộng hai Đế Vương ( Văn Đế tức Dương Kiên và Dưỡng Đế tức Dương Quảng), trị vì có 38 năm ( từ 581 đến 618 sau Công nguyên). Cả hai vị Đế Vương nhà Tuỳ này vô cùng trọng thị Phật giáo, đều coi Phật giáo là một trong những biện pháp rất có hiệu quả để bảo vệ và củng cố nền thống trị phong kiến. Khi Văn Đế thay nhà Chu lập nên nhà Tuỳ vào năm Khai Hoàng Nguyên Niên ( năm 581 sau Công nguyên), đúng vào lúc bỏ lệnh tiêu diệt Phật pháp của Chu Vũ Đế vừa được bãi bỏ. Sự kiện lớn nhất của Văn Đế sau khi lập nên nhà Tuỳ là cho ban chiếu khắp thiên hạ thông báo cho mọi người được phép tự do xuất gia làm tăng sĩ. Ông ta còn ra chiếu lệnh yêu cầu thiên hạ đóng góp tiền của để xây dựng chùa và chép kinh, tạc tượng. Ông ra chiếu lệnh xây ở vùng Ngũ Nhạc mỗi quả núi một ngôi chùa, đồng thời ông cũng ra lệnh ở những nơi mà cha ông ( tức Dương Trung) khi còn sống đã có công xây dựng và kiến tạo như Tương Dương, Quận Tuỳ, Giang Lăng, Tấn Dương, mỗi nơi xây một ngôi chùa v.v…điều này đã giúp cho Phật giáo ở vùng phương Bắc Trung Quốc bao la rộng lớn được phục hồi mạnh mẽ hơn. Do có Văn hiến khen Tuỳ Văn Đế là người mở đường cho việc khôi phục Phật giáo, vì thế mà thiên hạ cũng nô nức noi theo, số lượng kinh Phật có ở trong dan gian đã nhiều hàng chục, hàng trăm lần số lượng kinh của Nho giáo.

Tuỳ Văn Đế Dương Kiên đã có duyên tình cờ với Phật giáo. Theo tương truyền, Tuỳ Văn Đế ra đời ở một am ni cô, đồng thời được một ni cô tên là Tri Tiên nuôi dưỡng khôn lớn. Năm thứ 7 của Đại Thống Tây Nguỵ Văn Đế ( năm 541 sau Công nguyên), ông Dương Trung cùng vợ là Lã thị đến Băng Dực ( ngày nay là vùng Đại Lệ, tỉnh Thiểm Tây). Vào một ngày tháng 6, Lã Thị sinh ra Dương Kiên ở một ngôi chùa Bát Nhã Ni ở vùng đó. Do đó lúc thời tiết tương đối nóng Lã thị phải quạt cho con nhỏ của mình, nào ngờ cậu bé Dương Kiên chưa đầy tháng bị lạnh mà không thể khóc thành tiếng, Dương Trung phu nhân do đó mà vô cùng lo lắng. May mà trong đó trong chùa có một ni cô tên là Tri Tiên có thần thông  rất mạnh. Cô ta không chỉ làm cậu bé Dương Kiên cất tiếng khóc trở lại mà còn cho rằng cậu bé này có được thần Phật phù hộ, lại có tướng mạo của đại vương, nên đề nghị Dương Trung phu nhân để cậu bé Dương Kiên lại trong chùa để cô nuôi dưỡng, đồng thời đặt cho cậu bé này một cái tên bằng tiếng Phạn là Na La Diên, có ý nghĩa là kim cương không bao giờ hỏng. Bởi đó Dương Kiên được giữ lại và được nuôi trong chùa Bát Nhã Ni được ni cô Tri Tiên nuôi dưỡng đến lúc 13 tuổi mới trở về đoàn tụ với gia đình của Dương Trung phu nhân. Sau này, khi Chu Vũ Đế diệt Phật pháp, Dương Kiên đã có quyền hành tương đối lớn trong tay, cậu ta liền đưa ni cô Tri Tiên giấu trong nội Cung, gia sức bảo vệ cô, nhờ đó đã giúp cô tránh được tai hoạ trong lúc diệt pháp.

Ngay từ nhỏ, Tuỳ Văn Đế Dương Kiên đã được ni cô nuôi dưỡng trong chùa đến năm 13 tuổi, tất cả những điều mắt thấy tai nghe đã dần dần ngấm sâu vào trong người, từ đó mà cậu ta chịu ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu sắc, nhất là điều mà ni cô Tri Tiên dự đoán rằng cậu ta được thần Phật phù hộ và quả thực sau này cậu ta được làm Hoàng Đế, điều đó đã khiến cậu ta có một cảm tình vô cùng đặc biệt với Phật giáo. Đó cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến cho Tuỳ Văn Đế Dương Kiên vô cùng tôn sùng Phật giáo. Ngoài việc đó ra năm thứ 9 của Khai Hoàng( năm 589 sau Công nguyên), văn đế đem quân đến tấn công Nam Triều, diệt hết nhà Trần, thống nhất toàn bộ đất nước, vì thế mà ông ta thấy vô cùng đắc ý, và còn cho rằng đây là thần phật phù hộ mình, do đó mà ông ta đã từng nói với mọi người rằng:” Ta được như ngày nay là nhờ Phật giáo”. Điều đó có thể khẳng định đó là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho Tuỳ Văn Đế luôn luôn tôn sùng Phật giáo. Phân tích tình cảm và đối nhân sử thế của Tuỳ Văn Đế, có sách sử liên quan đã gọi ông ta là một người hay nghi kị do đó mà không thể chuyên tâm vào học hành. Nhưng ông ta rất nhiệt tình với Phật sự, có thể nói rằng đó chính là một biểu hiện vô cùng đặc biệt trong mối quan hệ giữa ông ta và Phật giáo.

Trong vòng 24 năm trị vì của Tuỳ Văn Đế, ông ta đã cho quảng bá Phật sự, chủ yếu biểu hiện ở các mặt như độ tăng, xây dựng chùa, xây dựng tháp, tổ chức chép kinh v.v…Như ở trên đã đề cập, Khai Hoàng Nguyên Niên ( năm đầu tiên của Khai Hoàng), khi mà Văn Đế vừa mới lên thay triều chu, ông đã lập tức ban chiếu khắp thiên hạ, cho phép các tầng lớp trong xã hội; các giai cấp được tự do xuất gia. Hồi đó có một tăng sĩ tên là Đàm Diên đã từng dâng chiếu thư lên Văn Đế ghi rõ: Cúng dàng Phật, Pháp, Tăng ( Tam Bảo) là việc thiện gieo trồng vườn phúc, ông hy vọng văn đế hạ chiếu cho phép mọi người được tự do xuất gia để phục hồi lại sự suy thoái của Phật giáo thời kỳ Bắc Chu. Thánh chỉ của Hoàng Đế vừa mới ban ra, những tín đồ Phật giáo tới tấp xuất gia. Năm thứ 10 của  Khai Hoàng ( năm 590 sau Công nguyên) Văn Đế đi xe kiệu đến vùng Phổ Dương ( ngày nay là vùng Thái Nguyên của Sơn Tây) đồng thời ra sắc chỉ yêu cầu Đàm Diên đi cùng. Trên đường đi Đàm Diên lại dành nhiều thời gian để giảng việc công đức độ tăng ( tức là cho phép xuất gia thành tăng ni). Lúc đó Văn Đế lại ra chiếu: “ Những ai thích xuất gia làm tăng sĩ thì được tự do xuất gia; còn lại những người vẫn cứ bí mật tu hành vì trước kia nhà Vua không cho phép, nay đều được phép ghi vào tăng tịch”. ( Tăng tịch là cuốn sổ của nhà cầm quyền phong kiến ghi tên các tăng sĩ). Trong 24 năm trị vì, Tuỳ Văn Đế đã hạ chiếu cho phép độ tăng khoảng 50 vạn người. trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, những người xuất gia không phải là những người đã hoàn toàn quy y Phật một cách thật sự, xuất gia lúc bấy giờ có rất nhiều điều lợi. Có người đã từng tổng kết rằng: Phật giáo không phải là dạng thấp hèn, người theo Phật giáo rất cao thượng, người quy y Phật cũng rất cao quí, nhìn lên thì không bằng thiên tử, nhìn xuống thì hơn chư hầu, một tấc lụa cũng không phải đem cúng nạp cho quan phủ, một đấu gạo cũng không phải đem nộp cho quốc khố, ra vào tuỳ ý, ung dung thoải mái. Từ đó có thể thấy, thảo nào khi Tuỳ Văn Đế vừa ra chiếu lệnh thì đã có hang chục vạn quần chúng hưởng ứng.

Bắt đầu từ năm Khai Hoàng Nguyên Niên, Tuỳ Văn Đế không chỉ hạ lệnh xây ở Ngũ Nhạc ( năm quả núi lớn) mỗi nơi một ngôi chùa, mà còn ra lệnh ở mỗi nơi cha ông là Dương Trung khi còn sống đã từng có công xây dựng một ngôi chùa, ông còn ra chiếu lệnh ở các châu, các huyện mỗi nơi một ngôi chùa cho các tăng hoặc các ni cô, đồng thời đổi tên ngôi chùa Trắc Hộ mà nhà Bắc Chu đã xây dựng ở trường An thành chùa Đại Hưng Thiện; cũng như ở mỗi địa phương mà ông ta đã từng đi đến ở khắp 45 châu cho xây dựng một ngôi chùa đặt tên là Đại Hưng Thiện, ông lại còn cho đặt tượng các chùa như chùa Diên Hưng, chùa Quang Ninh, chùa Tịnh Cảnh, chùa Thắng Quang và các chùa Thiền Định. Tương truyền rằng, trong thời gian trị vì của Tuỳ Văn Đế, số lượng các chùa do ông ta đề xướng và xây dựng có tới hơn 3792 ngôi, khi ông ta còn là chấp chính cho Bắc Chu, ông ta đã được một tăng sĩ người Miền Tây tặng cho một gói xá lợi Phật. Khi lên ngôi ông ta lập tức ra chiếu lệnh cho các châu trong toàn quốc phải ra xây dựng tháp xá lợi Phật để chứa xá lợi Phật đã được tiến hành tất cả ba lần trên quy mô lớn. Ngày 13 tháng 6 năm Nhân Thọ Nguyên Niên ( năm 601 sau Công nguyên) đúng vào lễ kỷ niệm Tuỳ Văn Đế 60 tuổi ông ta ra chiếu lệnh cho xây 30 ngôi tháp chứa tất cả xá lợi Phật ở tất cả 30 châu. Chiếu thư nêu rõ:” Trẫm đã quy y Tam Bảo, muốn phục hưng thánh giáo, muốn tu hành nghiệp lớn phúc như bốn biển, hơn thế nữa lại muốn tạo nhân thiện lâu dài để cùng được diệu quả”. Dưới sự chi phối của động cơ tư tưởng như vậy, Tuỳ Văn Đế lập tức cho gọi 30 đại đức cao tăng như Đồng Trân, Đàm Diên, mỗi người như vậy đem theo hai người cưỡi ngựa đi khắp các châu để phân phát xá lợi Phật; tiền xây dựng tháp xá lợi thì yêu cầu nhân dân ở các châu đó bố thí, nếu như nhân dân bố thí không đủ thì có thể lấy ở trong quốc khố (16) để bổ xung. Ngoài ra ông ta còn ra lệnh hạn chế đến trưa ngày 15 tháng 10 sẽ cùng nhau đặt hòm đá dựng xá lợi Phật vào trong tháp. Nhân cơ hội này các quan viên như quan tổng quản, Thích Sử, quan Huyện Uý…ở các châu, những việc quân cơ và việc quan phủ được nghỉ bẩy ngày để chuyên lo các công việc như kiểm điểm việc hành đạo và sửa sang xây dựng chùa Phật…Trong bảy ngày này, ông ta còn yêu cầu các hoà thượng phải niệm kinh hành đạo. Ở nơi nào rộng rãi tăng sĩ nhiều thì yêu cầu phải mời được 360 người, tiếp theo nơi nào hẹp hơn thì phải mời được 240 người, kém hơn thế nữa thì mời được 120 người, nếu như số tăng sĩ ít hơn thế nữa thì sẽ mời toàn thể các tăng sĩ cùng một lúc tham gia niệm kinh hành đạo. Vào tháng Giêng năm Nhân Thọ thứ 2 ( năm 602 sau Công nguyên), Tuỳ Văn Đế lại yêu cầu các tăng sĩ như ông Trí Giáo, ông Minh Phấn v.v…mang xá lợi Phật đi phát cho các châu, như châu Tần, Châu Thiểm, châu Hoàn, châu Hàng v.v… tất cả là 53 châu. Đồng thời ông yêu cầu các địa phương ngừng việc hành chính trong bẩy ngày, hạn cuối cùng là đến trưa ngày 8 tháng 4 ( tức là ngày Phật đản) phải cùng đưa hòm đựng xá lợi Phật vào trong tháp. Ông yêu cầu các tăng sĩ niệm kinh hành đạo với nghi thức giống y như ngày trước ( cổ xưa). Vào ngày 8 tháng 4 của năm Nhân Thọ thứ tư ( năm 604 sau Công nguyên) Tuỳ Văn Đế lại cho xây dựng tháp đựng xá lợi Phật ở 30 châu, lại cho các tăng sĩ như Pháp Hiển, Tĩnh Lâm v.v…đi phân phát xá lợi Phật. Theo thống kê của sử tịch có liên quan trong toàn quốc xây dựng khoảng 4-5 nghìn ngôi chùa thờ Phật và vào quãng 110 ngôi tháp chứa xá lợi, có thể nói rằng chùa và tháp thờ xá lợi hồi đó như cây trong rừng.

Cũng theo một số sử tịch có liên quan, vào thời kỳ Khai Hoàng của Tuỳ Văn Đế , Phật giáo rất hưng thịnh, nhưng thật giả cùng lưu hành lẫn lộn. Khi Phật giáo đã được lưu truyền đến thời kỳ nhà Tuỳ thì lúc đó cũng đã xuất hiện rất nhiều những loại kinh Phật giả. Tuỳ Văn Đế là một Đế Vương phong kiến rất tâm huyết với Phật giáo, tất nhiên ông không thể khoanh tay đứng nhìn trước hiện tượng này. Do đó khi vừa lên ngôi, ông ta lập tức ban chiếu lệnh cho 12 người, trong đó có sa môn như Pháp Kinh chủ trì việc xem xét và giám định các bộ kinh Phật từ xưa truyền lại; ông cũng đã cho chỉnh lí và biên soạn mới 13.200.086 quyển kinh, cho chỉnh lý 3853 bộ kinh cổ điển, đồng thời cho người chép lại toàn bộ số kinh sách đó, cho phân phát đến các chùa lớn. Thông qua việc chỉnh lý và giám định các bộ kinh Phật, tăng sĩ Pháp Kinh cùng 12 người đã biên soạn ra cuốn “ Chúng Kinh Mục Lục” gồm 7 quyển, đó là bộ mục lục kinh Phật vừa có hệ thống, lại vừa phân loại tỉ mỉ đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Ngoài ra còn có một học sĩ chuyên dịch kinh Phật tên là Phí Trưởng Phòng đã soạn cuốn “ Lịch Đại Tam Bảo Ký”, nội dung của nó bao gồm mục lục các năm tháng sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, tên tuổi những người đã dịch kinh Phật và những quyển kinh đã được dịch qua các triều đại và tổng mục lục số bộ kinh, số quyển kinh, các sự tích quan trọng của những người đã từng dịch kinh qua các thời đại, số lượng các kinh Phật đồ sộ và phong phú. Hai quyển kể trên đã gây ảnh hưởng to lớn đối với những người ghi chép kinh Phật và biên chỉnh, tu bổ sử ký Phật giáo thế hệ sau. Ngoài ra, ngay từ khi lên cầm quyền, Tuỳ Văn Đế đã học tập chế độ Bắc Tề, cho thành lập các chức vụ tăng sĩ như Chiếu Huyền Đại Thống, Chiếu Huyền Thống, Chiếu Huyền Bộ và Tăng chủ ngoại quốc để quản lý các công việc tăng ni. Vào năm Khai Hoàng Nguyên Niên, ông ta đã từng thụ phong cho một vị tăng tên là Tăng Mãnh làm chức Đại Thống Chiêu Huyền Tuỳ Quốc Tam Tạng Pháp Sư; năm Khai Hoàng thứ bảy ( năm 587 sau Công nguyên) ông lại ra chiếu lệnh cử ông Đàm Thiên làm Chiêu Huyền Đại Sa môn Thống, đến năm khai hoàng thứ 11 ( năm 591 sau Công nguyên) ông lại ra chiếu lệnh cử ông Linh Dụ làm Quốc Thống, các cơ quan của Tăng quan địa phương gồm có Thống bộ, Sa môn Bộ, Đoạn Sự, Tăng Chính…

Để biểu thị sự thành kính của mình đối với Phật giáo,Tuỳ Văn Đế còn thường xuyên bố thí nhiều thứ với số lượng lớn các tăng sĩ Phật giáo. Sau khi lên ngôi chẳng bao lâu, Tuỳ Văn Đế thường xuyên qua lại và quan hệ khá than mật với một vị hoà thượng tên là Đàm Sùng, ngài thường xuyên mời hoà thượng Đàm Sùng đến cung giảng giải giáo lý đạo Phật, Tuỳ Văn Đế đều tự mình ra cổng đón tiếp, xưng Thầy và gọi  mình là học trò nam, Hoàng Hậu cũng xưng thầy và gọi mình là học trò nữ. Có một lần, Tuỳ Văn Đế ra sắc lệnh bố thí cho ngôi chùa của ngài Đàm Sùng 14 ngàn xấp lụa, 5000 xấp vải bông, 1000 cuộn lụa, 200 xấp vải lĩnh, 12 tấm gấm, 1000 thạch ( mỗi thạch là 100kg) gạo ngon. Hoàng Hậu cũng bố thí 5000 quan tiền, nỉ 500 mảnh, 50 bộ dụng cụ dao kéo. Tất cả những thứ bố thí trên đây đều lấy từ quốc khố ( kho bạc quốc gia). Năm Khai Hoàng thứ sáu ( năm 568 sau Công nguyên) trời đại hạn, đất đai khô nẻ, Văn Đế liền ra sắc lệnh chỉ yêu cầu 360 sa môn Phật giáo cầu mưa tại chính điện. Trong nghi thức cầu mưa, văn Đế đích than dẫn văn võ bá quan trong triều ngồi ngay trên đất cực kỳ thành tâm. Để tỏ long cảm ơn đạo đức của các sa môn đang cầu mưa, Tuỳ Văn Đế đã cho người mang 20 xe gạo ngon đến ngôi chùa của ngài Đàm Diên đang tu hành ( ngài Đàm Diên lúc này đang chủ trì lễ cầu mưa), sau đó lại cho người mang đến 500 thạch gạo nữa. Tuỳ Văn Đế không chỉ ban thưởng và bố thí số lượng lớn và ngày càng nhiều cho sa môn Phật giáo cũng như các bậc hoà thượng các ngôi chùa, mà ông còn thỉnh các vị cao tăng thụ giới cho mình, để cho mình chính thức trở thành một tín đồ Phật giáo chân chính. Trong lễ thụ giới Bồ tát, ông ta nói “ Phật đã dùng chánh pháp để dặn dò và dạy bảo Quốc Vương, Trẫm là người được tôn trọng, được quý mến, lại là người được Phật dặn dò phó chúc lại. Từ nay đến hết cuộc đời này của Trẫm cuối tháng mời 27 tăng truyền kinh nhau đọc tụng, lại mời khoảng bốn vị khác ở Kinh Sư, ba đại đức đến trước điện Đại Quang đọc tất cả các kinh. Trẫm tuy bận nhiều việc, nhưng chắc chắn cũng không thể không làm như vậy”. Trên thực tế, điều này là một sự bầy tỏ tình cảm đối với Phật giáo, kế hoạch thì lo chu đáo, sắp xép thì chặt chẽ, có thể nói rằng tận tâm tận lực. Từ đó trở đi tất cả các hoạt động của Tuỳ Văn Đế đều có liên quan với Phật giáo, mỗi ngày đăng điện thiết Triều, đều có các vị hoà thượng đi cùng ở hai bên.

Tuỳ Văn Đế còn nhiệt tình với việc tạc tượng Phật, theo ghi chép, trong vòng 24 năm trị vì của Tuỳ Văn Đế số lượng tượng Phật mà ông cho tạc mới quãng 16.584 bức với tất cả các chất liệu như vàng, đồng, gỗ đàn hương, bện bằng sợi gai, bằng ngà voi, điêu khắc đá. Số lượng tượng Phật cũng được tu bồ gồm có đến hơn 1588940 bức, số tiền chi phí cũng rất lớn. Đồng thời vào năm thứ 20 của Khai Hoàng ( năm 600 sau Công nguyên), ông còn ra sắc lệnh cấm chỉ việc phá hoại các tượng Phật và tượng của Đạo Giáo bằng gỗ. Chiếu thư nói rõ:” Phật giáo thâm điệu, Đạo giáo nhẹ nhàng thanh tao, tất cả đều mang đến đại từ đại bi, cứu độ của Vua chúa lẫn thảo dân, do đó mới xây miếu lập đàn thờ tế để mọi người luôn cung kính; Những ai dám phá hoại, dám trộm cắp, đều luận vào tội vô đạo; sa môn mà phá hoại tượng Phật, đạo sĩ Đạo giáo mà phá hoại của tượng của Đạo giáo, đều luận vào tội ác nghịch. Cái gọi là vô đạo, ác nghịch đều là những trọng tội”. Từ đó có thể thấy rằng Tuỳ Văn Đế đã coi việc bảo vệ Phật giáo là một nhiệm vụ không thể chối từ của chính mình. Sự tôn sùng đối với Phật giáo của Tuỳ Văn Đế xưa nay thật hiếm có.

Tuỳ Dưỡng Đế Dương Quảng là con trai thứ của Tuỳ Văn Đế Dương Kiên. Con trai trưởng của Tuỳ Văn Đế là Dương Dũng trước đây đã được lập làm Thái Tử, nhưng Dương Quảng đã dùng một thủ đoạn nham hiểm. Về đối nội trong hoàng tộc, cậu ta tìm cách lừa gạt và chiếm được sự cưng chiều hết sức của Hoàng Hậu, còn về đối ngoại cậu ta cũng chiếm được sự ủng hộ của một người quyền thần tên là Dương Tố cũng thuộc bè đảng với cậu ta. Do đó mà cậu ta chiếm được ngôi Thái Tử. Về sau khi mà Tuỳ Văn Đế ốm nằm liệt giường, Tuỳ Dưỡng Đế Dương Quảng đã cho tay chân bè cánh đột nhập vào phòng bệnh ở trong nội cung mưu sát một cách dã man Tuỳ Văn Đế; rồi sau đó lại cho tay chân mưu sát luôn cả người anh của mình là Dương Dũng.Cứ như vậy Dương Quảng đã đăng quang ngôi báu Hoàng Đế với tư cách là con thứ. Đối với Phật giáo, Dương Quảng cũng là một người có lòng mến mộ đặc biệt. Trước khi ông đăng quang làm Vua nước Tuỳ, từ khi ông ta làm Tấn Vương đồng thời đảm nhiệm chức vụ là tổng quản Dương Châu, ông đã từng có mối quan hệ khá thân mật với một vị hoà thượng tên là Trí Nghỉ. Ông đã từng mời ngài Trí Nghỉ đến lễ đường của vị tổng quản ở trong kinh thành Dương Châu để thiết cơm chay( thọ trai) cho hang nghìn vị tăng sĩ lấy đó làm lễ thề nguyện. Đồng thời ông ta cũng thọ Bồ tát giới từ ngài Trí Nghỉ để biểu hiện quy y một cách thành tâm của mình đối với Phật giáo, ông ta còn viết riêng một cuốn “ Thọ Bồ Tát Văn”, trong đó nói rõ “đệ tử phải luôn luôn tu nhân tích đức, nếu sinh trưởng ở một gia đình quý tộc thì phải dạy dỗ từ nhỏ. Giáo dục phải nghiêm túc; mong được tìm hiểu giáo lý Đại Thừa ( phật giáo phát triển) để được thọ giới Bồ tát”. Đây là một sự biểu hiện của tấm lòng ông ta đối với Phật giáo. Từ đó trở đi, Dương Quảng liền phụng dưỡng Trí Nghỉ đồng thời ông ta là “ Trí Giả Đại Sư”, còn ông Trí Nghỉ thì gọi Dương Quảng là “ Tổng Trì Bồ Tát”.

Trong vòng quãng 5,6 năm từ khi Khai Hoàng thứ 12 đến năm Khai Hoàng thứ 17 ( từ năm 592 -597 sau Công nguyên) với tư cách là Vương nước Tấn, Tuỳ Văn Đế Dương Quảng thường xuyên đi lại với ngài Trí Nghỉ, riêng thư từ Dương Quảng gửi cho ngài Trí Nghỉ đã có đến hơn 40 bức, hoà thượng Trí Nghỉ cũng đã từng nói với các đồ đệ của mình rằng “ Ta và Vương nước Tấn đã có mối duyên nợ với nhau rất sâu sắc”. Điều đó chứng tỏ rằng, hoà thượng  Trí Nghỉ và Dương Quảng có duyên với nhau trên thế gian này. Hoà thượng Trí Nghỉ tu ở chùa Đồng Lâm ở Lô Sơn, Dương Quảng đã nhiều lần mời ngài Trí Nghỉ xuống núi. Vào năm khai hoàng thứ 17, hoà thượng Trí Nghỉ trên đường xuống núi gặp Dương Quảng đã bị bệnh và qua đời. Điều này khiến cho Dương Quảng vô cùng đau đớn. Trước khi lâm trung hoà thượng Trí Nghỉ đã gửi lại cho Dương Quảng một bức trúc thư tương đối dài. Trong bức thư đó hoà thượng Trí Nghỉ đã nói rằng từ khi mình sinh ra trên cõi đời đến nay luôn luôn cống hiến hết mình cho Phật giáo, cho đất nước, cho chúng sinh, và ngài cũng mong muốn rằng, sau khi mình thọ mạng, nếu như có thần lực thì sẽ nguyện sẽ làm thần giữ đất cho vương quốc nước Tấn, sẽ giúp cho Phật pháp được thịnh hành, lấy đó đền ơn Quốc Vương làm tăng thêm uy tín vốn có của mình. Hoà thượng Trí Nghỉ không chỉ có chúc thư để cho Dương Quảng một số di vật. Những di vật này là cái lư hương hình sen, bảo bối như ý bằng sừng tê giác…, hoà thượng Trí Nghỉ hy vọng những di vật này có thể giúp cho công đức sáng ngời của Dương Quảng được bay đi xa, đồng thời giữ lâu dài ý nguyện của ông ta.

Trước khi được làm Hoàng Đế, Dương Quảng đã từng viết cuốn” Bào Đài Kinh Tạng Nguyên Văn”. Sau k hi nhà Tuỳ Bình định được vùng Giang Nam, ông ta thu được mấy quyển kinh Phật và ông đã viết cuốn sách đó để phân phát kèm với các quyển kinh Phật cho khắp các chùa ở Giang Nam. Nội dung chính của cuốn sách đó là để nói rõ thái độ của ông ta đối với Phật giáo. Ông Dương Quảng nói rằng: “ Bồ tát giới đệ tử Dương Quảng ao ước được Như Lai ứng thế, lời dạy của Phật nếu là của quí như ý thì ân cần và mật thiết, mở mang trí tuệ, quảng bá pháp luân rộng rãi, điều đó làm cho đệ tử giữ được nghiệp lâu dài trong thời thế trung thực của mình”. Điều đó đã chứng minh rõ sự thành tâm, thành kính của ông Dương Quảng với Phật giáo, đồng thời coi việc hoằng dương ( phát triển) Phật pháp là nghĩa vụ của chính mình. Sau khi lên ngôi, vào năm đầu tiên của Đại Nghiệp ( năm 605 sau Công nguyên ông Dương Quảng đã xây một ngôi chùa tên là Tây Thiền cho người cha Văn Đế của mình. Ngôi chùa đó cao to tráng lệ, rộng rãi và đẹp vô cùng. Ông Dương Quảng còn mở hội Vô Giá ở đạo tràng, làm lễ xuất gia cho khoảng 200 nam, nữ tín đồ Phật giáo. Ông còn cho xây dựng chùa, khích lệ việc đúc tượng Phật ở khắp nơi trên đất nước. Theo thống kê ở sử tịch có liên quan, ông Dương Quảng đã độ được khoảng 16200 tăng ni, cho đúc và tạc hơn 114000 bức tượng Phật, cho chép khoảng 903580 quyển kinh Phật, điều này đã chứng minh rằng, Tuỳ Dưỡng Đế Quảng đã tự coi mình là một vị Hoàng Đế Bồ tát ở thế gian này.

Năm thứ 3 của Đại Nghiệp ( năm 607 sau Công nguyên) Tuỳ Dưỡng Đế đã cho ban bố “ Hành Đạo Độ Tăng Thiên Hạ Sắc”. Trong bản đó, Tuỳ Dưỡng Đế đã tự coi mình là một đệ tử đã được thọ giới Bồ tát, một Hoàng Đế nắm cương vị tổng quản. Ông đã chỉ thị mở lễ hội giao duyên trong phạm vi toàn quốc. Ở tất cả các châu đều phải tổ chức thành đạo 49 ngày, độ được 1000 tăng sĩ. Ông hy vọng dung nhân duyên này để cho thiên hạ mọi người đều được thanh tịnh, tất cả những người thân và kẻ thù ở 6 đường và 3 cõi đều được trở thành Bồ đề, đều trở thành Phật. Một điều hiển nhiên là, Tuỳ Dưỡng Đế muốn tìm cách giúp đỡ tăng chúng để thể hiện cái mà ông thường gọi là tấm long Bồ tát. Sau khi được lên ngôi, cho dù là ở trong kinh thành hay là đi tuần du ở các nơi, Tuỳ Dưỡng Đế thường đem theo một đoàn các tăng, các ni, các đạo sĩ, đạo cô, và thường được gọi là tứ đạo tràng. Ngày nào ông cũng cho mở tiệc rượu linh đình ở vườn Uyển Lâm, ông ta và những người ông ta sùng ái ngồi một chiếu, những vị thân tín quyền quí ngồi một chiếu, các tăng ni, các thiện nam tín nữ thì ngồi một chiếu. Các mâm, các chiếu bày ra san sát nhau, rượu, thịt ê trề, không thiếu một thứ gì, họ cho đó là vui sướng.

Thái độ của hai cha con Tuỳ Văn Đế và Tuỳ Dưỡng Đế cùng với mọi việc làm của họ đối với Phật giáo bị những nhà sử học lúc bấy giờ gọi đó là những trò nịnh Phật, cái trò nịnh Phật này hoàn toàn khác hẳn với hành động bỏ Đạo giáo quy y Phật của Nam triều Lương Vũ Đế. Ở một ý nghĩa nhất định nào đó, Lương Vũ Đế là một tín đồ Phật giáo còn tỉnh táo và biết suy nghĩ, còn cha con nhà họ Tuỳ này là những kẻ theo đuổi và sung bái Phật giáo một cách mù quáng, họ rất cung kính và nhiệt tình đối với Phật giáo nhưng họ không biết cách sử dụng Phật giáo để duy trì và bảo hộ nền thống trị của mình; việc họ thường xuyên qua lại với các cao tăng đại đức hầu như chỉ là để chứng tỏ rằng, họ cũng rất cao thượng và cũng rất thanh tịnh. Họ cho mở mang Phật pháp, làm nhiều việc Phật sự cũng hầu như là muốn khoác lên mình những hành động giả nhân giả nghĩa. Nhưng cũng phải công nhận rằng, mọi hành động gọi là nịnh Phật của họ, ở một mức độ khách quan nào đó thì lại rất có lợi cho việc Phật giáo được tiếp tục phát triển.

Trên một ý nghĩa nhất định nào đó, việc ban thưởng và bố thí một khối lượng lớn cho nhà Phật của cha con nhà họ Tuỳ đã thúc đẩy sự hoàn thiện của nền kinh tế nhà chùa đã dần dần hình thành bao lâu nay. Vào năm Khai Hoàng thứ 13 ( năm 593 sau Công nguyên), Tuỳ Văn Đế đã cho ban bố thư yêu cầu dưới chân núi nổi tiếng của các Châu là phải xây dựng một ngôi chùa, đồng thời cấp cho ngôi chùa đó một mảnh ruộng, điều này trên thực tế đồng nghĩa với việc công nhận và ủng hộ nền kinh tế nhà chùa của Phật giáo. Từ đó trở đi, trên cơ sở đã có một nguồn tư liệu sản xuất từ trước, các chùa trong cả nước càng gia sức tăng gia sản xuất và mở mang thêm ruộng đồng, chiêu nạp các hộ dân lao động làm thuê cho các chùa và được gọi là tự điền. Phật giáo đã trở thành một lực lượng kinh tế xã hội không thể xem nhẹ. Hồi đó có một Hoà Thượng tên là Tuệ Vị, chủ trì ngôi chùa Thanh Thiền ở một ấp của kinh đô. Ngôi chùa của ông trụ trì thì thiền đường lúc nào chúng tăng cũng đông đúc, cây cối tươi tốt rậm rạp, khuôn viên ngôi chùa thì ngăn nắp đàng hoàng, ruộng đồng đường đi, hồ nước rất là hài hoà, kho tàng đầy ắp lương thực, tiếng giã gạo bằng cối đá cối đập nước rộn rang. Ở kinh thành có rất nhiều ngôi chùa, nhưng không ngôi chùa nào được như vậy. Từ đó có thể thấy rằng, ngôi chùa Thanh Thiền ngài Tuệ Vị chủ trì này đã trở thành vật báu của Kinh Đô, và ông cũng trở thành một trang viên chủ tương đối lớn ở trong tăng lữ. Một vị hoà thượng tên là Đàm Sùng mà trên đây đã từng nhắc đến, ông vốn là người Hàm Dương, trước khi xuất gia thì cảnh cũng không giàu có, sau khi xuất gia, băng mối quan hệ qua lại giữa Văn Đế và Tấn Vương, ông đã được ban thưởng và bố thí rất nhiều, từ đó không những ông đã làm thay đổi được gia cảnh mà bản thân ông cũng trở nên rất giàu có, chỉ riêng Tấn Vương là Dương Quảng đã phân cho ông ta khoảng hơn 70 hộ tá điền, biến những hộ tá điền này thành những tá điền của sư, Dương Quảng còn ban tặng vị tăng sĩ này cối đá và cối sức nước, khiến cơ nghiệp của ông ta ngày càng trở nên vững mạnh. Ở thời Tuỳ, một số sa môn Phật giáo vô cùng giàu có, và điều đó đã làm cho những người ở thế tục phải thèm muốn, hồi đó một số đệ tử đang là cư sĩ của các vị tăng sĩ cũng đua nhau đòi xuất gia, ở một mức độ nào đó có thể nói, điều này là do sức hấp dẫn vô cùng mãnh liệt của nền kinh tế tự viện lúc bấy giờ.

Do có sự phát triển mạnh và hoàn thiện của nền kinh tế nhà chùa Phật giáo, tự thân Phật giáo như vậy đã có đầy đủ cơ sở vật chất để thiết lập hệ thống truyền giáo tương đối độc lập. Vào thời kỳ Tuỳ Văn Đế, với trung tâm là Trường An, trong nội bộ Phật giáo đã hình thành một số nhóm các thầy trò ( tức là đạo tràng). Các đạo tràng này hoặc là tụ tập theo một bộ kinh sách nào đó của Phật giáo hoặc là tụ tập theo một lĩnh vực nào đó của Phật giáo. Ví dụ như có Niết Bàn chúng ( Niết bàn tức là cái lý tưởng cao nhất mà toàn bộ những người tụ tập theo Phật giáo đều mong ước đạt đến, nói chung nó chỉ một cảnh giới về mặt tinh thần con người ta sẽ đạt đến sau khi thoát khỏi vòng luôn hồi sinh tử. Niết Bàn cũng tức là chỉ một đạo tràng nào đó gồm một tăng sĩ và các giới đồ chuyên môn nghiên cứu và tu tập đồng thời truyền bá bộ kinh “Đại Ban Niết Bàn”, như là Đại Luận Chúng ( tức là chỉ nhóm một tăng sĩ và một số tín đồ chuyên môn nghiên cứu, học tập và truyền bá bộ “ Thập Địa Luận”); như Đại Luận Chúng ( chỉ một nhóm tăng sĩ và các tín đồ chuyên môn học tập nghiên cứu và truyền bá giới luật của Phật giáo cùng với học vấn của họ); như Thiền Môn Chúng ( chỉ một đoàn thể những tăng sĩ và những tín đồ coi trọng việc tu theo thiền định)…Mỗi đạo tràng thường tu tập và học tập ở một ngôi chùa nào đó, cử ra một tổ trưởng ( trưởng tràng) để chỉ đạo việc học tập và tu hành. Các nhóm đạo tràng này về sau chuyển biến thành các tông giáo của Phật giáo. Thời kỳ nhà Tuỳ, cùng với việc xuất hiện ngày một nhiều các đạo tràng, thì cũng hình thành một giáo phái đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, tức là Thiên Thai Tông. Trên thực tế người thầy sang lập ra Thiên Thai Tông ở Trung Quốc tức là hoà thượng Trí Nghỉ mà ở trên đã từng nhắc tới. Do tông phái này được thành lập ở núi Thiên Thai( ngày nay là vùng Thiên Thai của tỉnh Chiết Giang), do đó mà lấy tên là Thiên Thai Tông. Tông giáo này tụ tập chủ yếu dựa vào “ Kinh Pháp Hoa” do đó mà nó cũng được gọi là “ Pháp Hoa Tông” Thiên Thai Tông đem bộ “ Kinh Pháp Hoa” mà họ tôn sùng liệt vào bộ kinh thuyết giáo cao nhất và cũng là bộ kinh cuối cùng của Phật, bộ kinh đó chủ trương tất cả đều là biểu hiện của Chân Như Pháp Tính, yêu cầu phải dung phương pháp “ nhất tâm tam quán” để thể nghiệm và nắm chắc chân như pháp tính ( Nhất Tâm tức là trong tĩnh tâm có khởi lên ba đế là không, tục, chân). Thiên Thai Tông được du nhập vào Nhật Bản vào giữa thời kỳ đường. ở Nhật Bản nó dần dần phát triển thành Nhật Liên Tông, nó chính là tong giáo Phật giáo chính hình thành và phát triển ở Nhật Bản. Thiên Thai Tông sau khi hình thành vào thời kỳ nhà Tuỳ, nó đã tiếp tục phát triển và tạo điều kiện cho sự hình thành các tông giáo khác của Phật giáo vào thời kỳ Đường. 

 

Lý Thế Dân cân bằng tam giáo

Cung Ngọc Hoa tán pháp cuối năm

 

Cuối thời kỳ nhà Tuỳ, nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi, chế độ thống trị Vương Triều Tuỳ bị phá vỡ mạnh mẽ. Hồi đó có một vị tên là Lý Uyên, là Đường Quốc Công của nhà Tuỳ trấn thủ Thái Nguyên. Ông Lý Uyên nghe theo lời khuyên của người con thứ tên là Lý Thế Dân và một số kẻ thuộc hạ đã nổi dậy chống lại triều đình Tùy, rồi dẫn quân về đánh chiếm Trường An. Họ đã nhanh chóng và dễ dàng đạt được quyền thống trị thay Vương Triều Tuỳ. Tiếp theo đó, sau mười năm liên tục tiến tiến hành chinh phạt, họ đã chấn át được các cuộc khởi nghĩa của nông dân ở các nơi, từ đó mà lập nên Vương Triều Lý Đường. Thời kỳ đầu của nhà Đường, Cao tổ là Lý Uyên lập tức áp dụng phương châm làm hưng thịnh cả Nho gia, Thích Ca Giáo và Đạo giáo. Năm đầu tiên của Vũ Đức ( năm 618 sau Công nguyên), Cao Tổ liền hạ chiếu cho thành lập Quốc Tử Giám, Thái Học và Tứ môn sinh. Cả ba chỗ này thu nạp hơn 300 người, điều này đã chứng tỏ sự trọng thị của ông ta đối với tư tưởng Nho gia đồng thời ông ta gia chiếu tập hợp hơn 69 vị Sa môn của Phật giáo và đạo sĩ của Đạo giáo đến điện Thái Cực hành đạo 49 ngày; sau 49 ngày đó ông ta đã mở tiệc chiêu đãi hang nghìn tăng sĩ, đã khoản đãi các vị hoà thượng vô cùng nhiệt tình. Hồi đó có một vị hoà thượng tên là Pháp Lâm, vì Cao Tổ Lý Uyên hoằng dương cả hai tôn giáo là Thích Ca Giáo và Đạo giáo, nên ông đã soạn bài ca tụng Lý Uyên. Có một vị hoà thượng nữa tên là Cảnh Huy vì muốn nịnh hót Cao Tổ, ông ta đã tô vẽ và suy tôn Lý Uyên đang đảm trách thiên mệnh, điều đó khiến Lý Uyên sau khi nghe được cảm thấy vô cùng vui sướng. Vì thế Lý Uyên lập tức xây ngay một ngôi chùa tên là Thắng Nghiệp cho Cảnh Huy. Vào năm đầu tiên của Vũ Đức ( năm 618 sau Công nguyên), Cao Tổ Lý Uyên đã xây rất nhiều ngôi chùa cho các Sa môn Phật giáo như chùa Nghĩa Hưng ở Tịnh Châu, Chùa Thái Nguyên ở Thái Nguyên, chùa Linh Tiên ở Hoa Âm, chùa Hội Xương và chùa Chứng Quả ở Trường An…Ông ta còn nguyện dâng ngôi nhà cũ và sửa chữa thành ngôi chùa ni Hưng Thánh.

Vào năm thứ hai của Vũ Đức ( năm 619 sau Công nguyên), Đường Cao Tổ Lý Uyên lại hạ chiếu lệnh cho quan Hữu Tư xây ở trường Quốc Tử Học hai miếu thờ hai ông là Chu Công và Khổng Tử, bốn mùa đến đó tế lễ, lấy đó để phục hưng Nho Học; Lý Uyên còn hạ lệnh tu bổ điện Lão Quân ( tức là điện thờ Lão Tử) và đường Thiên Tôn ở Lầu Quan Thái; đồng thời ông còn phong 10 vị cao tăng ở kinh sư ( Kinh Đô) chức Thống Nhiếp Sa môn ( tức là quản lý các Sa môn ). Những việc làm đó chứng tỏ phương châm cơ bản của Đường Cao Tổ Lý Uyên là cùng hưng khởi Nho giáo, Thích Ca Giáo và Đạo giáo, phương châm này đã giúp cho ba tôn giáo đó phát triển mạnh hơn. Hoà thượng pháp lâm đã tổng kết một cách sâu sắc việc làm này là :” Từ khi Phật giáo được du nhập vào đến nay, chùa và tháp thờ Phật có ở khắp chin châu các tăng ni thì đông đúc, trên thực tế đây là kết quả của lòng thành tâm của Hoàng Đế  và sự đoàn kết một lòng một dạ giữa Vương Triều với nhân dân. Từ khi du nhập vào Trung Quốc đến nay, Phật giáo sở dĩ không ngừng phát triển là do trí lực của cả Vua và dân. Đứng trước hiện tượng các tôn giáo không ngừng phát triển, một số người có tầm nhìn xa trông rộng thông qua tổng kết lịch sử đã cảm thấy vô cùng lo lắng. Hồi đó trong triều có một vị đại thần tên là Phó Dịch đã từng 7 lần dâng biểu lên Đường Cao Tổ xin dẹp bỏ Phật giáo lắm hủ tục, xin Đường Cao Tổ phế các tăng ni, giảm bớt số lượng các chùa và tháp thờ Phật. Ông ta dâng biểu lên Đường Cao Tổ phế các tăng ni, giảm bớt số lượng các chùa và tháp thờ Phật. Ông ta dâng biểu lên Đường Cao Tổ với giọng điệu rất ân cần:” Sự ảnh hưởng của Phật giáo là không thể xem nhẹ, hiện giờ có một số kẻ gia thế nho nhã cũng bắt đầu tôn thờ Phật, một số Nho sĩ học đạo bây giờ cũng bắt đầu bàn tán này nọ về Phật giáo. Hơn thế nữa Phật giáo cũng bóc lột tiền của của nhân dân và làm mất nguồn dự trữ quốc gia, tình hình như vậy là vô cùng quan trọng, xin bệ hạ hãy để tâm xem xét kỹ càng”. Do ông Phó Dịch bẩy lần liên tiếp dâng biểu lên Đường Cao Tổ Lý Uyên bất đắc dĩ phải đem việc này ra cùng với quần thần thảo luận. Vào năm Vũ Đức thứ 9 ( năm 626 sau Công nguyên), thảo luận đã diễn ra vô cùng găy gắt. Những người muốn bài trừ Phật giáo và những người tôn thờ Phật giáo cùng nhau tranh luận găy gắt, khó mà phân thắng bại. Cuối cũng vào tháng năm năm đó Đường Cao Tổ đã ra chiếu lệnh sa thải các đạo sĩ Đạo giáo và các tăng ni Phật giáo. Những người đã dày công tu luyện và giữ gìn giới luật và được tập trung vào một ngôi chùa lớn hoặc một quán lớn của Đạo giáo, được cung cấp lương thực. Còn những người khác bắt phải trở lại làm người bình thường, không được trái lệnh. Ngoài ra, Kinh Sư Trường An được giữ lại ba ngôi chùa thờ Phật, hai đạo quán của Đạo giáo, các châu khác thì mỗi châu giữ lại được một ngôi chùa thờ Phật và một đạo quán của Đạo giáo. Tất cả các ngôi chùa và đạo quán còn lại phá bỏ. Lập trường quan điểm trong bản chiếu lệnh này của Đường Cao Tổ là bất cứ một sự phát triển của bất cứ một tôn giáo nào cũng không được làm ảnh hưởng đến chính trị của nhà nước phong kiến. Do đó ông không chỉ yêu cầu cắt giảm các ngôi chùa và giảm bớt các tăng sĩ và còn yêu cầu hạn chế phát triển của Đạo giáo, từ đó có thể thấy rõ sự cương quyết cùng thái độ trong sáng, trung thực của ông ta. Sự kiên quyết và lập trường quan điểm này của Đường Cao Tổ Lý Uyên đã có ảnh hưởng trực tiếp đến Đường Thái Tông Lý Thế Dân.

Chiếu thư về sa thải các sa môn phật giáo và các đạo sĩ của đạo giáo và các tín đồ của Đạo giáo cảm thấy vô cùng lo lắng và sợ hãi. Nhất là đối với các tăng lữ của Phật giáo mà nói, điều này giống như một điềm báo trước về tai hoạ lút đầu sắp ập đến với Phật giáo như hồi các triều đại Bắc Nguỵấchí Vũ Đế, Bắc Chu Vũ Đế trước đay: họ ngày đêm nơm nớp lo sợ. Sang tháng 6 năm đó, Đường Cao Tổ Lý Uyên thoái vị, Đường Thái Tông Lý Thế Dân lên ngôi ông lập tức cho đại xá thiên hạ, đồng thời ông cũng hạ chiếu chấm dứt việc thực hiện chiếu lệnh về sa thải các Sa môn Phật giáo và các đạo sĩ của Đạo giáo mà Đường Cao Tổ đã ban hành trước đây. Về việc này Đường Thái Tông Lý Thế Dân còn ra một chiếu lệnh khác cho phép các tăng ni Phật giáo và các đạo sĩ Đạo giáo khôi phục lại mọi hoạt động trước đây. Sau khi lên ngôi, sở dĩ Lý Thế Dân không cho phép thực hiện chiếu thư sa thải các sa môn Phật giáo và Đạo giáo mà Đường Cao Tổ đã ban hành trước đây là vì ông cũng có những mục đích chính trị nhất định. Lý Thế Dân vốn là con thứ của Lý Uyên. Sau khi lên ngôi thay thế nhà Tuỳ, Lý Uyên lập tức lập con trưởng Lý Kiến Thành làm thái tử, lập con thứ Lý Thế Dân là người dẫn quân đi trừng phạt, do đó mà ông đã hình thành được một thế lực chính trị nhất định. Về sau thông qua cuộc chính biến Huyền Võ Môn, ông ta định giết hại luôn thái tử( anh trai mình) là Lý Kiến Thành cùng em ruột của mình là Lý Nguyên Cát, do đó mà ông mới lên ngôi Hoàng Đế được. Vấn đề hàng đầu của Lý Thế Dân sau khi lên ngôi là không nên để các mâu thuẫn đó đổ dồn về phía mình, cần phải tìm mọi cách để lung lạc và dụ dỗ lòng người, cố gắng dành được sự ủng hộ của các nhân sĩ. Do đó khi vừa mới lên ngôi, ông ta đã lập tức cho bãi bỏ chiếu thư về sa thải các Sa môn Phật giáo và đạo sĩ Đạo giáo mà Đường Thái Tổ đã cho ban hành là hoàn toàn xuất phát từ mục đích này.

Là một vị Đế Vương phong kiến có đầu óc chính trị, Đường Thái Tông Lý Thế Dân đã kế tục phương châm cơ bản của Đường Cao Tổ là cùng đề cao Nho giáo, Thích Ca Giáo và Đạo giáo. Khi vừa lên ngôi, ông ta lập tức cho xây dựng trường Quốc Tử Học để tỏ rõ sự tôn trọng của mình đối với học thuyết Nho giáo đồng thời ông ta cũng thường xuyên nói với hạ thần của mình rằng: “ Tất cả những điều mà ta làm đều là mong muốn những điều trên đây đều tốt đẹp. Xưa kia Lương Vũ Đế có những ý nghĩ và chí hướng hào hoa cao thượng, đối xử tốt với các phật tử, giữ gìn những gì tốt đẹp nhất của Thích Ca Giáo, cho xây dựng chùa Đồng Thái, bản thân ngài cũng đi giảng kinh Phật, điều đó đã khiến cho quần thần, thuộc hạ và trăm họ tôn sùng Phật giáo, suốt ngày chỉ bàn đến đau khổ và giải thoát, chưa từng bàn về quân sự. Về sau khi có chiến tranh loạn lạc, chư thần trong triều không ai biết cưỡi ngựa. Truyện đó cũng là một tấm gương. Điều mà Trẫm thích thú hiện nay chỉ là giáo lý của Chu Công, Khổng Tử và Đạo của Nghiêu Thuấn”. Từ lời nói chuyện trên đây của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, ta có thể thấy rằng, mặc dù phương châm của ông là đề cao cả tam giáo, nhưng ông ta vẫn đặt Nho gia lên hàng đầu. Vào năm Trịnh Quán thứ 8 ( năm 634 sau Công nguyên) Hoàng Hậu Trường Tôn mắc bệnh, bệnh tình ngày càng trầm trọng, Thái Tử Lý Thế Càn tâu với Mẫu hậu rằng:” Sau khi Mẫu hậu đổ bệnh, Mẫu hậu đã được dinh đủ các loại thuốc nhưng tôn thể vẫn chưa an. Nên chăng Mẫu hậu tâu với phụ Vương, hãy đại xá cho những kẻ cầm tù, đồng thời cho nhiều người xuất gia làm tăng sĩ, như vậy hi vọng Mẫu hậu sẽ được chở che và được hưởng phúc”. Hoàng Hậu trường tôn nghe vậy liền nói:” Sinh tử là có mệnh, cái đó không theo ý muốn của con người. Nếu như làm phúc mà trừ được tai hoạ thì cả đời ta chưa hề làm điều gì ác. Nếu như làm điều thiện mà vô ích vậy thì có phúc đức nào đáng kể để cầu mong đây? Đại xá cho những kẻ cầm tù là quốc gia đại sự, Phật giáo cũng là vấn đề làm cho Hoàng Đế luôn luôn phải lo lắng và suy nghĩ. Ngài thường nói rằng, Phật giáo là một thứ tôn giáo của kẻ khác. Không nên chỉ vì một người phụ nữ như ta mà làm rối loạn kỷ cương phép nước. Do đó ông ta không đồng ý với ý nghĩ của con”. Từ ẩn ý của câu chuyện này ta có thể thấy rõ thái độ của Đường Thái Tông đối với Phật giáo. Chỉ trừ những năm cuối đời, còn nói chung Đường Thái Tông Lý Thế Dân cũng thường có thái độ lợi dụng Phật giáo; và ông cũng giữ thái độ cảnh giác cao đối với Phật giáo.

Ngay từ năm Vũ Đức thứ tư ( năm 621 sau Công nguyên), Lý Thế Dân lúc đó còn là Tần Vương đã dẫn quân đi diệt Vương Thế Sung, giành được sự ủng hộ rất mạnh mẽ của các tăng ni ở Thiếu Lâm Tự, tức một nhóm gọi là 18 vị tăng ngang được đi cứu Tần Vương. Sau khi lên làm Hoàng Đế, Lý Thế Dân liền sai người mang chiếu thư đến cho vị trụ trì ở Thiếu Lâm Tự, mời các vị tăng sĩ có công về kinh đô yết kiến. Nhóm tăng sĩ đó tìm cách từ chối không về. Để tìm cách dụ dỗ nhóm tăng sĩ này, Đường Thái Tông đã ban thưởng họ 1000 xấp vải gấm, phong cho Đại Đức Đàm Tông Đẳng ở Thiếu Lâm Tự chức đại tướng quân. Năm thứ 3 của Trinh Quán ( năm 629 sau Công nguyên) Đường Thái Tông lại hạ chiếu: ở mỗi nơi xảy ra các cuộc giao tranh để mở mang bờ cõi nhà Đường phải xây một ngôi chùa thờ Phật. Trong đó có ở U Châu đánh bại Tiết Cử xây chùa Chiếu Nhân, ở Thái Châu đánh bại Tông Lão Sinh xây chùa Phổ Tế, Ở Tấn Châu đánh bại Tống Kim Cương xây chùa Từ Vân, ở Phần Châu đánh bại Lưu Đức Chu xây chùa Hoàng Tế, ở Băng Châu đánh bại Vương Thế Sung xây chùa Chiếu Giác, ở Trịnh Châu đánh bại Đậu Kiến Đức xây chùa Đẳng Từ, ở Lạc Châu đánh bại Lưu Hắc Thái xây chùa Hoằng Phúc. Đồng thời ngay từ khi mới lên ngôi, Đường Thái Tông lập tức cho cử hành đạo cúng chay để siêu độ cho những người bị ông ta trực tiếp chém giết, thỉnh thoảng ông ta tiếp kiến các vị cao tăng đại đức, mời các vị tăng đó vào trong cung điện hành lễ để cầu phúc gia hộ cho Thái Hậu, có lúc ông ta còn mời các vị cao tăng làm lễ cầu mưa cho thiên hạ. Thái độ khoan dung và sự giúp đỡ, bảo vệ Phật giáo của Đường Thái Tông sau khi vừa lên ngôi thực tế là ông ta muốn lợi dụng Phật giáo. Ông ta muốn biến mình thành một tấm gương để khích lệ sự ái mộ của các quần thần và nhân dân trăm họ với tôn giáo, để từ đó mà có càng nhiều người ủng hộ ông ta, sẽ có nhiều bè đảng trong xã hội che chở và ủng hộ ông ta. Cho nên tất cả hành động trên đây của ông ta về mặt căn bản không nằm ngoài ý đồ phục vụ cho nhà nước phong kiến.

Cùng với hành động trên đây, Đường Thái Tông Lý Thế Dân cũng không hề nơi lỏng việc cảnh giác đối với Phật giáo. Năm Trịnh Quán Nguyên Niên, khi vừa lên ngôi ông ta lập tức cử quan Ngự Sử ( chuyên chép sử) tên là Đỗ Chính Luân cho thanh tra Phật pháp; đồng thời ông còn hạ chiếu rằng, tất cả các tăng ni tìm cách tham ô của nhân dân đều phải chịu cực hình, Vào năm sau, ông ta còn yêu cầu các tăng sĩ mà đã tham ô và biển thủ công quỹ vào năm Nghĩa Ninh ( tức là niên hiệu của Tuỳ Cung Đế, năm 617 sau Công nguyên) không chủ động nhận tội và trả lại tiền của sẽ bị xử cực hình. Phật giáo sau khi du nhập vào Trung Quốc sau thời kỳ Lưỡng Hán, từ thời Tây Tấn trở đi, phép nước rất nghiêm minh, không cho người dân trong nước tuỳ ý xuống tóc đi tu. Điều này chính là nhằm kiểm soát dân số, đặc biệt là trực tiếp kiểm soát sức sản xuất trong nước nhằm cung cấp dồi dào hơn nguồn thuế khoá và nguồn giao dịch cho nhà nước phong kiến. Vào đầu thời đường, thuế thân giảm mạnh, một trong những lý do của vấn đề đó là một bộ phận dân đã quy y Tam Bảo và xuống tóc đi tu. Ngoài ra chế độ chia ruộng bình quân đầu thời Đường quy định: Mỗi sa môn được chia 30 mẫu, ni cô được chia 20 mẫu, điều này coi như là thừa nhận tính hợp pháp của nền kinh tế nhà chùa đã vốn có trong Phật giáo. Sự tranh chấp về ruộng đất và nguồn lực lao động giữa nền kinh tế của nhà Chùa Phật giáo với nền kinh tế của thế tục tất nhiên sẽ nảy sinh nhiều điều bất lợi cho nền chính trị của thế tục. Đứng trước tình hình này, Lý Thế Dân không những về mặt chính trị thì dùng quyền lực của Vua để kiểm soát Phật giáo mà còn về kinh tế ông ta cũng có nhiều chính sách kích thích sản xuất, làm lợi cho dân chúng, trừ điều hại. Đó là khi ông ta mới vừa lên ngôi đã vơ vét và biển thủ. Đặt Phật giáo nằm trong bộ máy quản lý có hiệu quả của nhà nước phong kiến, ông ta đã ra chiếu lệnh giao cho Tư bộ quản lý các công việc của tăng sĩ, đồng thời cũng quy định một số chùa chiền nhất định, mỗi ngôi chùa có 3 cương ( tức là tăng quan), do quan Tư Lịch Thâm đồng thời đảm trách. Số lượng tăng ni đã ít đi, và cứ ba năm cho thay một lần để phòng những việc biển thủ và lén lút không minh bạch.

Xét từ góc độ khác, một thời gian dài sau khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân lên ngôi, căn bản ông ta không hề tin Phật giáo. Một lần ông ta hỏi ông phó dịch rằng:” Phật giáo huyền diệu, Phật là vị thần đưa đường dẫn lối, hơn nữa luật báo ứng đã hiển nhiên, đã nhiều lần chứng nghiệm. Nhưng cớ sao nhà ngươi lại chống đối Phật giáo găy gắt như vậy?” Ông Phó Dịch liền đáp rằng:” Đối với lịch sử và đối với trăm họ, Phật giáo là thứ vô bổ, đối với quốc gia nó là một thứ có hại. Tín ngưỡng của Phật giáo không chỉ đơn thuần là vấn đề tín ngưỡng mà là một vấn đề chính trị”. Nghe xong lời biện bạch của ông Phó Dịch, Đường Thái Tông vô cùng tán đồng. Nhưng ông ta không hề cấm chỉ Phật giáo như Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế hay Bắc Chu Vũ Đế, vẫn cho phép Phật giáo được tồn tại, trong hoàn cảnh nhất định ông ta còn đề cao và lợi dụng Phật giáo một cách thích đáng. Vào năm Trịnh Quán thứ 3 ( năm 629 sau Công nguyên) ông ta ra chiếu lệnh yêu cầu một số các Sa môn tổ chức việc phiên dịch kinh phật, đồng thời ông còn ra lệnh một số quan trong triều đình tham gia kiểm định, có lúc ông ta còn nghe một số kiến nghị rất hữu ích từ một Sa môn Phật giáo v.v…

Có một vị hoà thượng tên là Pháp Nhã từ lâu đã được hưởng ân trạch của Đường Cao Tổ nên có thể tự do ra vào Lưỡng Cung. Sau khi Đường Thái Tông lên ngôi, ông ta lập tức ra lệnh không cho phép hoà thượng pháp nhã ra vào Lưỡng Cung nữa. Sau khi bị cấm ông Pháp Nhã có những lời nói lăng mạ và vu cáo Lý Thế Dân, sau này Lý Thế Dân biết, ông cho bắt Pháp Nhã về nằm phủ phục trước mặt để hỏi tội. Hoà thượng Pháp Nhã nói rằng, những lời nói đó ông ta nghe được từ chỗ ông Bùi Tịch, lập tức Lý Thế Dân cho gọi ông Bùi Tịch vào thẩm vấn. ông Bùi Tịch nói rằng, những lời hoà thượng Pháp Nhã nói chỉ là những lời nói nhăng bậy của kẻ xấu tính. Do có việc này Lý Thế Dân lập tức cho bãi chức quan của Bùi Tịch, đồng thời đuổi ông ta về quê. Về sau vì một kẻ điên dạy cho một đứa trẻ của gia đình ông Bùi Tịch một câu nói rằng: “ Bùi Công ôm cả thiên hạ”, nên Bùi Công suýt nữa bị Đường Thái Tông Lý Thế Dân xử tội chém đầu; cuối cùng ông ta bị đưa đi đầy và kết liễu cuộc đời ở Giao Châu. Ông Bùi Tịch là một trong những người ra quyết sách chính cho khởi nghĩa của Lý Uyên ở Thái Nguyên, sau khi lập lên nhà Đường, ông ta được đứng vào hàng được làm Tam Công. Nhưng chỉ vì liên luỵ đến vài câu nói lăng nhăng, bậy bạ của hoà thượng Pháp Nhã mà cuối cùng ông đã bị bãi quan, rồi bị đưa đi đầy. Sự kiện này đã chứng tỏ một điều rằng, Đường Thái Tổ Lý Thế Dân không cho phép những người có quan hệ với Phật giáo làm ảnh hưởng đến nền thống trị của mình.

Trong sách lược để đối phó với Phật giáo, Đường Thái Tổ Lý Thế Dân đã kế tục biện pháp của Đường Cao Tổ Lý Uyên, đề cao Đạo giáo để chống lại Phật giáo. Do đó Đường Thái Tông đã ra chiếu lệnh cho ông Cao Sĩ Liêm cùng một số người khác, theo thứ bậc cao thấp của tước vị quan lại lúc bấy giờ mà chỉnh lý lại bộ “ Thị Tộc Chí”. Cái gọi là “ Chí” ở đây là đưa họ Lý lên hàng đầu đồng thời chỉ rõ, người thống trị của vương triều Lý Đường có chung nguồn gốc với Thuỷ Tổ Đạo giáo là Lý Đam ( tức là Lão Tử). Như vậy ông ta vừa đề cao được địa vị thống trị của nhà Lý Đường, vừa tìm được một công cụ hữu ích để chống lại Phật giáo.

Ngay từ năm thứ 8 của Vũ Đức ( năm 625 sau Công nguyên), Đường Cao Tổ Lý Uyên đã từng hạ chiếu yêu cầu sắp đặt thứ tự cho ba tôn giáo. Ông quyết định đặt Lão Tử lên hàng đầu, tiếp theo sau là Khổng Tử, cuối cùng là Thích Ca Mâu Ni. Vào năm Trịnh Quán thứ 11 ( năm 637 sau Công nguyên), Đường Thái Tông cũng đã từng ra chiếu nói rằng: “ Thuyết của Phật giáo biến đổi đa phương , ( mang nghĩa rộng) lẽ báo ứng cũng nhiều duyên cớ, không nhất quán, thế mà gần đây, sự sùng tín Phật giáo đã phát triển mạnh, kể cả bề rộng lẫn bề sâu, cái phúc người ta nhận năm nay thì người ta cũng rất sợ tai hoạ cho kiếp sau; chỉ khởi lên ở nông thôn, rồi cuối cùng lan cả vào triều đình, từ đó mang theo nhiều sách huyền bí cho mọi người vượt lên hàng đầu, các tôn giáo khác đứng sau Phật giáo, nay thiên hạ đã định như thế, nên phải dẹp bỏ ngay”. Xem chừng Đường Thái Tông đã muốn đặt Phật giáo vào chỗ cần đặt, do đó ông lại ra chiếu nói rằng:” Tổ tiên của Đạo giáo cũng là tổ tiên của Hoàng thất ( Nhà Vua), từ nay về sau mỗi khi cúng trai (17), các nữ sĩ của Đạo giáo (đạo cô) đều được đứng trước các tăng ni. Từ nay về sau mỗi lần giảng kinh luận Pháp, các đạo sĩ đạo cô được đứng lên trên, các tăng ni, ni đứng phía dưới”. Điều này có nghĩa là Đạo giáo đứng hàng đầu còn Phật giáo đứng sau. Chiếu thư này vừa được ban ra các Sa môn như ngài Trí Thực, Pháp Lâm, Pháp Thường, Tuệ Tĩnh…đã phản ứng không chịu phục tùng, dâng biểu kiến nghị. Đường Thái Tông đã ra sắc chỉ: Đạo giáo đứng trước, Phật giáo đứng sau, điều này không thể thay đổi. Chúng Tăng nuốt hận ra về, duy chỉ có ngài Trí Thực không chịu ra về. Đường Thái Tông liền ra lệnh cho người đánh cho một trận đuổi về. Dùng quyền lực của một Hoàng Đế phong kiến( thế tục) để đánh một vị hoà thượng, điều này đã thể hiện rõ thái độ dứt khoát của Đường Thái Tông lúc bấy giờ.

Sau khi nuốt hận ra về, hoà thượng Pháp Lâm đã thu thập nhiều tài liệu, viết thành cuốn “ Biện Chính Luận”, ông đã nêu lên chứng cớ về tổ tiên xa xôi dòng họ Lý, nhưng cái ngòi bút cùn của ông chỉ viết ra được hai chữ Lý! Theo chứng cớ trong cuốn “ Biện Chính Luận” của Pháp Lâm, tổ tiên của họ Lý có hai dòng, một dòng là Đại Bắc Lý, một dòng là Lũng Tây Lý. Đại Bắc Lý là dòng giống của Hoàng Thất( Vua) nhà Lý; Lũng Tây Lý là hậu duệ của Lão Tử. Dòng họ Lý của Hoàng thất không hề có họ hàng với Lão Tử, do đó Hoàng đế cũng không thể cương quyết đặt Đạo giáo lên hàng đầu. Cuốn sách “ Biện Chính Luận” của Pháp Lâm vừa mới ban ra đã bị người ta mang lên tấu trình cho Đường Thái Tông. Sau khi biết điều này, Đường Thái Tông đã nổi giận đùng đùng, hạ chiếu cho gọi Sa môn Pháp Lâm vào để vặn hỏi, mắng trách Pháp Lâm rằng: “ Nhà ngươi là đồ hoà thượng ngồi lê mách lẻo, đi đâu cũng ăn nói lung tung, lời lẽ thô tục vung ra những lời lẽ không khiêm tốn, phỉ báng tổ tiên của ta, vu cáo bôi nhọ cha ông ta, tội này không thể tha thứ được!” Thế là Đường Thái Tông liền ra lệnh cho giam ngay Pháp Lâm lại, định xử tội chém đầu nhưng Đường Thái Tông lại nói với Pháp Lâm rằng:” Trong cuốn sách của ngươi tự biên soạn cũng có đoạn nói rằng, nếu ai niệm Bồ tát quán thế âm thì không bao giờ bị đâm chém, giờ đây ta cho ngươi 49 ngày để niệm Bồ Tát, để đến khi tử hình xem Bồ tát Quan Thế Âm có thể giúp nhà ngươi được sống không?”. 49 ngày sau, Đường Thái Tông liền hỏi ngài Pháp Lâm:” Đến nay thì đã đủ ngày rồi, ta cần chém đầu nhà ngươi, nhà ngươi đã niệm Quán Thế Âm như thế nào vậy?” Ngài Pháp Lâm liền trả lời:” trong 49 ngày vừa qua, con không hề niệm Quán Âm mà chỉ niệm Bệ hạ:. Sau khi nghe nói vậy, Đường Thái Tông lại sai người đến hỏi Pháp Lâm:” Yêu cầu nhà ngươi niệm Quán âm vì sao nhà ngươi không niệm Quán Âm mà đi niệm ta?” Ngài Pháp Lâm liền trả lời rằng:” Bệ hạ chính là Quán Âm của ngày nay!” Đường Thái Tông nghe nói vậy, ông ta vô cùng hoan hỉ, thế là hoà thượng Pháp Lâm được miễn xử chém và thay bằng đi đầy.

Sau đó thì hoà thượng Pháp Lâm cũng chết trên đường đi đầy, chuyện này xảy ra vào những năm trịnh Quán thứ 14 ( năm 640 sau Công nguyên).

Vào năm sau, Đường Thái Tông đến chùa Hồng Phúc, ông cho triệu tập 5 vị đại đức, ông nói dài dòng một hồi, mục đích là làm giảm đi mối căng thẳng của mình với Phật giáo. Ông ta nói với các Đại đức này rằng :” Lão Quân ( tức Lão Tử) là tổ tiên của Trẫm, có ông bà tổ tiên nên mới có mình, cần phải tôn trọng ông bà tổ tiên, do đó ta đặt Lão Tử trước Thích Ca sau, các vị có thể vì việc này mà oán hận ta”. Các vị đại đức đó liền đáp rằng:” Bệ hạ tôn trọng tổ tiên, làm gương cho thiên hạ, do vậy có điều gì phải oán giận”. Đường Thái Tông lại giải thích thêm rằng:” Từ khi lập triều đình đến nay, ta chưa hề tiến hành xây dựng đạo quán, mà chỉ là coi trọng việc xây dựng chùa chiền, tình cảm của ta cũng nghiêng về phía Đạo Phật. Các ông Thầy đạo sĩ kia tu tập theo tôn giáo của tổ tông, do đó cần phải đặt lên hàng đầu, ngày nay nhà Lý đang cai quản đất nước, do vậy Lý Lão cần đặt lên hàng đầu; Nếu như nhà Thích Ca cai trị thiên hạ, thì cần đặt nhà Phật lên hàng đầu. Đây chính là thái độ của ta, không nói ra e rằng các vị không hiểu được”. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, sự phòng bị đối với Phật giáo của Đường Thái Tông có thể nói là vô cùng cẩn mật, ông ta vừa mềm mỏng lại vừa cứng rắn, về sau ông ta tỏ ra mềm mỏng, hai cách thức này ông ta dùng song song, tất nhiên ông ta đã thu được kết quả tốt đẹp.

Cùng với việc đề cao Đạo giáo để chống lại Đạo Phật, Đường Thái Tông cũng không hề xem nhẹ việc phòng Phạm Đạo giáo. Vào năm của Trịnh Quán thứ 17 ( năm 643 sau Công nguyên) đạo sĩ Tần Anh và một số người khác chém đầu sử tội, những người liên luỵ bị chém có rất nhiều. Ông còn khăng khăng quở trách Thái Tử, yêu cầu Thái Tử lấy đó làm điều cấm làm gương. Câu chuyện này nói lên một điều rằng, đề cao Đạo giáo không có nghĩa là lợi dụng và buông thả Đạo giáo. Dưới sự thống trị của Đường Thái Tông, sự phát triển của Đạo giáo không được phép quấy nhiễu trật tự nền thống trị của nhà nước phong kiến.

Như trước đây đã từng nói đến, vào thời kỳ Đông Tấn Thành Đế, do có việc Nho gia và các Sa môn Phật giáo nên hay không nên cung kính các Vương giả mà đã xảy ra các cuộc tranh cãi về việc các Sa môn Phật giáo liệu có nên lễ kính cha mẹ mình. Các vấn đề này về cơ bản đã không được giải quyết triệt để. vào năm Trịnh Quán thứ 5 ( năm 631 sau Công nguyên) Đường Thái Tông họp các quần thần lại và nói rằng:” Sự xuất hiện cũng như lưu hành của Phật giáo và Đạo giáo cốt để thực hiện những điều thiện, vậy thì tại sao để cho các tăng ni Phật giáo và đạo sĩ của Đạo giáo nghĩ bậy rằng mình được phép ngồi đó để nhận lễ bái của cha mẹ? Do đó cần phải cấm chỉ ngay. Yêu cầu các Sa môn Phật giáo và các đạo sĩ của Đạo giáo phải cung kính lễ bái cha mẹ mình!” Về việc này Đường Thái Tông đã ra một chiếu thư đặc biệt, yêu cầu các Sa môn Phật giáo và đạo sĩ Đạo giáo phải tuân thủ những luân lí Nho Giáo chính thống. Bức chiếu thư đó được ban ra, tuy rằng có một số các Sa môn Phật giáo đã không phục, nhưng họ cũng rất sợ quyền uy của nhà Vua, bất đắc dĩ phải thực hiện theo chiếu thư đó.

Dưới thời cai trị của Đường Thái Tông, khi các Sa môn Phật giáo phạm pháp thì cũng bị xử lý theo pháp luật nhà nước phong kiến giống như bà con trăm họ ở thế tục. Năm Trịnh Quán thứ 10 ( năm 636 sau Công nguyên) có một Sa môn tên là Huyền Uyển tịch ( chết), trong những thứ của ngài để lại cho Đường Thái Tông có một bức biểu. trong bức biểu đó ngài xin Đường Thái Tông khi các Sa môn Phật giáo phạm tội thì không nên xử phạt họ theo pháp luật của thế tục, mà xin xử họ theo luật của tăng đoàn. Khi còn sống mối quan hệ của ngài Huyền Uyển với Đường Thái Tông là vô cùng thân thiết, ngài Huyền Uyển đã nhiều lần được mời vào trong nội cung chép kinh cho Hoàng Hậu và các phi tần ở Lục Cung. Sau khi ngài tịch, nguyện vọng duy nhất của ngài là xin Đường Thái Tông hãy rộng lượng ân chuẩn cho Sa môn Phật giáo khi phạm tội sẽ xử theo luật của tăng đoàn, không nên xử tội theo pháp luật của thế tục. Điều này đã nói rằng, các phương pháp và biện pháp phòng phạm Phật giáo của Đường Thái Tông là rất đa dạng.

Cái chính sách gọi là Đạo giáo đứng đầu, sau đó là Nho gia cuối cùng là Thích Ca Giáo của Đường Thái Tông trên thực tế là tam giáo hoà hợp, ông muốn dùng quyền lực của Đế Vương để dàn hoà Nho giáo và Đạo giáo, thì mục đích của ông đều là khiến cho cả ba tôn giáo này đồng tâm hiệp lực phục vụ cho nền cai trị của nhà nước phong kiến Vương Triều Đường. Về mặt khách quan thì điều này cũng tác dụng nhất định đối với việc tiêu trừ mâu thuẫn giữa ba tôn giáo và cũng có tác dụng trong việc thúc đẩy sự hoà đồng ( hợp nhất). Sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, mâu thuẫn giữa Phật giáo và nền văn hoá tư tưởng của truyền thống Trung Quốc càng ngày càng trở nên rõ nét. Từ bao đời nay, cái gọi đấu tranh giữa Hoa( tức người Trung Hoa ) và Di( tức người nước ngoài), giữa lễ và nghĩa, giữa cái trước và cái sau…đã tạo nên chướng ngại cho việc tam giáo hoà hợp. Việc tiêu trừ chướng ngại này cần đến sự trao đổi và tiếp thu giáo lý của nhau cũng như sự nhượng bộ lẫn nhau giữa ba tôn giáo, một mặt khác là các Đế Vương phong kiến có thể cùng lợi dụng ba tôn giáo này, để ba tôn giáo phục vụ lợi ích của mình.

Thời kỳ mà Đường Thái Tông trị vì đúng vào thời điểm quan trọng của quá trình lịch sử hoà hợp Nho giáo Phật giáo và Đạo giáo. Với uy lực và khí thế của một nhà chính trị thời phong kiến ông ta đã giải quyết một cách hợp lý và cơ bản mâu thuẫn và sự đấu tranh giữa ba tôn giáo vào thời kỳ đầu Đường, thúc đẩy việc tăng cường dung hợp giữa ba tôn giáo đó.

Nhưng quan sát một cách khách quan, vào cuối đời, Đường Thái Tông Lý Thế Dân cũng đã thay đổi thái độ của mình với Phật giáo. Ngoài một số nguyên nhân kể trên thì ảnh hưởng bản thân giáo nghĩa Phật giáo với một số đại đức cao tăng lúc bấy giờ, đặc biệt là ngài Huyền Trang là nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi thái độ của ông đối với Phật giáo.

Huyền Trang tên tục thuộc họ Trần, người huyện Uyên Sử tỉnh Hà Nam, ngài xuất gia vào cuối những năm Tuỳ Đại Nghiệp, ngài đọc rất nhiều kinh sách trước đây có rất nhiều sai sót, do đó ngài muốn đi về miền tây để tìm bản chính gốc, đem ra so sánh và kiểm nghiệm. Đầu những năm Trịnh Quán, ngài Huyền Trang bắt đầu khởi hành về phía Tây, trải qua 17 năm, vào mùa xuân năm Trịnh Quán thứ 19 ( năm 645 sau Công nguyên) ngài trở về Trường An. Trên đường trở về, khi đến Vu Điền ngài Huyền Trang đã từng dâng biểu lên Đường Thái Tông, báo cáo với Đường Thái Tông rằng ngài đã từ Ấn ĐỘ trở về nước.

Sau khi biết tin, Đường Thái Tông lập tức hạ chiếu phúc đáp rằng:” Nghe tin thầy đã đến được miền đất đạo và xin được kinh sách, nay đã trở về, Trẫm vô cùng hoan hỉ, hãy mau chóng đến gặp Trẫm. “Đồng thời Đường Thái Tông cũng ra lệnh cho các quan địa phương dọc trên đường ngài Huyền Trang trở về phải tạo mọi điều kiện thuận lợi. Lúc đó Đường Thái Tông vì chinh phạt Liêu Đông mà có mặt ở Đông đô Lạc Dương, nhưng ông đã ra lệnh cho quan cai quản kinh sư Trường An là phòng Huyền Linh và một số người khác đón ngài Huyền Trang với nghi lễ lớn, đồng thời mau chóng đưa ngài Huyền Trang đến Lạc Dương, Đường Thái Tông lập tức ra lệnh tổ chức tiếp kiến Huyền Trang trong nội điện của thâm cung. Ngài Huyền Trang mặt mày rạng rỡ, kể hết chuyện này đến chuyện nọ, từ giờ này sang giờ nọ không còn biết đến thời gian, kể một mạch đến tận đếm khuya. trong cuộc chuyện trò đó, Đường Thái Tông đã yêu cầu ngài Huyền Trang hoàn tục để được phong quan, nhưng ngài đã từ chối. Đường Thái Tông đã yêu cầu ngài Huyền Trang hãy ghi chép lại những điều tai nghe mắt thấy ở miền Tây ấy. Sau khi từ Lạc Dương trở về trường An, ngài Huyền Trang bắt đầu các hoạt động phiên dịch kinh và viết sách gây ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với lịch sử Phật giáo của Trung Quốc.

Để đáp ứng yêu cầu này của Đường Thái Tông, ngài Huyền Trang đã bỏ ra thời gian hơn 1 năm cùng với các đệ tử của mình biên soạn cuốn sách “Đại Đường Tây Vực Ký”. Khi quyển sách này được trình lên Đường Thái Tông Lý Thế Dân , ông ta vô cùng khen ngợi ngài Huyền Trang và nói rằng:” Pháp sư đã nêu cao đạo hạnh, thoát khỏi trần thế, ngồi trên thuyền báu đi đến bờ bến kia, thu nhập được một pháp môn huyền diệu và thâu suốt; Trẫm thì học ít tài mọn, ngu ngơ trước vạn vật, huống hồ là Phật giáo thâm sâu bi diệu thì làm sao có thể đọc và hiểu nổi. Nay pháp sư đã biên soạn quyển mới Đại Đường Tây Vực Ký, Trẫm sẽ cố gắng đọc. Từ những lời lẽ đó ta có thể thấy rằng, thái độ của Đường Thái Tông đối với ngài Huyền Trang là vô cùng cung kính, nhưng thái độ đó cũng rất thường. Điều này cũng có liên quan đến điều kiện lịch sử thống trị lúc bấy giờ.

Lúc đó, nguyên nhân Đường Thái Tông Lý Thế Dân vui vẻ như vậy trước chuyến du hành sang phía Tây của ngài Huyền Trang là vì ông ta muốn tiêu diệt chính quyền cát cứ ( 18) của Tây Đột Quyết, để củng cố sự thống nhất của nhà nước phong kiến đa dân tộc; về sau ông ta phát triển mối giao lưu kinh tế, chính trị các quốc gia ở Trung Nghiệp, Nam Nghiệp và cả Tây Nghiệp, do đó ông ta rất muốn biết tình hình miền đất phía Tây vô cùng rộng lớn đó. Bắt đầu từ thời nhà Tây Hán, tại các nơi như miền Tây Ngọc Môn quan và cả miền đất rộng bao la phía đông và phía nam vùng Hồ Ba Nhĩ Ca Thập, Vương Triều nhà Hán đã đều thiết lập cơ cấu quản lý hành chính thuộc Đô Hộ phủ miền Tây. Từ đó trở đi, nói chung toàn bộ nền chính trị của khu vực này đều nằm dưới sự cai trị của Vương Triều Trung Nguyên. Thời nhà Tuỳ, do chiến tranh loạn lạc kéo dài, vùng Cao Nguyên Mông Cổ và cả miền đất phía nam và phía Đông vùng hồ Ba Nhĩ Thập Ca đều nằm dưới sự cai quản của Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết, khi nhà Tuỳ Vong thì Đông và Tây Đột Quyết đã cát cứ và tuyên bố độc lập. Vào năm trịnh quán thứ tư ( năm 630 sau Công nguyên), Đường Thái Tông khởi binh đánh bại Đông Đột Quyết cát cứ cao nguyên Mông Cổ. Ở đó ông đã thiết lập cơ quan đô đốc phủ ở Định Tương và Vân Trung thực hiện quyền cai quản các vùng đất đó…Cùng năm đó, vùng Tây bắc Y Ngô ( ngày nay là vùng Ca Mật của Tân Cương) cùng 7 vùng khác nữa đã thuộc về Vương Triều Đường đã thiết lập nên châu Tây Y. Vào năm trịnh quán thứ 14 ( năm 640 sau Công nguyên) Vương Triều Đường đã bình định vùng Cao Sương ( ngày nay và vùng Thổ Lỗ Phiên của Tân Cương), Thiết lập các chính quyền quân sự như Tây Châu, Đình Châu, Đô Hộ Phủ An Tây. Lúc này vùng Tây Đột Quyết tiếp tục mở rộng quyền lực sang miền Tây, họ đã cho bắt giữ sứ giả của Vương Triều Đường, tấn công các quan phủ địa phương của Vương Triều Đường, gây trở ngại nghiêm trọng giao thông từ miền đông sang miền Tây trở về, điều này đối với một người đang sốt sắng muốn biết tình hình của miền Tây  như Đường Thái Tông mà nói thì đó quả là một điều cực kỳ quí báu. Do đó Đường Thái Tông Lý Thế Dân khẩn thiết yêu cầu ngài Huyền Trang hãy viết lại tất cả những gì tai nghe mắt thấy ở miền Tây để phục vụ cho mục đích chính trị của Vương Triều Đường là chinh phục miền tây Đột Quyết. Bản thân là một tín đồ Phật giáo nên ngài Huyền Trang hiểu rất rõ ý đồ của Đường Thái Tông, ngài lập tức bắt tay vào việc, rồi ngài cũng mau chóng hoàn thành cuốn “Đại Đường Tây Vực Ký”. Trong cuốn sách đó ngài Huyền Trang cũng đã kể tóm tắt công sức biên soạn cuốn” Đại Đường Tây Vực Ký “ của mình, nói rõ rằng quyển sách này đã xuyên suốt tình hình đất nước, chỉ rõ sự cương nhu của quốc gia, hệ thống lại toàn bộ khí hậu của đất nước, của từng vùng riêng biệt rồi sau đó, ngài đã ghi chép những gì tai nghe mắt thấy, ghi chép lại những yêu thích; từ ngày du nhập vào đất hán, nhờ được ân huệ mà chuyển đi khắp nơi, mọi người đều ngưỡng mộ công đức, hoà đồng thiên hạ, vũ trụ bao la là ngôi nhà chung, ngài đi một  mình không đem theo đệ tử, đi xa cả vạn dặm. Ngài dâng biểu nói vậy:” Ban Siêu chưa đi xa, ông Trương Khiên nhìn chưa được rộng; nay những điều bần tăng ghi chép có điều lạ trước đây chưa biết; Tuy chưa vươn xa nghìn cõi nhưng sự hiểu biết của bần tăng cũng vượt ra khỏi biên giới. Những điều bần tăng ghi chép là sự thực không hề tô vẽ”. Ngài Huyền Trang cũng tán tụng sự nghiệp thống nhất của Vương Triều Đường, hơn thế nữa ngài còn hi vọng bộ “Đại Đường Tây Vực Ký “ này có thể góp phần phát huy tác dụng cho việc này, đồng thời ngài cũng cảm thấy tự hào về những điều tai nghe mắt thấy của mình cũng đã hơn người. Chính vì điều này, cuốn sách tự thuật “Đại Đường Tây Vực Ký” mà Huyền Trang với thân phận là một tín đồ Phật giáo, đi du hành đến miền Tây về ghi lại mặc dù nội dung chính của cuốn sách ấy là nói về các vấn đề có liên quan đến Phật giáo; nhưng trong đó ngài huu cũng ghi lại rất nhiều phong tục tập quán và tình hình địa lý, chính trị của các nước phía Tây. Điều đó đã làm thoả mãn yêu cầu lúc đó của Đường Thái Tông; cho nên Đường Thái Tông đã đích thân đọc quyển sách đó.

 Lúc này mối quan hệ của Đường Thái Tông và ngài Huyền Trang là vô cùng đúng mực. Mối quan hệ giữa Lý Thế Dân ( với tư cách là Đế Vương của chế độ phong kiến) với ngài Huyền Trang ( với tư cách là một tín đồ Phật giáo) được thể hiện bằng mối quan hệ chủ và nô bộc. trong mối quan hệ giữa chủ và nô bộc này, quyền lực của Hoàng Đế cao hơn quyền lực của tôn giáo, về cơ bản điều này phù hợp với truyền thống vốn có của xã hội phong kiến Trung Quốc. Nhưng sau đó khoảng 2-3 năm, thái độ của Đường Thái Tông đối với Phật giáo đã có những thay đổi, từ việc lợi dụng, phòng bị được chuyển thành đề cao, thậm chí là tôn sùng.

Đầu những năm Trinh Quán, Đường Thái Tông Lý Thế Dân đã ra lệnh xây dựng ngôi chùa và các ngôi tháp cho Phật giáo, ông còn ban xuống chiếu mời một số cao tăng đại đức vào cung cầu phúc, thọ giới chép kinh cho Thái Tử, Hoàng Hậu và các cung tần. Tuy nhiên về mặt cơ bản cũng không hoàn toàn tin vào Phật giáo. Theo ghi chép, vào những năm Trinh Quán có một vị tăng sĩ người Hồ ( miền tây) đến, ông ta tự xưng là mình có thể niệm chú làm cho người chết. Đường Thái Tông liền ra lệnh chọn ngay một tráng sĩ trong quân đội ra cho vị tăng này thử. Trong cuộc thử nghiệm đó của tăng sĩ người Hồ, quả thực ông ta đã làm cho vị tráng sĩ đó chết đúng theo lời chú. Đường Thái Tông cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi ông Phó Dịch xem rốt cuộc là thế nào? Ông Phó Dịch đáp rằng :” Đây là phép thần. Nghe nói tà pháp không đúng đâu, nếu như ông ta có chú cho thần (19) thì chắc chắn không linh nghiệm”, Đường Thái Tông triệu tăng sĩ người Hồ yêu cầu chú cho ông Phó Dịch không ai ngờ rằng, chỉ một lúc sau tăng sĩ người Hồ bỗng nhiên ngã lăn ra chết ngay. Theo ghi chép, vào những năm Trinh Quán cũng có một tăng sĩ nước ngoài đến, ông ta nói rằng mình có một chiếc răng Phật, chiếc răng này có thể nghiền nát bất cứ một vật cứng nào. Thế là dân trong thành Trường An xôn xao bàn tán. Sau khi nghe được tin này, ông phó dịch liền sai người đem sừng Linh Dương đến chọi nhau với chiếc răng gọi là răng Phật kia, kết quả là chiếc răng Phật bị vỡ nát còn các sừng Linh Dương thì không bị sứt mẻ gì, hai câu chuyện kể trên đây đều là do Đường Thái Tông đích thân chứng kiến. Rõ ràng đây là một chuyện rất rõ ràng về nguồn gốc.

Nhưng vào năm cuối Trinh Quán, có một tăng sĩ tên là Thiện Đạo đã bắt đầu tụ tập pháp môn phương tiện của nhà Phật, ông chỉ suốt ngày hành niệm cõi tịnh độ của Phật A Di Đà, và ông cũng yêu cầu các tín đồ không cần phải xuất gia, chỉ cần niệm danh hiệu của Phật A Di Đà ( tức là Đại thừa của Phật pháp) thì một khi niệm đến một trình tự nhất định nào đó, mình có thể vãng sinh về cõi Tịnh Độ Cực Lạc Tây Phương. Trong thành Trường An, ông Thiện Đạo đã phổ biến pháp môn phương tiện Tịnh Độ, đồng thời chép ra hành vạn cuốn “ A Di Đà Kinh”, những người đi theo pháp môn này thì vô số vô lượng, chỉ một thời gian, khắp các làng xóm, các ngó phố của kinh sư Trường An và ngay cả trong nội cung và ngoại cung không ngớt tiếng tụng niệm “ A Di Đà Phật”. Trước hiện tượng này, Đường Thái Tông Lý Thế Dân không những không can thiệp, không cản trở mà hơn thế nữa ông ta còn ra sức tán thán công đức của ông Thiện Đạo. Chính trong bầu không khí thuận lợi như thế này, Ông Thiện Đạo đã lập nên môn phái Tịnh Độ tông của Phật giáo Trung Quốc.

Vào năm Trinh Quán thứ 22 ( năm 648 sau Công nguyên) Đường Thái Tông đến cung Ngọc Hoa yêu cầu Huyền Trang vào tiếp kiến. Nhân cơ hội này, ngài Huyền Trang mời Đường Thái Tông viết lời tựa cho cuốn sách “ Du Già Sư Địa Luận” mà mình mới dịch. Để đạt được mục đích này, ngài Huyền Trang đã khen ngợi Đường Thái Tông và nói rằng:” Bần tăng chỉ ngưỡng một mình bệ hạ, một người trí lực tuyệt vời, giữ được kỷ cương ( phép nước), biết được đầu mối của muôn vật; thúc đẩy phát triển cho tương lai, làm cho trong ấm ngoài êm, đó là nhờ bệ hạ là một người không hoang dâm, không xa xỉ, không lãng phí, chăm chỉ cần mẫn, thái độ rất vững vàng, làm điều lành theo sự sắp đặt của trời”. Liền sau đó ngài Huyền Trang đã chứng minh và phân tích những chiến tích của Đường Thái Tông gọi là “ làm điều lành theo sự sắp đặt của trời”. Lúc đầu Đường Thái Tông từ chối viết lời tựa cho cuốn sách mới dịch của ngài Huyền Trang, nhưng về sau nghe lời khen ngợi như vậy của ngài Huyền Trang, nhà Vua lập tức đồng ý viết lời tựa cho cuốn sách “ Du Già Sư Địa Luận”. Lời tựa có tên là “Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo Tựa”. Những ngày sau đó, ngài Huyền Trang kể lại đại ý của cuốn “ Du Già Sư Địa Luận “ cho vua Đường Thái Tông nghe, sau khi nghe ngài Huyền Trang kể, nhà vua lập tức cử người lên đông đô lấy ngay quyển sách đó về. Sau khi quyển luận đó được đem về. Vua Đường Thái Tông đích thân xem xét rất kỹ, cảm thấy từ ngữ trong cuốn sách ấy nghĩa bao la rộng lớn, ý thâm sâu, những từ đó mình chưa hề được nghe, nhà vua liền đến phàn nàn với thị thần:” Trẫm đọc kinh Phật cứ như người đứng nhìn trời nhìn biển, nó bao la mênh mông chẳng biết đường nào, nay Huyền Trang pháp sư đi đến nơi xa xôi hẻo lánh đó mà xin được bộ kinh điển quý giá này, Trẫm uỷ thác cho mọi người tìm ra mà đọc, cội nguồn mênh mông vô biên, sách cửu lưu Nho giáo như một chiếc áo nhỏ, mọi người bàn tán rằng tam giáo hợp nhất, đó là những lời bàn tán bậy bạ”. Sau đó Đường Thái Tông lại hạ lệnh cho người chép quyển kinh sách luận này ra làm 9 bản, phân cho 9 châu, giúp cho nó được truyền đến khắp nơi. Đồng thời nhà Vua yêu cầu những người đứng đầu các địa phương cũng trình báo lên những chỗ mà mình còn chưa hiểu. Bộ “ Du Già Sư Địa Luận” đã chinh phục được Đường Thái Tông. Nhà Vua không những tỏ ra hoài nghi đối với chính sách cơ bản “ tam giáo hoà đồng” mà ông đã chủ trương; hơn thế nữa mọi sách lược xâm hại đối với Phật giáo cũng quên biến mất, nhà Vua muốn đưa tình hình theo hướng Phật giáo là độc tôn.

Bộ “ Du Già Sư Địa Luận” mà hoà thượng Huyền Trang đã dịch cũng là một những điển tịch( sách) quan trọng nhất của Từ Ấn Tông ( cũng còn được gọi là Duy Thức Tông, Pháp Tướng Tông) mà ngài Huyền Trang đã cùng với một đệ tử của mình là ngài Khuy Cơ lập nên. Ngay từ trước khi ngài Huyền Trang  sang bên Ấn Độ, một số phần của bộ bộ “ luận” này cũng đã được truyền dịch trên đất Hán. Lần này ngài Huyền Trang đã dịch toàn bộ “ luận” này. Tiếng Phạn gọi là Du Già, thì tiếng Hán dịch là Tương ưng ý phải nhất quán, nghĩa thì phải tương hợp, tức là phương tiện khéo léo, linh hoạt, đúng như quyển gốc. Ở Ấn Độ, Du Già là chuyên chỉ một phương pháp tu hành, sau đó được Phật giáo đại thừa đang hưng khởi tiếp thu, bổ xung thêm, một số nội dung của Phật giáo, phát triển thành đại thừa hữu tông. Theo thuyết pháp của tông giáo này, nếu như tăng lữ mà tu hành và tư duy theo tăng luật, giáo pháp, pháp nghĩa của bản tông đó thì có kết quả của việc tu hành hoặc tư duy sản sinh từ đó ra đều là Tương Ưng, đồng thời phương tiện khéo léo, linh hoạt đúng mực. Nội dung chủ yếu của “ Du Già Sư Địa Luận” là chỉ rõ người tu hành theo du già, phải thực hiện theo “ thâp nhất địa” ( 17 địa vị) mà Phật giáo gọi là cảnh, hành, quả tức là 17 bước tu hành chính quả cuối cùng thành Phật. Lý luận kiểu này tuy rằng rất là rối rắm và phức tạp, nhưng nó đã chỉ rõ con đường thành Phật. Các học phái học tập tu hành theo Phật giáo thời Tấn Tống như Bát Nhã Học, Niết bàn học và sau là Thiên Thai tông đều có những lý luận rõ ràng chi tiết, đem lại cho người ta ấn tượng rất rõ nét, đối với người Trung Quốc mà nói, nó lại có một hương vị mới mênh mông vô cùng. Do đó đối với Đường Thái Tông vào những năm cuối đời, nó cần thiết và quan trọng hơn nhiều so với hy vọng gửi gắm về tác dụng thế tục của luân lý đạo đức Nho gia.

Vào mùa thu năm Trinh Quán thứ 22, Lý Thế Dân yêu cầu ngài Huyền Trang lại tiếp tục ca ngợi công đức của Phật giáo. Đường Thái Tông lập tức hỏi” Muốn trồng cây công đức, làm thế nào cho tốt nhất?” Ngài Huyền Trang liền đáp rằng:” chúng sinh mê muội, nếu không có tuệ thì không khởi lên được, mầm của tuệ phải vun trồng, pháp chỉ là hạt giống, hoàng pháp vì con người, trước hết phải độ tăng”. Theo kiến nghị của ngài Huyền Trang, Đường Thái Tông liền hạ chiếu độ tăng, trong chiếu đó nhà Vua dụ rằng:” Trẫm sống ở thời nhiễu loạn, luôn phải lo lắng việc binh đao, phải dãi gió dầm mưa, phải ngủ trên mình ngựa, chứng bệnh chưa hết, gần đây đã được bình phục, có lẽ vì điều phúc này nên cần phải dừng việc binh đao chăng?” Sau khi Đường Thái Tông ra chiếu độ tăng, các tăng ni trong toàn quốc được lên độ hơn 18500 người.

Vào tháng 4 năm Trinh Quán 23 ( năm 649 sau Công nguyên) Đường Thái Tông đến cung Thuý Vi và yêu cầu ngài Huyền Trang đi cùng. Sau khi ngài Huyền Trang vào trong cung, ngài chỉ tán huyền luận đạo ( sự xâu xa bi diệu, mầu nhiệm của Phật giáo) với Đường Thái Tông. Đường Thái Tông hỏi ngài Huyền Trang về nhân quả báo ứng và các câu chuyện cổ tích về tiên thánh miền Tây. Ngài Huyền Trang liền dẫn kinh Phật ra trả lời. Đường Thái Tông tin tưởng hết mức, đã nhiều lần nắm vạt áo của ngài Huyền Trang nói rằng:” Trẫm gặp thầy hơi muộn nên không thể hoằng dương Phật pháp được nữa rồi”. Điều này cho ta thấy rằng, vào những năm cuối đời, Đường Thái Tông cũng cảm thấy tiếc rẻ vì mình không thể hoằng dương được Phật pháp, điều này đã cách xa một trời một vực so với hoài bão của ông ta từ trước đây. Nói chung các vị Đế Vương của Trung Quốc thường có một ảo tưởng là mình đi cầu Pháp trường sinh bất lão, từ đó giúp cho mình được thống trị thiên hạ lâu hơn nữa. Ngày xưa Tần Hoàng Hán Vũ vào những năm cuối đời đã tin phục và đi theo một phương thuật của đạo sĩ. Ông ta đã không tiếc cả mạng sống của mình để uống các thứ thuốc thần tiên linh nghiệm. Đạo sĩ có phương thuật này nhân cơ hội được chiều chuộng, ông ta lừa hết trò này đến trò nọ, do đó đến khi họ chết họ vẫn không được tỉnh ngộ. Cả nửa cuộc đời Lương Thái Tông rong ruổi trên lưng ngựa, tiếp sau đó Đế Vương được hơn 20 năm, do đó mà ông cũng có một ảo tưởng là mình được trường sinh bất lão. Xuất phát từ mục đích này , Đường Thái Tông nghĩ đến việc mình không sớm quảng dương ( phổ biến rộng) Phật Pháp mà biết rằng công đức của mình rất mỏng và nhỏ, do đó mãi đến tận cuối cuộc đời ông ta vẫn luôn luôn cảm thấy nuối tiếc. Vào tháng 5 năm Trinh Quán 23, Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì dùng loại thuốc tiên do một phương sĩ sao luyện mà bị ỉa chảy kéo dài không chữa khỏi, cuối cùng là chết.

Sự tin sùng vào Phật giáo của Đường Thái Tông Lý Thế Dân vào những năm cuối đời cũng có liên quan trực tiếp với những được mất của ông ta về mặt chính trị. Thời kỳ đầu ngay sau khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân lên ngôi, ông ta lập tức lấy việc nhà Tuỳ suy vong làm tấm gương cho mình. Về mặt chính trị và kinh tế ông ta đã cho thực hiện một loạt biện pháp có lợi cho nền thống trị của triều đại. Bản thân Đường Thái Tông ngay từ đầu cũng đã chăm chú lắng nghe lời khuyên can của quần thần, đồng thời cũng giống như Nguỵ Trưng ( Vua đời Tuỳ) ông khuyến khích cảm ơn người dám thẳng thắn dâng lời khuyên can. Chính vì vậy đã có một thời chính trị  mà sử tịch khen ngợi gọi là thời đại hưng thịnh “ Thịnh trị Trinh Quán”. Thời đại thịnh trị đồng thời cũng tạo nên cho Đường Thái Tông  một thái độ kiêu căng tự mãn. Bản thân Đường Thái Tông Lý Thế Dân cũng là một người có tài năng hơn người, điều này càng trở thành điều kiện để ông ta tự mãn kiêu ngạo. Ngay từ những năm Trinh Quán, ông ta đã tự vỗ ngực mà rằng” Trẫm khởi binh từ năm 18 tuổi, năm 24 tuổi bình định được thiên hạ, năm 29 tuổi được lên ngôi hồi đó, uy lực nay đã hơn hẳn người xưa; ngay từ nhỏ Trẫm đã theo việc binh đao chiến khắp nơi, không có thời gian mà đọc sách, từ những năm Trinh Quán đến nay, Trẫm trong tay không có lấy quyển sách của Phật, biết nguồn gốc của phong hoá, nguồn gốc của chính lý, điều này cũng có thể gọi là việc học hành hơn cả người xưa; Xưa kia Chu Tần đầu hàng kẻ Nhung địch (20) nội xâm, ngày nay chúng đã cúi đầu làm thần thuộc, hoà bão này cũng đã hơn người xưa” Ba phương diện mà ông ta tự khoe khoang mình đã trở thành những chướng ngại cho con đường tiến cử của ông ta vào những năm cuối đời. Ông ta đã không tận tâm lắng nghe những lời khuyên can như trước đây nữa, càng ngày càng muốn phô trương sức mạnh, Ông đã từng ba lần đi đánh Liêu Đông không nổi, ông đã cảm thấy sức lực của mình không còn được như trước nữa. Do đó ông bắt đầu chú ý đến Phật Pháp. Vào những năm cuối đời, Đường Thái Tông Lý Thế Dân đã tin theo Phật Pháp. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến lập trường và thái độ đối với Phật giáo của Đường Cao Tông, Võ Tắc Thiên và một số người khác. 

 

Để tóc tu hành tại chùa Cảm Nghiệp

Võ Tắc Thiên thờ Phật được lên ngôi.

 

Võ Tắc Thiên tên thường gọi là Chiếu là người vùng Văn Thuỷ của Tịnh Châu ( nay là huyện Văn Thuỷ tỉnh Sơn Tây). Bố là Võ Sĩ Hoạch, nguyên là một người buôn gỗ. Vào cuối thời kỳ Tuỳ, ông đã đi theo quan lưu thủ( bảo vệ) Thái Nguyên tên là Lý Uyên, được làm một vị quan nhỏ. Lý Uyên khởi binh chống lại nhà Tuỳ ở Thái Nguyên, Võ Sĩ Hoạch cũng vội vã đi theo. Sau khi Vương triều Đường ra đời, Võ Sĩ Hoạch được phong làm quan Bộ thượng thư Bộ Công và còn được phong làm Vinh Quốc Công. Tương truyền, ngay từ bé Võ Tắc Thiên đã có tính cách cương nghị, rất thích đóng giả con trai. Có một lần, thầy tướng xem bói cho cô, tưởng cô là con trai liền nói rằng:” Nếu cậu mà là con gái thì quý hết chỗ nói”. Đến năm 14 tuổi, Võ Tắc Thiên đã trở thành một cô gái xinh đẹp “ cành vàng lá ngọc”. Sau khi biết Võ Tắc Thiên là một cô gái xinh đẹp, Đường Thái Tông liền triệu cô vào trong cung, chọn cô làm tài nhân ( cấp thấp nhất trong các phi tần). Sau khi vào cung, Võ Tắc Thiên biết được Đường Thái Tông có một con ngựa bất kham, rất khó thuần phục được con ngựa này. Cô nói với Đường Thái Tông rằng mình cần 3 thứ: Một cái roi sắt, sau đó là dùng truỳ sắt. Nếu như nói vẫn cứ không vẫn nghe lời thì phải dùng đến dao găm để đâm. Đường Thái Tông nửa đời người ngồi trên lưng ngựa tầm hiểu biết của ông cũng rất sâu rộng, nghe lời nói mạnh bạo này, ông ta vô cùng khen ngợi tính cách mạnh mẽ của Võ Tắc Thiên.

Tháng năm Trinh Quán thứ 23 ( năm 649 sau Công nguyên), Đường Thái Tông băng hà (chết). Võ Tắc Thiên cùng với các phi tần khác của Đường Thái Tông bị đuổi ra khỏi cung, bắt xuất gia làm ni sư tu ở chùa Cảm Nghiệp phía bắc Trường An. Lúc đó, Võ Tắc Thiên mới 25 tuổi. Sau khi xuất gia làm sư ni, Võ Tắc Thiên ngày ngày hương đãng cúng Phật, ngày ngày tụng kinh, cuộc sống cô đơn lạnh lẽo. Nhưng bà vẫn còn một tia hy vọng, đó là trước khi xuất gia bà đã có lời hẹn ước với Hoàng Thái Tử tên là Lý Trị, bởi vì ngày trước khi còn ở cung, bà cũng lén lút quan hệ tình cảm với Lý Trị cũng từng hứa với Võ Tắc Thiên rằng, đợi sau khi ông được lên ngôi hồi đó, nhất định sẽ đón Võ Tắc Thiên trở về cung. Một hôm Đường Cao Tông Lý Trị đến chùa Cảm Nghiệp gặp Võ Tắc Thiên. Tình cảm nhớ nhung giữa hai người lại trào lên bừng bừng. Sau khi hai người gặp nhau, Đường Cao Tông nói với Võ Tắc Thiên rằng, điều kiện để đón nàng về cung giờ vẫn chưa chín muồi, nhưng trước tiên Võ Tắc Thiên cứ để tóc mọc dài như cũ, được thời cơ chín muồi, nhất định sẽ đến đón về. Sau khi Lý Trị ra về, Võ Tắc Thiên bắt đầu không cạo tóc như trước mà cứ để tóc mọc dài ra, nhưng việc tu tập vẫn bình thường, và ngày ngày mong ngóng Đường Cao Tông sớm đến đón mình trở về cung. Quãng nửa năm sau, Đường Cao Tông triệu Võ Tắc Thiên trở về cung. Do có một thời gian sống cuộc sống của một ni sư, nên giáo lý Phật giáo cũng in đậm trong tâm trí Võ Tắc Thiên, cuộc sống nhà chùa cũng trở nên quen thuộc với bà. Khi thực sử phải rời chùa Cảm Nghiệp, Võ Tắc Thiên tự nhiên có một tình cảm lưu luyến khó dứt ra được. Qúa trình này đã có ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ giữa Võ Tắc Thiên và Phật giáo sau này.

Không giống như Đường Thái Tông Lý Thế Dân, người con Đường Cao Tông Lý Trị là một người ốm yếu, làm việc chậm chạp. Sau khi lên ngôi, Đường Cao Tông không chú ý đến công việc, làm việc tuỳ tiện, qua quýt, giải quyết công việc không theo đúng nguyên tắc. Nhưng trong vấn đề sắp xếp thứ tự của Phật giáo và Đạo giáo, Đường Thái Tông ( cha) đã sắp đặt là : Đạo giáo đứng đầu, tiếp theo là Nho giáo, cuối cùng là Phật giáo. Nhưng sau khi Đường Cao Tông lên ngôi, nghe nói một số hoà thượng có ý kiến, ông liền ra chiếu rằng: Trong các buổi lễ Trai ( bất kể là nhà nước hay tư nhân tổ chức) và trong các nơi có tập trung đông người thì các đạo sĩ và nữ quán ( Đạo giáo ) đứng ở phía Đông, tăng ni ( Phật giáo) đứng ở phía Tây, không cần phải tranh cãi trên dưới gì nữa. Điều này trên thực tế trong lòng ông có ý gì đó đắn đo nghiêng về Phật giáo, mặt khách quan rất có lợi cho việc phát triển Phật giáo về thế và lực. Còn một điều nữa là ít lâu sau khi ông lên ngôi, ông đã cho ban chiếu thư: Tăng ni không được nhận bái lạy của cha mẹ đẻ mà tăng ni cần phải bái lạy cha mẹ. Nhưng một trong số tăng sĩ nhờ có mối quan hệ họ hàng với Hoàng thân quốc thích nên đã có hành động chống đối, họ không chịu chấp nhận như vậy, chiếu thư cuối cùng không được thực thi.

Võ Tắc Thiên sau khi được trở lại cung, liền được Đường Cao Tông lập là Chiêu Nghi ( một đẳng cấp của Phi Tần cao hơn Tài Nhân). Việc Đường Cao Tông ốm yếu làm việc chậm chạp, không cương quyết đã tạo điều kiện thuận lợi cho một con người cương nghị, đa mưu như Võ Tắc Thiên tham dự vào công việc chính của Vương Triều nhà Đường. Không bao lâu sau, Đường Cao Tông lại ra sắc lệnh phong Võ Tắc Thiên là Thần Phi ( cấp cao nhất trong Phi Tần, chỉ thấp hơn Hoàng Hậu). Sau đó Đường Cao Tông lại muốn lập Võ Tắc Thiên làm Hoàng Hậu, và ông cũng đem việc này bàn luận với quần thần. Nguyên Lão trọng thần là Chử Toại Lương và cháu đích tôn là Vô Kỵ cực lực phản đối. Đường Cao Tông do dự không quyết định, ông đem chuyện này ra bàn với Lý Tích. Lý Tích tâu rằng:” Đây là việc riêng của Hoàng gia, việc gì phải đem bàn với người ngoài”. Ông Hứa Kính Tông, người ủng hộ Võ Tắc Thiên nói ý càng sâu sa, thấu đáo hơn. Ông nói rằng:” Ông Hương Ba Lão Đa còn phải ghánh mấy thạch gạo ( một thạch là một tạ) để mong đổi lấy một người vợ, huống hồ là Thiên Tử!”. Do đó, Đường Thái Tông quyết tâm phế bỏ Vương hậu đương thời, lập Võ Tắc Thiên làm Hoàng hậu, Võ Tắc Thiên sau khi được làm Hoàng hậu, bà liền trực tiếp tham dự vào Triều chính. Do Đường Cao Tông mắc bệnh đau đầu, nên từ năm Hiển Khánh thứ 5 ( năm 660 sau Công nguyên) đại sự trong Triều Đình về cơ bản đều giao cho Võ Tắc Thiên giải quyết. Hàng ngày khi Đường Cao Tông lên triều, Võ Tắc Thiên đều ngồi phía sau ông, buông rèm nghe việc triều chính, quyết đoán tất cả mọi việc. Đường Cao Tông lúc này giống như tên bù nhìn. Đồng thời, lúc đó các đại thần trong Triều Đình và dân trong họ đều gọi Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên là “ nhị thánh”. Điều đó chứng tỏ rằng, trong lòng mọi người, Võ Tắc Thiên cũng đã trở thành một vị Hoàng Đế.

Sau khi nắm quyền điều hành Triều Chính, Võ Tắc Thiên bắt đầu ra sức nâng đỡ Phật giáo, đồng thời thúc đẩy và thúc đẩy Đường Cao Tông chính thức đề cao Phật giáo. Theo ghi chép lại của sách sử, vào năm đầu của Lân Đức ( năm 664 sau Công nguyên) Võ Hậu ( tức Võ Tắc Thiên) đã truy phong cho cô con gái đầu lòng bị chết yểu là công chúa An Định, khi cải táng liền tổ chức khoá lễ to ở chùa thờ Phật. Vào năm sau, thái tử Lý Hoằng đã cho đúc một cái chuông đồng to dâng biếu Đường Cao Tông và Võ Hậu, cái chuông đó nặng tới năm tấn. Võ Hậu yêu cầu treo cái chuông này ở chùa Tây Minh. Ngày làm lễ treo chuông, liền tổ chức một lễ hội làm náo động kinh đô. Vào năm đầu của Càn Phong ( năm 666 sau Công nguyên), dưới sự điều khiển của Võ Hậu, Đường Cao Tông đã ra chiếu lệnh yêu cầu mỗi châu phải xây một ngôi chùa. Vào năm Hàm Hanh thứ hai ( năm 671 sau Công nguyên) mẫu thân của Võ Hậu đã cho người đúc một bức tượng Phật lớn để hồi hướng phúc đức cho bà, số tiền đúc tượng đều lấy từ Quốc khố ( kho bạc nhà nước). Vào năm sau, Đường Cao Tông lại ra sắc lệnh cho xây dựng Phật đại Nô Xá Na ở chùa Phụng Tiên, Long Môn, Lạc Dương. Võ Hậu đã dùng hai triệu quan ( mỗi quan là 1000 xu) tiền son phấn của mình để tương trợ, sau hơn 3 năm xây dựng công trình đó mới hoàn thành. Vào năm Vĩnh Thuần thứ hai ( năm 683 sau Công nguyên) Đường Cao Tông đón một tăng sĩ Ấn Độ tên là Bồ Đề Lưu Chí đến Trung Quốc. Võ Hậu lại đảm nhiệm thêm trách nhiệm, đưa ngài về chùa Phúc Tiến ở Lạc Dương để chuyên dịch kinh Phật. Vào năm sau Đường Cao Tông mất, Võ Hậu đã cho xây chùa Đại Hiến để hồi hướng công đức cho Đường Cao Tông, đồng thời độ 200 vị tăng trong đó. Về sau, chùa này được đổi thành chùa Tiến Phúc. Tất cả các hoạt động trên đây, trên thực tế đều do Võ Tắc Thiên đề xướng và điều khiển, đồng thời họ luôn luôn quán triệt tham vọng chính trị mãnh liệt của Võ Hậu và ảnh hưởng của bà sau khi tham dự triều chính. Như bức tượng Phật Nô Xá Na ở chùa Phụng Tiên huyện Long Môn kể trên là do Võ Hậu bớt 2 triệu quan tiền son phấn của mình để tạo nên. Tạo hình của khuôn mặt bức tượng đó đầy đủ hình thái và khí chất điển hình của người phụ nữ Trung Quốc. Khuôn mặt đầy đặn, ung dung, mắt sáng long lanh, lông my dài và cong vút, ánh mắt hiền từ và dịu dàng. Nó đã chứa đựng tình cảm hiền hậu hoà nhã, không có một điểm nào lại không thể hiện dáng vẻ nữ tính rung động lòng người. Cái hình tượng được nữ tính hoá này là sản phẩm của việc Võ Tắc Thiên dựa vào tạc tượng Phật để thể hiện lòng tôn thờ thần thánh. Cái tên “ Lô Xá Na” là dịch âm từ tiếng phạn, ý của từ ấy là “ánh Phật chiếu khắp nơi” hoặc “ánh sáng chiếu khắp nơi”. Hình tượng đã được “ nữ tính hoá” này, vừa có đủ hàm ý” ánh Phật chiếu sáng khắp nơi” và” ánh sáng chiếu khắp nơi”, vừa là điềm báo trước về hoài bão chính trị của Võ Tắc Thiên (Võ Hậu).

Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Đường Trung Tông Lý Hiển kế vị. Nhưng chẳng bao lâu sau, Võ Tắc Thiên liền phế Đường Trung Tông, cho làm Lư Lăng Vương. Bà đưa Duệ Tông, tức là Lý Đán kế vị. Sau khi Duệ Tông lên ngôi, Võ Tắc Thiên liền lấy danh nghĩa Thiên Hậu Hoàng Thái Hậu để nhiếp chính. Như vậy, Vương Triều  Lý Đường cuối cùng đã bị Võ Tắc Thiên thâu tóm quyền lực. Để dành được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân sĩ và tìm căn cứ lý luận cho việc mình nắm quyền lực, Võ Tắc Thiên đã phát triển sâu sắc thêm mối quan hệ chính mình và Phật giáo, hy vọng dùng Phật giáo để đạt được mục đích chính trị và các mục đích khác của mình.

Vào năm đầu tiên của Thuỳ Cung ( 685 sau Công nguyên). Võ Hậu ( tức Võ Tắc Thiên) ra lệnh cho tăng sĩ tên là Thiết Hoà Nghĩa trùng tu lại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Trùng tu xong, Võ Hậu liền cử tăng sĩ Tiết Hoài Nghĩa làm trụ trì ngôi chùa đó. Tiết Hoài Nghĩa tên thế tục là Phùng Tiểu Bảo, vốn là một kẻ lưu manh đầu đường xó chợ ở Lạc Dương. Nhưng ngay từ khi sinh ra cậu đã có khuôn mặt sáng sủa, dáng người đàng hoàng rắn chắc, sức khoẻ hơn người. Đầu tiên, cậu ta gian díu với công chúa Thiên Kim là con trai thứ 18 của Đường Cao Tổ Lý Uyên. Về sau được công chúa Thiên Kim là con gái thứ 18 của Đường Cao Tổ Lý Uyên, về sau được công chúa Thiên Kim giới thiệu làm quen với Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên vô cùng quí mến và chiều chuộng cậu ta, hai người rất mến nhau, tình cảm ngày càng sâu đậm. Để che mắt thiên hạ và tiện cho việc ra vào cung của cậu ta, hai người rất mến nhau, tình cảm ngày càng sâu đậm. Để che mắt thiên hạ và tiện cho việc ra vào cung của cậu ta, Võ Tắc Thiên liền yêu cầu cậu ta xuất gia thành tăng sĩ, pháp danh là Hoài Nghĩa. Võ Tắc Thiên còn hiềm một nỗi là cậu ta xuất thân thành phần thấp kém trong xh, liền giao cho cậu ta chức Phụ Mã Tiết Thiện Bản Gia phục vụ cô công chúa Thái Bình yêu quí của mình, hơn thế nữa lại còn là Thúc Phụ ( chú ruột) của Phụ Mã. Như vậy Tiết Hoài Nghĩa vừa là một tăng sĩ, vừa là cư sĩ ( tín đồ Phật giáo chưa xuất gia) làm việc của thế tục, ông được tự do ra vào cung làm hầu nam cho Võ Thị. Sau khi được làm trụ trì chùa Bạch Mã, đi đâu cũng cưỡi Ngự Mã ( ngựa để Vua Cưỡi), hai bên có hơn chục quan quân đi kèm. Khi đi trên đường phố, cậu ta luôn tỏ vẻ kiêu hãnh. Cậu ta còn bầy trò lập đạo tràng cùng với các vị cao tăng đại đức tụng kinh cho Võ Hậu ở Lạc Dương. Các Vương Công quý tộc trong triều đình đều nằm rạp xuống lễ bái, gọi cậu ta là Tiết Sư. Võ Tắc Thiên đã dùng Phật giáo làm bùa hộ mệnh để thoả mãn ý đồ riêng tư của mình. Trong lịch sử Trung Quốc không chỉ có một lần này!

Vào năm sau, vị tăng sĩ người Ấn Độ đến Trung Hoa tên là Địa Bà Kha La bắt đầu công việc dịch kinh sách ở chùa Thái Nguyên (Đông Kinh). Võ Tắc Thiên đã nhiều lần đến hai nơi ấy, viết bản tựa cho bản kinh dịch để mở rộng bản kinh mới dịch, thông qua đó bà muốn chứng tỏ mối quan hệ đặc biệt của mình với Phật giáo. Về sau ngài Địa Bà Kha La Tịch ( qua đời), Võ Tắc Thiên ra sắc lệnh mai táng ngài ở núi Long Môn. Do có sự đề nghị của Võ Tắc Thiên, lễ mai táng ngài Địa Bà Kha La có đến hàng vạn người gồm vương công quí tộc trong Triều và bà con trăm họ, có thể nói rằng đó là đám tang lớn chưa từng có từ trước đến nay. Vào năm Thuỳ Cung thứ 4 ( 688 sau Công nguyên), một người cháu trai của Võ Tắc Thiên tên là Võ Thừa Tự đã làm giả một viên Thiên Thạch, anh ta đã khắc tám chữ “ Thánh Mẫu Lâm Nhân, Vĩnh Sương Đế Nghiệp” trên hòn ngọc thạch rồi sai một người quê Ung Châu tên là Đường Đồng Thái dâng biểu lên Võ Tắc Thiên nói rằng hòn đá này nhặt được ở Lạc Thuỷ. Võ Tắc Thiên nhìn thấy viên đá cát tường này bà vô cùng vui sướng, liền gọi viên đá đó là” Bảo Đồ”, đồng thời bà thăng chức cho Đường Đồng Thái là “ Du Kích Tướng Quân”. Đối với mình bà cũng tự đặt thêm danh hiệu, lấy tên là Thánh Mẫu Thần Hoàng Thái Hậu. Các hành động trên đây cũng đủ thấy rằng, Võ Tắc Thiên muốn dùng nhiều thủ đoạn để tạo dư luận dọn đường cho mình làm Hoàng Đế.

Thấy như vậy, một số Sa môn Phật giáo bắt đầu tìm cách đáp ứng mong muốn của Võ Hậu. Năm đầu tiên của Tải Sơ ( năm 689 sau Công nguyên), có một nhóm 10 vị Sa môn làm một cuốn sách Phật tên là “ Kinh Đại Vân” công khai tô vẽ thổi phồng Võ Tắc Thiên là một nữ hoàng. Sau khi họ mang cuốn “ Kinh Đại Vân” này dâng lên Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên sướng như bắt được vàng. Sở dĩ Võ Tắc Thiên coi trọng cuốn “ Kinh Đại Vân” như vậy, là do trong cuốn “Kinh Đại Vân” có hai đoạn nói đến việc phụ nữ có thể làm Quốc Vương. Một đoạn nói rằng, có một thiên nữ tên là Tịnh Quang được Phật thọ ký ( dự báo trước) là sẽ làm Quốc Vương vì thiên nữ này là Bồ tát hoá thành nữ thân. Một đoạn nữa thì nói rằng, thiên nữ Tịnh Quang hiện đang thọ nữ thân, mọi người trong thiên hạ nhất định phải đồng ý để vị nữ này kế vị ngôi Vua. Hai đoạn kinh này được các vị hoà thượng kể trên giải thích thêm, họ nêu rõ: Vị thiên nữ này đã chính thức quy phục được thiên hạ, tất cả các đất đại nằm dưới sự cai quản của bà, không ai dám chống đối. Điều này có nghĩa là, yêu cầu các đại thần đương chức cùng trăm họ cùng tận trung với Võ Hậu. Những ai tận trung thì được con cháu đầy đàn. Nếu như ai muốn chống lại hoặc làm phản, cho dù quốc gia bây giờ không sử chém thì lên trời cũng bị trừng phạt hoặc chết! Qua sự giải thích như vậy, vậy thực tế giống như nói rằng Võ Hậu đảm nhận thiên mệnh, không một ai được chống lại.

Cùng lúc với các vị Hoà thượng tô vẽ Võ Hậu đang gánh vác thiên mệnh, có một số vị quan cùng một tốp khoảng 900 người thuộc dân lang thang đầu đường xó chợ tronh thành Trường An do một người tên là Phó Du Nghệ đứng đầu cùng nhau đến dâng biểu xin đổi tên nước là Chu. Họ dâng biểu đó lên Hoàng thân Võ Thị. Chỉ có hơn 900 người đến đề nghị, do đó Võ Hậu cũng không dám tuỳ tiện đồng ý. Nhưng Võ Hậu cũng phong cho người đứng đầu tốp đó là Phó Du Nghệ chức Cấp Sứ Mệnh Quan Triều Đình, bậc chính ngũ phẩm. Hành động đó đã chứng tỏ rằng, việc Võ Hậu "không đồng ý với lời thỉnh cầu" là giả vờ, bà ngầm báo với mọi người rằng, bà cần một lễ đề nghị với quy mô lớn. Thế là 3 ngày sau, những người đạo diễn lời đề nghị trên liền gây náo loạn các quan Triều Đình cùng Hoàng Gia. Khoanggr 6 vạn người gồm bà con trăm họ xa gần, các tù trưởng ở khắp nơi cùng với các sa môn Phật giáo lại dâng biểu xin để Võ Thị làm Hoàng Đế. Trong khí thế đề nghị sục sôi như vậy, trong lòng Võ Tắc Thiên vô cùng sung sướng. Thật đáng thương cho Duệ Tông Lý Đán đành phải mời Thái Hậu ra làm Hoàng Đế. Qua hai ngày chuẩn bị, Võ Tắc Thiên liền lên ngự tại Thiên Lầu, ra sắc lệnh đại xá thiên hạ, đổi tên nước Đường thành Chu, tự xưng là Thần Hoàng Đế, đổi niên hiệu thành Thiên Thụ (năm 690 sau Công nguyên). Như vậy, Nữ hoàng Võ Chu chính thức đội mũ lên ngôi.

Trong quá trình "Cách mạnh Võ Chu" thì các sa môn Phật giáo lập công đầu. Họ không chỉ tìm được căn cứ lý luận cho việc Võ Chu thay nhà Đường để chứng minh việc Võ Thị làm nữ Hoàng Đế là do ý chỉ của Phật, mà họ còn có những biểu hiện tích cực trong các hoạt động đề nghị. Do đó, sau khi lên ngôi Nữ Hoàng, Võ chu liền tiến hành thưởng công lao. Mười vị Hoà thượng đã làm giả bộ "Kinh Đại Vân" kia, đều được ban tước Huyện Công, đồng thời ban bộ y tử cà sa khuy bạc cho các vị Hoà thượng, hậu thế cũng bắt chước việc này. Không chỉ có vậy vào tháng 10 năm đầu tiên của Thiên Thụ (năm 690 sau Công nguyên), Nữ Hoàng Võ Chu còn ra sắc lệnh ở mỗi châu của lưỡng kinh (Đông kinh và Tây kinh) xây một ngôi chùa lấy tên là Đại Vân để cất "Kinh Đại Vân". Tại những ngôi chùa đó mời các cao tăng đại đức thăng toạ giảng giải kinh Phật. Hồi đó, toàn quốc rộ lên phong trào xây chùa lấy tên là Đại Vân. Vùng trung nguyên cũng có chùa Đại Vân, vùng biên giới xa xôi hẻo lánh cũng có chùa tên là Đại Vân. Theo tài liệu có liên quan, phong trào "Chùa Đại Vân" còn lan ra tận Tây An, Sớ Lặc và cả thành Toái Diệp phía Nam vùng hồ Ba Nhĩ Ca Thập. Từ đó có thể thấy ảnh hưởng to lớn cùng sức vươn xa của "Chùa Đại Vân". Ngoài ra, vào năm Thiên Thụ thứ hai (năm 691 sau Công nguyên) Nữ Hoàng Võ Chu còn ban chiếu: đặt phật giáo lên trên Đạo giáo, tăng ni Phật giáo được đứng trên đạo sĩ và nữ quán của Đạo giáo. Vì Phật giáo đã giúp đỡ nhiều trong "cải cách Võ Chu", cho nên Nữ Hoàng cũng phải nâng cao địa vị của Phật giáo. Trong chiếu thư đó Nữ Hoàng nói rằng: Trẫm xưa kia ít thông hiểu những lời dạy từ kim khẩu(23), lại nhận được một bản Bảo Kệ(24), rất tốt cho việc giáo dục ngày nay. Cuốn kinh Đại Vân rất hay và thâm sâu, đó là dấu hiệu làm sáng đất nước, mở rộng việc cải cách, dấy lên phong trào duy tân (đổi mới) do đó Phật giáo phải đặt trên Đạo giáo, tăng ni cần phải đứng trước Đạo sĩ. Không có nghi ngờ gì nữa, điều này đã thông báo thẳng với mọi người rằng, trong quá trình cải cách duy tân thì Phật giáo có đóng góp to lớn, bản thân Nữ Hoàng đã dùng nhà Phật để giáo hoá thiên hạ, do đó đạo Phật cần phải xếp lên trên.

Vào năm Trường Thọ thứ 2 (năm 693 sau Công nguyên), nghĩa là chỉ 4 năm sau ngày nhóm 10 vị hoà thượng dâng bộ "Kinh Đại Vân" lên Võ Tắc Thiên thì vị tăng người Ấn Độ đang dịch kinh trên đất Đường tên là Bồ Đề Lưu Chí cũng dịch xong bộ "Kinh Bảo Vũ" gồm 10 quyển trong đó có một đoạn nói rằng: "Phương Đông có một vị Thiên tử tên là Nhật Nguyệt Quang, cưỡi mây ngũ sắc đến nơi Phật ở, Phật nói với Thiên tử rằng, sau khi ta nhập diệt ngươi phải đến nước Ma Ha Chi Na ở phía đông bắc Nam Thiệm Bộ Châu. Ở đó thật sự có một vị Bồ Tát nhưng hiện là nữ thần, là vị chúa Tự Tại. Trải qua vài năm ở đó, nhà ngươi hãy dùng chánh pháp để giáo hoá, dưỡng dục chúng sinh, hướng dẫn họ tu thập thiện(25), phát triển pháp môn này của ta, xây dựng chùa và tháp, đồng thời hãy cúng dàng sa môn những thứ như quần áo, đồ ăn, nơi ở, thuốc thang".

Đoạn kinh văn này còn rõ ràng hơn "Kinh Đại Vân". Tuy rằng nó không nói thẳng tên tuổi của Võ Tắc Thiên, nhưng nó cũng nói rằng có một vị Bồ Tát hiện là nữ thần sẽ làm Hoàng Đế ở Trung Quốc (nước Ma Ha Chi Na). Bộ "Kinh Bảo Vũ" mà ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch là bản dịch lần thứ ba của bộ kinh này, so với bản dịch của hai lần trước thì đều không thấy có đoạn này. Từ đó có thể thấy rằng, đoạn kinh văn kể trên là dịch giả Bồ Đề Lưu Chí thêm vào để làm vừa lòng Võ Tắc Thiên và muốn thanh minh cho cuộc cải cách của Võ Chu. Sau khi đọc đoạn kinh này, Nữ Hoàng Võ Chu như mở cờ trong bụng, vì có "lời Phật" trong cuốn "Kinh Đại Vân" và "Kinh Bảo Vũ" nên việc Võ Chu làm Hoàng Đế càng có thêm nhiều lý do bổ sung. Thế là Võ Thị liền ra tay hành động, viết lời tựa cho rất nhiều quyển kinh Phật mới dịch để biểu thị lòng cảm tạ của mình đối với Phật giáo! Trong một đoạn lời tựa bà viết rằng: Kiêm Tiên(26) giáng xuống đất này, điều này trong kệ "Đại Vân" đã nói rõ từ lâu. Ngọc y (27) khóc lên đẹp lóng lánh, điều này trong cuốn "Bảo Vũ" sáu đó có nói tới, "Trẫm từ khi còn bé, tâm đã hướng về bờ bên kia(28) luôn mong muốn hoằng dương Tam Bảo, đặt nền móng lớn cho việc an vị Đại Bảo, dương cao 8 thánh, củng cố nghiệp lớn của các vị Thánh đi trước". Vào tháng 9 mùa thu năm ấy, Võ Thị liền đặt thêm tên cho mình là Kim Luân Thánh Hoàng Đế. Theo thuyết Pháp của Phật giáo, Bồ Tát ứng thế thì gọi là Chuyển Luân Thánh Vương, chia làm 4 cấp gồm vàng, bạc, đồng, sắt. Kim Luân Vương có thể làm Vương thiên hạ, đồng thời có 7 báu (tức là 7 loại sự vật hoặc động vật gồm vòng vàng, phụ nữ, voi, ngựa, hạt ngọc, thần Chúa binh, thần Chúa tạng). Võ Thị tự phong cho mình là Kim Luân Thánh Hoàng Đế, như thế cũng cần phải có bẩy báu này. Thế là bà liền làm bẩy bảo bối này, tổ chức lễ hội cung đình quy mô lớn để thần dân được ngắm chúng.

Vì Võ Tắc Thiên làm Vua thiên hạ với thân phận (danh nghĩa) là Bồ Tát ứng thế, cho nên những công việc của Triều Đình đương nhiên là có các vị hoà thượng (Phật tử) tham dự. Do đó, Nữ Hoàng Võ Chu liền trọng dụng các vị Hoà thượng tham gia các hoạt động như giám sát, quân sự... Bà ta đã hai lần bổ nhiệm hoà thượng Tiết Hoài Nghĩa vào các chức như Tân Bình Đạo Hạnh Quân Đại Bảo Quản và Đại Bắc Đạo Hạnh Quân Đại tổng Quản tiến lên phía bắc đánh Đột Quyết, nhưng đều mang thất bại trở về. Điều này trên thực tế là coi quốc gia đại sự như trò đùa. Cùng thời gian này, bà còn quan hệ qua lại rộng rãi với nhiều tăng sĩ Phật giáo để chứng tỏ rằng, bà không chỉ có duyên với Phật giáo, mà còn có duyên với nhiều vị tăng sĩ. Hồi đó có một vị tăng tên là Thần Tú, là thủ lĩnh của Thiền tông miền bắc, Võ Tắc Thiên liền mời ngài Thần Tú về Kinh Sư. Vừa gặp nhau là thấy chung tâm nguyện. Võ Tắc Thiên vùng với ngài Thần Tú đi song song lên điện. Võ Tắc Thiên còn đích thân quỳ lễ ngài Thần Tú, luôn miệng hỏi đạo. Dưới sự dẫn dắt của bà, rất nhiều các con cháu Vua chúa đến lễ bái ngài Thần Tú. Họ đảnh lễ nằm rạp xuống đất. Ngày nào cũng có vô số người đến như vậy. Để biểu thị lòng thành kính sâu sắc của mình đối với thiền sư Thần Tú, Võ Tắc Thiên đã ban sắc lệnh xây dựng chùa Độ Môn ở núi Đương Dương, nơi mà trước đây ngài Thần Tú đã từng ở, để đền đáp ân đức với ngài.

Theo ghi chép thì ngài Thần Tú là thượng thư (đứng đầu, đầu đàn) trong số các đệ tử của ngài Hoằng Nhẫn, tổ thứ 5 của Thiền tông Trung Hoa (cũng có tài liệu nói rằng, trên thực tế ngài Hoằng Nhẫn là người sáng lập ra thiền tông Trung Hoa). Thiên tông chủ trương "bất lập văn tự, truyền pháp bằng tâm" từ đó mà khơi dậy ý thức chủ thể của tăng lữ. Vào một năm gần cuối đời, ngài Hoằng Nhẫn có yêu cầu các đệ tử của mình mỗi người làm một bài kệ để lấy đó làm cơ sở quyết định người sẽ tiếp tục thống lĩnh chúng thay mình. Ngài Thần Tú cho rằng, người sẽ tiếp tục thống lĩnh chúng không ai khác ngoài mình, liền làm một bài kệ:

Thân là cây bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Thường xuyên lau chùi sạch

Chớ để nhiễm bụi trần

Lúc này ngài Tuệ Năng là một trong số những đệ tử của ngài Hoằng Nhẫn nhưng lại chuyên là tạp dịch (giã gạo) dưới bếp. Nghe thấy bài kệ trên, ngài Tuệ Năng nói rằng: "Bài kệ này nghe thì hay đấy, nhưng chứng tỏ người làm kệ chưa hiểu đạo". Nói xong ngài Tuệ Năng liền làm một bài kệ:

Bồ Đề vốn không cây

Gương sáng cũng chẳng đài

Xưa nay không hình tướng

Chỗ đâu nhiều bụi trần?

So sánh hai bài thơ trên, ngài Hoằng Nhẫn thấy rằng, ngài Tuệ Năng hiểu tinh tuý của thiền tông sâu sắc hơn ngài Thần Tú, do đó ngài đem y bát (thống lĩnh tăng chúng) truyền cho ngài Tuệ Năng, bảo ngài Tuệ Năng hãy xuống phía nam, đại cơ hội ra giáo hoá chúng sinh. Từ đó, để tránh sự ám hại của đám đệ tử ngài Thần Tú, ngài Tuệ Năng gia nhập đám thợ săn ở ẩn trong rừng sâu khoảng 16 năm, sau đó ngài ra truyền pháp ở Quảng Châu (phía nam), còn ngài Thần Tú thì ở Đông Dương (phía bắc), lịch sử thường gọi là "nam Năng bắc Tú". Sáu khi ngài Thần Tú được mời đến kinh sư (kinh đô), Võ Tắc Thiên được nghe trình báo rằng, đạo hạnh của ngài Tuệ Năng còn cao hơn và thâm sâu hơn ngài Thần Tú nên sai người đến Quảng Đông mời ngài Tuệ Năng về kinh sư. Ngài Tuệ Năng vì ốm không đi được, đành gửi bộ cà sa (mà ngài Hoằng Nhẫn trao cho mình) về kinh sư Trường An. (Bộ cà sa này của ngài đạt Ma, tổ thứ 28 của Thiền tông Trung Hoa. Ngài Đạt Ma được coi là sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa. Ngài Đạt Matrao cà sa cho nhị tôt Huệ Khả. Nhị Tổ Huệ Khả lại trao cà sa cho ngài Tăng Xán. Tam tổ Tăng Xán lại trao cà sa cho tứ tổ Đạo Tín. Tứ tổ Đạo Tín lại trao cà sa cho ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Sau đó thấy ngài Tuệ Năng ngộ đạo, ngũ tổ trao cà sa này cho Tuệ Năng. Ngài Tuệ Năng là lục tổ của Thiền tông Trung Hoa). Mọi người cùng nhau lễ bái bộ cà sa này. Bằng những hành động vừa kể trên, Võ Thị muốn mượn Thiền tông để tô điểm thêm cho địa vị thống trị của mình.

Sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Võ Thị nghe nói Phật giáo có một bộ "kinh Hoa Nghiêm" ý rất bi diệu, thâm sâu, thế là bà liền cử người xuống tận vùng Vu Điền xin cả bộ kinh Hoa Nghiêm bằng tiếng Phạn, đồng thời bà đích thân tổ chức công việc phiên dịch bộ kinh  này. Bà cử một tăng sỹ người gốc Vu Điền tên là Thực Soa Nạn Đà làm  người dịch chính, bản thân bà cũng thường xuyên tham gia dịch. Trải qua 4 năm liền, việc dịch bộ "kinh Hoa Nghiêm" mới hoàn thành, tổng cộng là 80 quyển. Sở dĩ Võ Thị coi trọng bộ kinh này như vậy là vì bà nhận thấy rằng, bộ kinh này đáp ứng được nhu cầu của bà trên một phạm vi rộng. So với bộ "kinh Đại Vân" và "kinh Bảo Vũ" thì bộ "kinh Hoa Nghiêm" có tác dụng trên quy mô lớn hơn. Bộ "kinh Hoa Nghiêm" vừa mới dịch xong, Nữ Hoàng Võ Chu liền viết lới tựa cho bộ kinh này. Trong lời tựa có đoạn viết: "kinh Hoa Nghiêm này là mật tạng của chủ Phật, là cái bao la không bờ nước của Như Lai, Trẫm đích thân tham gia dịch và hiệu đích. Trân trọng mà dịch bộ kinh này để làm tăng thêm cái bao la, mở rộng, cái mênh mông của Pháp giới". Được sự đề xướng của Nữ Hoàng, một tông phái mới của Phật giáo Trung Quốc được hình thành vào thời Võ Chu, tức là phái Hoa Nghiêm. Kinh điển chính của tông phái này là bộ kinh Hoa Nghiêm. Người sáng lập và cộng sự cũng gắn liền sự ra đời tông phái này với cuộc cải cách Võ Chu. Họ thường nói rằng: "Nữ Hoàng cải cách, đối nước Đường thành nước Chu, sai sứ giả về vùng Vu Điền tìm bằng được quyển "kinh Hoa Nghiêm" bằng chữ Phạn, tông phái này (tức Hoa Nghiêm) từ đó mà ra đời. Trên thực tế, người sáng lập ra tông phái Hoa Nghiêm là hoà thượng Pháp Tạng. Ngài cùng nhiều lần được mời vào cung gặp Võ Tắc Thiên để giảng cho bà ý nghĩ thâm sâu của kinh Hoa Nghiêm. Hoà thượng Pháp Tạng lấy con sư tử vàng ở phía trước cung điện làm ví dụ để ca ngợi cái gọi là giáo nghĩa (giáo lý) của tông phái Hoa Nghiêm như "lý sự vô ngại, sự sự vô ngại", giúp Võ Thị hiểu sâu sắc ý nghĩa thâm sâu của nó. Do đó, Võ Thị ra sắc lệnh đặc biệt phong cho Hoà thượng Pháp Tạng là Hiền Thủ Đại Sứ, vì vậy tông phái Hoa Nghiêm còn được gọi là tông phái Hiền Thủ. Cái gọi là giáo nghĩa "lý sự vô ngại, sự sư vô ngại" của tông phái Hoa Nghiêm (Hiền Thủ) chủ yếu là nói rõ hiện thực đều hợp lý, Phật quốc là tịnh độ, trong cái ô nhiễm bụi trần cũng có Phật Quốc... Những giáo nghĩa (giáo lý) này "căn cứ lý luận" cho tính hợp lý của "cuộc cải cách Võ Chu" ở một trình độ lý luận cao hơn. Cái đó cũng là căn cứ để chứng minh rằng, mảnh đất bao la mà Võ Thị đang thống trị này cũng là một "Phật Quốc Tịnh Độ".

Do có một thời gian xuống tóc tu hành ở chùa Cảm Nghiệp, nên sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Võ Tắc Thiên đã từng nhiều lần nói với các vị đại thần à tăng sỹ Phật giáo rằng, bản thân bà từ bé đã quý kính Tam Bảo (tức là Phật, Pháp, Tăng), có duyên với Phật giáo. Từ Phật giáo, bà có được vũ khí lý luận cho "cải cách Võ Chu" của mình. Bà cũng khoác chiếc áo Phật giáo lên mình tên lưu  manh đầu đường xó chợ Tiết Hoài Nghĩa để thoả mãn ham muốn riêng tư của mình, (theo tương truyền, bà bắt Tiết Hoài Nghĩa thường xuyên qua lại đàm luận Phật Pháp với bà, nhưng thực ra là bắt Tiết Hoài Nghĩa phải quan hệ tình dục với bà). Cùng thời gian này, ba cũng cho hoằng dương Phạt sự để chứng tỏ rằng mình có duyên không dứt ra được với Phật giáo. Về vấn đề Võ Thị hoằng dương Phật sự thì sử tịnh có ghi lại rất nhiều chuyện, ở đây chỉ xin nêu hai chuyện. Vào năm thứ hai của Trường An (năm 702 sau Công nguyên) Võ Tắc Thiên đem một bức tượng Phật bằng vàng to như người bình thường ra khỏi Hoàng Cung, chuyển đến chùa Chiêu Phúc ở phường Sùng Nghĩa dưới sự đưa đường của bà và sự hộ tống của tượng binh và Vũ Lâm Quân cờ xí rợp trời. Ven đường đi có hàng vạn người ra tế lễ. Thành Trường An bỗng chốc hương khói nghi ngút, cờ xí, cờ nheo ngợp trời. Mùi hương thơm lưu lại trên đường phố đến mấy ngày. Từ đó có thể thấy cảnh sôi động, nhộn nhịp lúc bấy giờ. Chuyện thứ hai: Vào năm thứ 4 của Trường An (năm 704 sau Công nguyên) với niềm phấn khởi đang dâng trào tột độ, Võ Tắc Thiên ban quyết định đúc một bức tượng Phật cực to đặt ở bờ hồ Bạch Tư Mã ở núi Bắc Mạnh thành phố Lạc Dương. Vì số tiền để đúc tượng quá lớn, chỉ dựa vào khoản tiền Triều Đình cấp cho thì không đủ, khó mà đúc xong, do đó Võ Tắc Thiên quyết định số tiền thiếu sẽ phân bổ cho các tăng ni đóng góp. Bà yêu cầu mỗi tăng ni mỗi ngày nộp một xu (đồng xu bằng đồng). Cuối cùng bà đã thu được 170 triệu xu. Sau khi bức tượng lớn được đúc xong, đích thân Nữ Hoàng dẫn đầu các quan thần liêu làm lễ cúng tế (hô thần nhập tượng). Câu chuyện này chứng minh một điều là: Thời Võ Thị cầm quyền, các tăng ni đông đảo đến mức nào.

Không kể thời gian nhiếp chính thì Võ Tắc Thiên chính thức cầm quyền 16 năm. Nhờ có việc theo Phật giáo mà bà được lên ngôi Hoàng Đế, sau khi lên ngôi bà lại tiếp tục theo Phật giáo. Điều này dẫn đến một việc là: Vào thời kỳ Võ Chu, đại đa số các ngôi chùa, ruộng đất công và tư thuộc quyền sở hữu của các tăng ni. Các tăng sỹ được phép tự do ra và Đại Nội của Triều Đình. Các tăng sỹ hoành hành ngang ngược khắp các đường phố, các việc đại sự, quân sự không thể không có các tăng sỹ tham gia. Những điều này gây nên sự bất mãn và chống đối của rất nhiều người. Ví dụ: Có một lần, tăng sỹ Tiết Hoài Nghĩa gặp Tể Tướng Tô Lương trong lễ đường của Triều Đình nhưng Tiết Hoài Nghĩa tỏ ra vô lễ, kiêu căng với Tể Tướng. Thấy vậy, Tể Tướng Tô Lương Tự nổi giận đùng đùng, hạ lệnh cho thuộc hạ bắt ngay Tiết Hoài Nghĩa đánh cho hơn chục cái nảy đom đóm mắt. Tăng sỹ Tiết Hoài Nghĩa bị đánh cho hồn phiêu phách lạc, thất thểu ôm đầu bỏ đi. Tối hôm đó sau khi vào cung Tiết Hoài Nghĩa liền kiện việc  này với Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên tự biết rằng mình không thể muốn sao được vậy, đành nói với Tiết Hoài Nghĩa rằng: Từ nay về sau khanh hãy ra vào Hoàng Cung  bằng cửa Bắc còn khu Nha Môn phía nam Triều Đình là nơi làm việc của Tể Tướng, không  nên tuỳ tiện ra vào nơi ấy. Thêm một ví dụ nữa: Khi Võ Tắc Thiên thu gom tiền để đúc tượng Phật bằng đồng to lớn ở bờ hồ Bạch Tư Mã núi Bắc Manh thì quan nội sử là Địch Nhân Kiệt đã từng dâng sớ thẳng thắn khuyên can, hy vọng rằng Nữ Hoàng đừng vì mượn cớ hoằng dương Phật giáo mà làm hao tốn công sức tiền bạc của nhân dân. Ngoài ra còn có những người như quan Giám Sát Ngự Sử Trương Đình Khuê, ông Lý Kiều (người thường dùng rượu biếu Triều Đình) cũng tỏ ra đau xót mà dâng sớ khuyên can.

Xét một góc độ khác thì Võ Tắc Thiên quả thực là một nhà chính trị thông minh, can đảm và nhiều kinh nghiệm. Trên lĩnh vực chính trị, bà rất chú ý xây dựng và chỉnh đốn hàng ngũ quan lại, mở mang khoa cử chọn nhân tài, từ đó khiến cho tình hình các kẻ sỹ dân tộc Môn Phiệt độc quyền nắm chính trị (lệ này hình thành từ thời Ngụy Tấn nam Bắc Triều) đã bị phá vỡ hoàn toàn.

Về kinh tế, bà rất coi trọng nông nghiệp. Đích thân bà có những việc làm khuyến khích trồng trọt, giảm thuế khoá, khiến cho cả kinh tế lẫn xã hội có những bước phát triển rất lớn. Bà còn tự do ngôn luận, tìm hiểu và lắng nghe những ý kiến bất đồng với mình, chỉ cần những ý kiến đó có lợi cho sự thống trị của mình là bà liền tiếp thu và cho áp dụng ngay. Do đó bà đã có cống hiến lớn cho sự hình thành và phát triển của "sự phồn thịnh Vương Triều Đường", nhất là khả năng chính trị tài tình của bà trong việc giải quyết công việc một cách quyết đoán, khéo léo tiếp thu ý kiến đóng góp. Trong số các Hoàng Đế Trung Hoa, bà là một con người kiệt xuất. Nhưng thái độ tham lam tàn bạo của kẻ "vênh mặt với đời" cùng với những thủ đoạn lợi dụng Phật giáo và thủ đoạn thống trị có mưu đồ đen tối là những điều người đời sau không ai thèm nhắc đến.

Vào cuối năm Trường An thứ 4. Võ Tắc Thiên ốm nặng, lúc này bà đã 81 tuổi và bà cũng không còn sức để điều hành công việc Triều Đình nữa. Vào đầu năm sau, một vị quyền thần được Võ Thị đê bạt (thăng cấp) tên là Trương Giản Chi và các đại thần khác tổ chức cho đội Cấm Vệ Quân của Cung Đình làm chính biến, sát hại hai vị quan được Võ Thị chiều mến và tin tưởng là Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông, khôi phục lạo ngôi vị cho Đường Trung Tông Lý Hiển, khôi phục lại tên nước là Vương Triều Đường. Chẳng bao lâu sau, Võ Thị (Võ Tắc Thiên) ốm nặng, chết ở cung Thượng Dương thành phố Lạc Dương. Tương truyền rằng, trước khi chết, Võ Tắc Thiên dặn lại các quan hầu hạ mình rằng: "Sau khi ta chết thì bỏ ngay danh hiệu Thánh Thần Hoàng Đế, thờ cúng ta với cái tên là Võ Thị Tiên Ti". Điều này có nghĩa là, bà thấy mình nên là một vị Hoàng Hậu của Vương Triều Lý Đường, chứ không phải là một Nữ Hoàng Võ Chu nào đó. Cuối cùng, Võ Tắc Thiên đã đặt cho mình một dấu chấm hết tương đối khôn ngoan.

 

---o0o---