QUI SƠN CẢNH SÁCH
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần 3
Chánh Văn:
“Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỷ Kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trụ, bất giải thổn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẩn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu. Động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ Kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử, đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực”.
Dịch:
Sao lại vừa mới lên giới phẩm, liền xưng: Ta là Tỳ Kheo. Dùng của thí chủ, ăn của Thường trụ, không biết xét nghĩ của ấy tự đâu đem đến, lại nói càng: lẽ (đương nhiên) phải hiến cúng. Ăn rồi dụm đầu ồn náo, chỉ nói toàn chuyện tạp thế gian. Song, một thuở đua vui, không biết vui ấy là nhân của khổ. Nhiều kiếp theo trần, chưa từng tỉnh lại. Thời giờ mất mát, năm tháng dần dà. Thọ dụng càng nhiều, thí chủ càng được lợi. Hết năm này sang năm khác chẳng chịu trừ bỏ. Chất chứa càng nhiều chỉ để giữ gìn thân huyễn. Đấng đạo sư có lời dạy, răn nhắc Tỳ Kheo: “Tiến đạo nghiêm thân, ba việc thường chớ đủ”. Người nay phần nhiều mê đắm không thôi, ngày lại tháng qua thoạt nhiên đầu bạc. Kẻ hậu học chưa nghe chỉ thú, phải nên rộng hỏi bậc tiên tri. Chớ nói xuất gia trọng cầu ăn mặc.
“Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỳ Kheo”. Đến đây Tổ cho một roi quá đau. Thọ giới rồi xưng Tỳ Kheo vì sao lại bị quở? Tổ quở đây là quở bịnh ngã mạn. Là người xuất gia phải luôn giữ vững ý chí, bổn phận của mình, bên trong ghi nhớ pháp tu, bên ngoài mở rộng đức lục hòa, luôn luôn có ý chí cầu siêu thoát thế gian. Tại sao mới vừa thọ giới lại xưng ta là Tỳ Kheo, có ý tự cao ngã mạn? Vì thế mà Tổ quở… Rồi thì:
2.Xét lại đức hạnh của mình, được những điểm ưu nào, còn những điểm khuyết nào để sửa.
3.Xét ngừa tâm tham của mình, không để nó xâm lấn. Giả sử lên bàn ăn thấy toàn rau muống luộc rồi sanh ngán, nghĩ đến món ăn ngon. Như vậy là có lỗi tham ăn. Chúng ta phải nhớ ngừa tâm tham ấy chớ đòi hỏi, ăn sao cũng được miễn sống để tu hành là quí rồi.
4.Nên xem việc ăn uống chỉ là món thuốc để trị bịnh. Như khi đói quá thì tay chân rũ liệt, không muốn nói cũng không muốn đi, đó là bịnh chớ gì? Rồi sau khi ăn vài chén cơm thấy khỏe… Vậy cơm là thuốc trị bịnh. Mà đã là thuốc thì dù thuốc đắng thuốc ngọt gì cũng uống, uống cốt để trị bịnh thôi, đừng chê khen gì cả. Nếu chúng ta ăn mà nghĩ ngon dở tức là đã lệ thuộc vào cái lưỡi, chứ không phải ăn để trị bịnh. Nếu ăn để trị bịnh thì dù đắng cay ngon dở gì cũng được, miễn trị được bịnh đói thì thôi.
5.Nghĩ mình tu là quyết định thành đạo nghiệp. Tức phải thể nhập bản thể của mình, kế đó thực hành công hạnh viên mãn, cho nên mới ráng mà thọ món ăn này, chớ chẳng phảino đủ để vui chơi. Chúng ta thấy có rất nhiều người lầm khi nói: ăn thứ này bổ có thể lên cân, ăn thứ kia lâu ngày sẽ sụt ký… Như vậy đó là chúng ta vì mập ốm chứ chẳng phải vì đạo nghiệp mà ăn. Chúng ta ăn cốt để tu hành thành đạo độ sanh, đó là ý nghĩa mà Phật bắt phải quán trước khi ăn. Thế mà hiện nay có người dám tuyên bố trước đại chúng rằng: “Ăn chay đã quá lắm rồi, tại sao lại phải “tam đề ngũ quán?” Nghe như vậy tôi cảm thấy thực buồn. Bởi vì chúng ta đã sẵn bịnh buông lung, nếu không hằng xét mình thì dễ bị nghiệp lôi, nên Phật bắt chúng ta trong tất cả hành động đều phải tỉnh giác, không để cho thói xấu xâm nhập. Khi ăn chúng ta khởi Tam đề ngũ quán là để xứng với tư cách của người cầu giải thoát. Nếu chúng ta không xét, không nghĩ, vừa ăn vừa cười hỷ hả nói chuyện nhảm nhí thế gian, thì thực là trái đạo. Có người bảo rằng: “Tín đồ cúng là lẽ đương nhiên, tôi tu họ phải cúng cho tôi ăn”. Lý luận như vậy thật là không chịu nổi. Họ có thiếu nợ mình đâu mà phải cúng cho mình ? Sở dĩ họ cúng là vì họ muốn châm một ít dâù vào ngọn đèn Tam Bảo, để soi sáng thế gian cho mọi người thoát khỏi mê lầm. Vì chúng ta là những người nhân danh Tăng Bảo, giữ cho Phật pháp thường còn ở thế gian. Tín đồ giúp chúng ta là muốn cho Phật pháp được lâu dài, để chúng sanh được cứu giúp khỏi vòng sanh tử, chớ chẳng phải họ giúp chúng ta ăn chơi. Nhận của tín thí thì phải đủ tư cách của người giải thoát. Bằng tu mà tính chuyện tầm phào, bắt người cúng dường cho mình là chuyện không thể được. Đó chỉ là lý luận của kẻ si mê lầm lạc. Đến câu:
Nói như vậy thì sao? Mình có nên thọ cúng không, hay nên tự túc? Đây là chổ cần chú ý. Có lắm người nghe nói như vậy liền nghĩ: Thôi bây giờ mình phải tự làm để ăn, rảnh lúc nào tu lúc nấy cho khỏi thọ của tín thí, khỏi mang tội, trầm luân. Lý luận như vậy có đúng không? Hình như đa số chấp nhận là đúng. Chúng ta nên cẩn thận, phải hiểu cho tường tận điều này để không quanh quẩn lầm lạc. Đạo Phật chủ trương đi tu là làm khất sĩ làm kẻ ăn mày. Ăn mày đây không có nghĩa là rút rỉa đồng bào, sâu mọt của bá tánh. Ăn mày đây là cốt gây duyên lành cho chúng sanh, chớ không phải vì muốn rút rỉa khiến cho người phải khổ. Bởi vì muốn độ người thì một là mình ban ơn cho họ, hai là họ ban ơn cho mình, đó là kết duyên với nhau. Nếu mình và người không liên hệ gì thì khó mà độ được. Vì là người tu, chúng ta không có của cải để ban ơn cho họ, thì trước mình nhận ăn của họ bằng cách thọ đồ cúng dường, nhưng sau đó mình phải đem giáo pháp của Phật mà bố thí lại. Như thế họ giúp mình cơm áo, mình giúp họ đạo lý, tuy một mặt mình thọ ân, nhưng một mặt mình cũng ban ân. Như vậy trên đường tu tuy thấy mình như thiếu nợ mà thật sự không thiếu. Điều này Phật đã nói rõ trong kinh A-Hàm qua câu chuyện Bà Dì Mẫu xin xuất gia: Di Mẫu Ma-Ha Ba-Xà Ba-Đề xin Phật xuất gia, Phật không cho. Bà rất buồn khổ. Thấy vậy Ngài A-Nan bạch Phật: “Thuở xưa, Thế Tôn được sanh ra mới 7 ngày, Mẫu hậu đã mất. Từ đó một tay Di Mẫu nuôi nấng Thế Tôn cho đến lớn khôn, biết bao nhọc nhằn vất vả. Bây giờ Bà xin xuất gia mà Phật không cho, chẳng lẽ Ngài không nhớ ơn sao?”. Phật trả lời: “Chính vì nhớ ơn mà ta đã dạy Bà thọ Tam quy ngũ giới, thế cũng đủ trả ơn rồi”. Như vậy chúng ta thấy cách trả ơn của người tu không phải là đem tiền tài đáp lại, mà chỉ làm sao khiến người biết đạo, mến đạo rồi phát tâm tu hành đó gọi là đền ơn. Thí chủ giúp ta tài sản, ta giúp lại bằng pháp. Cả hai bố thí lẫn nhau.
Giả sử nay chúng ta thọ nhận của người mà chưa từng bố thí pháp cho họ, lỡ họ chết mất chúng ta có nợ họ hay không? Nếu nợ thì làm sao trả đây? Chúng ta nên nhận rõ điều này để tránh khỏi lo âu. Chúng ta nên ý thức rằng chúng ta là kẻ nợ của tất cả chúng sinh, chẳng phải nợ riêng của một người cúng dường ta mà thôi. Vì sao vậy? Khi quí vị tuyên bố xuất gia tức là đã gánh vác cái nợ lớn lao của toàn thể chúng sanh rồi. Vì bản nguyện của người xuất gia là tự cầu giải thoát và cứu độ chúng sanh. Tức chúng ta là người gánh vác đưa đón chúng sanh qua khỏi biển trầm luân, cho nên ai cũng là chủ nợ của mình hết. Vì thế mà tôi dám tuyên bố một câu mạnh mẽ rằng: “Tôi là kẻ nợ của tất cả. Song, lười trả lắm! Ai biết đòi mới trả”. Nhưng cái nợ của người tu khác người thế gian. Ngoài thế gian nợ thì họ kéo lưng, níu áo. Còn nợ của người tu, thì chuyển làm Thầy trò. Như vậy Phật tử cúng dường Tăng Ni, nếu họ chưa được độ trong hiện tại thì trong vị lai họ cũng sẽ được độ, vì họ đã có gieo duyên với Tam Bảo, đã có duyên thì thế nào cũng gặp nhau qua nghĩa Thầy trò, làm Thầy để độ trò, để cứu vớt họ qua khỏi luân hồi sanh tử. Thế nên, nếu là kẻ thực tu, quyết chí cầu giải thoát thì nợ của thí chủ bao nhiêu cũng không sợ, vì đó là gây duyên để độ người. Chỉ những ai nhát nhúa muốn an phận thì mới sợ lẽ đó, rồi nghĩ rằng: thôi mình làm tự túc sống, chẳng dính dáng gì đến ai hết. Phật gọi đó là ích kỷ chứ không phải vì chúng sanh. Nói tóm lại nợ hay không nợ cũng tại nơi mình. Chúng ta có thể là kẻ nợ chịu nhiều thống khổ nếu chúng ta không thực tu hành, không nhất tâm cầu giải thoátNgược lại, chúng ta có thể là người độ thoát chúng sanh nếu chúng ta quyết chí tu hành giải thoát.
Có lắm người quan niệm rằng, phải tu gấp rồi nguyện sanh về một nơi nào đó (cõi Cực Lạc) yên ổn hơn để tu nữa, còn trở lại Ta Bà khổ quá tu không được. Lý luận này rất hay đối với người không nghĩ rằng mình là kẻ nợ của chúng sanh, hoặc tự thấy mình bất lực với hiện tại. Nhưng đối với người có tâm niệm dũng mãnh, nhất tâm giải quyết sanh tử ngay trong đời này và thệ nguyện cứu vớt chúng sanh, thì thấy việc cầu xin về Cực Lạc là chưa cần thiết. Vì không hợp với tâm nguyện cao đẹp của Bồ Tát, như Ngài Địa Tạng nguyện xuống địa ngục, nếu địa ngục chưa hết người. Ngài thề không thành Phật (địa ngục vị không thệ bất thành Phật). Và có ai gan dạ bằng Ngài A-Nan, Ngài nguyện: Nếu còn một chúng sanh chưa thành Phật, Ngài sẽ không nhập Niết Bàn. Chúng ta là Phật tử, học giáo lý Đại thừa, thì ít ra cũng phải nguyện ở nơi Ta Bà, nếu chưa độ hết chúng sanh thì không về Cực Lạc (hay nhập Niết Bàn). Còn như chạy gấp về bên ấy, còn ai ở bên này chịu khổ cũng mặc kệ, thì mình yếu đuối quá. Chúng ta đừng thấy trong sử ghi là có những vị Thiền sư đời sau trở lại làm tướng, làm quan, làm vua hay làm người nữ… Như trường hợp ông Tô Đông Pha trước là Thiền sư sau trở lại làm Tể quan, rồi cho đó là lui sụt. Đâu không nhớ trong kinh Phổ Môn nói’ “Ưng dĩ Tể quan thân đắc độ giả tức hiện Tể quan thân nhi vị thuyết pháp.Ưng dĩ Phạm Vương v.v…”Bồ Tát luôn luôn tùy tha nguyện cầu độ mà các Ngài tùy hình tướnghiện ra để độ, đó là tùy nguyện độ tha, chứ chẳng phải các Ngài lui sụt. Có một số người lầm lẫn sợ sệt, kiếp này không độ được thí chủ thì làm sao đây? Chẳng ngờ rằng mình đã nguyện tự giác và độ hết chúng sanh mới thành Phật đạo, thì có gì phải sợ, chỉ sợ chúng ta không dõng mãnh tiến tu, chớ một khi bước vào dòng đạo rồi thì dù cho có thọ của thí chủ bao nhiêu cũng không đến nỗi đọa. Vì thế các Thiền sư thường nói: “Dù thọ mỗi ngày một lượng vàng ròng cũng chẳng sao”. Song, chúng ta cũng có thể đọa dù thọ nhận rất ít, nếu chúng ta buông lung tâm ý chẳng tự giác ngộ.