Khi chúng ta ngồi thiền một thời gian lâu, chúng ta nhận thấy hơi thở đến và đi, các ý tưởng xuất hiện rồi biến mất;nhận diện sự hoạt động của cái thấy, cái nghe, sự xúc chạm và vị giác. Nhưng mọi thứ mà chúng ta có thể thấy và cảm nhận với các giác quan không phải là tất cả những gì mà chúng ta đang trải nghiệm qua. Nhưng chúng ta nghĩ rằng chúng ta nhận thấy và hiểu biết về chính bản thân mình, và chúng ta nhìn thấy cũng như hiểu rõ thế giới của chúng ta. Và rồi chúng ta tự cho rằng chúng ta đã nhìn thấy và hiểu đúng về thế giới này, nên chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần phải thay đổi thế giới, hoặc thay đổi chính bản thân, và chúng ta trở nên đau khổ vì sự khiếm khuyết, rối loạn, cùng với những ham muốn, tham đắm.
Khi chúng ta quyết tâm ngồi thiền, quyết tâm trở về với giây phút hiện tại, dẹp bỏ mọi việc, mang toàn tâm tư trở về giây phút hiện tại, không gián đoạn, không xa cách, chúng ta có thể nhận thức được cái cảm giác chân thật của sự bao la chứa đựng trong chính niệm…
Việc thực tập thiền của chúng ta cũng giống như mưa vậy, vì liên tục nuôi dưỡng, cũng như thấm nhuần vào cuộc sống của chúng ta. Mưa làm ẩm ướt hạt giống đã lâu bị chôn vùi trong lòng mỗi chúng ta, và khi hạt giống nảy mầm nó sẽ đâm chồi kết lộc. Cho dù thiền tập đôi lúc gặp trở ngại và mưa đôi lúc có thể thay thế bằng bão giông. Tuy vậy, mưa và thiền tập đều cần thiết. Mưa rơi vì bản chất tự nhiên của nó, mưa không cần đấu tranh hoặc tự đặt câu hỏi , mưa không nghi ngờ hoặc than vãn, nó chỉ đơn giản rơi, từ đầu đến cuối. Và thiền tập của chúng ta cũng giống như vậy.
Khi chúng ta ngồi thiền một thời gian lâu, chúng ta nhận thấy hơi thở đến và đi, các ý tưởngxuất hiện rồi biến mất; nhận diện sự hoạt động của cái thấy, cái nghe, sự xúc chạm và vị giác. Nhưng mọi thứ mà chúng ta có thể thấy và cảm nhận với các giác quan không phải là tất cả những gì mà chúng ta đang trải nghiệm qua. Nhưng chúng ta nghĩ rằng chúng ta nhận thấy và hiểu biết về chính bản thân mình, và chúng ta nhìn thấy cũng như hiểu rõ thế giới của chúng ta. Và rồi chúng ta tự cho rằng chúng ta đã nhìn thấy và hiểu đúng về thế giới này, nên chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần phải thay đổi thế giới, hoặc thay đổi chính bản thân, và chúng ta trở nên đau khổ vì sự khiếm khuyết, rối loạn, cùng với những ham muốn, tham đắm.
Nhưng tất cả chỉ dựa vào sự đánh giá rất giới hạn trong đời sống con người. Chúng ta tin tưởng vào ước định này, vì nó đã nằm sâu trong tâm tư chúng ta, nhưng thật ra không phải như vậy, các giác quan của chúng ta không thể vượt xa để mà thấu hiểu. Tuy nhiên, khi chúng ta quyết tâm ngồi thiền, quyết tâm trở về với giây phút hiện tại, dẹp bỏ mọi việc, mang toàn tâm tư trở về giây phút hiện tại, không gián đoạn, không xa cách, chúng ta có thể nhận thức được cái cảm giác chân thật của sự bao la chứa đựng trong chính niệm. tất cả mọi thứ đều ở ngay nơi đây, từng giây từng phút. Trong một thế giới có những thế giới được tạo thành và bị hủy diệt với từng hơi thở ra vào.
Khi chúng ta thấy rõ sự kiện này, chúng ta vẫn phải chọn lựa, vẫn phải ứng phó về các lựa chọn của chúng ta, và phải chịu đựng những hậu quả, nhưng chúng ta sẽ có khả năng thấy tất cả mọi việc một cách đầy đủ hơn, và đánh giá chúng một cách sâu sắc hơn, và như vậy năng lực và sự an lạc của chúng ta cũng sẽ gia tăng.
Tôi biết rằng đa số chúng ta, ngồi thiền để tiếp nhận Mười sáu giới Bồ tát, chúng ta học và suy ngẫm về các điều này. Các giới luật như thế này: một vật thật nhỏ, thật đơn giản sẽ mở ra một chân trời bao la. Giới luật mới nghe tưởng như là luật lệ hoặc sự ngăn cấm, nhưng thật ra giới luật cũng giống như thực tập thiền, xuyên qua các giới luật này, chúng ta sẽ thấu hiểu về cuộc sống vô cùng của chúng ta.
Khi chúng ta nói quy y Phật-Pháp-Tăng, nghĩa là, chúng ta quay về nương tựa nơi Phật-Pháp-Tăng, chúng ta quay về với căn bản ban đầu, chấp nhận rằng Phật, Pháp và Tăng không khác gì với thân và tâm của chúng ta. Lần nữa, chúng ta cảm kích bản chất, và thực chất của thân và tâm, rồi đến các vấn đề của chúng ta, những lo âu, cho dù chúng vẫn hiện diện trong cuộc sống , chúng ta không nghĩ về chúng, và không xem chúng quan trọng như trước đây nữa.
Ở thiền viện Tassajara, chúng ta thực hành một bài tập được hướng dẫn bởi thầy Uchiyama Roshi tại Nhật Bản,thực tập này gọi là “khóa thiền yên tịnh”. Nghĩa là khóa thiền không có pháp thoại, không có độc tham, không có tụng kinh, không có gì hết.
Tôi xin gửi đến các vị bài phê bình về một quyển sách có tính cách giáo dục. Có lẽ các vị đã biết rồi. Quyển sách ấy có tên là “Kết cấu của thực tại: Khoa học về các vũ trụ song song và những liên quan mật thiết của chúng”, của tác giả David Deutsch. Các vị có biết quyển sách này không? Nghe tựa sách không cũng đã thấy quá hấp dẫn rồi. Đây chỉ là một bài phê bình nhỏ; sau khóa thiền, nếu các vị cần đọc một quyển sách, hãy đọc quyển sách này.
Bài phê bình sách bắt đầu với một thí nghiệm thông thường về vật lý học mà mọi người đều biết, ở đây tác giả muốn nói đến “Thí nghiệm chia hai xa xưa củ rích”. Tất cả các vị dĩ nhiên đã biết về thí nghiệm chia hai này, đúng không nào? Cá nhân tôi thì chưa nghe qua bao giờ, nhưng tác giả nhấn mạnh rằng mọi người đều biết về điều này.
Cũng may là nhà phê bình đã giải thích về Thí nghiệm Chia hai: “Nếu các vị nhắm bắn một tia phân tử (proton) vào phim hình, kế đó dùng một tấm cạc-tông đã bấm hai lỗ, chắn ngang đường đi của các phân tử. Kế đó, anh bít một trong hai lỗ, và các phân tử sẽ tự động đi xuyên qua lỗ hổng còn lại, và để lại một đốm trên phim hình”. Tới đây cũng dễ hiểu, phải không nào? Cũng có lý lắm-cac photons đi xuyên qua đó và để lại một đốm. “Việc gì sẽ xảy ra khi anh không bit lỗ trống thứ hai?”. A, anh nghĩ rằng các photons sẽ di chuyển xuyên qua hai lỗ hổng và anh có thể nhận thấy hai đốm, bên cạnh nhau, tương ứng với hai lỗ hổng trên tấm cạc tông. Thật ra, anh không thấy hai đốm đâu. “Mở cả hai lỗ hổng làm cho các photons đi theo một mô hình đối lập rắc rối, và một dạng hình xen nhau giữa các dải băng tối và sáng, mô tả sự hiện diện và vắng mặt của các photons”. Điều này thật lạ lùng. Tại sao lại như vậy? Ông ta nói rằng: “Mở cả hai lỗ hổng sẽ ngăn chận một phân tử đi theo tiến trình ban đầu của nó”.
Nhà vật lý John Bell đã nói về tình trạng rắc rối này, nhưng bây giờ đã trở nên thông thường một cách kỳ quặc (trừ chúng ta), nghĩa là “chỉ cần có khả năng đi xuyên qua lỗ hổng kia, sẽ làm ảnh hưởng đến sự chuyển động và ngăn chận các hướng đi của phân tử đó”, Điều này được giải thích một cách dễ hiểu bằng học thuyết lượng tử, ít nhất là về mặt toán học. Thuyết lượng tử có thể giải thích điều này, cho dù khi anh cố gắng chuyển dịch nó vào ngôn từ và kinh nghiệm hàng ngày, nó thách thức logic (lý luận), và chắc chắn rằng nó thách thức cả ngôn ngữnhân loại. Việc này làm cho nhà vật lý Neils Borr nói: “Chúng ta cần phải hiểu rõ rằng, khi nói đến các nguyên tử, ngôn ngữ chỉ có thể được sử dụng như thi ca”.
Tuy nhiên, trong quyển sách “Kết cấu của thực tại”, David Deutsch cãi lẽ trong sách như sau, “Nếu chúng ta đánh giá bề ngoài của thuyết lượng tử, chúng ta sẽ đi đến kết luận là vũ trụ của chúng ta chỉ là một trong những khối vũ trụ song song, mà các nhà vật lý gọi là “Multiverse” (nhiều vũ trụ). Deutsch tin rằng một vài phần của các photons trong Thí nghiệm Chia hai bị cản trở và xáo trộn bởi “những bóng vô hình của photons ở một vũ trụ khác”. Điều này không phải là khoa học giả tưởng, nếu anh nghĩ đến toán học và lượng tử cơ học, điều này được hình thành dựa vào các thí nghiệm và toán học.
Sự giải thích về Đa Thế giới là một cách giải thích về lượng tử cơ học, đã được nhà vật lý Hugh Everett trình bày lần đầu mấy mươi năm trước đây. Thí dụ, anh muốn đo chiều hướng của một hạt hạ phân tử. Theo thuyết lượng tử, một phân tử không bị xáo trộn giống như nó đang trong trạng thái bị giam cầm. Đây là lúc trước khi anh đo lường nó. Ở tất cả mọi chiều hướng mà phân tử có thể hiện hữu, trước khi anh đo lường, các phân tử ấy nằm trong trạng thái bị giam cầm.
Chỉ khi phân tử được đo lường, nó mới nằm ở một vị trí nhất định. Không có lý do gì một phân tử chọn vị trí này mà không chọn một vị trí khác, sự chọn lựa thật là bừa bãi. Ông Everett đã đề nghị cách khác, theo toán học đều có vẻ hợp lý, nhưng so với cách suy nghĩ về trạng thái thì nó đối lập với trực giác. Nghĩa là khi phân tử được đo lường, thế giới bị chia ra thành nhiều thế giới khác nhau. Trong một thế giới này, điện tử (electron) nằm ở một vị trí khác. Chúng ta chỉ là bị kẹt trong một thế giới của vô số thế giới đa dạng này.
Dù sao đi nữa, tôi cũng nghĩ là các vị nên biết về việc này, nếu như các vị về nhà tối nay, và có người hỏi, “Anh có cảm thấy phí phạm thời gian không?”, anh có thể trả lời, “Không, không đâu, tôi vừa học chút xíu về lượng tử cơ học”.
Trong Phật giáo, sự thực tập về cái thấy chân thật của kết cấu thực tại, xa hẳn cái thấy hữu hạn của chính nó,chúng ta gọi là thực tập về cái thấy rỗng không của tất cả bản chất hiện tượng. Đôi lúc chúng ta gọi sự thực tập này là như thế đó, hoặc như vậy đó. Hoặc giả chúng ta chỉ nói theo lối nói bình thường hàng ngày, chúng ta nhìn thấy mọi vật như chúng là, không phải nhìn thấy chúng với sự hình thành cụ thể có giới hạn.
Trong Phật giáo có một nhân vật thần thoại là Bồ tát Manjusri, hiện thân của sự thực tập, nhìn mọi vật như chúng là. Bồ tát Manjusri là một hành giả phi thường. Tôi không biết anh có bao giờ nhìn những bức tranh hay hình tượng của Bồ tát Manjusri, có lẽ lớn như người thật, ở đền thờ Green Gulch. Tượng Bồ tát Manjusri ở Green Gulch, và tất cả những bức vẽ về Bồ tát Manjusri, tất cả đều mô tả Bồ tát Manjusri trong tư thế ngồi. Hãy nghĩ rằng Bồ tát Manjusri đang ngồi nơi chỗ của anh: Bồ tát Manjusri đang ngồi thiền nguyên cuối tuần, để thấy mọi vật như chúng là.
Thật sự chúng ta là hư không. Chúng ta nhìn vào tự thân và chúng ta nhận thấy đối tượng chính là bản thân. Thật vậy, giữa mỗi một phân tử và mỗi một nguyên tử trong thân thể của chúng ta, theo khoa học, có rất nhiều khoảng trống trong thân, rất nhiều khoảng hư không. Cả nguyên sự hiện hữu của thân thể chúng ta cũng là dựa vào sự bao la của hư không.
Có lần, tôi đọc báo Khoa học, và tôi không hiểu DNA hoạt động ra sao, nhưng báo nói về DNA và sự cấu tạo của nó, nói về thể nhiễm sắc, về những thành phần đan chéo vào nhau để tạo thành DNA. Bài báo cho biết người ta có thể lấy mẫu DNA trong thân thể một em bé, và thay vì để các thành phần ấy kết chặt trong mỗi tế bào, họ trải các xâu DNA ra, nếu DNA của em bé có thể trải ra kiểu này, thì nó sẽ trải dài từ Mặt trời đến hành tinh Pluto (hành tinh xa mặt trời nhất) gấp mười bảy lần. Tôi không biết rõ là bao nhiêu dặm (miles), nhưng thật là lạ lùng khi nghĩ đến điều này.
Trong thiền đường của chúng ta, tượng Bồ tát Manjusri tay cầm một cây gậy giống như thế này: Bồ tát không quơ hay vung gậy, Ngài cầm gậy một cách khéo léo để nó không bị rơi xuống đất. Dường như Ngài chẳng hề nghĩ gậy ấy là của Ngài. Đặc trưng hơn cả là các hình tượng của ngài Manjusri, một tay đang vung kiếm khỏi đầu. Đây là thanh kiếm nổi tiếng thường được nhắc đến trong trường Thiền, thanh kiếm có thể lấy đi sinh mạng cũng như cứu lấy sinh mạng. Thanh kiếm lấy mạng hoặc cứu mạng, bởi vì thanh kiếm chặt xuyên qua cái nhìn giới hạn của chúng ta, giữa ta và người, sống và chết, tốt và xấu. Như tôi đã nói qua, ngài Manjusri ở thiền đường Green Gulch của chúng ta thì cầm một thiền trượng với một đóa hoa nhỏ ở đầu gậy.
Một sự việc khác về Bồ tát Manjusri, Bồ tát là hiện thân của sự thực tập “thấy mọi việc như chúng là”, xa rời hẳn những khái niệm giới hạn, Ngài thường được diễn tả là một người trẻ trung. Tuổi 16 là tuổi điển hình của Bồ tát Manjusri. Ngài được diễn tả như là một người trẻ tuổi, vì trí tuệ của Ngài. Trí tuệ thấy được tất cả mọi vật như chúng là.
Suzuki-roshi, người đã dựng nên Trung tâm Thiền San Francisco, ông đã sử dụng một câu đề tựa cho tác phẩm của ông, và bây giờ câu ấy rất là phổ biến, gọi là trí tuệ của Bồ tát Manjusri, trí tuệ của Tâm thức lúc ban đầu. Đó là thấy mọi thứ một cách mới mẻ, thấy mọi vật trong kích thước hoàn toàn của chúng, với sự kỳ diệu, không phán đoán, và không thành kiến. Thông thường các trẻ nhỏ có thể thấy như vậy một cách rất tự nhiên. Chúng có thể thấy phép lạ trong bất cứ trường hợp nào, thấy sự liên hệ vô cùng, trong mỗi vật, mỗi thứ mà chúng đối diện. Cũng trong cách này mà Bồ tát Manjusri nhìn thấy mọi sự vật, chỉ là ngài Manjusri thì lớn tuổi hơn một chút, vì vậy Ngài có khả năng để hành động với lòng nhiệt huyết,hăng say và sự chính xác.
Chữ Manjusri có nghĩa là “cao quý, lịch sự”. Trí tuệ và tuổi trẻ của Bồ tát Manjusri đã tạo nên hình tượng của Ngài, và tôi biết rằng ngài Manjusri cũng đang ngồi ngay chỗ của anh, cao quý, và lịch sự. Ngài Manjusri biết gốc cao quý của Ngài, ấy là biết rõ bản chất tự nhiên của thân và tâm, thân và tâm không khác mọi vật, không có giới hạn, và hoàn toàn trống không. Sự hiểu biết này mang lại cho Bồ tát Manjusri một vẻ trang nghiêm trầm lặng và sức chịu đựng, có khả năng nhận thấy sự việc rõ ràng và sự kham nhẫn của tất cả trạng thái của tinh thần, kể cả đau khổ , biết rằng tất cả các vấn đề đã được giải quyết, và không có gì đến hay đi, chẳng lo âu về sanh tử. Nhờ vậy Bồ tát Manjusri mang dáng vẽ lịch sự và cuộc sống của ngài toát lên vẻ quý phái cao sang. Prajna Paramita (Bát nhã ba-la-mật), khi nói về trí tuệ của ngài Manjusri, kinh nói rằng, “Chỉ có trí tuệ mang đến cho chúng ta sự kiên nhẫn”. Đây là thế giới của chúng ta, đầy đủ mọi vật mặc dù chúng chưa bao giờ được cấu tạo.
Có một kinh gọi là “Lời tiên tri về ngài Manjusri đạt quả vị Phật”. Trong kinh này, một người hỏi ngài Manjusri, “Giác ngộ là gì?” hoặc “Làm thế nào để đạt giác ngộ?” Ngài cho một câu trả lời rất sáng suốt và nhẹ nhàng. Ngài nói, “Tôi không hối thúc bất cứ chúng sinh nào tiến đến giác ngộ, bởi vì chúng sinh đã không khi nào hiện hữu, và không có bản ngã. Bằng chứng là Giác ngộ và chúng sinh đều giống nhau, không khác. Cái không khác này chúng ta gọi là Không. Trong cái Không, chẳng có gì để mà tìm kiếm”.
Vị Manjusri đang ngồi nơi chỗ của anh, trong vũ trụ song song, ở trên, ở dưới và ở xung quanh anh, ngài ngồi với dáng thật đẹp, an lạc, yên ổn trong sự hiểu biết về cái không. Điều chúng ta cần làm là bước một bước vào đời sống, hoàn toàn tỉnh thức trong quá trình trải nghiệm của chúng ta, không khoảng cách, không bám víu, không suy diễn, không ham muốn, không sửa chữa. Chỉ là bước vào đời với kinh nghiệm sẵn có, bất cứ là kinh nghiệm gì. Và khi chúng ta làm như vậy, Bồ tát Manjusri có thể xuất hiện để tiếp xúc với chúng ta, thể hiện sự thực tập của Ngài một cách hoàn hảo xuyên suốt qua cuộc sống và hoạt động của chúng ta.
Như vậy, tôi tin rằng trong vài giờ còn lại của buổi thiền tọa hôm nay, và ngày mai, và trong quãng đời còn lại, kể cả trong tương lai, chúng ta có thể tuyên thệ, một cách nghiêm trang, tiếp tục sự thực tập của Bồ tát Manjusri. Thật vậy, tôi nghĩ thiền tập làm cho đời sống của chúng ta có giá trị hơn. Nó làm cho cuộc sống của chúng ta tốt đẹp, và lợi ích.
Tất cả chúng ta chỉ cần rất đơn giản-là ngồi thẳng, hoàn toàn tỉnh thức trong tư thế này và hít thở, cố gắng theo dõi mỗi hơi thở ra vào, để ý mỗi ý nghỉ và cảm giác một cách rõ ràng mỗi khi chúng xuất hiện, và rồi từ tốn quay về với tư thế và hơi thở.
Chỉ cần thực tập như vậy thôi. Rất là đơn giản, bất cứ cái gì xuất hiện trong lúc thực tập, bất cứ gì xảy ra, đều tốt, biết đâu đó là một cơ hội vô tận.
- Từ khóa :
- Zoketsu Norman Fischer