Hai Thời Công Phu
---o0o---
Trong kinh Lăng nghiêm, Phật dạy: A nan, tôn giả hỏi Như lai về sự tập trung tâm trí ..., Như lai đã nói cần phải trước hết tuân giữ 4 giới sát đạo dâm vọng cho trong sáng như băng tuyết, thì đối với sắc hương vị xúc mà tâm trí còn không vin theo, huống chi những thứ ma sự làm sao phát sinh. Nếu những thói cũ không thể diệt trừ thì tôn giả nên chỉ dẫn cho người ấy một lòng trì tụng thần chú Lăng nghiêm của Như lai ... (Chính 19/133). Lược ghi về thần chú này có 3 việc.
Việc 1: Lược Ghi Về Đầu Đề
Nói thần chú Lăng nghiêm là nói rất vắn tắt. Nói tắt mà rõ hơn một chút là Đại phật đảnh thủ lăng nghiêm thần chú. Thủ lăng nghiêm là một định tối cao, dịch ý là kiện tướng, vì "bồ tát được định ấy thì ma phiền não và ma vương không thể phá hoại, như vị thống tướng quân binh của luân vương đến đâu thì không ai phá nổi" (Trí độ luận cuốn 47). Do đó mà Thủ lăng nghiêm còn có nghĩa là kiện hành, cứu cánh kiên cố, và kinh Niết bàn cuốn 27 nói định Thủ lăng nghiêm có 5 tên: định Lăng nghiêm, định Bát nhã, định Kim cang, định Sư tử hống, định Phật tánh, tùy các chỗ mà có các tên ấy.
Ở đây, định Thủ lăng nghiêm chỉ cho Tâm của kinh ấy nói (sẽ thấy trong việc 2 dưới đây). Thần chú Lăng nghiêm là phương tiện mà cũng là biểu thị của Tâm ấy, nên gọi là chú Lăng nghiêm. Chú ấy được Đại phật đảnh tuyên thuyết (sẽ thấy trong việc 3 dưới đây), nên gọi là thần chú Đại phật đảnh thủ lăng nghiêm. Còn Nam mô Lăng nghiêm hội thượng Phật Bồ tát có nghĩa là kính lạy chư Phật và chư Bồ tát trong pháp hội Phật nói về Thủ lăng nghiêm.
Việc 2: Lược Ghi Về Chỉnh Cú
Trước hết, ghi về cách dịch và từ ngữ.
Đức đại giác Thế tôn đứng lặng rất nhiệm mầu, nắm giữ được toàn thể, không thể nào lay động, chính văn là Diệu trạm tổng trì bất động tôn, dịch sát là đấng đứng lặng nhiệm mầu, nắm giữ toàn thể và không thể lay động. Ấy là tán dương Phật có 3 đức tính. Đức tính thứ nhất là pháp thân bất biến tùy duyên, đức tính thứ hai là báo thân cụ túc công đức, đức tính thứ ba là ứng thân bát phong bất động (61) . Vọng tưởng, chính văn là điên đảo tưởng (tư tưởng thác loạn), tức hư vọng phân biệt: biết và sống theo những phạm trù kiến chấp. Thời kỳ dài vô số, chính văn là tăng kỳ, gọi đủ là a tăng kỳ kiếp. Pháp thân là bản thể (thân) của các pháp (pháp), là tổng thể (thân) của công đức (pháp); pháp thân ấy là Tâm của Lăng nghiêm nói. Con nguyện rằng ngày nay đạt được kết quả ấy, trở thành vị Bảo vương, chính văn là nguyện kim đắc quả thành Bảo vương. Đạt được kết quả ấy là thể hiện pháp thân. Bảo vương là Phật. Phát nguyện như vầy là sơ phát tâm trong thập trú của Hoa nghiêm. Hoa nghiêm nói, "sơ phát tâm là được vô thượng bồ đề, nghĩa là biết các pháp là Tâm", "phát tâm thì thể tánh bình đẳng với Phật", (nên gọi là trở thành vị Bảo vương). Tham chiếu Chính 9/449 và 452. Chúng sinh là sinh thể; sinh thể do các yếu tố biểu hiện, sinh thể có nhiều đời sống liên tục. Nghĩa sau quan trọng hơn cả. Phụng sự thế giới hệ là phụng sự chúng sinh trong các thế giới hệ ấy. Thế giới hệ, chính văn là sát, gọi đủ là sát độ (tiếng ghép của Phạn Hoa), là một hệ thống thế giới, tức một quốc độ của một đức Phật ứng thân giáo hóa (nên cũng gọi là Phật độ : cõi Phật). Thời kỳ dữ dội đầy 5 thứ vẩn đục, chính văn là ngũ trược ác thế (đúng ra là ác thời): 1. thời kỳ vẩn đục (kiếp trược), là thời kỳ dữ dội, vì có 4 thứ vẩn đục sau đây; 2. kiến thức vẩn đục (kiến trược), là kiến thức sai lầm, vì có thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới thủ kiến; 3. tâm lý vẩn đục (phiền não trược), là tâm lý độc ác, vì có tham, sân, si, mạn và nghi; 4. con người vẩn đục (chúng sinh trược), là con người xấu kém, vì do kiến thức và tâm lý đều vẩn đục mà con người tâm lý thì đần độn, cơ thể thì suy nhược, khổ nhiều mà phước ít; 5. đời sống vẩn đục (mạng trược), là đời sống ngắn ngủi, vì do kiến thức và tâm lý đều vẩn đục mà đời sống rút ngắn dần dần. Trong 5 thứ này, 1 là nói chung, 4 là phân tích (2 với 3 là nhân tố, 4 với 5 là kết quả). Và cao độ của thời kỳ dữ dội đầy cả 5 thứ vẩn đục này, nay đang là thời kỳ chúng ta đây. Thời kỳ này sẽ dẫn đến giai đoạn tam tai (3 tai nạn đao binh, tật dịch, cơ cẩn: chiến tranh, nhiễm độc và nhân mãn). Nhưng sau đó thì con người biết khủng khiếp vì sự tàn ác của mình mà sinh ra thương nhau, từ đó đời sống lại tăng dần lên và kết thúc dần thời kỳ dữ dội. Đại hùng đại lực là trí của Phật, đại từ đại bi là bi của Phật. Tuệ giác vô thượng, chính văn là vô thượng giác, tức vô thượng bồ đề (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề). Bồ đề đạo tràng, đúng ra chỉ nên nói là bồ đề tràng và chính văn là đạo tràng, tức là nơi Phật thành Phật. Nói ngồi nơi bồ đề tràng là một cách nói về sự thành Phật. Tâm tinh tiến, chính văn là thước ca la tâm. Thước ca la có nghĩa là kiên cố, tinh tiến, nhưng kiên cố chỉ là và phải là diễn đạt sự tinh tiến.
Những lời chỉnh cú trên đây là phát nguyện của tôn giả A nan, nằm trong Lăng nghiêm (Chính 19/119). Ở đó nói: Lúc ấy tôn giả A nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy một cách tuyệt diệu, nên cả cơ thể và tâm trí đều rất thư thái. Ai cũng tự biết Tâm khắp mười phương. Thấy không gian mười phương chỉ như chiếc lá trong lòng bàn tay. Vũ trụ vạn hữu đều là Tâm. Tâm bao hàm tất cả. Nhìn lại cái thân do cha mẹ sinh ra, thấy chỉ như hạt bụi trong không gian. Thân ấy còn hay mất chỉ như cái bọt nổi lên hay tan mất trong biển cả. Biết rõ Tâm nhiệm mầu của mình là thường trú bất diệt như vậy, tôn giả A nan lạy Phật, và cảm thấy được sự chưa từng có, nên nói những lời chỉnh cú mà tán dương ngài (và phát nguyện). Những lời chỉnh cú ấy là văn chỉnh cú trên đây. Và như vậy là do chứng ngộ Tâm mà phát nguyện. Tâm ấy là tâm hay pháp thân của Lăng nghiêm nói.
Lời phát nguyện này, trong số 2 của lời dẫn nhập, tôi đã nói là sự phát bồ đề tâm. Bồ đề tâm này biểu thị đủ cả 2 mặt của lời nguyện "vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực lạc". Quan trọng của sự phát bồ đề tâm trong văn chỉnh cú này là "trong thời kỳ dữ dội đầy 5 thứ vẩn đục, con nguyện vào đó trước; nếu còn một chúng sinh chưa được thành Phật đà, không bao giờ với họ con bỏ mà niết bàn", nghĩa là sinh Cực lạc rồi trở lại Sa bà trước hết, hoặc sinh Cực lạc ngay trong Sa bà này. Hãy coi lại số 2 của lời dẫn nhập.
- Nam mô Thường trú thập phương Phật,
- Nam mô Thường trú thập phương Pháp,
- Nam mô Thường trú thập phương Tăng,
- Nam mô Thích ca mâu ni phật,
- Nam mô Phật đảnh thủ lăng nghiêm,
- Nam mô Quan thế âm bồ tát,
- Nam mô Kim cang tạng bồ tát.
Đây là niệm hồng danh của Tam bảo, của đức Bổn sư, của chú Lăng nghiêm và của 2 vị đại bồ tát. Mật giáo có 3 bộ là Phật bộ, Liên hoa bộ và Kim cang bộ. Bộ chủ Phật bộ là Phật, bộ chủ Liên hoa bộ là đức Quan thế âm, bộ chủ Kim cang bộ là đức Kim cang tạng. Hết thảy mọi sự da trì cho những người trì tụng kinh chú đều thuộc 3 bộ này, nên trước khi trì tụng kinh chú hãy niệm hồng danh của các vị bộ chủ. Riêng ngài Kim cang tạng thì chính là đức Phổ hiền trong Hiển giáo, và là chủ của tất cả Kim cang mật tích sẽ nói dưới đây.
Việc 3: Lược Ghi Về Thần Chú
Đây là lời mở đầu, nói xuất xứ của chú Lăng nghiêm. Chú ấy được nói bởi đức Như lai hóa hiện trong ánh sáng phóng ra từ đỉnh đầu của đức Thế tôn. Trong lời mở đầu này, ánh sáng trăm thức quí báu, chính văn là bách bảo quang, là ánh sáng mà mầu sắc, thành phần, đặc tính và tác dụng đều đủ cả mọi vẻ. Tôi thiết nghĩ bách bảo quang là bách bảo chi quang, chứ không phải bách chủng bảo quang, nên dịch như vậy. Kim cang mật tích cũng gọi là Kim cang, Kim cang thủ, Chấp kim cang, Trì kim cang, Kim cang lực sĩ, Kim cang quyến thuộc, Kim cang dạ xoa, Bí mật chủ, là những vị chúa tể Dạ xoa, vốn rất mạnh, nhanh và bí mật, do nghiệp báo mà sinh cũng có, do thị hiện mà có cũng có, và hết thảy đều là bộ thuộc của ngài Kim cang tạng. Nâng núi, chính văn là kình sơn, là nâng núi trên tay, chống tay dơ núi ấy cao lên. Đỉnh đầu không thể nhìn thấy, chính văn là vô kiến đỉnh tướng, là trên đỉnh đầu của Phật có gò thịt nổi cao lên (nên cũng gọi là nhục kế), và đó là 1 trong 32 tướng đại trượng phu của Phật. Ánh sáng phóng ra từ đó là nói về pháp cao và quí nhất.
Nam mô tát đát tha tô dà đa da ... Đát điệt tha : Án, a na lệ, tì xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nễ, bạt xà ra bán ni phấn, hổ hộng đô rô ung phấn, sa bà ha.
Thần chú này nằm trong Lăng nghiêm cuốn 7 (Chính 19/133). Ở đó có cả dịch nghĩa, không phải chỉ dịch âm. Nam mô tát dát tha tô dà đa da là qui mạng tất cả Phật đà ... Đát điệt tha là liền nói thần chú. Những câu sau hết mới thật là chú, không thấy diểch nghĩa. Trong sự dịch nghĩa, tôi chỉ ghi 2 câu, đầu và cuối, không ghi tất cả. Ngay cách viết và cách phân câu cũng không bình thường: viết thường tất cả, và gạch nhỏ mà phân câu, làm như vậy là thể theo sự cần thiết của thần chú.
Thần chú Lăng nghiêm là chú tâm của Phật (Chính 19/136). Chú tâm nghĩa là tim của thần chú. "Thần chú này thường có vô số Kim cang quyến thuộc của ngài Kim cang tạng hộ trì, nên loạn tâm mà tụng, các vị ấy vẫn thường theo mà hộ trì, huống chi phát bồ đề tâm quyết định" (Chính 19/139).
Lược Ghi Đại Bi
Thần chú này mang tên Đại bi tâm, có nghĩa là cái tim của đại từ bi, nên tôi đã dịch là bài chú Tinh túy của đại từ bi. Thần chú này không những có nghĩa mà còn có tượng. Về nghĩa, tôi đã làm tàm tạm trong Lương hoàng sám và trong Thủy sám, nên ở đây xin miễn. Ở đây nên nói tướng dụng và hành pháp của thần chú ấy. Tài liệu toàn lấy trong kinh Đại bi tâm đà la ni (Chính 20/106-111) và Đại bi sám pháp (Vạn 129/27-30).
Tướng Dụng Chú Đại Bi
Phật nói chú này là thần chú quảng đại viên mãn, thần chú vô ngại đại bi, thần chú cứu khổ, thần chú diên thọ, thần chú diệt ác, thần chú phá ác nghiệp, thần chú mãn nguyện, thần chú tùy tâm tự tại, thần chú mau lên bậc trên ... Trì chú này thì diệt vô lượng tội, được vô lượng phước, và chết thì sinh Cực lạc. Quan âm đại sĩ nói, trì chú này thì hết bịnh, hết nạn, tiêu ác pháp, tăng bạch pháp, như ý, như nguyện, đặc biệt gần chết thì được chư Phật trao tay, muốn sinh tịnh độ nào thì tùy ý mà sinh.
Biểu tượng của chú này là tâm đại bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm vô nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm tốn, tâm không hỗn loạn, tâm không kiến thủ, tâm tuệ giác vô thượng. Trì chú này thì phải hành theo biểu tượng như vậy.
Hành Pháp Chú Đại Bi
Trì chú Đại bi, đúng ra, mỗi một ngày đêm phải và chỉ cần 5 biến. Muốn trì chú này thì phải phát bồ đề tâm, rồi kính giữ trai giới, luôn luôn bình đẳng đối với tất cả, và trì tụng liên tục. Quan âm đại sĩ nói, đối với người ấy, ta soi thấy bằng ngàn mắt và nắm giữ bằng ngàn tay. Dưới đây là nghi thức trì chú Đại bi được lược lại giản dị. Nghi thức này nổi tiếng là hiệu quả.
Một, Phụng Thỉnh
- Nhất tâm phụng thỉnh Phật Pháp Tăng, vô thượng tam bảo (1 lạy).
- Nhất tâm phụng thỉnh đức Phật bổn sư là Thích ca mâu ni như lai (1 lạy).
- Nhất tâm phụng thỉnh vị có vô ngại đại bi tâm là Quan thế âm đại bồ tát (1 lạy).
- Nhất tâm phụng thỉnh liệt vị Bồ tát, Duyên giác, La hán, liệt vị Phạn vương, Đế thích và chư thiên thiện thần (1 lạy).
Hai, Tác Bạch
Đệ tử họ tên XX, pháp danh XX, phát nguyện trì chú Đại bi, cầu cho bản thân, cho thân nhân, cho chúng sinh, tất cả cùng được thành tựu đại bi thắng phước. Ngưỡng nguyện đức đại bi Quan thế âm cùng Phật Pháp Tăng vô thượng tam bảo mật thùy chứng minh da hộ.
Ba, Đảnh Lễ
- Kính lạy Phật Pháp Tăng tam bảo vô thượng trong mười phương ba đời (1 lạy).
- Kính lạy đức Phật bổn sư là Thích ca mâu ni như lai (1 lạy).
- Kính lạy bài chú Tinh túy của đại từ bi (1 lạy).
- Kính lạy vị thuyết ra bài chú Tinh túy của đại từ bi là Quan thế âm đại bồ tát (1 lạy).
- Kính lạy đức Phật bổn sư của đức Quan thế âm là A di đà như lai (1 lạy)
- Kính lạy đức Phật truyền thọ cho đức Quan thế âm bài chú Tinh túy của đại từ bi là Thiên quang vương tịnh trú như lai (1 lạy).
Kính lạy các vị pháp vương tử quán đảnh trong pháp hội tuyên thuyết bài chú Tinh túy của đại từ bi mà đứng đầu là đại bồ tát Tổng trì vương, đại bồ tát Bảo vương, đại bồ tát Dược vương, đại bồ tát Dược thượng, đại bồ tát Đại thế chí, đại bồ tát Hoa nghiêm, đại bồ tát Đại trang nghiêm, đại bồ tát Bảo tạng, đại bồ tát Đức tạng, đại bồ tát Kim cang tạng, đại bồ tát Hư không tạng, đại bồ tát Di lạc, đại bồ tát Phổ hiền, đại bồ tát Văn thù (1 lạy).
Bốn, Phát Nguyện
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau biết tất cả các pháp (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm được con mắt trí tuệ (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau độ tất cả chúng sinh (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm được phương tiện tuyệt hảo (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau ngồi thuyền tàu bát nhã (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm vượt biển cả khổ đau (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau được các pháp giới định (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm lên núi cao niết bàn (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau về ngôi nhà vô vi (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm đồng thân thể pháp tánh (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến núi đao thì núi đao tự gãy (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến vạc sôi thì vạc sôi tự cạn (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến địa ngục thì địa ngục tự hủy (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến ngạ quỉ thì ngạ quỉ tự no (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến tu la thì tu la tự hiền (1 lạy).
- Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến súc sinh thì súc sinh tự khôn (1 lạy).
Năm, Trì Niệm
- Nam mô Quan thế âm bồ tát (21 tiếng đến 49 tiếng rồi lạy 3 lạy).
- Nam mô A di đà phật (như trên).
- Sáu, Trì Chú
- Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni (5 biến, tụng theo bình thường; tụng thẳng Phạn tự không linh nghiệm bằng, có người kiên nhẫn thử nghiệm thấy như vậy).
Bảy, Sám Nguyện
Kính lạy đại bồ tát Quan thế âm, vô thỉ đến giờ, con vốn có tâm tánh thanh tịnh mà lại u mê ám chướng, sống trong pháp tánh bình đẳng mà lại nhân ngã bỉ thử, lỗi gây ra không thể xiết kể, tội bùng dậy khó nỗi hủy diệt. Ngày nay nhờ đại bi của đại bồ tát, đại lực của đại thần chú, con nguyện được tiêu diệt cả (1 đến 3 lạy; 3 lạy thì mỗi lạy đọc 1 lần).
Kính lạy đại bồ tát Quan thế âm, xin đại bồ tát nắm giữ con bằng ngàn tay, soi thấy con bằng ngàn mắt, làm cho con bặt hết yếu tố tội ác, làm theo hạnh nguyện quảng đại, đủ đại từ bi, chứng đại bát nhã (1 đến 3 lạy; 3 lạy thì mỗi lạy đọc 1 lần).
Tám, Hồi Hướng
- Kính lạy Phật Pháp Tăng, vô thượng tam bảo (1 lạy).
- Kính lạy đức Phật bổn sư là Thích ca mâu ni như lai (1 lạy).
- Kính lạy vị có vô ngại đại bi tâm là Quan thế âm đại bồ tát (1 lạy).
- Kính lạy bài chú Tinh túy của đại từ bi (1 lạy).
- Kính lạy đức Phật bổn sư của đức Quan thế âm là A di đà như lai (1 lạy).
- Kính lạy đức Phật truyền thọ cho đức Quan thế âm bài chú Tinh túy của đại từ bi là Thiên quang vương tịnh trú như lai (1 lạy).
- Kính lạy liệt vị Bồ tát, Duyên giác, La hán, liệt vị Phạn vương, Đế thích và chư thiên thiện thần (1 lạy).
Lược Ghi Thí Thực
Lược Ghi Hình Thức
Một, văn Thí thực mở đầu và kết thúc mà tôi phân là căn cứ nguyên bản (Trung hoa đại tạng kinh, tập 2, sách 37, trang 30081). Khi trì tụng riêng ra, hay có câu Nam mô siêu thập địa bồ tát ma ha tát (kính lạy sự siêu việt lên thập địa, một sự ích lợi chúng sinh như vị đại bồ tát) sau câu vạn loại hữu tình đăng thập địa (vạn loại hữu tình cùng lên thập địa). Có như vậy chỉ để chấm dứt lễ điệu mà thôi. Nhưng theo cách tán tụng công phu truyền thống, thì từ Phổ hồi hướng chân ngôn đến câu vạn loại hữu tình đăng thập địa lại như là mục hồi hướng của công phu tối. Làm như vậy kể cũng rất có lý. Do đó, nên coi đoạn này là phần hồi hướng của văn Thí thực và công phu tối.
Hai, trong phần dịch nghĩa, tôi có bổ túc 3 tiểu đề là Phật tử qui y Tam bảo, Phật tử sám hối, Phật tử phát nguyện; trong 2 phần dịch âm và dịch nghĩa, tôi điều chỉnh 1 câu là thí dữ chư Phật tử (hiến cho các Phật tử); sau hết, cũng trong cả 2 phần dịch âm và dịch nghĩa, tất cả những chỗ để hữu tình, Phật tử và cô hồn, nay tôi chỉ dùng 1 chữ Phật tử mà thôi. Sự bổ túc 3 tiểu đề là làm theo Thí thực nghi (chính 21/473-484), xuất xứ của văn Thí thực; theo đó thì đáng lẽ phải nói rõ nay tôi truyền thọ tam qui cho các người, nay tôi chỉ cho các người sám hối, nay tôi chỉ cho các người phát nguyện. Sự chữa 1 câu là phải như vậy mới hợp ý và việc; chứ chính văn Pháp hoa ngã đẳng dữ chúng sinh mà nguyên bản và truyền thống chữa thí thực ư Phật tử (cho ăn cho Phật tử) thì vừa hẹp, vừa thiếu lại vừa thừa, nhất là không ăn hợp với câu nguyện dĩ thử công đức (nguyện đem công đức này). Sự chỉ dùng 1 chữ Phật tử là vì mọi hữu tình, trong đó có cô hồn, hễ qui y Tam bảo rồi thì gọi là Phật tử cả; Thí thực nghi còn nói rõ nay tôi truyền thọ Tam muội da giới cho các người rồi, từ nay sắp đi, các người nhập Như lai vị, làm Phật tử thật, sinh từ Pháp hóa, được phần Phật pháp (Chính 21/480).
Lược Ghi Từng Đoạn
Toàn văn Thí thực, mỗi chỗ xuống dòng là 1 đoạn. Trong các đoạn ấy có 5 chỗ và 3 đoạn cần ghi.
Về 5 chỗ, một, trong đoạn bài tụng duy tâm của kinh Hoa nghiêm, chữ Tâm ít nhất cũng phải hiểu như kinh Lăng nghiêm nói (mà đã trích dẫn trong phần sau của việc 2 mục lược ghi Lăng nghiêm), theo đó thì tâm với vật bình thường nói, chỉ là một phần ít tác dụng của Tâm ấy mà thôi. Hai, trong đoạn Phật tử qui y Tam bảo, Lưỡng túc tôn tuy có thể dịch là đấng phước tuệ hoàn hảo, nhưng không bằng dịch như đã dịch. Riêng chữ lưỡng túc tôn nên nói rõ thêm nữa. Lưỡng túc là 2 chân: lưỡng túc tôn là bậc cao cả nhất trong các loài 2 chân. Lưỡng túc còn có nghĩa diễn biến, ấy là phước đức và tuệ giác: lưỡng túc tôn là cao cả vì phước tuệ hoàn hảo. Hai nghĩa như vầy thật ra là một ý. Ly dục tôn thì ly dục là niết bàn: niết bàn là tôn cao nhất trong tất cả các pháp. Còn chúng trung tôn thì chúng là các chúng, tức những thành phần chúng sinh, trong đó có các thành phần nhân loại; tăng là tỷ kheo tăng: thế giới hệ này lấy tỷ kheo tăng làm tăng bảo, nên tỷ kheo tăng tôn cao nhất trong các chúng (Chính 2/602). Cũng trong đoạn này, chữ cánh (dịch là hoàn toàn) sau các chữ qui y Phật Pháp Tăng, có nghĩa là đã rồi, hoàn tất, hoàn toàn, nhưng chữ hoàn toàn bao gồm được cái ý trọn vẹn (62) nên tôi chọn chữ ấy. Ba, chữ noan trong các chân ngôn Biến hoá vầng nước và Biển sữa, Nhật tụng đại bản của Trung hoa (tờ 35 mặt B) nói âm là vạn. Tôi ghi để tồn nghi. Bốn, chữ Cát tường giả trong bài tụng Cát tường, nên chú ý chữ giả: Cát tường giả là các đấng, các vị Cát tường, đem lại sự cát tường cho chúng sinh suốt cả 24 giờ (24 giờ, xưa nói ngày đêm 6 buổi): các đấng và các vị ấy là Thượng sư, Tam bảo và Hộ pháp. Thượng sư là Kim cang thượng sư, sẽ thấy trong phần lược giải sám Hồng danh. Hộ pháp là 8 bộ thiên long mà những vị phát nguyện hộ trì Phật pháp và hộ vê dân chúng, trong đó đặc biệt có Phạn vương, Đế thích, Tứ thiên vương, nhất là Kim cang (các chúa Dạ xoa), Vi đà. Năm, chữ tứ sinh trong câu tứ sinh đăng ư bảo địa, có nghĩa là 4 loài chúng sinh phân loại theo 4 cách sinh (noãn, thai, thấp, hóa); dịch 4 loài chỉ là dịch tắt.
Về 3 đoạn là Chân ngôn Tam muội da giới, Chân ngôn Bát nhã và Chân ngôn Vãng sinh. Riêng chân ngôn Vãng sinh sẽ được ghi đến ở cuối phần lược giải kinh Di đà. Ở đây chỉ lược ghi 2 chân ngôn kia.
Tam muội da giới là của Mật tôn, lấy 3 thứ bồ đề tâm làm giới pháp: một là hạnh nguyện bồ đề tâm, là tu các hạnh phát các nguyện, tức là 4 hoằng thệ; hai là thắng nghĩa bồ đề tâm, là tuyệt vọng tưởng khởi thắng trí; ba là tam ma địa bồ đề tâm, là đẳng trì diệu đức tự hành hóa tha của Phật mà đẳng nhập chúng sinh giới, bình đẳng hộ trì mà nhiếp hóa một cách cùng khắp. Thứ nhất là đại bi, thứ hai là đại trí, thứ ba là đại định (bi trí bất nhị), tuy là dụng của đệ lục thức nhưng thể là đại viên cảnh trí của đệ bát thức. Nói giản dị, Tam muội da giới là lấy trí giác của Phật, tức giác tánh của mình, mà làm giới pháp. Chân ngôn Tam muội da giới là kinh động để chúng sinh, trong đó có quỉ thần, thức tỉnh giác tánh ấy, truyền răn cho họ khuôn theo giác tánh ấy mà không được trái vượt. Như vậy lẽ đáng vị trí của chân ngôn này nên nằm cùng một đoạn Phật tử qui y Tam bảo, và các đoạn Phật tử sám hối, Phật tử phát nguyện, đều là thực thi giới pháp giác tánh ấy.
Còn chân ngôn Bát nhã thì Bát nhã là Phật mẫu (mẹ sinh chư Phật), là căn bản của Phật pháp. Mà bài kinh này là tinh túy của Bát nhã, văn tự có đủ hiển ngữ và mật ngữ, và cả 2 phần ấy đủ cho chúng sinh, trong đó có quỉ thần, trực nhận thật tướng (Không), tiêu trừ nghiệp chướng, hiện khởi tịnh độ. Như vậy không những mật ngữ của bài kinh này là chân ngôn, mà hiển ngữ của bài kinh này cũng là chân ngôn, mà chính Bát nhã cũng đã là chân ngôn: chân ngôn đại thần, chân ngôn đại minh, chân ngôn vô thượng, chân ngôn vô đẳng đẳng.
Lược Ghi Toàn Văn
Mở đầu, văn Thí thực tụng bài tụng Duy tâm của kinh Hoa nghiêm. Nhưng bài này chỉ là những câu kết. Toàn bài còn nữa. Ý nói Tâm như một họa sĩ, vẽ đủ cảnh đủ màu: Tâm vẽ ra đủ mọi thân ngũ uẩn và mọi cảnh thế gian. Nói giản dị, Tâm là bản thể siêu tuyệt mà phổ biến, bất biến mà tùy duyên. Tâm vẽ ra đủ thứ chủ thể và khách thể. Về chủ thể, Tâm vẽ đủ thứ cơ thể và tâm lý; về khách thể, Tâm vẽ đủ cảnh địa ngục với thiên đường. Tất cả các pháp do Tâm vẽ ra được thế này thì cũng vẽ lại được thế khác, vẽ được xóa được. Chính điều này đã là chủ thuyết của mọi sự trong việc Thí thực. Chủ thuyết ấy, từ căn bản, cũng là chủ thuyết của sự sám hối, của sự sinh Cực lạc. Do vậy mà văn Thí thực này tôn kinh Hoa nghiêm, niệm tên kinh ấy trước hết trong đoạn phụng thỉnh Tam bảo.
Mặt khác, kinh sách có nói cái gọi là nghiệp báo thần thông. Nghiệp báo thần thông chính là những khả năng đặc biệt của mỗi loài mà nay được phát giác càng ngày càng nhiều và càng lạ. Loài quỉ thần có cái nghiệp báo thần thông là biết và đến rất xa và rất mau, nên nghe một bài tụng Duy tâm cũng đã ngộ rồi, huống chi còn các mục kinh chú khác giúp vào sự tùy duyên biến hiện của Tâm.
IV. Lược Giải Di Đà
Dẫn Nhập
Với cái nghĩa ra khỏi rừng rậm phiền não, phiền não diệt mà không sinh ra nữa, niết bàn đích thực là mục đích của Phật pháp. Phiền não mà diệt là có mặt diệt vì trí tuệ quyết trạch (gọi là trạch diệt vô vi), lại cũng có mặt diệt vì thiếu cho đến không có yếu tố phát sinh nên phiền não không sinh ra nữa (gọi là phi trạch diệt vô vi). Tịnh độ và sự sinh tịnh độ là cả 2 mặt ấy, nhất là mặt sau.
Nhưng tịnh độ và sinh tịnh độ là thế nào? Trong kinh Lăng nghiêm, khi thuật lại sự hiểu về Tâm của ngài A nan, đã nói, "Lúc ấy tôn giả A nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy một cách tuyệt diệu, nên cả cơ thể và tâm trí đều rất thư thái. Ai cũng tự biết Tâm khắp mười phương. Thấy không gian mười phương chỉ như chiếc lá trong lòng bàn tay. Vũ trụ vạn hữu đều là Tâm. Tâm bao hàm tất cả. Nhìn lại cái thân do cha mẹ sinh ra, thấy chỉ như hạt bụi trong không gian. Thân ấy còn hay mất, chỉ như cái bọt nổi lên hay tan mất trong biển cả. Biết rõ Tâm nhiệm mầu của mình là thường trú bất diệt". Như vậy tịnh độ uế độ gì cũng là Tâm. Và tâm tịnh thì độ tịnh, sự ấy gọi là sinh tịnh độ.
Pháp môn tịnh độ tuy thường chuyên chỉ cho tịnh độ Cực lạc, nhưng thật ra ngoài tịnh độ Cực lạc còn có tịnh độ Đâu suất và tịnh độ Linh sơn. Ấy là chưa kể những tịnh độ khác, ít hay không ai biết đến.
Tịnh độ Linh sơn là báo độ của đức Thích ca. Mà báo độ là Hoa tạng thế giới, của đức Thích ca hay của đức Di đà không có tự tha cách biệt. Do đó, bồ tát Thế thân đã nói, "nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sinh Cực lạc thì nhập được Hoa tạng thế giới" (Chính 26/233). Còn tịnh độ Đâu suất là Đâu suất nội viện, của đức Di lạc -- của bồ tát nhất sinh bổ xứ.
Cực lạc là tịnh độ của đức Di đà. Sự sinh tịnh độ ấy có 2 mặt. Thứ nhất, sinh Cực lạc là sinh quốc độ ấy, ở về hướng tây quốc độ Sa bà này. Thứ hai, sinh Cực lạc là sinh tịnh độ ấy ngay nơi quốc độ này. Riêng mặt thứ hai, Di đà đại bản nói, "Có người vốn nguyện độ sinh mau chóng, thì đem công đức của cái nguyện ấy mà tự trang bị, nhập vào thế giới sinh tử, tự tại thuyết pháp giáo hóa. A di đà phật dùng thần lực làm cho người này giáo hóa chúng sinh phát sinh chánh tín cho đến thành tựu bồ đề, nhưng từ đầu đến cuối, người này không bị cái khổ của các đường dữ ..., dẫu sống trong ngũ trược ác thế mà không khác gì sống trong thế giới của người ấy là Cực lạc quốc độở (Chính 12/337).
Thông thường pháp môn Tịnh độ có 2 chữ hân yểm: chán Sa bà, thích Cực lạc. Nhưng chán chứ không phải bỏ. Nên người tu pháp môn tịnh độ Cực lạc thì hoặc sinh Cực lạc rồi trở lại hóa độ Sa bà trước hết, hoặc sinh Cực lạc ngay nơi Sa bà mà hóa độ trước, mặt nào cái nguyện sinh Cực lạc cũng là vì thế giới Sa bà này, nên tôn giả A nan đã nói "ngũ trược ác thế thệ tiên nhập".
Bản kinh Di đà này nói rõ, gọn, và khá độc đáo, về cả 2 mặt của sự sinh Cực lạc, dẫu rằng nghe như chỉ nói mặt thứ nhất mà thôi.
Dị Bản, Đầu Đề và Nội Dung
Kinh này có các kinh khác liên hệ. Ngoài đại bản Di đà và Quán kinh, còn có bản dịch kinh này của ngài Huyền tráng (Chính 12/348-351). Nội dung bản dịch ấy, đối chiếu với chính văn này của ngài La thập dịch, những chỗ có gì khác mà thấy vừa bổ túc vừa giải thích cho chính văn này, thì đến những chỗ ấy tôi sẽ trích dẫn. Nhưng ở đây nên nói đến điều này: ngài Khuy cơ, vị đệ tử thượng túc và chính truyền của ngài Huyền tráng, giải thích kinh này đến 2 lần (Vạn 33/67-108), nhưng giải thích chính văn này của ngài La thập mà không giải thích bản dịch của thầy mình. Nếu ai đọc cả 2 bản dịch thì cũng thấy được vì sao.
Đề kinh này nguyên không phải là A di đà kinh. Trong chính văn, ngài La thập dịch đề kinh này là Xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thế chư Phật sở hộ niệm kinh (bản kinh Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho) ; ngài Huyền tráng dịch "Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, nhất thế chư Phật nhiếp thọ pháp môn" (đề tắt: Xưng tán tịnh độ, Phật nhiếp thọ kinh). Dịch như vậy không những đồng nghĩa mà còn giải thích cho nhau. Cả 2 đề đều nói về những sự siêu việt của đức Di đà, nên tương truyền ngài La thập đổi mà đề là Phật thuyết A di đà kinh: bản kinh của đức Phật bổn sư Thích ca nói về đức Phật bổn tôn Di đà.
Nội dung kinh Di đà thuộc thể loại vô vấn tự thuyết: không ai hỏi thấu mà chỉ Phật tự nói ra. Do đó mà nội dung kinh này từ đầu đến cuối toàn lời Phật dạy. Nội dung ấy gồm có 8 mục: 1. mở đầu nói về quốc độ Cực lạc; 2. nói về sự bất khả tư nghị của quốc độ Cực lạc, tức nói về y báo trang nghiêm của đức Di đà; 3. nói về sự bất khả tư nghị của giáo chủ quốc độ Cực lạc, tức nói về chánh báo trang nghiêm của đức Di đà; 4. nói về sự sinh quốc độ Cực lạc; 5. nói về sự tán dương và khuyến cáo của chư Phật; 6. nói về ích lợi của pháp môn tịnh độ Cực lạc; 7. nói về sự khó của pháp môn ấy; 8. kết thúc.
Tất cả 8 mục này, theo lối phân đoạn của cổ đức, mục 1 là duyên khởi, mục 2 đến 4 là chánh tông, mục 5 đến 8 là lưu thông.
Mục này có 2 đoạn: một, mở đầu như đa số kinh khác; hai, mở đầu riêng của kinh này.
Tôi nghe như vầy :
Một thời đức Thế tôn ở nước Xá vệ, trong khu vườn rừng Chiến thắng Thiện thí, cùng với các vị đại tỷ kheo một ngàn hai trăm năm chục người, toàn là bậc đại a la hán, ai cũng biết tiếng: trưởng lão Thu tử, tôn giả Mục liên, tôn giả Đại ca diếp, tôn giả Ca chiên diên, tôn giả Câu hy la, tôn giả Ly bà đa, tôn giả Châu lị bàn đà dà, tôn giả Tôn đà ra nan đà, tôn giả A nan đà, tôn giả La hầu la, tôn giả Kiều phạn ba đề, tôn giả Tân đầu lô, tôn giả Ca lưu đà di, tôn giả Kiếp tân na, tôn giả Bạc câu la, tôn giả A nâu lâu đà, các vị đại đệ tử đại loại như vậy. Lại cùng với các vị đại bồ tát: pháp vương tử Văn thù, đại bồ tát Di lạc, đại bồ tát Hương tượng, đại bồ tát Thường tinh tiến, các vị đại bồ tát đại loại như vậy. Ngoài ra, Đế thích, vô lượng chư thiên và các chúng khác cũng có đông đủ.
Đây là đoạn một, mở đầu như đa số kinh khác.
Tôi nghe như vầy là lời tôn giả A nan tự xưng để thuật lại kinh này. Câu ấy là văn thành tựu và tín thành tựu, 2 trong 6 thành tựu của phần mở đầu đa số các kinh. Nhưng đúng ra câu ấy nên để riêng ra, mở đầu để thuật lại trọn cuốn kinh mà trong đó có mục mở đầu. Như vầy là người nói, người nghe, lời nói, cử động, sự việc, không gian và thì gian, tất cả những gì được thuật lại ở dưới. Tất cả những gì ấy biểu thị pháp của Phật dạy trong một cuốn kinh, chứ không phải chỉ lời nói mới có khả năng ấy. Ấy là chưa kể lời nói có khi không quan trọng bằng hay hơn những gì khác.
Tiếp câu trên, trọn đoạn dưới là thuật lại lúc nói, người nói, chỗ nói và người nghe của kinh này. Một thời là lúc nói kinh này. Và đó là nói tắt, không ghi rõ năm tháng ngày giờ. Nhưng, "một thời" vừa nói tắt về thì gian nói kinh, vừa biểu thị Phật ở đâu cũng chỉ một thì gian cần ở mà thôi. Đức Thế tôn là người nói kinh này. Người ấy là đức Phật bổn sư. Khuy cơ đại sư nói, khi giải thích chữ Phật trong câu chính văn nhất thời Phật tại, rằng xét bản chữ Phạn của các kinh đều gọi đức Bổn sư là Thế tôn. Chính đức Bổn sư dạy để chữ ấy, vì chữ ấy hàm đủ các đức tính. Nhưng dịch chủ ý muốn vắn tắt nên dùng chữ Phật (Vạn 33/71B). Về chỗ nói thì nói tại khu vườn rừng Chiến thắng Thiện thí, thuộc nước Xá vệ. Xá vệ, đời Phật thì đó là nước của Ba tư nặc vương, phụ hoàng của vương tử Chiến thắng, nay là Rapatmapet, nam ngạn sông Rahti, thuộc tây bắc bộ Ấn độ. Khu lâm viên Chiến thắng Thiện thí, Chiến thắng là vương tử Kỳ đà, dịch nghĩa là Chiến thắng. Thiện thí là trưởng giả Tu đạt, dịch nghĩa là Thiện thí. Khu vườn rừng Chiến thắng Thiện thí là khu mà cây rừng là của vương tử Chiến thắng, đất vườn là của trưởng giả Thiện thí. Cả 2 người chung nhau hiến Phật nên Phật dạy để tên như vậy. Truyện tích này hầu hết Phật tử đều biết. Và nếu theo dịch nghĩa trước ngài Huyền tráng thì gọi là khu vườn rừng Thắng Cấp cô độc.
Về người nghe thì có 3: chúng đại tỷ kheo, chúng đại bồ tát và các chúng khác.
Trong chúng đại tỷ kheo, một ngàn hai trăm năm chục người là bạn hữu của Da xá có 50, thầy trò của Tần loa ca diếp có 500, của Na đề ca diếp có 250, của Dà da ca diếp có 250, của Thu tử có 100, của Mục liên có 100, toàn vốn là ngoại đạo, cảm ân đức giáo hóa của Phật nên theo ngài không rời. Toàn là bậc đại a la hán, nhưng có vị sẽ là, như chính ngài A nan. Chữ "đại" được giải thích là La hán có hay có thể chuyển thành căn tánh đại thừa. Ai cũng biết tiếng, được bồ tát Thế thân giải thích như sau, các vị quốc vương, vương tử, đại thần, dân chúng, Đế thích, Phạn vương, v/v, đều biết đến; lại nữa, Thanh văn, Bồ tát, Phật đà, những bậc thắng trí này khéo biết đến (Chính 26/1). Do vậy mà ngài Huyền tráng dịch là chúng vọng sở thức. Thu tử là tên dịch nghĩa của ngài Xá lợi phất. Ngài, ngoài đại danh trí tuệ đệ nhất, còn có lắm sự đặc biệt. Sự đặc biệt nên nói là có nhiều chứng cớ cho tôi thấy chính ngài mới là sáng tổ về luận tạng. Tôn đà ra nan đà là ngài Nan đà em Phật. Nan đà có mấy vị; muốn khác biệt thì gọi vị em Phật là Tôn đà ra nan đà: ông Nan đà của bà Tôn đà ra, bà vợ rất đẹp của ông.
Trong chúng đại bồ tát, tất nhiên gồm có các vị bồ tát mới phát tâm sắp lên. Các vị đại bồ tát kể tên trong chính văn là các bậc thượng thủ. Trong các vị ấy, Hương tượng là Càn đà ha đề, dịch nghĩa Hương tượng. Chính ngài Khuy cơ cũng không xác định là Bất hưu tức, chỉ nói "chưa rõ dịch nghĩa là gì; còn kinh Xưng tán (gọi tắt bản dịch của ngài Huyền tráng) thì vị đại bồ tát thứ ba danh hiệu là Bất hưu tức" (Vạn 33/76B).
Ở các kinh khác, 2 chúng đại tỷ kheo và đại bồ tát này thường có lời nói về phẩm chất của các ngài. Phẩm chất ấy, đại tỷ kheo có 3 điều cốt yếu sau đây: diệt sạch phiền não, tâm và tuệ thiện giải thoát, và bất thọ hậu hữu; còn đại bồ tát thì có 3 điều cốt yếu sau đây: không thoái chuyển mà còn đạt đến tuệ giác vô thượng, thân cận vô lượng chư Phật, làm sạch quốc độ và làm nên chúng sinh (tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh).
Về các chúng khác thì chính văn ở đây nói Đế thích, vô lượng chư thiên và các chúng khác cũng có đông đủ, còn chính văn mục kết thúc thì nói chư thiên, nhân loại, tu la, và các chúng khác trong toàn thể thế giới. Như vậy các chúng khác là có một, các chúng thuộc nhân loại, tức ngoài tỷ kheo còn có tỷ kheo ni, có ưu bà tắc và ưu bà di, trong 2 chúng sau lại có quốc vương, vương tử, đại thần và dân chúng; hai, các chúng thuộc phi nhân loại, tức 8 bộ mà chỉ nói 2 bộ tiêu biểu, đó là chư thiên và tu la. Trong chư thiên thì chỉ nói Đế thích. Đế thích, chính văn là Thích đề hoàn nhân. Thích là họ, đề hoàn là thiên, nhân là đế, như vậy muốn gọi tắt thì phải là Thích đế, gọi Đế thích là đảo ngược, nhưng lại thông dụng. Ngoài Đế thích, bản dịch của ngài Huyền tráng còn kể Phạn vương. Đế thích là chúa trời, nhưng là chúa thật của trời Đao lợi, còn Phạn vương cũng là chúa trời, nhưng chỉ tưởng tượng mình là chúa cả cõi Sa bà, và cả 2 cùng là đệ tử của Phật, hộ trì Phật pháp.
Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn bảo trưởng lão Thu tử, từ quốc độ này, hướng về phía tây, qua mười vạn ức quốc độ của Phật, có một quốc độ tên là Cực lạc. Quốc độ ấy có đức Phật giáo chủ danh hiệu A di đà, hiện nay vẫn còn và tuyên thuyết diệu pháp.
Đây là đoạn hai, mở đầu riêng của kinh này.
Lời mở đầu này nói về Cực lạc (y báo) và giáo chủ Cực lạc (chánh báo). Quốc độ của Phật, chính văn là Phật độ, có thể dịch tắt là cõi Phật. Cõi Phật ấy, chưa nói tự thọ dụng độ của tự thọ dụng thân, cũng chưa nói tha thọ dụng độ của tha thọ dụng thân, chỉ nói biến hóa độ của biến hóa thân mà thôi, thì kém nhất cũng là đại thiên quốc độ. Cực lạc không phải chỉ là biến hóa độ, nhưng ngay mặt biến hóa độ của Cực lạc cũng không phải chỉ bằng đại thiên quốc độ. Tuyên thuyết diệu pháp, ngài Huyền tráng dịch rõ là nói cho người ở đó về pháp thậm thâm vi diệu, làm cho họ được ích lợi yên vui thù thắng.
Mục 2. Nói Về Sự Bất Khả Tư Nghị Của Quốc Độ Cực Lạc, Tức Nói Về Y Báo Trang Nghiêm Của Đức Di Đà
Mục này có 5 đoạn: một, nói tổng quát bằng cách định nghĩa danh hiệu Cực lạc; hai, nói về lan can, lưới giăng và hàng cây; ba, nói về hồ, lầu đài và hoa sen; bốn, nói về nhạc, đất, hoa và sự hiến hoa (liên hệ sự này có sự ăn và sự kinh hành); năm, nói về chim và gió.
Thu tử, quốc độ ấy vì lý do gì mệnh danh là Cực lạc? Vì người quốc độ ấy không có mọi sự khổ não, chỉ hưởng yên vui, nên mệnh danh là Cực lạc.
Đây là đoạn một, nói tổng quát bằng cách định nghĩa danh hiệu Cực lạc.
Không có mọi sự khổ não, chỉ hưởng yên vui,ngài Huyền tráng dịch khá rõ: không có tất cả sự lo nơi tâm và sự khổ nơi thân, mà chỉ có vô lượng sự mừng và sự vui thanh tịnh.
Thu tử, quốc độ Cực lạc chỗ nào cũng có lan can bảy lớp, lưới giăng bảy lớp, hàng cây bảy lớp, toàn bằng bốn chất liệu quí báu, bao quanh khắp cả, vì vậy quốc độ ấy tên là Cực lạc.
Đây là đoạn hai, nói về lan can, lưới giăng và hàng cây.
Chỗ nào cũng có (xứ xứ giai hữu), ở đây cũng như ở dưới, là lấy chữ của ngài Huyền tráng dịch mà bổ túc. Phải bổ túc như vậy mới đúng. Hàng cây, dịch đúng là cây có hàng lối. Lưới giăng là mạng lưới chỉ vàng kết các thứ ngọc sáng, giăng phủ trên cây. Lan can để trang trí quanh cây. Bốn chất liệu quí báu sẽ nói ở đoạn dưới. Bao quanh khắp cả là chỗ nào cũng có những thứ trên đây trang trí xung quanh, không phải cả cõi Cực lạc chỉ có những thứ ấy bao bọc một lớp.
Thu tử, quốc độ Cực lạc chỗ nào cũng có cái hồ bằng bảy chất liệu quí báu, thứ nước đủ tám đặc tính quí tràn đầy trong đó. Đáy hồ trang rải toàn cát bằng vàng. Thềm và đường bốn phía đều do bạc, vàng, lưu ly, pha lê, bốn chất liệu quí báu như vậy hợp lại mà thành. Trên hồ có lầu đài, cũng dùng bạc, vàng, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não mà trang hoàng. Hoa sen trong hồ lớn như bánh xe, màu xanh ánh ra sáng xanh, màu vàng ánh ra sáng vàng, màu hồng ánh ra sáng hồng, màu trắng ánh ra sáng trắng, nhiệm mầu hương khiết. Thu tử, quốc độ cực lạc thành tựu sự trang nghiêm như vậy.
Đây là đoạn ba, nói về hồ, lầu đài và hoa sen.
Nước đủ 8 đặc tính quí, bản dịch của ngài Huyền tráng có nói: trong sạch, mát, ngọt, nhẹ, nhuần, không gây tai họa, dùng thì hết bịnh kể cả bịnh đói và mọi thứ tội ác, dùng rồi trưởng dưỡng các giác quan và thiện căn. Nói giản dị, nước rất tốt, không là tai họa, dùng tốt ở chỗ hết bịnh kể cả bịnh chứng tội ác, tăng sức cho cơ thể mà là sức thánh thiện. Trên hồ có lầu đài, ngài Huyền tráng dịch quanh hồ có cây báu: vừa thừa vừa thiếu. Bốn chất liệu quí báu và bảy chất liệu quí báu, chính văn kể đã rõ, tựu trung, xích châu là chân châu hay xích chân châu, là quí nhất. Hoa sen mà nói nhiệm mầu là "vì hoa ấy thực mà không chất ngại nhau; và hoa sinh người mà như thế thì người do hoa sinh là như thế nào, có thể biết được" (Vạn 108/333A). Phần sau của lời giải thích này là nói người sinh Cực lạc thì hóa sinh trong hoa sen ấy, "Chín phẩm hoa sen làm bậc cha mẹ", do vậy mà cơ thể người Cực lạc không có và có những gì cơ thể chúng ta có và không có.
Thu tử, quốc độ Cực lạc thường có thiên nhạc, đất bằng hoàng kim, ngày đêm sáu buổi đều mưa xuống thiên hoa mạn đà. Người quốc độ ấy, vào lúc sáng sớm, thường dùng vạt áo dựng đầy hoa quí, hiến cúng mười vạn ức đức Phật ở các quốc độ khác. Đến giờ ăn thì trở về quốc độ của mình. Ăn xong kinh hành. Thu tử, quốc độ Cực lạc thành tựu sự trang nghiêm như vậy.
Đây là đoạn bốn, nói về nhạc, đất, hoa và sự hiến hoa (liên hệ sự này có sự ăn và sự kinh hành).
Về sự ăn ở Cực lạc, kinh Vô lượng thọ nói rõ hơn: muốn ăn thì bát ứng khí và đồ ăn ngon hiện ra, nhưng thật ra không phải ăn, chỉ thấy sắc, nghe hơi, nghĩ ăn, là no đủ (Chính 12/271). Nghĩa là chỉ có tư thực và thức thực, không phải đoàn thực như chúng ta.
Còn kinh hành, nói theo quốc độ Sa bà này, thì kinh hành cũng gọi là hành đạo, vốn chưa phải nhiễu Phật, cũng không phải bộ hành hay tản bộ. Kinh hành là đi trên đường đất nhất định, nếu đất thấp ướt thì lát gạch đá, nếu đi không thẳng thì vạch đất hay giăng giây, và chỗ đi là nơi trống vắng trong núi rừng, trước cửa tăng xá, trước nhà giảng, trên nền tháp, trên nền tăng xá (tăng xá nay là tự viện). Đi thì đi tới đi lui, không mau chậm, không lắc mình, không cúi thấp hay ngước cao, và quan trọng là thu nhiếp giác quan, chỉ nghĩ đến đề tài thiền định hay pháp đang tu. Nay, thay vào có thể niệm Phật. Kinh hành làm khi ngồi thiền mà buồn ngủ, khi ăn mới xong, khi cần vận động: kinh hành để được linh hoạt, có sức, không bịnh, tiêu thực và kiên định.
Thu tử, quốc độ Cực lạc thường có các loại chim lạ, đẹp, và màu sắc xen nhau, đại loại như bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, tần dà, cọng mạng. Những loại chim này, ngày đêm sáu buổi, kêu ra âm thanh nhịp điệu và tuyệt nhã. Âm thanh ấy diễn đạt năm căn bản, năm năng lực, bảy thành phần tuệ giác, tám thành phần đường chánh, các pháp đại loại như vậy. Người quốc độ Cực lạc nghe âm thanh ấy thì ai cũng nhớ nghĩ về Phật, nhớ nghĩ về Pháp, nhớ nghĩ về Tăng. Thu tử, đừng bảo các loại chim này thật do nghiệp dữ kết quả mà có, vì quốc độ cực lạc không có ba nẻo đường dữ. Thu tử, quốc độ Cực lạc cái tên đường dữ còn không có, huống chi có cái thật đường dữ. Các loại chim này, toàn là đức A di đà phật muốn làm lan tràn âm thanh diệu pháp nên biến hiện ra. Thu tử, quốc độ Cực lạc gió nhẹ thổi động những hàng cây và lưới giăng quí báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu, tựa như trăm ngàn nhạc khí đồng thời hòa tấu. Ai nghe âm thanh ấy cũng tự nhiên sinh ra tâm trí nhớ nghĩ về Phật Pháp Tăng. Thu tử, quốc độ Cực lạc thành tựu sự trang nghiêm như vậy.
Đây là đoạn năm, nói về chim và gió.
Năm căn bản là ngũ căn, thông thường nói căn lành, nói các căn hay nói lợi căn độn căn, căn ấy phần chính là 5 thứ này. Năm năng lực là ngũ lực. Bảy thành phần tuệ giác là thất bồ đề phần. Tám thành phần đường chánh là bát thánh đạo phần. Các pháp đại loại như vậy là cùng loại với 4 pháp số trên đây còn có lục độ vạn hạnh. Cũng nên biết, 4 pháp số trên là bồ đề phần pháp (nhân tố và thành phần của tuệ giác), và tại quốc độ Sa bà này thì bồ đề phần pháp, ngoài 4 pháp số trên còn có 3 pháp số nữa, là một, 4 đề tài nhớ nghĩ, tức tứ niệm xứ (cũng có thể đọc xử) hay niệm trú, dịch rõ là 4 đề tài mà sự nhớ nghĩ cư trú vào đó; hai, 4 nỗ lực chính xác, tức tứ chánh cần hay chánh đoạn; ba, 4 chân đứng thần diệu, tức tứ thần túc hay như ý túc. Ba pháp số này cọng 4 pháp số trên thành 37 bồ đề phần pháp mà nếu hợp lại thì thực thể chỉ có 9, là tuệ, tiến, định, tín, niệm, hỷ, xả, khinh an và vô biểu sắc (Vạn 33/80B).
Di đà đại bản nói, bồ tát và thanh văn có vị muốn nghe âm thanh thuyết pháp, có vị muốn nghe âm thanh âm nhạc, có vị muốn nghe hơi thơm của hoa, có vị không muốn nghe âm thanh nào hết ... ; ai muốn nghe gì thì chỉ nghe thứ ấy, và ai không muốn nghe thì không nghe gì cả (Chính 12/332).
Mục 3. Nói Về Sự Bất Khả Tư Nghị Của Giáo Chủ Quốc Độ Cực Lạc, Tức Nói Về Chánh Báo Trang Nghiêm Của Đức Di Đà.
Mục này có 2 đoạn: một, nói về giáo chủ Cực lạc là đức Di đà; hai, nói về người Cực lạc là đệ tử của đức Di đà.
Thu tử, ý tôn giả nghĩ thế nào, vì sao đức Phật ấy danh hiệu là A di đà? Thu tử, vì đức Phật ấy ánh sáng vô lượng, chiếu soi khắp cả quốc độ mười phương, không bị chướng ngại, nên danh hiệu của ngài là A di đà. Thu tử, đời sống của đức A di đà phật, và người ở quốc độ của ngài, đến vô lượng vô số kiếp, nên danh hiệu của ngài là A di đà. Thu tử, đức A di đà thành Phật đến nay đã mười đại kiếp.
Đây là đoạn một, nói về giáo chủ Cực lạc là đức Di đà.
Mười đại kiếp là so với bản dịch của ngài Huyền tráng mà bổ túc chữ đại. A di đà nghĩa là vô lượng, bởi vì cái gì cũng vô lượng: đời sống, ánh sáng và đệ tử đều vô lượng cả. Nhưng nghĩa chính có lẽ là đời sống vô lượng (vô lượng thọ), vì chân ngôn chủng tử của ngài là cam lộ, có nghĩa bất tử. Tuy nhiên, nghĩa ánh sáng vô lượng (vô lượng quang) rất quan trọng, nên kinh Vô lượng thọ nói, "A nan, đức Vô lượng thọ phật ánh sáng uy thần tối tôn, bậc nhất, ánh sáng chư Phật không bằng, ..." do vậy mà đức Vô lượng thọ phật là đức Phật Ánh sáng không có giới hạn, Ánh sáng không có biên cương, Ánh sáng không thể cản trở, Ánh sáng không thể đối chiếu, Ánh sáng rực rỡ, Ánh sáng thanh tịnh, Ánh sáng hoan hỷ, Ánh sáng trí tuệ, Ánh sáng liên tục, Ánh sáng khó tư duy, Ánh sáng khó ca tụng, Ánh sáng siêu nhật nguyệt. Ai gặp được ánh sáng ấy thì tiêu tan ba thứ dơ bẩn (63) , cơ thể và tâm trí thuần hóa, hoan hỷ, phấn chấn, và thiện pháp sinh ra (Chính 12/270).
Thu tử, đức A di đà phật có vô lượng đệ tử thanh văn, toàn là a la hán, không phải toán số biết được. Đệ tử bồ tát cũng tương đương như thế. Thu tử, quốc độ Cực lạc thành tựu sự trang nghiêm như vậy.
Đây là đoạn hai, nói về người Cực lạc là đệ tử của đức Di đà.
Đệ tử bồ tát cũng tương đương như vậy là, như đoạn dưới đây nói thêm, bồ tát Cực lạc có từ bậc dưới hết lên đến bậc Một đời thành Phật, và số này cũng rất nhiều.
Mục 4. Nói Về Sự Sinh Quốc Độ Cực Lạc
Mục này có 2 đoạn: một, nói về lý do tại sao nên nguyện sinh Cực lạc; hai, nói về yếu tố sinh Cực lạc và sự sinh Cực lạc.
Thu tử, người sinh quốc độ Cực lạc toàn là những bậc Không thoái chuyển, trong đó có nhiều vị Một đời thành Phật. Số này rất nhiều, toán số cũng không thể biết được, chỉ có thể đem cái số vô lượng vô số mà nói. Thu tử, ai nghe như vậy, hãy nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc, vì được cùng các bậc thượng thiện nhân như vầy chung sống một chỗ.
Đây là đoạn một, nói về lý do tại sao nên nguyện sinh Cực lạc.
Một đời thành Phật (nhất sinh bổ xứ) là địa vị chót của bồ tát, chỉ một đời nữa là thành Phật, như đức Di lạc ở cõi Sa bà hay đức Quan âm ở cõi Cực lạc. Không thoái chuyển (a bệ bạt trí) là địa vị không còn thoái chuyển nữa. Ngài Huyền tráng dịch khá rõ về sự không còn thoái chuyển: chắc chắn không còn sa vào các nẻo đường dữ, các xứ biên địa man dã (64) , thường du hành quốc độ thanh tịnh của chư Phật, hạnh nguyện thù thắng tăng tiến trong từng ý nghĩ, quyết định sẽ chứng được tuệ giác vô thượng. Không thoái chuyển, phần chính là sự không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, và nội dung sự ấy gồm có sự không còn đọa lạc ác đạo, sự được vô sinh pháp nhẫn và sự quyết định sẽ thành Phật. Nội dung như vậy cốt yếu là được vô sinh pháp nhẫn, nên Trí độ luận cuốn 73 nói, được vô sinh pháp nhẫn thì gọi là a bệ bạt trí (bất thoái: không thoái chuyển) Vô sinh pháp nhẫn, nhẫn ở đây là nhẫn chịu, chấp nhận, thể nhận, những sự này cùng một nghĩa, chứ không phải diễn biến. Nhẫn mà nói thể nhận là vì, như dụng ngữ của ngài Huyền tráng, nhẫn nhiều khi là giai đoạn trước của trí, có khi chính là trí. Vô sinh là không sinh phiền não và nghiệp của phiền não. Pháp là thật tướng hay pháp tánh. Vô sinh pháp nhẫn là thể hội pháp tánh vô sinh, nên tôi đã dịch là tuệ giác Không sinh. Cũng nên biết vô sinh pháp nhẫn liên hệ đến 2 việc. Một, vô sinh pháp nhẫn thì có nghĩa không còn thoái chuyển, có nghĩa là địa vị Bất thoái (A bệ bạt trí: Không thoái chuyển). Hai, vô sinh pháp nhẫn liên hệ đến tận trí, nhất là vô sinh trí, liên hệ đến trạch diệt vô vi, nhất là phi trạch diệt vô vi. Riêng các tịnh độ, nhất là tịnh độ Cực lạc, vô sinh pháp nhẫn là phi trạch diệt vô vi. Nói giản dị, Cực lạc không có mọi yếu tố thiên nhiên và xã hội kích thích phát sinh phiền não hạnh nghiệp, mà toàn là những yếu tố trái lại. Chính điều này là lý do vì sao nên nguyện sinh Cực lạc. Sinh Cực lạc là được sống với thượng thiện nhân trong thượng thiện xứ. Thì sự trở lại Sa bà hay du hóa mười phương chỉ là sự phân thân.
Nhưng, Thu tử, không thể chỉ đem thiện căn nhỏ làm yếu tố để được sinh Cực lạc. Thu tử, thiện nam hay thiện nữ nào nghe nói đến đức A di đà phật, trì niệm danh hiệu của ngài hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày mà nhất tâm bất loạn, thì người ấy lúc sắp chết, đức A di đà phật cùng với Thánh chúng hiện ra trước mắt. Người như thế khi chết tâm không thác loạn, và tức khắc được sinh quốc độ Cực lạc của đức A di đà phật. Thu tử, Như lai thấy ích lợi như vậy nên nói rằng ai nghe như vầy hãy nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc.
Đây là đoạn hai, nói về yếu tố sinh Cực lạc và sự sinh Cực lạc.
Thiện căn nhỏ là những việc thiện ngoài sự niệm Phật. Quán kinh nói, "muốn sinh Cực lạc thì phải làm 3 phước: một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, làm mười thiện nghiệp ; hai là thọ trì tam qui, giữ đủ tịnh giới, không phạm uy nghi; ba là phát bồ đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tiến người tu" (Chính 12/341). Thiện căn như vậy mà nói là nhỏ, là chỉ vì có yếu tố và cảnh ngộ mới có làm có giữ, không thì làm và giữ gián đoạn. Nhưng phải có thiện căn nhỏ ấy hỗ trợ cho sự niệm Phật mới được sinh Cực lạc. Nên yếu tố sinh Cực lạc phải có chính có phụ. Yếu tố chính là sự niệm Phật một cách nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là chuyên nhất cho đến đồng nhất tâm trí của mình vào danh hiệu của Phật, nên ngài Huyền tráng dịch hệ niệm bất loạn: buộc sự nhớ nghĩ của mình vào danh hiệu của Phật mà không nhớ nghĩ gì khác, dầu gì khác đó là tốt hay xấu. Hoặc một ngày ... hoặc bảy ngày, nên nói rõ một ngày đêm cho đến bảy ngày đêm. Không phải thì gian niệm Phật chỉ có 1 đến 7 ngày đêm. Cũng không phải chỉ 1 đến 7 ngày đêm trước khi chết. Mà là 1 cho đến 7 ngày đêm, hay cho đến mấy ngày đêm, mấy tháng và mấy năm đi nữa, tự hạn cho được nhất tâm bất loạn và rồi sự bất loạn ấy liên tục mãi. Như vậy thì khi sắp chết được đức bổn tôn A di đà phật cùng với Thánh chúng mà đặc biệt là các ngài Quan âm và Thế chí cùng hiện ra, nên khi chết thì tâm không thác loạn và sinh liền Cực lạc. Câu này ngài Huyền tráng dịch rõ hơn chút nữa: "lúc sắp chết, đức Vô lượng thọ phật cùng vô lượng đệ tử thanh văn bồ tát bao quanh trước sau ngài, đến trước người ấy, từ bi da hộ, làm cho người ấy tâm không thác loạn, và chết rồi thì theo ngài và thánh chúng mà sinh Cực lạc".
Về sự niệm Phật, cần phải nói thêm rằng sự ấy không phải chỉ đại thừa có. Mà có từ Phật giáo nguyên thỉ: trong pháp số lục niệm, niệm Phật đứng đầu. Và niệm Phật qua 10 huy hiệu là Như lai cho đến Thế tôn, đặc biệt 3 huy hiệu Như lai, ��� cúng và Chánh biến tri. Nói niệm Phật pháp thân, xét ra là biến thể của sự niệm Phật này đây. Nhưng niệm Phật như vậy rõ ràng không nhất tâm bất loạn được bằng trì niệm danh hiệu đức Bổn tôn.
Mục 5. Nói Về Sự Tán Dương Và Khuyến Cáo Của Chư Phật.
Mục này có 2 đoạn: một, nói về sự tán dương và khuyến cáo của chư Phật 6 phương; hai, giải thích tên kinh này.
Thu tử, như hiện thời Như lai tán dương ích lợi những sự bất khả tư nghị của đức A di đà phật, các quốc độ phương đông cũng có đức như lai A súc bệ, đức như lai Tu di tướng, đức như lai Đại tu di, đức như lai Tu di quang, đức như lai Diệu âm, hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy, đều ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho. Thu tử, các quốc độ phương nam cũng có đức như lai Nhật nguyệt đăng, đức như lai Danh văn quang, đức như lai Đại diệm kiên, đức như lai Tu di đăng, đức như lai Vô lượng tinh tiến, hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy, đều ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho. Thu tử, các quốc độ phương tây cũng có đức như lai Vô lượng thọ, đức như lai Vô lượng tướng, đức như lai Vô lượng tràng, đức như lai Đại quang, đức như lai Đại minh, đức như lai Bảo tướng, đức như lai Tịnh quang, hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy, đều ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho. Thu tử, các quốc độ phương bắc cũng có đức như lai Diệm kiên, đức như lai Tối thắng âm, đức như lai Nan trở, đức như lai Nhật sinh, đức như lai Võng minh, hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy, đều ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho. Thu tử, các quốc độ phương dưới cũng có đức như lai Sư tử, đức như lai Danh văn, đức như lai Danh quang, đức như lai Đạt ma, đức như lai Pháp tràng, đức như lai Trì pháp, hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy, đều ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho. Thu tử, các quốc độ phương trên cũng có đức như lai Phạn âm, đức như lai Tú vương, đức như lai Hương thượng, đức như lai Hương quang, đức như lai Đại diệm kiên, đức như lai Tạp sắc bảo hoa nghiêm thân, đức như lai Sa la thọ vương, đức như lai Bảo hoa đức, đức như lai Kiến nhất thế nghĩa, đức như lai Như tu di sơn, hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy, đều ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp đại thiên quốc độ, nói lời thành thật như vầy: các người nên tin bản kinh Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho.
Đây là đoạn một, nói về sự tán dương và khuyến cáo của chư Phật 6 phương.
Như hiện thời Như lai tán dương ích lợi những sự bất khả tư nghị của đức A di đà Phật, các quốc độ ..., câu này có 2 điều cần ghi. Một, các bản chép xưa không có chữ chi lợi (ích lợi của), nhưng xét ra có thì thừa mà vô hại, nên tôi vẫn để nguyên cho như truyền thống trì tụng. Hai, câu này nói tắt. Rõ thì phải nói, "như hiện thời Như lai nói bản kinh này tán dương những sự bất khả tư nghị của đức A di đà phật, thì do thần lực của Như lai mà bản kinh này được nghe khắp cả mười phương quốc độ, nên các quốc độ..."
Trong phương đông, A súc bệ, súc là đọc theo âm của ngài Khuy cơ (Vạn 52/443B). Trong phương nam và phương bắc, Danh văn quang và Danh văn, văn có thể đọc vấn, nghĩa là nổi tiếng, đâu cũng nghe tiếng. Trong phương bắc, Nan trở, trở là đọc theo tự điển. Nhưng trở viết bộ phụ, mà có bản viết như vậy, thì nghĩa là cản trở; nếu viết bộ thủy, mà nhiều bản viết như vậy, thì nghĩa là tan nát. Hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy ở nơi quốc độ của mình, đưa ra tướng lưỡi rộng dài ..., câu này cũng là nói tắt. Đủ thì phải nói, "hằng hà sa số các đức Như lai đại loại như vậy đều ở nơi quốc độ của mình, khi nghe bản kinh này của Như lai tuyên thuyết, thì đưa ra tướng lưỡi rộng dài ..." Tướng lưỡi rộng dài là 1 trong 32 tướng đại trượng phu của chư Phật, biểu hiện đức thành thật. Tướng lưỡi rộng dài bình thường của Phật là đưa ra thì phủ mặt đến chân tóc (Trí độ luận cuốn 8) và chạm thấu bên tai (Chính 1/5). Nay nói tướng lưỡi ấy trùm khắp đại thiên quốc là nói thần lực của Phật. Và khi nào nói đưa ra tướng lưỡi rộng dài là nói Phật nói rất thật về pháp rất cao, rất trọng đại. Nói lời thành thật là Phật đem sự thành thật của Phật mà nói, và chúng ta tin là tin vào sự thành thật ấy. Chứ điều được nói vượt quá mức trí thức chúng sinh, không thể theo trí thức ấy mà giảng giải, đem trí thức ấy mà hiểu biết. Điều được nói ấy là sự bất khả tư nghị của đức Di đà - là kinh này, là pháp môn tịnh độ Cực lạc.
Tán dương những sự bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho, đó là tên của kinh này. Tên ấy có nghĩa là bản kinh ca tụng những sự bất khả tư nghị của đức Di đà, và bản kinh như vậy được chư Phật giữ gìn cho. Giữ gìn cho, chính văn là hộ niệm, nghĩa là giữ và nhớ (Vạn 33/84B và 107A). Khi nào tên kinh được nói Phật hộ niệm là nói kinh ấy thuộc tối thượng đại thừa. Phật sở hộ niệm kinh, học giả có người còn hiểu là bản kinh nói về những vấn đề của Phật. Hiểu như vậy càng sát nghĩa, nhất là đối với kinh Di đà. Và chư Phật 6 phương lặp lại tên kinh Di đà để khuyên người quốc độ của các ngài tin tưởng, ấy là chư Phật làm như đức Phật bổn sư: tán dương đức Di đà, tán dương pháp môn nói về đức Di đà là bản kinh này.
Thu tử, ý tôn giả nghĩ thế nào, tại sao bản kinh này mệnh danh thêm rằng Hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho? Thu tử, vì thiện nam hay thiện nữ nào nghe bản kinh này mà thọ trì, lại được nghe danh hiệu của các đức Như lai, thì thiện nam hay thiện nữ ấy được các đức Như lai cùng giữ gìn cho, được sự không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng. Thế nên, Thu tử, các người hãy tin nhận lời của Như lai nói, của các đức Như lai nói.
Đây là đoạn hai, giải thích tên kinh này.
Thọ trì, thọ là tiếp nhận, do tín lực: sức mạnh tin tưởng, trì là nhớ giữ, do niệm lực: sức mạnh ký ức. Được nghe danh hiệu của các đức Như lai là được nghe danh hiệu của chư Phật 6 phương, đặc biệt được nghe và niệm danh hiệu của đức bổn tôn Di đà. Thọ trì kinh này, và trì niệm danh hiệu của đức Bổn tôn thì được chư Phật giữ gìn, nghĩa là được bất thoái chuyển đối với vô thượng bồ đề, nên kinh này tên là Hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho. Như trên đã nói, giữ gìn, chính văn là hộ niệm, nghĩa đủ là giữ và nhớ: chư Phật không những giữ cho và nhớ đến kinh này, mà còn giữ cho và nhớ đến người thọ trì kinh này và trì niệm danh hiệu đức Bổn tôn. Đoạn này ngài Huyền tráng dịch đủ hơn, "Thu tử, vì lý do gì kinh này tên là Pháp môn tán dương công đức Phật độ bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho? Thu tử, vì kinh này tán dương công đức Phật độ bất khả tư nghị của thế giới Cực lạc của đức Vô lượng thọ phật, lại được mười phương chư Phật thế tôn vì muốn phương tiện lợi ích an lạc cho các hữu tình, nên tại quốc độ của mình, ngài nào cũng hiện đại thần biến, nói lời thành thật, chắc chắn, khuyến cáo hữu tình tín thọ pháp môn này, do vậy mà kinh này tên là Pháp môn tán dương công đức Phật độ bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho. Lại nữa, Thu tử, thiện nam hay thiện nữ nào hoặc đã nghe, hoặc sẽ nghe, hoặc đang nghe, nghe kinh này rồi tin hiểu sâu xa, thì chắc chắn được mười phương hằng sa chư Phật thế tôn nhiếp thọ cho làm đúng như kinh này dạy, nên ai cũng quyết chắc được sự không thoái chuyển đối với vô thượng bồ đề, ai cũng quyết chắc được sinh quốc độ Cực lạc là Phật độ thanh tịnh của đức Vô lượng thọ phật. Thế nên, Thu tử, tôn giả và mọi người ai cũng nên tin tưởng, tiếp nhận và lý giải lời nói của Như lai và của mười phương chư Phật thế tôn, nỗ lực tinh tiến mà làm đúng như lời nói ấy, đừng sinh ngờ vực, lo ngại".
Mục 6. Nói Về Ích Lợi Của Pháp Môn Tịnh Độ Cực Lạc
Thu tử, nếu có người nào đã phát nguyện, đang phát nguyên, sẽ phát nguyện, nguyện sinh quốc độ của đức A di đà phật, thì những người này cùng được sự không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, và đối với quốc độ ấy thì hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh. Do vậy, Thu tử, những người thiện nam thiện nữ ai tin thì nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc.
Sinh Cực lạc, như đã nói trong phần dẫn nhập, sự ấy có 2 mặt, là sinh quốc độ ấy ở về hướng tây quốc độ này, là sinh quốc độ ấy ngay nơi quốc độ này, và sinh nghĩa là tâm tịnh thì độ tịnh (còn nói vãng sinh là nói cho dễ hiểu). Nên bất cứ ai nhất tâm mà tin lời nói thành thật của Phật (tín), nhất tâm mà nguyện sinh Cực lạc (nguyện) và nhất tâm mà niệm hiệu Di đà (hạnh), thì ích lợi họ có được thật bất khả tư nghị, ấy là được sinh Cực lạc và, trước đó, được không thoái chuyển vô thượng bồ đề. Ai tin thì nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc, ngài Huyền tráng dịch thêm vài chữ thôi nhưng rất cần: "ai tin hiểu sâu xa thì nên phát nguyện nguyện sinh Cực lạc, đừng sống phóng dật". Đừng sống phóng dật là tự chế ngự mà nỗ lực, và nỗ lực liên tục, trong sự niệm Phật. Chính sự bất phóng dật này mới quyết định được hay không được sinh Cực lạc, không thoái chuyển hay thoái chuyển vô thượng bồ đề.
Mục 7. Nói Về Sự Khó Của Pháp Môn Tịnh Độ Cực Lạc
Thu tử, như nay đây Như lai tán dương những sự bất khả tư nghị của chư Phật như lai, chư Phật như lai cũng tán dương những sự bất khả tư nghị của Như lai mà nói như vầy: đức Thích ca thế tôn có thể làm được việc rất khó và hiếm có, ấy là ở trong quốc độ Sa bà mà thuộc thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục - thời kỳ vẩn đục, kiến thức vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục, đời sống vẩn đục - lại thực hiện được tuệ giác vô thượng, và nói cho mọi người cái pháp mà cả thế giới đều khó tin. Thu tử, các người nên biết, Như lai đã ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục mà làm việc khó làm, ấy là thực hiện tuệ giác vô thượng, lại nói cho cả thế giới cái pháp rất khó tin này thì đó là việc rất khó.
Như nay đây Như lai tán dương những sự bất khả tư nghị của chư Phật như lai nói rõ là tán dương sự bất khả tư nghị của đức Di đà bằng cách nói bản kinh này, lại tán dương chư Phật mười phương xuất ra tướng lưỡi rộng dài mà khuyên người quốc độ mình tin bản kinh này. Thời kỳ dữ dội đầy cả 5 thứ vẩn đục, coi việc 2 của phần Lược ghi Lăng nghiêm. Trong thời kỳ ấy mà thành Phật được là việc rất khó có, rồi nói về tịnh độ Cực lạc là pháp môn mà cả thế giới khó tin, thì đó là việc rất khó có hơn nữa. Nói về sự cao tột của pháp môn tịnh độ Cực lạc mà nói như vậy thì thật rất giản dị mà cực kỳ độc đáo.
Phần này ngài Huyền tráng dịch còn có 1 đoạn nữa, ý nói người nào nghe được, tin được và làm được pháp môn tịnh độ Cực lạc thì cũng là người rất khó có. Đoạn ấy như sau, "Thu tử, trong thời kỳ dữ dội của quốc độ Sa bà tạp nhiễm này, thiện nam hay thiện nữ nào nghe nói về pháp môn cả thế giới rất khó tin này mà có thể tin hiểu, thọ trì, diễn giảng, thực hành đúng như lời dạy mà người ấy được nghe, thì tôn giả phải biết người ấy cũng rất khó có ... Người ấy mạng chung thì quyết định sinh Cực lạc quốc độ ..., mau chóng thành tựu vô thượng bồ đề".
Mục 8. Kết Thúc
Khi đức Thế tôn tuyên thuyết kinh này hoàn tất thì trưởng lão Thu tử và các vị đại tỷ kheo, chư thiên, nhân loại, tu la, và các chúng khác trong toàn thể thế giới, nghe đức Thế tôn dạy, ai cũng hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhận, đảnh lễ mà cáo thoái.
Bản dịch của ngài Huyền tráng, sau các vị đại tỷ kheo còn kể các vị đại bồ tát. Còn đảnh lễ mà cáo thoái thì ngài Huyền tráng dịch phụng hành.
Thần chú Bạt nhổ gốc rễ nghiệp chướng, vãng sinh tịnh độ Cực lạc: Nam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tì, a di lị đá tất đam bà tì, a di lị đá tì ca lan đế, a di lị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha (21 lần).
Long thọ bồ tát nguyện sinh Cực lạc mà mộng cảm thần chú này. Tam tạng pháp sư Da xá tụng ra, tam tạng pháp sư Cầu na bạt đà trùng dịch. Muốn thọ trì thần chú này thì súc miệng, đốt hương, quì trước tượng Phật, chắp tay mà tụng. Mỗi ngày đêm 6 buổi, mỗi buổi 21 biến. Thì các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, phỉ báng đại thừa, đều tiêu tan cả ... Tụng đủ hai trăm ngàn biến thì mầm mống bồ đề nảy sinh, đủ ba trăm ngàn biến thì tận mặt nhìn thấy đức bổn tôn Di đà. Tụng thần chú này thì đức bổn tôn Di đà thường trú ở trên đỉnh đầu, ngày đêm hộ trì, không cho kẻ ác tìm được cơ hội, hiện tại yên vui, mạng chung thì tùy ý mà sinh tịnh độ (Chính 12/348 và 351).
Lời nói cuối sau khi lược giải kinh Di đà
Trường a hàm có nói đến 4 thành pháp: ở trung quốc, gần thiện hữu, tự cẩn thận và phước đời trước (Chính 1/57). Lược giải: do 4 pháp mà thành tựu đạo quả : ở trung quốc là ở những xứ có chánh pháp, gần thiện hữu là được sống với thầy bạn tốt, tự cẩn thận là bất phóng dật, phước đời trước là không bịnh hoạn thiếu thốn. Tôi nhận rằng tư tưởng này đã là căn bản của pháp môn tịnh độ, đặc biệt là tịnh độ Cực lạc.
Cực lạc có lạc gì đâu đối với người cần kiếm lạc thú. Ở đó không có nữ nhân. Ở đó không có đấu tranh. Ở đó chim kêu gió thổi cũng là Phật pháp. Có gì là lạc thú đâu. Do vậy mà kẻ nào nhận định rằng Cực lạc phát triển từ phước cảnh chư thiên, kẻ ấy phi vô học thì phỉ báng đối với Phật pháp.
Cực lạc là cảnh giới niết bàn phi trạch diệt vô vi. Đó là thượng thiện xứ toàn thượng thiện nhân. Ở đó không có yếu tố thiên nhiên và nhân tạo tạo ra vô minh phiền não. Ở đó đầy đủ, và cực kỳ hoàn myլ về 4 thành pháp đã dẫn.
Và đó là nói Cực lạc ở hướng tây. Nếu nói Cực lạc là sinh Cực lạc là ngay nơi cõi này, ngay nơi sinh tử giới, thì Cực lạc ấy là "quảng đại vô biên tế", là "hoa tạng thế giới" (Chính 26/230 và 233). Cõi người mà chư thiên ở cao, cách cả trăm do tuần vẫn còn nghe hôi hơn mùi nhà xí, cõi người ấy, người niệm Di đà và sinh Cực lạc ngay ở đấy, và chỉ thấy là cõi Cực lạc của mình.
Mặt khác, "trong tương lai, kinh pháp mất hết đi nữa, Như lai cũng thương chúng sinh mà giữ kinh này thêm một trăm năm. Ai gặp được cũng thỏa nguyện cả. Và từ đó về sau, kinh này cũng không còn, chỉ còn lại 4 chữ A di đà phật rộng độ quần sinh" (Vạn 150/360A trích dẫn). Đó là điều có thể thấy trước quá rõ.
Lược giải Hồng danh với 3 mục: mục 1 nói về sự sám hối, mục 2 lược giải chính văn, mục 3 trích lục lại 10 hạnh nguyện Phổ hiền.
Nói Về Sự Sám Hối
Mục này có 4 đoạn: đoạn 1: căn bản của sự sám hối, đoạn 2: sự sám hối với sự lạy Phật, đoạn 3: cách lạy Hồng danh, đoạn 4: sự đặc thù của Hồng danh.
Đoạn 1: Căn Bản Của Sự Sám Hối
Có 2 nhân vật tội ác mà nổi tiếng trong thời Phật, đó là A xà thế vương và Ương quật ma la. A xà thế vương là kẻ giết cha, phạm tội thuộc loại ngũ nghịch. Nhưng "trong Phật pháp, ai biết sám hối thì tự ích lợi". Nên ông "tổn giảm được tội ác, trọng tội đã được bạt nhổ lên". Và "nếu không giết cha thì ngay trên chỗ ngồi ông đã được sơ quả" (Chính 1/109). Còn Ương quật ma la thì giết người lấy ngón tay xâu lại làm vòng mà mang. Nhưng khi nghe Phật nói ngài đứng lại là đối với chúng sinh ngài không dùng khí giới, thì đốn ngộ, quăng dao xuống, sám hối, xuất gia, thành La hán liền, và tự giác "trước làm ác, sau sám hối, thì soi chiếu thế gian như mây tan trăng hiện" (Chính 2/280 và 719).
Chuyện 2 nhân vật này, nói ra đây là thuật lại văn ý Phật giáo nguyên thỉ, chưa nói theo đại thừa có chủ thuyết tội tánh bản không. Nhưng do đó cũng đủ thấy các vị thuyết pháp nói về tội và tội báo mà làm cho người cảm thấy mình không còn mong gì hết tội, thì lối thuyết pháp ấy cũng như thuyết về vô ngã mà như nói về duy vật. Phật pháp nói về tội và tội báo là với chủ ý đem lại cho người tội lỗi niềm tin tưởng có thể hủy diệt tội lỗi ấy. Và đó là căn bản của sự sám hối.
Đoạn 2: Sự Sám Hối Với Sự Lạy Phật
Nhưng sám hối mà hiểu rằng chỉ lạy Phật và phát lộ thì không chính xác. Nội dung của sự sám hối có 5 môn. Pháp số 5 môn này có 2: sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng và phát nguyện là của Thiên thai, qui mạng, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh và hồi hướng là của Chân ngôn. Pháp số sau là căn cứ hạnh nguyện Phổ hiền mà qui nạp lập ra.
Nay sám Hồng danh có 7 môn: tán dương, qui y, phát tâm, lễ bái, phát lộ, hướng nguyện và hồi hướng. Nội dung này môn nào cũng quan trọng. Riêng môn lễ bái thì trong mức độ sơ khởi dẫn dắt, Tăng nhất a hàm nói có 5 hiệu quả: tướng tốt, tiếng hay, nhiều của, sinh nhà trưởng giả, sinh ở chư thiên (Chính 2/674).
Đoạn 3: Cách Lạy Hồng Danh
Lời dẫn nhập đã nói sám Hồng danh không phải chỉ quì mà tụng. Mà phải lạy, và lạy hằng ngày, trong công phu tối. Châm chước chăng là có thể phân ra, ngày này lạy 53 đức Phật, ngày sau lạy 35 đức Phật, nhưng trước và sau 53 và 35 đức Phật thì ngày nào cũng phải tụng và lạy đầy đủ.
Bây giờ xét lại cách chia 108 lạy trong Hồng danh. Thực sự sám Hồng danh không có ý chia đủ hay chia theo 108 lạy. Còn số 108 cũng không phải ở đâu và làm gì đều phải theo cho đúng. Đúng được thì cũng tốt, không thì cũng không hại gì. Tuy nhiên, đã nói đúng được cũng tốt thì lạy Hồng danh theo cách 108 lạy như thế nào? Nhị khóa hợp giải chỉ dẫn như sau:
- tán dương 1 lạy
- qui y 3 ''
- phát tâm 1 ''
- lạy Tam bảo 3 ''
- 10 hiệu 1 ''
- lạy Phật 53 ''
- 35 ''
- phát lộ 1 ''
- hướng nguyện 1 ''
- 8 nguyện 8 ''
- 16 câu chót 1 ''
Chỉ dẫn này không thể làm theo. Vì 4 phần sau không thể vừa tụng vừa lạy. Nên tôi đề nghị như vầy:
- qui y 4 lạy
- phát tâm 1 ''
- lạy Tam bảo 3 ''
- 11 hiệu 11 "
- 53 đức Phật 53 ''
- 35 đức Phật 35 ''
- đức Bổn tôn 1 ''
Đoạn 4: Sự Đặc Thù Của Hồng Danh
Hồng danh được biên tập bởi ngài Bất động, thuộc Chân ngôn tông. Tìm xét nội dung thì thấy lấy 53 đức Phật ở trong kinh Quán nhị bồ tát (Chính 20/660-666); lấy 35 đức Phật và văn từ phát lộ hướng nguyện ở trong kinh Đại bảo tích (hội Ưu ba ly, Chính 11/515-516); lại trích phẩm Phổ hiền mà đưa 10 nguyện thêm vào phần hướng nguyện; sau hết, tự soạn 16 câu làm hồi hướng. Tựu trung, qui y Kim cang thượng sư là bổn tôn của người biên tập, lạy đức Di đà là bổn tôn của người tu tịnh độ Cực lạc, và niệm hiệu Phổ hiền là vị nguyện vương, toàn là những biểu thị đặc thù. Riêng 35 đức Phật, và văn từ phát lộ hướng nguyện, được biết đã là mỗi ngày đêm 6 buổi lễ bái của hành giả đại thừa ở Thiên trúc (Chính 12/42-43). Nhìn vào nội dung trên đây, trừ sự trích 10 hạnh nguyện, tất cả đều sáng sủa, hoàn chỉnh mà giản lược.
Tôi nói trừ sự trích 10 hạnh nguyện,vì sự ấy tôi sẽ thảo luận đến trong mục 3.
Lược Giải Chính Văn
Toàn văn sám Hồng danh có 4 đoạn: đoạn 1: mở đầu, đoạn 2: lạy Phật, đoạn 3: sám hối, đoạn 4: hồi hướng. Bốn đoạn này bao gồm 7 môn đã nói trong đoạn 2 của mục 1 ở trên.
Đoạn 1: Mở Đầu
Đoạn này có 4 thứ: thứ 1: tán dương chư Phật, thứ 2: qui y cả tánh và tướng Tam bảo, thứ 3: phát bồ đề tâm, thứ 4: đảnh lễ Tam bảo.
Thứ 1: Tán Dương Chư Phật
Đại từ là cho vui, đại bi là cứu khổ, đại hỷ là mừng cho chúng sinh hết khổ được vui, đại xả là bỏ hết ý niệm thân thù; 4 đức này chỉ là pháp số đầu tiên trong nhiều pháp số nói về đức tính của Phật. Tướng tốt là 32 tướng quí và 80 vẻ đẹp. Ánh sáng và tướng tốt ở đây chỉ là hóa thân của Phật. Qui mạng là đem tánh mạng của mình qui về nơi Phật. Đảnh lễ: đem đỉnh đầu của mình mà lạy ngang chân của Phật.
Thứ 2: Qui y Cả Tánh Và Tướng Tam Bảo
Kim cang thượng sư, bài tụng cát tường của văn Thí thực gọi là Thượng sư, là biểu thị cho pháp thân của Phật; pháp thân ấy là tổng thể của vô tận Phật Pháp Tăng, nên gọi là Tam bảo bản thể. Qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng là Tam bảo biểu tượng, nhưng xác và rõ thì phải nói qui y đức Bổn sư, qui y giáo pháp của ngài và qui y tỷ kheo tăng của ngài. Qui y Tam bảo như vậy, bất cứ trường hợp nào cũng vẫn là căn bản trọng đại. Có qui y mới là Phật tử. Không qui y mà có giữ giới thì chỉ là người tốt, và quả báo tốt mấy cũng không gặp hay khó gặp được Phật pháp tăng.
Thứ 3: Phát Bồ Đề Tâm
Quyền thừa: giáo lý Phật phương tiện thiết lập. Đại thừa tối thượng: giáo lý Phật tuyên thuyết cứu cánh. Tuệ giác vô thượng, chính văn là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, dịch nghĩa là Vô thượng chánh đẳng chánh giác (Vô thượng chánh biến giác), gọi tắt cả dịch âm và dịch nghĩa là vô thượng bồ đề: tuệ giác vô thượng. Tuệ giác ấy là của Phật. Tuệ giác ấy biết đúng, biết khắp và biết cùng tột (không có gì và có ai hơn nữa), nên gọi như vậy. Phát bồ đề tâm: ở đây có nghĩa là phát khởi tâm chí mong cầu cho mình và chúng sinh cùng được tuệ giác của Phật.
Thứ 4: Đảnh Lễ Tam Bảo
- Kính lạy Chư phật mười phương cùng tận không gian (1 lạy).
- Kính lạy Tôn pháp mười phương cùng tận không gian (1 lạy).
- Kính lạy Hiền thánh tăng mười phương cùng tận không gian (1 lạy).
Hiền thánh tăng: chư tăng cả bậc hiền và bậc thánh. Đại thừa tiểu thừa đều có hiền thánh. Cả 2 đều lấy địa vị kiến đạo của mình làm mức, dưới đó là hiền, từ đó sắp lên là thánh.
Đoạn 2: Lạy Phật
Đoạn này cũng có 4 thứ: thứ 1: lạy 10 hiệu chư Phật, thứ 2: lạy 53 đức Phật, thứ 3: lạy 35 đức Phật, thứ 4: lạy đức Phật bổn tôn.
Thứ 1: Lạy 10 Hiệu Chư Phật
Kính lạy các đức Như lai, ��� cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật: Thế tôn(11 hiệu có thể lạy chung 1 lạy, cũng có thể và rất nên lạy mỗi hiệu 1 lạy; mỗi hiệu 1 lạy thì phải đọc: Kính lạy các đức Như lai, kính lạy các đức ��� cúng, kính lạy các đức Chánh biến tri, kính lạy các đức Minh hạnh túc, kính lạy các đức Thiện thệ, kính lạy các đức Thế gian giải, kính lạy các đức Vô thượng sĩ, kính lạy các đức Điều ngự trượng phu, kính lạy các đức Thiên nhân sư, kính lạy các đức Phật đà : kính lạy các đức Thế tôn).
Mười hiệu, nhưng thật sự là 11. Có vài ba cách giải thích. Cách giải thích xét ra đúng nhất là trong 11 hiệu, 10 hiệu đầu là riêng, 1 hiệu cuối là chung: vì là đấng có 10 đức tính và thành quả mà biểu thị bằng 10 hiệu nên gọi là đấng Thế tôn. Những cách giải thích khác có cách cho Phật thế tôn là 1 hiệu. Cách này không đúng. Phật thế tôn nếu 1 hiệu thì phải viết Buddha-lokanatha, mà Thế tôn ở đây là Bhagavan.
Sau đây là dịch nghĩa 11 hiệu (theo thứ tự của chính văn): bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời.
Mười (hay 11) hiệu rất quan trọng. Không những ấn định một đức Phật là phải có 10 hiệu, mà niệm Phật và khen Phật là nhớ và lạy 10 hiệu ấy. Do vậy mà 10 hiệu phải nên lạy mỗi hiệu 1 lạy. Cũng nên nói thêm, trong 10 hiệu, 3 hiệu đầu Như lai, ��� cúng và Chánh biến tri được nói nhiều, coi như thay cho cả 10 hiệu.
Thứ 2: Lạy 53 Đức Phật
Thứ 3: Lạy 35 Đức Phật
Thứ 4: Lạy Đức Phật Bổn Tôn
Nam mô pháp giới tạng thân A di đà phật (1 lạy).
Bổn tôn, ở đây chỉ đức Di đà; ngài là đấng vốn tối tôn, lại là đấng làm gốc cho hành giả Tịnh độ muốn "tịnh phật quốc độ, thành tựu chúng sinh". Pháp giới tạng thân là lấy pháp giới làm thân, có nghĩa cùng thì gian, tận không gian, toàn là thân đức bổn tôn Di đà.
Đoạn 3: Sám Hối
Đoạn này có 3 thứ: thứ 1: phát lộ, thứ 2: hướng nguyện, thứ 3: hướng nguyện theo hạnh nguyện Phổ hiền.
Phát lộ tội lỗi như chính văn này nói thì có 3 mục nhỏ, là phát lộ theo danh mục, theo đại loại và theo quả báo.
Một, phát lộ tội lỗi theo danh mục tội lỗi là gồm có xâm phạm vật của Tam bảo, 5 tội vô gián và 10 thứ ác nghiệp. Tựu trung, 10 thứ ác nghiệp khỏi nói, chỉ nói 2 loại trước. Trong loại xâm phạm vật của Tam bảo, của Tháp là của chùa tháp thờ Phật; của Tăng là của hòa thượng, a xà lê, bổn sư, y chỉ sư và thọ nghiệp sư; của tăng bốn phương là của chư Tăng mọi nơi qui tụ lại (nói sát là của tự viện ngày nay). Còn 5 tội vô gián thì kể thông thường là giết cha, giết mẹ, giết La hán, phá tăng hòa hợp, làm đổ máu thân Phật. Thêm 2 sự giết hòa thượng và a xà lê nữa thì gọi là 7 tội nghịch. Nhưng 5 tội vô gián kể theo kinh Địa tạng tuy hồn hàm mà lại khá thâm thiết đối với người xuất gia. Kinh ấy nói: Kẻ nào bất hiếu đến nỗi sát hại cha mẹ thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Tam bảo, khinh thường kinh pháp, cũng sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào xâm phạm của tăng chúng thường trú, làm bẩn tăng ni, ngay trong chốn già lam mà mặc ý làm sự không phải phạn hạnh hay sự sát hại sinh mạng, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào giả làm sa môn mà tâm hạnh không phải sa môn, lạm dụng của tăng chúng thường trú, lừa đảo thế nhân, vi phạm giới luật, tạo các nghiệp dữ, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào trộm cắp tài vật, thóc gạo, đồ ăn, đồ uống và đồ mặc của tăng chúng thường trú, cho đến một vật không cho mà lấy, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Năm tội vô gián như thế này rất nên bổ túc và làm nổi bật lên những điểm chính yếu về những chủ thuyết độc hại nhân loại và phá hoại Phật pháp.
Cả 3 danh mục tội lỗi trên đây còn có 3 tiểu loại về nội dung, đó là có loại tự mình làm, có loại bảo người làm (bằng cách sai sử, xúi dục, chỉ dẫn, khuyến khích ...), có loại tùy hỷ với người (bằng cách tán thành, hỗ trợ ...). Điều quan trọng phải biết là loại nào cũng nặng cả, có khi còn nặng hơn tự làm.
Hai, phát lộ tội lỗi theo đại loại tội lỗi là tất cả danh mục tội lỗi trên đây mà công khai hay che dấu (nhất là che dấu bằng myՠtừ, bằng danh nghĩa).
Ba, phát lộ tội lỗi theo quả báo tội lỗi là tất cả danh mục và đại loại tội lỗi trên đây mà đọa 3 đường dữ, các đường dữ khác ngoài 3 đường dữ, những chỗ biên địa man dã. Biên địa man dã, chính văn là biên địa hạ tiện cập miệt lệ xa, Chính 12/43 dịch biên địa cập di lệ xa, đủ biết là nói 2 nơi. Biên địa là những chỗ ở quanh bên ngoài (đối lại, những chỗ ở giữa bên trong gọi là trung quốc). Còn miệt lệ xa thì ngài Huyền tráng dịch biên địa (Chính 50/229), Phật học đại từ điển nói dịch cấu trược chủng (những giống dân dơ bẩn, ác và mọi nhất). Như vậy biên địa với miệt lệ xa có lẽ chỉ là một, và nguyên thỉ trong thành kiến người Ấn thì chỉ trung bộ Ấn độ, nơi Phật sinh mới là trung quốc, còn tất cả các miền ở quanh bên ngoài, nhất là phía bắc Ấn, đều gọi là miệt lệ xa, dịch nghĩa biên địa (Chính 50/239). Thậm chí Trung quốc cũng bị cho là biên địa (Chính 50/246). Từ đó diễn ra nghĩa rộng hơn và đúng đắn, là những xứ không có Phật pháp, văn hóa tốt cũng không có, gọi là biên địa.
Sau hết, lời phát lộ này, bản dịch khác có thêm những ngôn từ đáng chú ý: "... hoặc sinh nhằm tám nạn, hoặc đọa địa ngục ngạ quỉ súc sinh, hoặc sinh những chỗ biên địa man dã, hoặc sinh tầng trời Trường thọ (65) , hoặc được làm người mà giác quan không đủ, mà kiến thức sai lầm bài bác nhân quả, mà chán thấy nghe chư Phật xuất thế; hết thảy nghiệp chướng như vậy, ngày nay đối trước chư Phật thế tôn, bậc toàn giác, bậc đủ năm loại mắt sáng, bậc biết tận cùng bản thể, bậc hiểu tận cùng hiện tượng, bậc biết tất cả, bậc thấy tất cả, con xin thành tâm sám hối hết thảy, không dám che dấu, cầu nguyện cho con phục hồi như cũ giới pháp thanh tịnh" (Chính 12/43).
Trong các pháp hạnh được kể ra để hướng nguyện, tịnh hạnh là phạn hạnh, tức là sự không dâm dục, là từ bi hỷ xả, là hạnh niết bàn; tựu trung, khởi thỉ và căn bản là sự không dâm dục. Tác thành chúng sinh, nói đủ là "tịnh phật quốc độ, thành tựu chúng sinh" (làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh), từ ngữ đặc biệt của Pháp hoa nói về bồ tát hạnh. Tu hành tuệ giác là tu tập 37 bồ đề phần. Thành vô thượng trí là đạt đến tuệ giác vô thượng. Nên sự sám hối mọi thứ tội lỗi, cùng sự tùy hỷ mọi thứ phước đức, cho đến công đức thỉnh Phật thế tôn là nói tắt bằng cách đưa ra 4 hạnh nguyện để nói về 10 hạnh nguyện Phổ hiền; 4 hạnh nguyện được đưa ra là sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh Phật trú thế và thỉnh (Phật) chuyển pháp luân.
Thứ 3: Hướng Nguyện Theo Hạnh Nguyện Phổ Hiền
Đại nguyện vương Phổ hiền có 10, nhưng ở đây chỉ trích lục có 8, xét ra chỉ vì 2 đại nguyện vương khác văn khó trích lục mà thôi.
Đây là 1, lễ kính Phật đà, gọi tắt là lạy Phật. Vi trần: bụi nhỏ.
Đây là 2, tán dương Như lai, gọi tắt là khen Phật. Trong 1 vi trần có vi trần Phật là nói chư Phật trong 1 thế giới: thế giới nhiều như vi trần nên 1 thế giới gọi là 1 vi trần; trong 1 thế giới, qua thì gian quá khứ hiện tại vị lai, đã có chư Phật nhiều như vi trần, nên gọi là trong 1 vi trần có vi trần Phật. Vi trần pháp giới cũng y như vậy là nói chư Phật trong tất cả thế giới: trong tất cả thế giới nhiều như vi trần, mỗi thế giới đều có chư Phật cũng nhiều như vi trần.
Đây là 3, hiến cúng rộng lớn, gọi tắt là hiến cúng Phật. Vòng hoa, dịch sát là xâu hoa. Âm nhạc, chính văn là kyՍ nhạc, kyՠphải viết bộ thủ hay bộ nhân, viết bộ nữ là sai. KyՍ nhạc ở đây là diễn tấu nhạc khí, tức là âm nhạc. Chỗ khác, có lúc kyՠnhạc là biểu diễn kịch nghệ và diễn tấu âm nhạc. Hương xoa tức là dầu thơm, phấn sáp. Diệu cao: dịch nghĩa tên núi Tu di. Cái biết cao rộng hơn hết, chính văn là quảng đại thắng giải tâm: tâm trí lý giải siêu việt rộng lớn.
Đây là 4, sám hối nghiệp chướng, gọi tắt là sám hối. Thân miệng ý, chính văn là thân ngữ ý, nhưng xét ra thân khẩu ý đi với nhau thì chỉnh và đúng hơn. Tham sân si thì rộng, nhưng không xác bằng dâm nộ si. Và đó là 3 độc hay bất thiện căn. Có chỗ, ngoài 3 thứ này còn có 1 thứ nữa là bố (sợ hãi).
Đây là 5, tùy hỷ công đức, gọi tắt là tùy hỷ. Tu học tiếp tục: các vị hữu học. Tu học hoàn tất: các vị vô học (vô: hoàn tất). Trong 4 quả Thanh văn, 3 quả trước là hữu học, quả La hán là vô học. Nhưng bậc vô học tuyệt bậc là Phật. Tùy hỷ: đã dịch mừng theo, là tán thành, hỗ trợ, mừng mà tán thưởng.
Đây là 6, xin chuyển pháp luân, rõ thì phải nói xin Phật chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Ngọn Đèn Thế Giới là Phật, Phật thì như ngọn đèn to lớn soi sáng thế gian. Chuyển đẩy bánh xe diệu pháp, nói rõ là lăn đẩy bánh xe chánh pháp đi tới phía trước, không đi lùi, đi lệch hay ngừng lại.
Đây là 10, hồi hướng khắp cả, gọi tắt là hồi hướng. Và như vậy thì trích lục này không có 2 đại nguyện vương 8 và 9 (thường học theo Phật và hằng thuận chúng sinh). Trong văn hồi hướng khắp cả này, 2 câu lạy Phật, khen Phật, và hiến cúng Phật chính văn là Sở hữu lễ tán cúng dường Phật, nhiều bản chữa Phật ra phước. Xét ra rất sai, và sai quá rõ. Chính văn này nói tắt, rõ thì phải nói "Sở hữu lễ Phật, tán Phật, cúng dường Phật", tức nói về 3 nguyện trước hết, và chữ Phật ăn chung cả 3 nguyện ấy. Cũng như 2 câu dưới xin Phật ở đời, chuyển đẩy pháp luân chính văn là Thỉnh Phật trú thế chuyển pháp luân. Chính văn này cũng nói tắt, rõ thì phải nói Thỉnh Phật trú thế, thỉnh (Phật) chuyển pháp luân. Còn chữ phước mà người chữa muốn nói thì chính là chữ thiện căn ở câu dưới, và chữ thiện căn ấy, ngoài 7 đại nguyện vương được kể ra còn nói những đại nguyện vương còn lại. Trí Phật, chính văn là Phật đạo. Phật đạo có 2 nghĩa. Nghĩa chính thức thì đạo là dịch nghĩa chữ bồ đề (mà dễ hiểu thì dịch là giác), do đó, tôi đổi ra Phật trí hay Phật tuệ, có nghĩa là trí Phật, là tuệ giác của Phật. Còn nghĩa không chính thức thì Phật đạo là nhân hạnh của Phật, tức bồ tát vạn hạnh.
Đây là hồi hướng về trí Phật. Nghĩa là hồi hướng sự bái sám Hồng danh này về nơi tuệ giác của Phật: về nơi pháp tánh mà tuệ giác ấy chứng ngộ. Tuệ giác và pháp tánh ấy chính là tam muội ấn (định ấn), có 3 mặt là định ấn của Phật bộ, định ấn của Liên hoa bộ và định ấn của Kim cang bộ. Tam bảo bản thể là Tam bảo về tánh. Tam bảo biểu tượng là Tam bảo về tướng. Chân lý tuyệt đối là chân đế. Chân lý phổ thông là tục đế. Dung thông là tam muội ấn nói trên viên mãn tất cả Tam bảo và chân lý như vậy.
Đây là hồi hướng cho chúng sinh, cầu cho chúng sinh nhờ công đức bái sám Hồng danh mà được diệt tội đắc quả. Diệt tội là diệt tội thập ác: 10 ác nghiệp nơi thân khẩu ý, là diệt tội tà kiến: kiến thức và chủ thuyết độc hại nhân loại phá hoại Phật pháp, là diệt tất cả tội lỗi cùng loại, nói tóm là diệt tất cả tội lỗi làm trở ngại cho sự đắc quả. Đắc quả là thực hiện cho mình và cho người sự Không thoái chuyển, bằng cách ý nghĩ này liên tiếp ý nghĩ khác sống theo tuệ giác của Phật.
Đây là hồi hướng sự bái sám Hồng danh mà cầu nguyện cho hạnh nguyện của mình, trong đó có hạnh nguyện hồi hướng, được liên tục và quảng đại.
Nam mô đại hạnh Phổ hiền bồ tát (3 lần).
Sám hối là 1 trong 10 đại nguyện vương của đức Phổ hiền. Nội dung sự sám hối gồm có lạy Phật và hướng nguyện, thì cũng là lạy Phật và hướng nguyện theo 10 đại nguyện vương Phổ hiền, nên sám Hồng danh kết thúc bằng cách niệm hồng danh của ngài.
Trích Lục Lại 10 Hạnh Nguyện Phổ Hiền
Như đã nói, sám Hồng danh trích lục 10 đại nguyện vương mà chỉ có 8 là vì văn khó trích lục. Nhưng khó mà vẫn có thể và vẫn nên trích lục lại cho đủ. Làm việc này chỉ vì cần làm chứ không cốt để thay đổi sự trích lục của sám Hồng danh. Mặt khác, sự trích lục lại ở đây dĩ nhiên vẫn trích lục từ phẩm Phổ hiền, nhưng vừa đủ thì thôi.
Trước hết, đây là phần dịch âm: Một, lễ kính chư Phật:
- Sở hữu thập phương thế giới trung
- Tam thế nhất thế Nhân sư tử,
- Ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý
- Nhất thế biến lễ tận vô dư.
- Hai, xưng tán Như lai:
- Ngã dĩ nhất thế âm thanh hải
- Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ
- Tận ư vị lai nhất thế kiếp
- Tán Phật thậm thâm công đức hải.
- Chú thích : ngã dĩ là đổi chữ các dĩ.
- Ba, quảng tu cúng dường:
- Ngã dĩ quảng đại thắng giải tâm
- Thâm tín nhất thế tam thế Phật,
- Tất dĩ Phổ hiền hạnh nguyện lực
- Phổ biến cúng dường chư Như lai.
- Bốn, sám hối nghiệp chướng:
- Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
- Giai do vô thỉ tham sân si,
- Tùng thân ngữ ý chi sở sinh,
- Nhất thế ngã kim giai sám hối.
- Năm, tùy hỷ công đức:
- Thập phương nhất thế chư chúng sinh,
- Nhị thừa hữu học cập vô học,
- Nhất thế Như lai dữ Bồ tát,
- Sở hữu công đức giai tùy hỷ.
- Sáu, thỉnh chuyển pháp luân:
- Thập phương sở hữu Thế gian đăng
- Tối sơ thành tựu bồ đề giả,
- Ngã kim nhất thế giai khuyến thỉnh
- Chuyển ư vô thượng diệu pháp luân.
- Bảy, thỉnh Phật trú thế:
- Chư Phật nhược dục thị niết bàn,
- Ngã tất chí thành nhi khuyến thỉnh,
- Duy nguyện cửu trú sát trần kiếp
- Lợi lạc nhất thế chư chúng sinh.
- Tám, thường tùy Phật học:
- Quá hiện vị lai Thiên nhân sư
- Nhất thế ý lạc giai viên mãn,
- Ngã nguyện phổ tùy tam thế học,
- Tốc đắc thành tựu đại bồ đề.
Chú thích: Quá hiện vị lai Thiên nhân sư là tóm tắt 3 câu: cúng dường quá khứ chư Như lai, cập dĩ hiện tại thập phương Phật, vị lai nhất thế Thiên nhân sư.
- Chín, hằng thuận chúng sinh:
- Ngã thường tùy thuận chư chúng sinh
- Tận ư vị lai nhất thế kiếp,
- Hằng tu Phổ hiền quảng đại hạnh,
- Viên mãn vô thượng đại bồ đề.
- Mười, phổ giai hồi hướng:
- Sở hữu lễ tán cúng dường Phật,
- Thỉnh Phật trú thế chuyển pháp luân,
- Tùy hỷ sám hối chư thiện căn,
- Hồi hướng chúng sinh cập Phật đạo.
- Hướng nguyện:
- Ngã thử Phổ hiền thù thắng hạnh
- Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
- Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sinh
- Tốc vãng Vô lượng quang phật sát.
- Đây là phần dịch nghĩa: Một, lễ kính Phật đà:
- Hết thảy chư Phật
- trong ba thì gian
- tại các quốc độ
- khắp cả mười phương,
- con xin vận dụng
- ba nghiệp thanh tịnh
- kính lạy khắp cả
- không có thiếu sót.
- Hai, tán dương Như lai:
- Biển cả âm thanh
- con vận dụng cả,
- xuất ra vô tận
- lời chữ nhiệm mầu,
- cùng tận đời kiếp
- của thì vị lai,
- tán dương biển cả
- công đức của Phật.
- Ba, hiến cúng rộng lớn:
- Con đem cái biết
- cao rộng hơn hết
- tin tưởng sâu xa
- tam thế chư Phật,
- vận dụng thần lực
- hạnh nguyện Phổ hiền
- mà khắp hiến cúng
- chư Phật như lai.
- Bốn, sám hối nghiệp chướng:
- Bao nhiêu nghiệp dữ
- mà con đã làm,
- đều bởi vô thỉ
- những tham sân si,
- động thân miệng ý
- mà phát sinh ra,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
- Năm, tùy hỷ công đức:
- Mười phương hết thảy
- các loại chúng sinh,
- cùng với các vị
- Thanh văn Duyên giác,
- Tu học tiếp tục
- Tu học hoàn tất,
- tất cả Như lai
- cùng với Bồ tát,
- có công đức gì
- con tùy hỷ cả.
- Sáu, xin chuyển pháp luân:
- Mười phương đâu có
- Ngọn Đèn Thế Giới
- khi mới thành tựu
- tuệ giác vô thượng,
- con xin thỉnh cầu
- tất cả các ngài
- chuyển đẩy bánh xe
- diệu pháp tối thượng.
- Bảy, xin Phật ở đời:
- Chư Phật như lai
- muốn hiện niết bàn,
- thì con chí thành
- thỉnh cầu các ngài
- sống với đời kiếp
- nhiều như vi trần,
- để làm lợi lạc
- hết thảy chúng sinh.
- Tám, thường học theo Phật:
- Các đức Phật đà
- cả ba thì gian
- bao nhiêu ý nguyện
- đều viên mãn cả,
- con nguyện tùy thuận
- học tập các ngài
- để mau hoàn thành
- tuệ giác vô thượng.
- Chín, hằng thuận chúng sinh:
- Cùng tận đời kiếp
- của thì vị lai,
- con thường tùy thuận
- các loại chúng sinh,
- bằng cách thực thi
- hạnh nguyện Phổ hiền,
- viên mãn tuệ giác
- tối thượng vĩ đại.
- Mười, hồi hướng khắp cả:
- Lạy Phật, khen Phật,
- và hiến cúng Phật,
- xin Phật ở đời,
- chuyển đẩy pháp luân,
- tùy hỷ, sám hối,
- bao thiện căn này
- con đem hồi hướng
- ích lợi chúng sinh
- có nghĩa hồi hướng
- nguyện thành trí Phật.
- Hướng nguyện:
- Hạnh nguyện Phổ hiền này
- là hạnh nguyện tối thượng,
- phước đức cũng tối thượng
- và vô lượng vô biên;
- con xin hồi hướng cả,
- nguyện cầu cho chúng sinh
- đang còn bị chìm đắm
- mau chóng sinh Cực lạc
- quốc độ đức bổn tôn
- A di đà như lai.
Trước Khi Lược Giải Tâm Kinh
1. Lược Nói Oai Linh Của Tâm Kinh Và Đức Quan Âm, Vị Thuyết Ra Tâm Kinh
Sử truyện của ngài Huyền tráng, dịch giả Tâm kinh, chép:
... Chừng canh ba, pháp sư lén vượt được cửa ải Ngọc môn, mừng lắm, để đồ xuống, nằm ngủ cách người Hồ hơn 50 bước. Mới nằm một lát, người Hồ rút dao đứng dậy, đi nhẹ về phía pháp sư. Đi chưa được mươi bước thì lùi lại, không biết ý gì. Pháp sư ngờ người Hồ có lòng khác, nên ngồi dậy niệm đức Quan âm. Thấy vậy, người Hồ về chỗ nằm ngủ. Trời gần sáng, pháp sư gọi dậy, lấy nước, lót lòng, rồi sắp đi thì người Hồ nói, đường đi nguy hiểm, xa xôi, nước không, cỏ chẳng có, chỉ nơi 5 đồn canh mới có nước. Đồn nào cũng phải ban đêm lén đến mới lấy được nước, và có nước mới qua được sa mạc này. Nhưng bị phát giác thì chết. Đệ tử nghĩ chẳng bằng quay về thì hơn. Pháp sư không chịu nên người Hồ miễn cưỡng mà đi. Được vài dặm, đứng lại, nói, đệ tử không thể đi được. Đệ tử còn gánh nặng gia đình, phép vua lại không thể vi phạm. Pháp sư biết ý, bảo cứ về. Người Hồ nói, chắc chắn pháp sư không qua khỏi, bị bắt rồi khai đến con thì sao? Pháp sư nói, thân này bị xả nhỏ ra tôi cũng không khai đến anh. Pháp sư thề thốt nặng lời, người Hồ mới yên bụng lui về, sau khi giao lại cho pháp sư một con ngựa.
Vậy là pháp sư đơn độc đi vào sa mạc. Chỉ nhìn xương người hay phân ngựa mà đi. Một lát bỗng có mấy trăm quân binh đầy cả trước mắt, thoáng đi thoáng ngừng, người ngựa cờ xí biến ảo liền liền, nhìn xa rất rõ, đến gần lại tan. Pháp sư mới nhìn nghĩ là giặc cướp, đến gần mới biết quái dị. Nhưng nghe trong không gian có tiếng nói, bảo cứ đi, đừng sợ. Đi được 80 dặm thì thấy đồn canh thứ nhất. Sợ lính canh nhìn thấy nên pháp sư núp vào hố cát, đến đêm mới đi. Khi đến phía tây đồn canh, thấy nước, pháp sư xuống uống, rửa tay, và sắp sửa lấy nước thì một mũi tên bay vút đến, xuýt trúng đầu gối. Thoáng cái lại có một mũi nữa. Biết đã bị phát giác, pháp sư kêu lớn, xin đừng bắn, tôi là tăng sĩ. Rồi dắt ngựa đi lại đồn canh. Binh sĩ điệu vào gặp hiệu úy Vương Tường. Nhưng chính nhờ viên hiệu úy này giúp đỡ mà pháp sư đến được đồn canh thứ tư. Viên hiệu úy ở đây nghe có lời Vương Tường nên hoan hỷ, mời ngủ lại, lại biếu túi da lớn để dựng nước và biếu lúa mạch cho ngựa ăn, tiễn pháp sư mà dặn đừng đi về phía đồn canh thứ năm. Viên hiệu úy ở đó có thể hại ngài. Từ đây đi cỡ trăm dặm thì có suối Dã mã, ngài hãy lấy thêm nước ở đó.
Vậy là pháp sư đi vào đại sa mạc Mông cổ. Đại sa mạc này dài hơn 800 dặm. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy. Nước không có, cỏ cũng không. Bấy giờ pháp sư một mình một ngựa, chỉ niệm đức Quan âm và bài Tâm kinh mà đi. Hồi trước, khi còn ở đất Thục, pháp sư gặp một bịnh nhân, ghẻ lở hôi thối dơ bẩn, áo quần rách rưới dơ dáy. Pháp sư đưa về chùa, tặng quần áo, biếu thực phí. Bịnh nhân cảm kích, truyền thọ bài kinh ấy cho pháp sư (66) . Nhân đó pháp sư đã thường trì tụng. Bây giờ, khi vào đại sa mạc, gặp bao nhiêu hiện tượng quái dị vây bọc trước sau, pháp sư niệm bài kinh này thì tan biến liền. Bao nhiêu nguy khốn mà pháp sư phải gặp, thật do bài kinh này cứu độ.
Pháp sư đi cỡ trăm dặm thì lạc đường, tìm suối Dã mã không thấy. Lấy túi nước xuống để uống thì lỡ tay đổ cả. Vật độ mạng trên đường ngàn dặm, thoáng cái sạch hết! Vậy mà còn lạc đường đến nỗi quanh quẩn không biết nên đi theo ngã nào. Pháp sư nghĩ quay lại hướng đông, chỗ đồn canh thứ tư đã. Nhưng đi hơn mươi dặm, pháp sư tự nghĩ, mình đã nguyện không đến xứ Phật thì không lui về hướng đông một bước, sao nay quay về. Thà đi tới hướng tây mà chết, chứ không quay về hướng đông để sống. Trở ngựa lại, pháp sư chuyên tâm niệm đức Quan âm mà đi tới hướng tây bắc. Bấy giờ bốn bề cát nóng mênh mông, người ngựa đều lả. Đêm thì yêu quái nhấp nháng như sao, ngày thì cuồng phong cuốn cát lên, tung bay như mưa mùa. Pháp sư không nao núng gì cả, chỉ khổ vì khát quá, không đi được nữa. Đã 4 đêm 5 ngày rồi, pháp sư không có một giọt nước thấm môi. Cổ, miệng và bụng khô nóng gần chết. Quị xuống mặt cát nóng rát dưới cái nắng sa mạc mà pháp sư vẫn thầm niệm đức Quan âm, khốn đốn đến thế mà không ngừng, thầm bạch rằng con đi đây không cầu lợi lộc, không mong danh vọng, chỉ vì Phật pháp vô thượng mà thôi. Bồ tát là đức Từ bi, thương người mà cứu khổ. Con thế này là đang khổ đây, lẽ nào ngài không biết. Pháp sư tác bạch như vậy và không ngừng niệm danh hiệu của ngài. Nửa đêm hôm ấy là đêm thứ năm, đột nhiên có luồng gió mát thổi đến thân thể pháp sư. Pháp sư nghe mát như tắm nước lạnh. Nhờ vậy mà sáng mắt, ngựa cũng dậy được. Cơ thể đã thư, pháp sư thiếp được một lát, mộng thấy vị thần cao lớn, bảo sao không gắng dậy mà đi, lại nằm như thế này. Pháp sư hoãng dậy, đi được mươi dặm thì đột nhiên ngựa tự rẽ qua ngã khác, kéo lại cũng không chịu. Đi vài dặm bỗng thấy cả mẫu cỏ xanh. Pháp sư cho ngựa ăn, và đi mươi bước thì thấy một ao nước, trong và ngọt. Uống rồi người ngựa đều khỏe, nghỉ lại 1 ngày. Hôm sau múc nước, lấy cỏ, và đi tới. Hai ngày sau nữa pháp sư mới ra khỏi sa mạc ... (Chính 50/223).
... Lại đến nước Y lan noa bát phạt đa. Trên đường đến đó có già lam Ca bố đức. Phía nam già lam này, cách vài ba dặm, có hòn núi đơn độc, cây cao cỏ tốt, lá rậm hoa thơm, ao trong suối đẹp. Núi là thắng cảnh mà lại có chùa thiêng, cảm ứng thần kỳ. Tinh xá chính giữa có ngôi tượng Quan âm bằng gỗ đàn hương, uy thần đặc tôn. Thường có vài mươi người, trong một hay hai tuần không ăn cơm, không dùng cả nước có thực phẩm nghiền nát, thành tâm cầu nguyện. Ai chân thành thì cảm ứng. Và cảm ứng luôn, nên người đến càng đông. Người trong chùa sợ tượng bị bẩn, nên bốn phía cách tượng chừng 7 bước, dựng lan can gỗ. Ai đến cũng triều bái ở ngoài lan can. Hoa hương hiến cúng cũng từ ngoài tung vào. Hoa của ai nằm trong tay hay mắc vào cánh tay của Bồ tát thì được cát tường.
Pháp sư cũng đến cầu nguyện. Mua hoa, xâu thành vòng, pháp sư đến chỗ tôn tượng, chí thành lễ bái tán dương rồi, quì xuống cầu nguyện 3 điều. Một, tại đất Ấn độ này con học tập xong rồi, về nước mà được an toàn thì xin hoa nằm trong bàn tay của ngài. Hai, bao nhiêu phước tuệ có được, con nguyện sinh Đâu suất nội viện, phụng sự Di lạc từ tôn, nguyện này như ý thì xin hoa mắc vào cánh tay của ngài. Ba, giáo lý có chỗ nói chúng sinh có một số không có Phật tánh, nay con nghi hoặc, không rõ có hay không có; nếu một số ấy cũng có Phật tánh, có thể tu hành thành Phật, thì xin hoa mắc vào cổ của ngài. Tác bạch rồi, pháp sư tung hoa vào, được đúng cả như lời cầu nguyện. Pháp sư hoan hỷ hết sức. Những người lễ bái và người trong chùa ai cũng vỗ tay, dậm chân, mà nói thật là chưa từng có (Chính 50/239).
... Từ biệt rồi, pháp sư yên lặng, chánh niệm, miệng tụng: sắc không, thọ tưởng hành thức cũng không, nhãn giới không, cho đến ý thức giới cũng không, vô minh không, cho đến lão tử cũng không, thậm chí bồ đề cũng không, không ấy cũng không ... Đệ tử là Đại thừa quang hỏi pháp sư chắc chắn được sinh Di lạc nội viện không, pháp sư nói chắc chắn. Nói rồi, hơi thở nhẹ dần, một lát pháp sư mất mà nhẹ nhàng đến nỗi thị giả không biết liền ... (Chính 50/277).
Sử truyện của ngài Huyền tráng đến nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Học giả ra sức khảo chứng càng không ít. Trong bao nhiêu nguy khốn mà ngài trải qua có sa mạc Gobi. Ở đó, ngày nay không nói cuồng phong cuốn cát lên tung bay như mưa mùa, mà nói là bão cát. Cũng ngày nay, phi cơ loại trung bình bay trên vùng trời sa mạc này vẫn dồi sốc rất khó chịu. Nên học giả thế giới đã và vẫn còn khiếp phục ngài Huyền tráng, nhận rằng phi sức mạnh tôn giáo thì không dễ gì vượt qua bao nhiêu nguy khốn mà ngài đã gặp. Oai linh của đức Quan âm, và của bài Tâm kinh mà đức Quan âm tuyên thuyết, chính cuộc đời và công nghiệp của ngài Huyền tráng là một minh chứng (67) .
2. Lược Nói Bát Nhã Và Không Của Bát Nhã Trong A Hàm
Bát nhã trong A hàm.- Trong bộ A hàm, chánh tri kiến chính là Bát nhã. Chánh tri kiến gọi tắt là chánh kiến, có nghĩa thấy biết chính xác. Nên chánh tri kiến cũng gọi là như thật tri kiến hay như thật tri, có nghĩa thấy biết đúng như sự thật. Và tri kiến mà chánh, mà như thật, thì có nghĩa vô đắc: không thủ đắc. Trưởng giả Cấp cô độc hằng ngày đến yết kiến đức Thế tôn. Một hôm ra đi hơi sớm, trưởng giả ghé vào tinh xá của ngoại đạo. Hai bên chào hỏi nhau rồi, các vị ngoại đạo hỏi trưởng giả, ông yết kiến đức Cù đàm mà thấy biết những gì? Trưởng giả thưa, xin quí vị nói sự thấy biết của quí vị rồi tôi sẽ thưa sự thấy biết của tôi. Các vị ấy nói những sự thấy biết của mình: đối với thế giới thì thấy cố định hay thấy chuyển biến, thấy hữu hạn hay thấy vô hạn, đối với sinh mạng và bản thân thì thấy đồng nhất hay thấy biệt lập, đối với sự diệt khổ rồi thì thấy vĩnh cửu hay thấy hư vô. Vị nào cũng nói cái mình thấy biết là chân lý, ngoài ra đều tà ngụy cả, và bảo trưởng giả hãy nói sự thấy biết của ông. Trưởng giả thưa, cái tôi thấy biết là duyên khởi (tương quan): thấy biết duyên khởi thì đối với mọi sự thấy biết đều không thủ đắc (Tạp, Chính 2/248, lược dịch).
Thấy biết như vậy là thanh tịnh kiến: thấy biết trong sáng. Thấy biết trong sáng là thấy Không; Không ấy là Thánh pháp ấn: ấn tín của Phật đối với vạn hữu (Tăng, Chính 2/20).
Không trong bộ A hàm.- Trước đây hay nói Không của tiểu thừa là phân tích không, nói Không của đại thừa là đương sinh vô sinh, lại nói Không của tiểu thừa là không trong 4 hành tướng vô thường khổ không vô ngã. Những cách nói như vậy xét ra thật là võ đoán. Bởi vì Tạp a hàm đã nói minh bạch, rằng Không là tánh tự nhĩ: thực chất tự như thế (Chính 2/56). Kinh ấy còn nói không phải tự sinh, tha sinh, cọng sinh, vô nhân sinh (Chính 2/81 và 93). Vậy thì Không không phải chỉ là không trong 4 hành tướng, mà Không là căn bản của tất cả lý, hạnh, quả, là Không tam muội.
Về Không là căn bản của tất cả lý hạnh quả thì hãy tham cứu 2 bài kinh chuyên nói về Không trong Trung a hàm (Chính 1/736-740); 2 bài kinh này nếu không biết đến thì đừng nói gì về Không cả. Còn Không là Không tam muội thì như Phật nói với tôn giả Xá lợi phất, Không tam muội là rất bậc nhất ... Không tam muội thì không chấp ngã nhân, thọ mạng, không chấp chúng sinh, không chấp các hành, nên không tạo nghiệp mới, không tạo nghiệp mới nên không còn hậu hữu, không còn hậu hữu thì không có quả báo khổ vui của thế gian. Xá lợi phất, khi ta chưa được tuệ giác Phật đà, ngồi dưới bồ đề đại thọ nghĩ rằng chúng sinh vì không được phương pháp gì mà phải lưu chuyển sinh tử, không được giải thoát? Ta lại nghĩ, chúng sinh vì không có Không tam muội nên lưu chuyển sinh tử mà không cứu cánh giải thoát ... Được Không tam muội thì được Vô nguyện tam muội, được Vô tướng tam muội; được Không tam muội thì thành tựu Vô thượng giác. Lúc bấy giờ ta được Không tam muội nên 7 ngày đêm ta nhìn bồ đề đại thọ không nháy mắt. Xá lợi phất, do vậy mà biết Không tam muội là tam muội bậc nhất; tam muội chúa tể chính là Không tam muội (Tăng, Chính 2/773).
Không tam muội còn được gọi là Thượng tọa thiền (Tạp, Chính 2/57). Đại sĩ thiền của kinh này nói (Chính 2/236) cũng thực sự là Không tam muội. Vô tránh đạo của ngài Tu bồ đề (68) chính là thực hành chân thực không (Trung, Chính 1/703). Không, như vậy, là tâm trí không đi theo 2 cực đoan nên chánh hướng trung đạo (Tạp, Chính 2/84).
Chánh tri kiến và Không tam muội như vậy hủy diệt cái gì? Cái ấy, hay nói đến nhất là ngã và ngã sở, nhưng hay nói đến hơn nữa là 2 chấp có và không. Có và không, không phải chỉ là 2 cực đoan, 2 phạm trù khẳng định và phủ định, mà Tăng a hàm giải thích thật đặc biệt: Đức Thế tôn nói với các vị tỷ kheo, có 2 sự thấy là thấy có với thấy không. Thấy có là thế nào? Là thấy có dục có sắc có vô sắc -- Thấy có dục là 5 dục: mắt thấy sắc thì rất ưa, quí và nhớ, chưa bao giờ rời bỏ mà cứ tôn thờ mãi; tai nghe tiếng, mũi ngửi hơi, lưỡi biết mùi, thân biết xúc, ý biết pháp (cũng như vậy), và đó gọi là thấy có. Thấy không là thế nào? Là thấy có thường thấy không thường, thấy có đoạn thấy không đoạn, thấy có biên thấy không biên, thấy có mạng thấy không mạng, thấy thân mạng khác nhau thấy thân mạng là một, (và) 62 sự thấy (xuất từ các sự thấy) như trên gọi là thấy không, và toàn là không phải sự thấy chính xác (Chính 2/577). Do đó luận Du dà đã nói: Không tam muội là tâm trí chuyên nhất quán sát về Không, và Không ấy đại khái có 4. Một là quán sát không: quán sát các pháp không thường, không lạc, cho đến không tự ngã, không ngã sở ... Hai là kết quả không: tâm trí giải thoát, không mọi phiền não tham sân si ... Ba là bên trong không: không bản thân, nghĩa là không có mọi cố chấp lệch lạc về tự ngã, ngã sở, ngã mạn ... Bốn là bên ngoài không: không ngũ dục, nghĩa là không ái không dục đối với ngũ dục ấy (Chính 30/337).
Không như vậy vì sao có thể thực hiện? Vì như Trung a hàm đã nói: Nếu có ai nói một cách đúng đắn để nói cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp, thì người ấy chính là ta đây -- Bởi vì chính ta nói đến cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp (Chính 1/680). Tạp a hàm còn nói rõ: Không phải giác quan buộc đối cảnh hay đối cảnh buộc giác quan, mà sự buộc chỉ là tham dục; ví như 2 con bò chẳng con nào buộc con nào, mà buộc cả 2 con chính là cái ách (Chính 2/60). Pháp thoại sau đây càng nên chú ý. Ma la ca thưa, bạch đức Thế tôn, con già cả, giác quan suy tàn, nhưng vẫn muốn được nghe đức Thế tôn cho con một lời dạy tóm tắt. Con nghe rồi sẽ tinh chuyên tư duy, cho đến tự biết không còn hậu hữu. Đức Thế tôn bảo thôi. Ma la ca vẫn cầu thỉnh lần thứ hai rồi lần thứ ba. Bấy giờ đức Thế tôn mới nói, ... thấy là thấy, nghe là nghe, hay là hay, biết là biết, và nói chỉnh cú sau đây: cái này không phải cái kia, cái kia không phải cái này, cũng không phải giữa hai cái, đó là biên cương đau khổ (đau khổ chấm dứt). Ma la ca thưa, con biết rồi bạch đức Thế tôn, con hiểu rồi bạch đức Thiện thệ! Đức Thế tôn hỏi, ông hiểu biết thế nào? Ma la ca thưa lại bằng lời chỉnh cú (lược dịch): sáu giác quan thấy nghe hay biết sáu đối cảnh mà không chánh niệm thì nổi tham sân si, nếu chánh niệm thì không tham sân si: đó là niết bàn. Rồi đó Ma la ca bất phóng dật mà tinh chuyên tư duy và thành bậc La hán (Tạp, Chính 2/90).
Như vậy thì vì "không" mới "có".- Không, như vậy, thực chất là đem cái tâm vốn không mà quán sát các pháp vốn không (Tạp, Chính 2/72). Không, như vậy, không phải đoạn kiến: không phải phủ định, hoài nghi, nên Tạp a hàm (Chính 2/92) đã nói: các tỷ kheo, có nghiệp báo mà không có tác giả: có hành vi và có kết quả của hành vi mà không có cái gọi là chủ thể (bản ngã). Trường a hàm nói càng rõ và đủ hơn: Như lai sử dụng phương tiện, nói các pháp mà không thủ đắc, nói sạch không mà có thành tựu (Chính 1/35). Như vậy đúng là "dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thế pháp đắc thành" (Trung luận, Chính 30/33). Nên phải chiêm nghiệm lời dạy đầy tính tích cực sau đây của Phật: Cái thân vô thường mà ông cho là tự ngã đó, ta nói nó là ô nhiễm, là thanh tịnh, là giải thoát. Ông đừng nói ô nhiễm không thể diệt trừ, thanh tịnh không thể phát sinh, con người phải ở mãi trong sự đau khổ; đừng nói như vậy, vì ô nhiễm có thể diệt trừ, thanh tịnh có thể phát sinh, con người có thể ở trong an lạc (Trường, Chính 1/112).
---o0o---