Giới thiệu tấm bia chữ Nôm chùa Mụa mới sưu tầm
Chùa Mụa, hiện trạng chùa còn tốt, hiện tại còn 4 tấm bia nói về việc dòng họ bà Trần Thị Ngọc Am cùng các tín chủ ở địa phương cúng tiến ruộng vào việc dựng chùa, ngoài ra còn có một số hoành phi câu đối.
Giới thiệu tấm bia chữ Nôm chùa Mụa mới sưu tầm
Vũ Thị Lan Anh
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Trong đợt sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại tỉnh Hưng Yên, chúng tôi đã có dịp về chùa Vĩnh Phúc (tên Nôm là chùa Mụa) ở thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá, huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên.
Chùa Mụa thờ bà Trần Thị Ngọc Am – Vương phí thứ hai của chúa Trịnh Tráng, sau được ban quốc tính họ Trịnh (Trịnh Thị Ngọc Am). Nhân dân địa phương quen gọi bà là bà chúa Mụa.
Hiện trạng chùa còn tốt, hiện tại còn 4 tấm bia nói về việc dòng họ bà Trần Thị Ngọc Am cùng các tín chủ ở địa phương cúng tiến ruộng vào việc dựng chùa, ngoài ra còn có một số hoành phi câu đối. Chùa đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa ngày 15 tháng 10 năm 1997.
Để ở sát tường phía trái chùa có một tấm bia chữ Nôm. Bia một mặt, khổ 85 x 57cm, chạm hình rồng, mây, hoa sen cách điệu, sóng nước. Bia khắc kiểu chữ Nôm chân phương, có bài ký viết theo thể song thất lục bát. Bia có 17 dòng, dòng nhiều nhất 34 chữ, dòng ít nhất 1 chữ, một số chữ đã bị sứt, mòn, dựng năm Bảo Đại 17 (1942).
Nội dung Bia nói về quá trình dòng họ Trần (dòng họ nội của bà Trần Thị Ngọc Am) xây dựng ngôi chùa. Năm Thành Thái 12 (1900) người trong họ là ông Trần Đức Tiến đứng ra xây ngôi phủ thờ. Đến năm Bảo Đại, hai vợ chồng người con thứ của ông là Trần Đăng Phúc và vợ là Phạm Thị Viết xây dựng lại cho chắc chắn. Đến năm Tân Tỵ, xây dựng tam quan thêm bức tường hoa, tháng 3 năm Nhâm Ngọ con trai ông bà Trần Văn Khoản hoàn thành tòa bi miếu để việc thờ tự của họ Trần đi vào quy củ.
Nhận thấy đây là tấm bia có nội dung và cách thức thể hiện khá độc đáo, chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ nội dung tấm bia:
BIA CÔNG ĐỨC CỦA HỌ TRẦN
BIA CÔNG ĐỨC CỦA HỌ TRẦN VÀ BÀI KÝ
Phủ vương phi là nơi phát tích
Họ Trần ta trong lịch sử truyền
Trải qua những việc biến thiên
Dấu thiêng để lại một nền gió mưa
Căn phúc ấm ơn nhờ từ trước
Con cháu nay cũng được như người
Đời vua Thành Thái mười hai
Cụ Trần Đức Tiến dựng ngôi phủ thờ
Nền công đức bấy giờ gây trước
Còn đơn sơ chưa được vững bền
Triều vua Bảo Đại trung niên
Ông Trần Đăng Phúc con hiền thứ hai
Phạm Thị Viết là người hiền phụ
Việc phụng thờ củng cố kinh dinh
Mấy năm xây đắp chửa thành
Lòng từ(1) công trình sửa sang
Tòa phủ mới trang hoàng rực rỡ
Khắp trong ngoài mọi vẻ nguy nga
Đến năm Tân Tỵ vừa qua
Tam quan thêm bức tường hoa cửa ngoài
Công việc làm nửa vời chửa kịp
Cảnh thanh nhàn ông kíp chơi xa
Sang năm Nhâm Ngọ tháng ba
Việc ông định trước công bà theo sau
Trần Văn Khoản con đầu chăm chỉ
Dốc một niềm theo ý việc cha
Hoàn thành bi miếu một tòa.
Trước sau công của ông bà biết bao
Lại ký ruộng cúng vào hương khói
Để muôn đời nối dõi thủy chung
Họ hàng ai cũng biết công
Xin hầu hai vị hậu ông hậu bà
Bia kỷ niệm năm ba hàng chữ
Để lưu truyền những sự công duyên
Đời đời nhớ đến tổ tiên
Tứ thời bát tiết dám quên công trình.
Lưu đặt ruộng đất hương hỏa cùng ngày giỗ liệt kê dưới đây:
Kê:
Ông họ Trần, húy Bái, tự Đức Tiến, giỗ ngày 27 tháng 4.
Bà họ Nguyễn, húy Nhận, hiệu Diệu Lạc, giỗ ngày 29 tháng 2.
Ông họ Trần, húy Bạt, tự Đăng Phúc, giỗ ngày 5 tháng 9.
Bà họ Phạm, húy Viết, hiệu Diệu Tiết.
Một thửa ruộng ở xứ Cửa Quán số(2), 1 mẫu 2 thước.
Một thửa ruộng ở xứ Cửa Quán số 180, 2 sào 7 thước.
Một thửa ruộng ở xứ Tả Giang số 33, 2 sào 1 thước.
Một thửa ruộng ở xứ Cửa Quán số 191, 3 sào 5 thước, Trương Thị Tía cúng tiến.
Một thửa ruộng ở xứ Tả Giang số 440, 1 sào 1 thước, Trần Thị Quy cúng tiến.
Ngày 5 tháng 6 năm Bảo Đại 17 (1942)
Trần Kỳ, người trong họ soạn
Trần Văn Kiến viết chữ
Chú thích:
1. Những chữ trong bị mờ không đọc được.
2. Những chữ trong bị mờ không đọc được.