- Lời Nói Đầu Của Dịch Gỉa
- 01. Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi
- 02. Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
- 03. Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
- 04. Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
- 05. Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai
- 06. Pháp Hội Bất Động Như Lai
- 07. Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
- 08. Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
- 09. Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
- 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
- 11. Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh
- 12.01. Phẩm Khai Hoá Trưởng Giả Thứ Nhất
- 12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai
- 12.03. Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát Thứ Ba
- 12.04. Phẩm Như Lai Bất Tư Nghì Tánh Thứ Tư
- 12.05. Phẩm Tứ Vô Lượng Thứ Năm
- 12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu
- 12.07. Phẩm Thi La Ba La Mật Thứ Bẩy
- 12.08. Phẩm Sằn Đề Ba La Mật Thứ Tám
- 12.09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín
- 12.10. Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật Thứ Mười
- 12.11. Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Thứ Mười Một
- 12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai
- 13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
- 14. Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
- 15. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký
- 16.01. Phẩm Tự
- 16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
- 16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
- 16-04 Phẩm Bổn Sự
- 16-05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
- 16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
- 16-07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
- 16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
- 16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
- 16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
- 16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
- 16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
- 16-13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
- 16-14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
- 16-15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
- 16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
- 16-17 Phẩm Hoá Lạc Thiên Thọ Ký
- 16-18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
- 16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
- 16-20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
- 16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
- 16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
- 16-23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
- 16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
- 16-25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
- 16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
- 17. Pháp Hội Phú Lâu Na
- 18. Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
- 19. Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
- 20. Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
- 21. Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
- 22. Pháp Hội Đại Thần Biến
- 23. Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
- 24. Pháp Hội Ưu Ba Ly
- 25. Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện
- 26-pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
- 27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
- 28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa
- 29-pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
- 30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
- 31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
- 32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát
- 33-pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
- 34-pháp Hội Công Đức Bửu Hoa Phu Bồ Tát
- 35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử
- 36-01-phẩm Duyên Khởi
- 36-02-phẩm Khai Thiệt Nghĩa
- 36-03-phẩm Văn Thù Thần Biến
- 36-04-phẩm Phá Ma
- 36-05-phẩm Bồ Tát Thân Hành
- 36-06-phẩm Bồ Tát Tướng
- 36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng
- 36-08-phẩm Phàm Phu Tướng
- 36-09-phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
- 36-10-phẩm Xưng Tán Phó Pháp
- 37-pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
- 38-pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
- 39-pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Gỉa
- 40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ
- 41. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
- 42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn
- 43. Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
- 44.01 Phẩm Sa Môn Thứ Nhất
- 44.02 Phẩm Tỳ Kheo Thứ Hai
- 44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn Thứ Ba
- 44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo Thứ Tư
- 44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo Thứ Năm
- 44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực Thứ Sáu
- 44.07 Phẩm Phất Tảo y Tỳ Kheo Thứ Bảy
- 45. Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
- 46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
- 47. Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
- 48. Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân
- 49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
- 50. Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
- 51. Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát
- 52. Pháp Hội Bửu Nữ
- 53. Pháp Hội Bất Thuần Bồ Tát
- 54. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
- 55. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
- 56. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát
- 57. Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
- 58. Pháp Hội Bửu Tràng
- 59. Pháp Hội Hư Không Mục
- 60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
- 61. Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
- 62. Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật
- Lời Ghi Nhận Của Người Dịch
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXV
PHÁP HỘI
PHÁT THẮNG CHÍ NGUYỆN
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Hán dịch: Nhà Đưòng, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XXV
PHÁP HỘI
PHÁT THẮNG CHÍ NGUYỆN
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Hán dịch: Nhà Đưòng, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Ba La Nại chỗ tiên nhơn ở trong vườn Thí Lộc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn người và năm trăm Bồ Tát.
Lúc ấy trong chúng, có nhiều Bồ Tát nghiệp chướng sâu nặng, các căn ám độn, thiện pháp kém ít, ưa ồn ào luận nói việc đời, thích ngủ nghỉ, nhiều hí luận, rộng lo nhiều việc, tham trước các thứ, làm những sự chẳng nên làm, quên mất chánh niệm tu tập tà huệ siêng nơi việc hạ liệt, làm sự mê hoặc.
Di Lặc Bồ Tát ở trong pháp hội thấy chư Bồ Tát ấy, Ngài nghĩ rằng chư Bồ Tát ấy đều đã thối chuyển nơi đạo phần viên mãn Vô thượng Bồ đề. Nay tôi nên làm cho họ giác ngộ mở tỏ sanh lòng vui mừng. Suy nghĩ như vậy xong, lúc sáng sớm từ thiền định dậy, Di Lặc Bồ Tát đến chỗ chư Bồ Tát ấy thăm hỏi rồi dùng lời dịu dàng mà nói pháp yếu cho họ vui mừng. Nhơn đó Di Lặc Bồ Tát bảo họ rằng : “Các ôngở nơi đạo phần viên mãn Vô thượng Bồ đề được tăng trưởng mà chẳng thối chuyển chăng?”
Chư Bồ Tát ấy đồng bạch rằng : “Bạch Tôn Giả ! Nơi đạo phần viên mãn Vô thượng Bồ đề chúng tôi chẳng tăng trưởng chỉ có thối chuyển. Tại sao, vì tâm chúng tôi thường bị nghi hoặc che ngăn nên nơi Vô thượng Bồ đề chẳng hiểu biết được. Thế nào là chúng tôi sẽ làm Phật hay chẳng làm Phật ư ? Nơi pháp đọa lạc chúng tôi cũng chẳng rõ được. Thế nào là chúng tôi sẽ đọa lạc hay chẳng đọa lạc ư ? Vì những lẽ ấy nên thiện pháp muốn sanh thường bị nghi hoặc làm rối mờ”.
Di Lặc Bồ Tát bảo rằng : “Các ông nên cùng tôi đến trước đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Đức Như Lai ấy là đấng biết tất cả thấy tất cả, thành tựu đầy đủ trí vô ngại tri kiến giải thoát. Đức Phật dùng sức phương tiện biết rõ sở hành của tất cả chúng sanh, sẽ vì các ông theo căn tánh mỗi người mà nói pháp cho”.
Trong chúng năm trăm người có sáu mươi Bồ Tát cùng Di Lặc Bồ Tát đến chỗ Phật đồng lậy chưn Phật buồn cảm rơi lệ chẳng dậy được.
Di Lặc Bồ Tát kính lễ Phật xong lui qua một bên.
Đức Phật phán : “Các thiện nam tử nên dậy chớ có buồn khóc sanh nhiệt não nhiều. Thuở xưa các ông gây tạo nghiệp ác, đối với các chúng sanh các ông ưa thích giận mắng hủy nhục chướng não tổn hại, tùy ý mình mà phân biệt, chẳng biết được nghiệp báo sai khác, thế nên nay các ông bị nghiệp chướng ràng buộc ngăn che mà ở nơi thiện pháp chẳng tu hành được”.
Nghe lời đức Phật dạy, chư Bồ Tát ấy đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Xin đức Như Lai vì chúng tôi mà nói nghiệp chướng ấy. Chúng tôi biết tội sẽ tự điều phục. Từ nay chúng tôi chẳng dám tái phạm”.
Đức Phật phán : “Nầy các thiện nam tử ! Thuở xưa trong pháp của đức Câu Lưu Tôn Như Lai các ông từng xuất gia tu hành, các ông tự thị đa văn tu trì tịnh giới thường có lòng kiêu mạn phóng dật. Các ông lại hành đầu đà thiểu dục tri túc, ở nơi công đức nầy lại sanh chấp trước. Bấy giờ có hai Tỳ Kheo thuyết pháp có nhiều thân hữu danh tiếng lợi dưỡng. Với hai pháp sư ấy, vì lòng tham ganh mà các ông vọng ngôn dèm chê là hành dâm dục sự. Các thân hữu của hai Pháp Sư ấy bị các ngươi ly gián nói phạm trọng tội nên đều nghi hoặc chẳng còn lòng tín thọ. Các người ấy đối với hai pháp sư không lòng tùy thuận dứt mất thiện căn. Do ác nghiệp ấy, các ông phải đọa A Tỳ địa ngục trong sáu mươi trăm ngàn năm, ác nghiệp chưa hết lại đã đọa đẳng hoạt địa ngục bốn mươi trăm ngàn năm, kế đọa thiêu nhiệt địa ngục sáu mươi trăm ngàn năm, rời khỏi địa ngục được thân người trong năm trăm đời sanh manh đui mù, vì nghiệp tàn dư nên đời đời nhiều ngu độn quên mất chánh niệm che chướng thiện căn phước đức kém ít, hình dung thô xấu thiếu khuyết chẳng ai ưa nhìn, thường bị chê bai khinh tiện cợt đùa khi ghét, luôn luôn sanh tại biên địa bần cùng hạ tiện, tài vật hao mất sanh sống gian nan. Từ thân hiện nay chết, thời kỳ pháp sắp diệt đời mạt thế năm trăm năm sau lại sanh làm người tại biên địa hạ liệt thiếu thốn lạnh đói bị người khinh chê quên mất chánh niệm chẳng tu pháp lành, dù có tu hành bị nhiều lưu nạn, dầu tạm thời phát khởi ánh sáng trí huệ nhưng vì nghiệp chướng nên liền ẩn mất. Sau năm trăm năm mạt thế ấy các nghiệp chướng mới tiêu diệt, sau đó các ông sẽ sanh được thế giới Cực Lạc, đức A Di Đà Phật sẽ vì các ông mà thọ ký Vô thượng Bồ đề”.
Nghe lời đức Phật dạy, chư Bồ Tát ấy cả mình lông dựng lên rất hối hận, bèn tự gạt lệ bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi phát lộ sám hối tội lỗi. Chúng tôi thường đối với người Bồ Tát thừa khinh mạn ghét ganh và các nghiệp chướng khác, nay đối trước đức Phật sám hối tội lỗi. Chúng tôi ở trước đức Thế Tôn phát hoằng thệ nguyện :
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, nếu chúng tôi ở nơi người Bồ Tát thừa thấy có trái phạm mà cử bầy lỗi người, là khi dối đức Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, nếu chúng tôi đối với người Bồ Tát thừa mà cợt đùa chê ghét khủng bố khinh tiện, là khi dối đức Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, nếu chúng tôi thấy Bồ Tát tại gia Bồ Tát xuất gia dùng ngũ dục lạc vui hưởng, chúng tôi trọn chẳng rình tìm lỗi họ mà thường kính tin tưởng là giáo sư, nếu chẳng như vậy là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, đối với người Bồ Tát thừa nếu chúng tôi bỏn xẻn nhà thân hữu và các lợi dưỡng cùng não nhiễu thân tâm cho họ khổ sở là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, với người Bồ Tát thừa nếu chúng tôi dùng một lời thô làm cho họ chẳng vui là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, vì bảo hộ những hoằng thệ này nên chúng tôi chẳng tiếc thân mạng, nếu chẳng như vậy là khi dối đức Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, với hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật nếu chúng tôi dùng lòng khinh mạn bảo họ chẳng hơn tôi là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, nếu chúng tôi chẳng khéo xô phục thân mình tưởng là hạ liệt như hạng Chiên Đà La và như loài chó là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, nếu chúng tôi tự khen và chê người là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, nếu chúng tôi chẳng ghê sợ chỗ đấu tranh mà đi tránh xa trăm do tuần mau như gió thổi mạnh là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, ở nơi những công đức trì giới đa văn đầu đà thiểu dục tri túc nếu chúng tôi tự khoe khoang là khi dối Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ ngày nay đến vị lai tế, tu pháp lành chúng tôi chẳng tự kiêu căng, phạm tội nghiệp chúng tôi hổ thẹn phát lộ, nếu chẳng như vậy là khi dối Như Lai”.
Đức Phật khen : “Lành thay, lành thay ! Các thiện nam tử khéo nói pháp giác ngộ như vậy, khéo phát thệ nguyện rộng lớn như vậy. Hay dùng tâm quyết định như vậy để an trụ trong ấy thì tất cả nghiệp chướng đều tiêu diệt, vô lượng thiện căn cũng sẽ tăng trưởng”.
Đức Phật lại bảo Di Lặc Bồ Tát : “Nầy Di Lặc ! Nếu có Bồ Tát muốn tịnh trừ các nghiệp chướng nên phát thệ nguyện rộng lớn như vậy”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Có thiện nam tử thiện nữ nhơn hộ trì thệ nguyện ấy sẽ được viên mãn bất thối chuyển chăng ?”
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn hành đạo Bồ Tát hộ trì thệ nguyện ấy thì họ thà bỏ thân mạng chớ trọn không để kém khuyết cho thối chuyển”.
Di Lặc Bồ Tát lại bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đời mạt thế, năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt, Bồ Tát hành bao nhiêu pháp để an ổn không não nhiễu mà được giải thoát ?”
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Đời mạt thế, năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt, Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì an ổn không nhiễu não mà được giải thoát : một là nơi chúng sanh chẳng tìm lỗi họ, hai là thấy chư Bồ Tát có chỗ trái phạm trọn chẳng cử lộ, ba là nơi nhà thân hữu và thí chủ chẳng chấp trước, bốn là dứt hẳn lời thô cộc”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy, đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Chẳng tìm lỗi lầm người
Cũng chẳng cử tội người
Rời thô cộc bỏn xẻn
Người nầy được giải thoát.
Nầy Di Lặc ! Lúc pháp sắp diệt Bồ Tát nên thành tựu bốn pháp thì an ổn không não nhiễu mà được giải thoát : một là chẳng nên thân cận người giải đãi, hai là bỏ rời tất cả chúng ồn náo ở riêng rảnh vắng, ba là thường tu tinh tiến, bốn là dùng thiện phương tiện điều phục thân mình”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Nên rời bỏ giải đãi
Xa lìa những ồn náo
Tịch tĩnh thường tri túc
Người nầy sẽ giải thoát”.
Nói kệ xong đức Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ Tát : “Nầy Di Lặc !
Vì thế nên thuở mạt thế năm trăm năm sau, Bồ Tát muốn tự không nhiễu não được giải thoát, người muốn trừ diệt tất cả các nghiệp chướng phải nên rời bỏ chỗ ồn náo ở trong rừng tịch tĩnh a lan nhã, các loại người chẳng nên làm mà làm cùng lười nhác biếng trễ đều phải xa lìa, chỉ tự xét mình chẳng tìm lỗi người, thích điềm tĩnh nín lặng, siêng tu công hạnh tương ưng với Bát Nhã Ba la mật, nếu muốn ở nơi các chúng sanh mà thương xót làm lợi ích nhiều cho họ thì phải dùng tâm không hy vọng thuyết pháp thanh tịnh.
Lại nầy Di Lặc ! Nếu lúc Bồ Tát dùng tâm không hy vọng mà hành pháp thí, chẳng trước danh văn lợi dưỡng quả báo, lấy sự lợi ích người làm trên hết, thường vì chúng sanh mà rộng tuyên chánh pháp thì sẽ được thành tựu hai mươi thứ lợi ích, đó là chánh niệm thành tựu, trí huệ đầy đủ, có sức kiên trì, tu hạnh thanh tịnh, sanh tâm giác ngộ, được trí xuất thế, chẳng bị các ma được dịp tiện, ít tham dục, không có sân hận, cũng chẳng ngu si, được chư Phật ghi nhớ, Phi nhơn thủ hộ, vô lượng chư Thiên giúp thêm oai đức, quyến thuộc thân hữu không ai ngăn phá được, lời nói ra người đều tín thọ, chẳng bị oan gia rình tìm dịp tiện, được vô sở úy, nhiều sự khoái lạc, được các người trí khen ngợi, giỏi thuyết pháp mọi người kính ngưỡng.
Bồ Tát như vậy lại được thành tựu hai mươi thứ lợi ích, đó là biện tài chưa sanh mà được sanh, biện tài đã sanh trọn không quên mất, thường siêng tu tập, được đà la ni, dùng ít công dụng khéo hay lợi ích vô lượng chúng sanh, dùng ít công dụng khiến các chúng sanh khởi tâm tăng thượng cung kính tôn trọng, được thân khẩu ý thanh tịnh luật nghi, siêu quá tất cả ác đạo bố úy, lúc mạng chung tâm được hoan hỉ, hiển dương chánh pháp, xô dẹp dị luận, tất cả hào khí oai đức tôn nghiêm còn chẳng thể rình trông được huống là các chúng sanh ít phước hạ liệt, các căn thành tựu không ai chói che được, đầy đủ nhiếp thọ ý lạc thù thắng, được xa ma tha tỳ bát xá na, các hạnh khó làm đều được viên mãn, phát khởi tinh tấn, khắp hộ trì chánh pháp, mau được lên bậc bất thối chuyển, trong tất cả công hạnh tuỳ thuận an trụ.
Lại nầy Di Lặc ! Ông quan sát đời mạt thế năm trăm năm sau có chư Bồ Tát rất là vô trí, lúc họ hành pháp thí nếu được lợi dưỡng thì sanh lòng vui mừng, lúc chẳng được lợi duỡng thì chẳng vui. Lúc họ vì người thuyết pháp, họ nghĩ rằng làm sao khiến các thân hữu đàn việt quy thuộc nơi tôi. Họ lại nghĩ làm sao khiến các Bồ Tát tại gia xuất gia đối với tôi họ sanh lòng tịnh tín cung kính cúng dường y phục ẩm thực ngọa cụ thuốc thang. Chư Bồ Tát nầy vì tài lợi mà vì người thuyết pháp, nếu không được lợi dưỡng thì họ chán mỏi.
Nầy Di Lặc ! Ví như có người tâm thích sạch sẽ, hoặc bị đem thây rắn chết chó chết người chết sình thúi mủ máu đeo vào cổ, người này khổ não rất gớm nhàm mê muội chẳng an. Cũng vậy người thuyết pháp đời mạt thế năm trăm năm sau nơi chỗ không lợi dưỡng không thuận lòng họ không có thú vị, họ sanh lòng chán mỏi bỏ đi mà nghĩ rằng ở nơi đây ta thuyết pháp vô ích, tại sao, vì các người nơi đây đối với tứ sự cần dùng của tôi họ chẳng lo đến, ở đây nói pháp làm gì cho nhọc mệt uổng công. Các Pháp sư nầy tự cầu cúng dường cung cấp tôn trọng mà nhiếp thọ chúng xuất gia và tại gia chớ chẳng vì pháp và sự lợi ích người mà nhiếp thọ. Các Pháp sư nầy tự cầu tứ sự lợi dưỡng mà dối hiện dị tướng vào vương thành quốc ấp tụ lạc chớ chẳng vì lợi ích thành thục chúng sanh mà làm pháp thí.
Nầy Di Lặc ! Đức Phật chẳng nói người có mong cầu là làm pháp thí thanh tịnh. Tại sao, vì lòng có mong cầu thì pháp không bình đẳng. Đức Phật chẳng nói người tâm tham ô mà hay thành thục được chúng sanh. Tại sao, vì tự mình chưa thành thục mà hay thành thục người không bao giờ có. Đức Phật chẳng nói người tôn trọng cúng dường an lạc tự thân tham nhiếp vật bất tịnh mà làm sự lợi ích. Tại sao, vì người cầu tự thân an ổn đầy đủ vui sướng nhiếp thọ chúng tôi thì chẳng thể khiến người an trụ chánh tín. Đức Phật chẳng nói người dối trá là ở a lan nhã tịch tĩnh, người phước đức mỏng ít là thiểu dục, người tham vị ngon là tri túc, cầu nhiều thức ăn ngon là khất thực. Đức Phật chẳng nói người khất cầu các thứ y phục đẹp là trì phấn tảo y. Đức Phật chẳng nói người mà hàng tại gia xuất gia không ai quen biết là người lìa ồn náo. Đức Phật chẳng nói người siểm khúc gặp Phật ra đời mà tìm lỗi dở của người là tu hành đúng lý, người làm nhiều sự tổn hại là giới tụ thanh tịnh, người tăng thượng mạn là đa văn đệ nhứt. Đức Phật chẳng nói người ưa bè đảng là trụ luật nghi, người tâm cống cao là tôn kính Pháp sư, người ỷ ngữ khinh đùa là thuyết pháp giỏi, người cùng thế tục giao tạp là có thể ở trong Tăng chúng mà rời lìa các lỗi lầm. Đức Phật chẳng nói bỏ bớt thắng phước điền là bố thí chẳng mong báo, người cầu báo ơn là nhiếp các sự việc tốt, người cầu cung kính lợi dưỡng là chí thích thanh tịnh, người nhiều vọng chấp là xuất gia. Đức Phật chẳng nói người phân biệt bỉ ngã là ưa trì giới, người chẳng tôn kính là nghe pháp, người ưa thích sách thế tục chú ếm ngôn luận là yêu chánh pháp. Đức Phật chẳng nói người ở nơi tánh không chẳng có thắng giải là có thể xuất ly sanh tử, người nhiều chấp trước là rời lìa các hành. Đức Phật chẳng nói người ở nơi Bồ đề phần an trụ hữu sở đắc là chứng trí. Đức Phật chẳng nói người không thế lực là thành tựu nhẫn nhục, người ít phiền não là luật nghi thanh tịnh, người hành phương tiện là tu hành đúng pháp. Đức Phật chẳng nói người ưa nói chuyện là an trụ nhứt tâm, người ưa kinh doanh sự đời là chẳng tổn chánh pháp, người chí nguyện thanh tịnh là đọa các đạo, người tu tập trí huệ là làm hành ồn náo. Đức Phật chẳng nói phương tiện tương ưng là siểm khúc, chẳng cầu lợi dưỡng là vọng ngữ, không chấp trước là hủy báng chánh pháp, người hộ chánh pháp mà tiếc thân mạng, việc làm hạ liệt là không thắng mạn.
Nầy Di Lặc ! Đời mạt thế sau sẽ có Bồ Tát độn căn thiểu trí siểm khúc hư cuống an trụ nơi tặc hạnh, ông phải thủ hộ họ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đời mạt thế trong năm trăm năm sau, chỉ có sáu mươi Bồ Tát nầy bị nghiệp chướng trói buộc, hay là còn chư Bồ Tát khác”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Đời mạt thế, năm trăm năm sau có chư Bồ Tát phần nhiều bị nghiệp chướng trói buộc. Các nghiệp chướng ấy hoặc có tiêu diệt hoặc lại tăng trưởng.
Nầy Di Lặc ! Trong hàng năm trăm Bồ Tát đây có hai mươi Bồ Tát nghiệp chướng kém ít, năm trăm năm sau sẽ sanh lại nơi thành ấp tụ lạc chợ phố núi đồng nầy, dòng giống hào tôn có oai đức lớn, thông minh trí huệ phương tiện khéo hay, tâm ý điều nhu thường có lòng từ mẫn làm nhiều lợi ích, dung mạo đoan nghiêm, biện tài thanh diệu, số thuật công xảo đều giỏi, tự ẩn dấu tài đức mình mà an trụ hạnh đầu đà công đức, sanh chỗ nào đều bỏ nhà vì đạo, đã ở trong vô lượng a tăng kỳ câu chi kiếp chứa họp Vô thượng Bồ đề hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, ở a lan nhã trong rừng vắng rảnh, thường siêng tu tinh tấn chẳng cầu lợi dưỡng, khéo nhập vào tâm hành của tất cả chúng sanh, chú thuật ngôn luận đều biết rõ cả, nơi các nghĩa lý nghe ít hiểu nhiều, biện tài trí huệ đều đầy đủ. Ở nơi pháp nầy chư Bồ Tát ấy siêng năng tu tập được đà la ni vô ngại biện tại, ở trong hàng tứ chúng tuyên nói chánh pháp, do sức oai đức gia bị của Phật nên ở nơi Pháp của Phật nói mười hai bộ kinh đều được thông thạo biện tài tự tại. Hai mươi Bồ Tát tài giỏi ấy ở nơi Hòa Thượng A Xà Lê được nghe vô lượng trăm ngàn khế kinh đều có thể thọ trì, sẽ nói thế nầy : Pháp môn nầy của tôi là tôi đích thân nghe thọ với Hòa Thượng A Xà Lê ấy không có nghi hoặc.
Nầy Di Lặc ! Vào thời kỳ ấy có hàng Bồ Tát tại gia Bồ Tát xuất gia vì không có trí huệ thiện xảo phương tiện nên đối với pháp được nói bởi Bồ Tát thọ trì chánh pháp nầy, họ chê cười khinh hủy phỉ báng rằng : Pháp như vậy là do các người dùng lời khôn khéo tùy ý chế tạo ra thiệt chẳng phải của Như Lai tuyên nói, chúng tôi ở nơi pháp ấy chẳng thể tin ưa phát tâm hi hữu. Do đây nên có vô lượng chúng sanh đối với các Pháp sư nầy đều sanh lòng phỉ báng bỏ đi mà bảo nhau rằng : Chư Tỳ Kheo ấy không có quỷ phạm nhiều tà thuyết, chẳng y cứ khế kinh, chẳng y cứ giới luật, như tuồng ca hát xướng kỹ, mọi người chớ nên tin ưa phát tâm hi hữu, chẳng phải là chánh pháp vậy.
Nầy Di Lặc ! Những người ngu ấy bị ma nó nhiếp trì đối với pháp nầy họ chẳng hiểu được mà cho là chẳng phải của Như Lai nói, với chư Tỳ Kheo trì pháp họ phỉ báng tạo nghiệp hoại pháp do đây sẽ đọa ác đạo.
Nầy Di Lặc ! Vì lẽ ấy nên chư Bồ Tát có trí huệ thiện xảo muốn hộ chánh pháp phải ẩn tài đức mình, với các chúng sanh nhiều phân biệt phải cần hộ niệm chớ để họ sanh lòng ác bất thiện”.
Di Lặc Bồ Tát lại bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đời mạt thế năm trăm năm sau có chư Bồ Tát rất vô trí ở trong đại chúng phỉ báng chánh pháp và người trì pháp, nơi trong ấy sẽ có biện tài và đà la ni mà họ chẳng tín thọ được.
Bạch đức Thế Tôn ! Ví dụ như có người khát nước đi đến suối ao để uống, trước đó người ấy đã đem phẩn dơ đổ xuống ao nầy rồi, lúc sắp uống họ ngửi nước ao nghe mùi hôi thúi nên chẳng uống. Đây là họ tự làm dơ uế mà đổ lỗi tại nước đến đỗi bảo rằng rất lạ sao nước nầy quá hôi thúi. Họ chẳng biết lỗi tại họ trở lại oán trách nước ao.
Bạch đức Thế Tôn ! Như nước ao ví dụ cho chư Tỳ Kheo trí pháp do thần lực Phật mà khéo giải thuyết nơi pháp nhãn nầy. Còn người ngu si đem phẩn dơ đổ xuống ao rồi không nhớ biết lúc sau muốn uống, lại trách nước hôi là dụ cho chư Bồ Tát vô trí trong đời mạt thế năm trăm năm sau đối với chánh pháp và người trì pháp sanh lòng phỉ báng, rồi sau đó lại đến người trì pháp nghe thuyết chánh pháp, họ chẳng tự biết lỗi vì nghi hoặc ô nhiễm ý căn nên họ khi dễ cười chê pháp sư, khinh hủy chánh pháp, tìm tòi chỗ dở nói lời ô nhục nhàm chán bỏ đi”.
Đức Thế Tôn khen rằng : “Lành thay, lành thay, Di Lặc khéo nói ví dụ như vậy. Nầy Di Lặc ! Nên biết có bốn biện tài mà tất cả chư Phật đều tuyên nói, lại có bốn biện tài mà tất cả chư Phật đều cấm ngăn.
Những gì là bốn biện tài được chư Phật tuyên nói : đó là tương ưng với lợi ích chẳng phải tương ưng với bất lợi, tương ưng với chánh pháp chẳng phải tương ưng với pháp, tương ưng với phiền não diệt tận chẳng phải tương ưng với phiền não tăng trưởng, tương ưng với Niết bàn công đức chẳng phải tương ưng với sanh tử quá lậu, đây là bốn biện tài được chư Phật tuyên nói. Nếu chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, người muốn thuyết pháp nên an trụ nơi biện tài nầy. Các thiện nam tử thiện nữ nhơn có lòng tín thuận, đối với người như vậy nên sanh ý tưởng như Phật, coi là giáo sư và thính thọ chánh pháp nơi người ấy. Tại sao, vì chỗ nói của người ấy là chỗ nói của chư Như Lai, là lời thành thiệt của tất cả chư Phật vậy.
Nầy Di Lặc ! Nếu có ai phỉ báng bốn biện tài nầy cho rằng chẳng phải Phật nói chẳng có lòng cung kính tôn trọng, người nầy do lòng oán ghét nên đối với bốn biện tài của tất cả chư Phật Như Lai đã nói sanh lòng phỉ báng, họ phỉ báng pháp rồi gây nghiệp hoại pháp, tạo nghiệp hoại pháp rồi họ phải đọa ác đạo.
Vì thế nên, nầy Di Lặc ! Nếu có thiện nam tử tịnh tín vì muốn thoát khỏi tội nghiệp phỉ báng chánh pháp nên chẳng vì ghét bỏ người mà ghét bỏ chánh pháp, chẳng vì người có lỗi mà qui lỗi nơi chánh pháp, chẳng vì oán người mà oán cả chánh pháp.
Nầy Di Lặc ! Thế nào là bốn thứ biện tài mà tất cả Như Lai ngăn cấm. Đó là tương ưng với phi lợi ích mà chẳng tương ưng với lợi ích, tương ưng với phi pháp mà chẳng tương ưng với pháp, tương ưng với phiền não mà chẳng tương ưng với phiền não diệt tận, tương ưng với sanh tử mà chẳng tương ưng với công đức Niết bàn”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật đã dạy, nếu có biện tài tăng trưởng sanh tử thì chẳng phải là chỗ tuyên nói của chư Như Lai, tại sao đức Phật nói các phiền não hay làm sự lợi ích của Bồ Tát, đức Phật lại khen ngợi nhiếp thủ sanh tử mà hay viên mãn pháp Bồ đề phần, những biện thuyết ấy há chẳng phải là chỗ nói của Như Lai ư ?”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Nay Phật hỏi ông tùy ý ông đáp. Nếu có lời nói rằng Bồ Tát vì viên mãn thành tựu Bồ đề phần mà nhiếp thủ sanh tử, lại nói dùng các phiền não làm sự lợi ích. Lời nói trên đây là tương ưng với lợi ích hay với phi lợi ích, là tương ưng với pháp hay với phi pháp ?”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Nếu là chánh thuyết thì tương ưng với lợi ích và pháp, vì hay làm cho pháp Bồ đề phần của Bồ Tát được viên mãn”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Nếu nói Bồ Tát vì viên mãn pháp Bồ đề phần mà nhiếp thủ sanh tử, lại nói các phiền não hay làm sự lợi ích của Bồ Tát, biện thuyết như vậy là chỗ tuyên nói của chư Phật Như Lai. Tại sao, nầy Di Lặc ! chư Bồ Tát ấy được pháp tự tại các phiền não được phát khởi không có lầm lỗi, đây là Bồ Tát thiện xảo phương tiện, chẳng phải là cảnh giới của Thanh Văn Duyên Giác.
Nầy Di Lặc ! Nếu có phiền não chẳng làm lợi ích được cho người, chẳng hay làm viên mãn Bồ đề phần, chẳng tương ưng với lợi ích chẳng tương ưng với pháp lúc nó phát khởi chỉ làm nhơn duyên cho thiện căn hạ liệt, trong trường hợp nầy Bồ Tát thà bỏ thân mạng chớ chẳng tùy theo các phiền não ấy mà thật hành.
Nầy Di Lặc ! Nếu có Bồ Tát vì được trí lực nên ở nơi các phiền não hiện có phan duyên, có Bồ Tát khác vì không trí lực nên ở nơi các phiền não tăng trưởng chấp trước”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như tôi hiểu nghĩa của đức Phật nói, nếu chư Bồ Tát thuở mạt thế năm trăm năm sau muốn lìa sự trói buộc của các nghiệp chướng, tự không tổn hại mà được giải thoát, người nầy sẽ sanh tín giải sâu ở trong Bồ Tát hạnh, vì lỗi lầm của người chẳng sanh phân biệt, chí cầu công đức chơn thiệt của Như Lai”.
Đức Phật phán : “Đúng vậy. Nầy Di Lặc ! Vì thế nên phải sanh tín giải sâu ở trong phương tiện hạnh của chư Bồ Tát, tại sao, vì phương tiện hạnh của huệ hành Bồ Tát rất khó tín giải vậy.
Nầy Di Lặc ! Ví như vị Tu Đà Hoàn thị hiện phàm phu hạnh. Hàng phàm phu với Tu Đà Hoàn ngôi vị đều sai biệt. Người phàm phu vì sự trói buộc của tham sân si mà đọa ác đạo, mà người Tu Đà Hoàn hay khéo liễu đạt tham sân si trọn chẳng bị sa đọa ác đạo.
Huệ hành Bồ Tát cũng như vậy, ở nơi tập khí tham sân si chưa dứt mà cũng khác với sơ nghiệp Bồ Tát. Tại sao, vì tâm của huệ hành Bồ Tát chẳng bị phiền não che lấp chẳng đồng với các sơ nghiệp Bồ Tát.
Đơn hành Bồ Tát không có thiện xảo đồng với phàm phu chẳng xuất ly được.
Nầy Di Lặc ! Tất cả trọng tội, huệ hành Bồ Tát dùng sức trí huệ đều hay xô diệt, cũng chẳng nhơn đó mà đọa ác đạo.
Ví như có người đem củi gỗ ném vào khối lửa lớn, luôn luôn thêm củi, do đó ngọn lửa càng thêm sáng không hề tắt. Cũng vậy, nầy Di Lặc, huệ hành Bồ Tát dùng lửa trí huệ đốt củi phiền não luôn luôn thêm củi gỗ phiền não, do đó khối lửa trí huệ thêm sáng mãi không hề tắt.
Nầy Di Lặc ! Đúng vậy, sức trí huệ thiện xảo phương tiện của huệ hành Bồ Tát rất khó biết rõ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Sơ nghiệp Bồ Tát đã xuất gia rồi mà chưa được sức trí huệ, nay muốn được thì nên xả bỏ pháp gì nên tu pháp gì để cho huệ lực chưa sanh thì được sanh, huệ lực đã sanh thì tăng trưởng”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Sơ nghiệp Bồ Tát đã xuất gia rồi muốn huệ lực được tăng trưởng, nên đối với lợi dưỡng biết rõ tội lỗi của nó và cần xả ly. Với những lỗi ưa ồn náo nói chuyện thế tục, ưa ngủ nghỉ làm nhiều công việc thích hí luận đều phải xa rời. Phải bỏ lợi dưỡng mà tập thiểu dục, bỏ nơi ồn náo mà thích vắng lặng, bỏ chuyện đời mà quán thiệt nghĩa, đầu hôm cuối đêm phải xa rời ngủ nghỉ để quan sát tư duy tùy hành tu tập, xả bỏ các công vụ và các hí luận mà tu đạo xuất thế, thương nhớ chúng sanh.
Nầy Di Lặc ! Sơ nghiệp Bồ Tát đã xuất gia rồi chưa được huệ lực mà muốn được thì phải bỏ và tu như vậy. Tại sao, vì chẳng bỏ lợi dưỡng để tu thiểu dục mà muốn sanh huệ lực chưa sanh muốn tăng trưởng huệ lực đã sanh thì chẳng bao giờ có. Chẳng bỏ ồn náo chẳng thích ở vắng lặng chẳng bỏ chuyện đời chẳng quán thiệt nghĩa mà muốn sanh và trưởng huệ lực cũng chẳng bao giờ có. Đầu hôm cuối đêm ham ưa ngủ nghỉ chẳng giác ngộ nhiếp niệm tư duy, chẳng bỏ công vụ ưa hí luận, chẳng tu đạo xuất thế, với chúng sanh chẳng thương nhớ mà muốn sanh huệ lực đã sanh cũng đều chẳng bao giờ có. Tại sao, vì Bồ Tát trí lực từ nhơn duyên sanh, nếu không nhơn duyên thì trọn chẳng sanh được. Nhơn duyên hòa hiệp mới được sanh sức trí huệ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi của lợi dưỡng, nếu lúc quán sát hay khiến Bồ Tát thích xa lìa chẳng phát sanh nhiệt não ?”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Sơ nghiệp Bồ Tát nên quan sát lợi dưỡng vì sanh tham dục vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì hư mất chánh niệm sân khuể vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì quan niệm đắc thất sanh ngu si vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì hay sanh tâm cao hạ tất đố vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì ở nơi nhà thân hữu xan lẫn ham ưa sanh cuống hoặc vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì gây nên ưa thích sanh siểm khúc vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì bỏ bốn thánh chủng không tàm quí vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì tất cả chư Phật chẳng hứa khả, quen phóng dật sanh cao mạn vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì bỏ thắng phước điền khởi khinh mạn làm ma đảng vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì là căn bổn các điều ác mà phá hư các điều lành vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì nhiều sự tham trước như sương tuyết vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì ở nơi nhà thân hữu xem chờ nhan sắc sanh ưu não vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì yêu mến đồ vật tổn hoại bị lòng lo rầu nhiễu loạn vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì ở nơi bốn niệm xứ nhiều quên mất làm kém hao bạch pháp vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì ở nơi bốn chánh cần nhiều thối thất hay khiến tất cả tha luận thắng vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì tự khoe nói đã được thần thông trí huệ sanh sự sai trái vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì trước sau đắc thất sanh lòng oán ghét vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì giận ghét nhau nói lỗi lầm nhiều giác quán vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì lo sanh sống mà kinh doanh nghiệp đời so tính suy tư giảm mất sự an lạc vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì với những thiện căn cho đến thiền định giải thoát tam muội tam ma bát đề lòng như dâm nữ hay thối thất vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì bỏ rời trí đức đoạn đức đọa vào các ác đạo địa ngục súc sanh ngạ quỉ vậy, nên quan sát lợi dưỡng vì cùng Đề Bà Đạt Đa và Ô Đà Lạc Ca đồng pháp đồng trụ phải đọa ác đạo vậy.
Nầy Di Lặc ! Sơ nghiệp Bồ Tát quan sát tội lỗi của lợi dưỡng như vậy rồi thích ưa thiểu dục chẳng sanh nhiệt não. Tại sao, vì Bồ Tát thiểu dục thì chẳng sanh tất cả tội lỗi có thể làm pháp khí thanh tịnh của Phật, chẳng hệ thuộc tại gia hay xuất gia, an trụ trí nguyện chơn thiệt tối thắng, chẳng làm ti hạ cũng chẳng kinh sợ vì rời lìa sự lo sợ đọa lạc ác đạo vậy, không gì che lấp được vì bỏ sự say đắm vậy, vì được thoát khỏi các cảnh giới ma vậy, được tất cả chư Phật ngợi khen, chư Thiên và mọi người cũng sẽ kính mến, với các thiền định cũng chẳng nhiễm trước vì an trụ biên tế vậy, lòng dạ chất trực không siểm khúc, ở trong ngũ dục chẳng phóng dật vì thấy lỗi của nó, tu hành đúng pháp hay an trụ thánh chủng, người đồng phạm hạnh cũng sẽ mến ưa.
Nầy Di Lặc ! Nếu có Bồ Tát trí huệ thông sáng ở nơi công đức nầy có thể biết như vậy, do ý nguyện thù thắng nên bỏ lợi dưỡng, do ý nguyện thù thắng an trụ thiểu dục, vì dứt tham ái mà pháp khởi vậy.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là lỗi ở trong ồn náo, lúc quan sát Bồ Tát ở riêng vắng lặng chẳng sanh nhiệt não”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Sơ nghiệp Bồ Tát nên quan sát tội lỗi của ồn náo có hai mươi thứ, lúc quan sát hay khiến Bồ Tát ở riêng vắng lặng chẳng sanh nhiệt não.
Thế nào ưa nơi ồn náo có hai mươi điều lỗi ?
Một là chẳng hộ thân nghiệp, hai là chẳng hộ khẩu nghiệp, ba là chẳng hộ ý nghiệp, bốn là nhiều tham dục, năm là thêm ngu si, sáu là ưa nói chuyện đời, bảy là rời lời xuất thế, tám là với phi pháp tôn trọng tu tập, chín là bỏ lìa chánh pháp, mười là thiên ma được dịp tiện, mười một là nơi hạnh bất phóng dật chưa từng tu tập, mười hai là nơi hạnh phóng dật thường có lòng nhiễm trước, mười ba là nhiều giác quán, mười bốn là tổn giảm đa văn, mười lăm là chẳng được thiền định, mười sáu là không có trí huệ, mười bảy là mau chóng được các phi phạm hạnh, mười tám là chẳng mến Phật, mười chín là chẳng mến Pháp, hai mươi là chẳng mến Tăng”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Bỏ rời những tham sân
Chẳng ở nơi ồn náo
Nếu có chuyên ở đó
Là lỗi chẳng nên làm
Kiêu mạn và giác quán
Đều do ồn náo sanh
Người không giới không hạnh
Khen tặng nơi ồn náo
Kẻ ngu thích thế luận
Thối thất đệ nhứt nghĩa
Phóng dật nhiều giác quán
Lỗi nầy chẳng nên làm
Tỳ Kheo bỏ đa văn
Ngôn luận chẳng đúng lý
Tổn giảm các thiền định
Thường tư duy thế gian
Người ham ưa tư duy
Làm sao được tịch tĩnh
Lòng họ thường phóng dật
Lìa hẳn các chỉ quán
Mau được phi phạm hạnh
Ồn náo không luật nghi
Họ chẳng mến nơi Phật
Cũng chẳng mến Thánh chúng
Vất bỏ pháp ly dục
Say mê lời phi pháp
Ta thường bỏ ngàn thân
Tay chân và đầu mắt
Vì cầu đạo vô thượng
Nghe pháp không chán đủ
Các ngưòi phi pháp nầy
Nghe chút ít liền bỏ
Xưa ta làm quốc vương
Vì cầu bốn câu kệ
Cả vợ con của báu
Đều hay đem bố thí
Nào có bực trí giả
Mà chẳng siêng nghe pháp
Ta thường bỏ tất cả
Những hí luận phi pháp
Vì trong trăm ngàn kiếp
Khó được giải thoát vậy
Các ông nên ưa thích
Chí cầu pháp vi diệu
Nếu người ưa giải thoát
Các công đức tối thắng
Những sự nghiệp thế gian
Đều chẳng nên hỏi đến
Áo cơm không lợi tốt
Cũng chẳng chứng Niết bàn
Nên ngợi khen tối thắng
Chư Tỳ Kheo thiện lai
Phải trải tòa mời ngồi
Cùng nhau nói pháp yếu
Thân người rất khó được
Tùy phần tu bạch pháp
Đọc tụng và thiền định
Ông phải hỏi như vậy
Đức Phật nhập Niết bàn
Chánh pháp sẽ hoại diệt
Tỳ Kheo nhiều phóng dật
Ưa đông bỏ rảnh vắng
Vì uống ăn lợi dưỡng
Ngày đêm thuận sự đời
Người ngu ở trong mộng
Kinh sợ và trôi đắm
Tự biết phạm tội nhiều
Sẽ đọa ba ác đạo
Nên sanh lòng hoan hỷ
Ở riêng nơi rảnh vắng
Hoặc ở a lan nhã
Chí cầu đạo vô thượng
Chẳng nên thấy lỗi người
Tự khoe tôn thắng nhứt
Kiêu căng gốc phóng dật
Chớ khinh kẻ hạ liệt
Họ ở trong chánh pháp
Lần lượt sẽ giải thoát
Tỳ Kheo dầu phá giới
Mà sâu tin Tam bảo
Đây là nhơn giải thoát
Chẳng nên thấy lỗi họ
Khó dẹp phục tham sân
Chớ kinh sợ phóng dật
Thói quen nên phải vậy
Vì thế chẳng nên nói
Nếu Tỳ Kheo thanh tịnh
Rình tìm lỗi của người
Rất là chẳng chơn thiệt
Chẳng gọi tu chánh pháp
Người tu hành đúng pháp
Phải nên tự quan sát
Chư Tỳ Kheo cầu đạo
Bỏ rời ngôn luận ác
Thường dùng tâm hoan hỷ
Ở riêng nơi rảnh vắng”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Ham thích ồn ào bèn có vô lượng tội lỗi như vậy thối thất công đức không được lợi ích thêm lớn phiền não sa đọa ác đạo rời lìa bạch pháp. Nào có Bồ Tát cầu pháp lành được nghe tội lỗi nầy mà chẳng thích ở riêng rảnh vắng.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là lỗi của sự nói chuyện đời, nếu lúc quan sát Bồ Tát nên an trụ nghĩa quyết định, do quán sát nghĩa ấy mà chẳng sanh nhiệt não ?”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! ! Sơ nghiệp Bồ Tát phải nên quán sát nói chuyện đời có hai mươi điều lỗi, lúc quán sát có thể làm cho Bồ Tát an trụ quyết định nghĩa, do quán nghĩa ấy mà chẳng sanh nhiệt não.
Những gì gọi là ưa nói chuyện đời có hai mươi điều lỗi ?
Một là lòng sanh kiêu tứ chẳng kính đa văn, hai là ở nơi các tranh luận sanh nhiều chấp trước, ba là mất chánh niệm tác ý đúng lý, bốn là làm sự chẳng nên làm thân nhiều tháo động, năm là mau chóng cao hạ hư hoại pháp nhẫn, sáu là tâm thường cương cường chẳng huân tu thiền định trí huệ, bảy là nói phi thời bị ngôn luận ràng buộc, tám là chẳng thể kiên cố chứng Thánh trí, chín là chẳng được Thiên Long cung kính, mười là bị người biện tài thường có lòng khinh rẻ, mười một là bị người thân chứng quở trách, mười hai là chẳng an trụ chánh tín thường có lòng hối hận, mười ba là lòng nhiều nghi hoặc dao động chẳng an, mười bốn là như hàng xướng kỹ theo dõi âm thanh, mười lăm là nhiễm trước các dục lạc theo cảnh lưu chuyển, mười sáu là chẳng quan sát chơn thiệt phỉ báng chánh pháp, mười bảy là có mong cầu chi thường chẳng được toại nguyện, mười tám là tâm chẳng điều thuận bị người chê bỏ, mười chín là chẳng biết pháp giới tùy thuận ác hữu, hai mươi là chẳng rõ các căn hệ thuộc phiền não”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Kiêu ngạo nơi đa văn
Chấp trước các tranh luận
Thất niệm bất chánh tri
Đây là lỗi chuyện đời
Xa rời chánh tư duy
Thân tâm chẳng tịch tĩnh
Thối thất nơi pháp nhẫn
Đây là lỗi thế thoại
Tâm họ chẳng điều thuận
Xa rời xa ma tha
Và tỳ bát xá na
Đây là lỗi thế thoại
Chẳng tôn kính Sư Trưởng
Ưa thích các thế luận
Trí huệ chẳng kiên cố
Đây là lỗi thế thoại
Chư Thiên chẳng cung kính
Long thần cũng như vậy
Thối thất nơi biện tài
Đây là lỗi thế thoại
Bực thánh thường quở trách
Các người đam mê ấy
Luống uổng nơi thọ mạng
Đây là lỗi thế thoại
Các hành đều khuyết giảm
Xa lìa đại Bồ đề
Mạng chung sanh ưu não
Đây là lỗi thế thoại
Nghi hoặc tâm giao động
Như gió thổi động cỏ
Trí huệ chẳng kiên cố
Đây là lỗi thế thoại
Ví như người xướng kỹ
Khen nói là dũng kiện
Người ấy cũng như vậy
Đây là lỗi thế thoại
Theo dõi ngữ ngôn đời
Nhiễm trước các cảnh dục
Thường làm những tà đạo
Đây là lỗi thế thoại
Mong cầu lòng chẳng toại
Siểm khúc nhiều tranh luận
Xa rời các Thánh hạnh
Đây là lỗi thế thoại
Người ngu được chút lợi
Lòng họ thường dao động
Như khỉ vượn tháo nhiễu
Đây là lỗi thế thoại
Nhiều thối thất trí huệ
Không có lòng giác ngộ
Bị kẻ ngu nhiếp trì
Đây là lỗi thế thoạ
Mê hoặc nơi mắt tai
Nhẫn đến ý cũng vậy
Thường cùng phiền não chung
Đây là lỗi thế thoại
Kẻ ngu ưa thế thoại
Trọn đời thường luống qua
Chẳng bằng suy nhứt nghĩa
Được lợi ích vô biên
Ví như vị ngọt mía
Dầu chẳng rời vỏ đốt
Mà được vị ngọt ngon
Vỏ đốt như nói chuyện
Nghĩa lý như vị ngọt
Vì thế bỏ hư ngôn
Suy gẫm nơi thiệt nghĩa
Chư Bồ Tát trí huệ
Hay biết lỗi thế thoại
Nên thường thích suy gẫm
Công đức đệ nhứt nghĩa
Pháp vị và nghĩa vị
Giải thoát vị đệ nhứt
Ai là người có trí ?
Mà lòng chẳng ưa thích
Vì thế nên phải bỏ
Các ngôn luận vô lợi
Thường ưa siêng suy gẫm
Đệ nhứt nghĩa thù thắng
Pháp đệ nhứt như vậy
Được chư Phật ngợi khen
Vì thế người trí sáng
Nên vui siêng tu tập”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đức Như Lai khéo hay nói lỗi của thế thoại và công đức lợi ích suy gẫm nghĩa thù thắng, nào có Bồ Tát chí cầu trí huệ chơn thiệt của Phật mà lại còn ưa chuyện trò sự đời hư cuống.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi của ngủ nghỉ, nếu lúc quán sát Bồ Tát nên phải phát khởi tinh tấn chẳng sanh nhiệt não ?”.
Đức Phật phán : “Nầy Di Lặc ! Sơ nghiệp Bồ Tát nên quán sát ngủ nghỉ có hai mươi điều lỗi, lúc quán sát có thể làm cho Bồ Tát phát khởi tinh tấn ý nguyện chẳng mỏi : Một là giải đãi lười nhác, hai là thân thể trầm trọng, ba là nhan sắc tiều tụy, bốn là thêm tật bịnh, năm là hơi nóng ấm kém yếu, sáu là ăn chẳng tiêu hóa, bảy là thân thể sanh mụn ghẻ, tám là chẳng siêng tu tập, chín là thêm lớn ngu si, mười là trí huệ yếu kém, mười một là da thứa tối đục, mười hai là Phi Nhơn chẳng kính, mười ba là việc làm ngu độn, mười bốn là phiền não ràng buộc, mười lăm là phiền não che lấp tâm trí, mười sáu là chẳng thích pháp lành, mười bảy là bạch pháp tổn giảm, mười tám là làm việc hạ tiện, mười chín là ghét ganh tinh tấn, hai mươi là bị người khinh rẻ”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Thân nặng không nghi kiểm
Giải đãi ít kham nhiệm
Nhan sắc không sáng nhuần
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Người ấy nhiều bịnh não
Tích tập nhiều phóng nhiệt
Tứ đại ngược trái nhau
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Ăn uống không tiêu hóa
Thân thể không sáng nhuần
Tiếng nói chẳng trong suốt
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Thân họ sanh ghẻ chốc
Ngày đêm thường say ngủ
Các trùng độc nảy sanh
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Thối thất hạnh tinh tiến
Thiếu hụt các của báu
Nhiều mộng không giác ngộ
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Lưới si mê thêm lớn
Thích ưa các kiến chấp
Mạnh chắc khó đối trị
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Tổn giảm các trí huệ
Thêm lớn các ngu si
Chí ý thường hạ liệt
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Họ ở a lan nhã
Mà lòng thường biếng lười
Quỷ thần được tiện lợi
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Mù mờ mất chánh niệm
Phúng tụng chẳng thông thuộc
Thuyết pháp nhiều lãng quên
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Do si sanh mê lầm
An trụ trong phiền não
Lòng họ chẳng an vui
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Công đức đều tổn giảm
Thường sanh lòng lo buồn
Thêm lớn các phiền não
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Xa rời các thiện hữu
Cũng chẳng cầu chánh pháp
Thường đi trong phi pháp
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Chẳng mong cầu pháp lạc
Tổn giảm các công đức
Xa rời các bạch pháp
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Tâm người ấy khiếp nhược
Ít khi có hoan hỷ
Tay chưn thường ốm gầy
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Tự biết mình giải đãi
Ghét ganh người tinh tiến
Thích rao nói lỗi người
Là lỗi ưa ngủ nghỉ
Người trí hiểu lỗi ấy
Thường xa rời ngủ nghỉ
Kẻ ngu thêm kiến chấp
Vô ích tổn công đức
Người trí thường tinh tiến
Siêng tu đạo thanh tịnh
Thoát khổ được an lạc
Chư Phật thường ngợi khen
Các kỹ nghệ thế gian
Và công xảo xuất thế
Đều do sức tinh tiến
Người trí phải tu tập
Nếu người hướng Bồ đề
Biết rõ lỗi ngủ nghỉ
An trụ sức tinh tiến
Giác ngộ sanh tàm quý
Vì thế những người trí
Thường sanh lòng tinh tiến
Bỏ rời sự ngủ nghỉ
Gìn giữ giống Bồ đề”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Kẻ ưa ngủ nghỉ có vô lượng lỗi lầm như vậy. Nếu ngưòi nào được nghe mà chẳng sanh lòng lo lắng nhàm lìa để phát khởi tinh tiến, nên biết rằng người này rất ngu si.
Nếu Bồ Tát có chí cầu Vô thượng Bồ đề nghe nói cú nghĩa chơn thiệt công đức lợi ích như vậy mà đối với pháp lành chẳng phát khởi tinh tiến an trụ các phần Bồ đề lại sanh lòng giải đãi thì không bao giờ có.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi trong các sự vụ mà lúc quan sát khiến chư Bồ Tát chẳng kinh doanh sự vụ ?”.
Đức Phật dạy : “Nầy Di Lặc ! Hàng Bồ Tát sơ nghiệp phải nên quan sát người ưa kinh doanh sự vụ có hai mươi điều lỗi, lúc quan sát như vậy có thể làm cho Bồ Tát chẳng kinh doanh sự vụ mà siêng tu tập Phật đạo
Những gì là hai mươi lỗi về kinh doanh sự vụ ?
Một là ham thích nghiệp hạ liệt thế gian. Hai là bị chư Tỳ Kheo chuyên đọc tụng tu hành khinh rẻ. Ba là bị chư Tỳ Kheo chuyên tu thiền định quở trách. Bốn là tâm thường phát khởi nghiệp sanh tử lưu chuyển từ vô thỉ. Năm là luống thọ sự cúng thí của các cư sĩ có tín tâm. Sáu là lòng tham ưa tài vật. Bảy là thường ưa rộng mở sự vụ thế gian. Tám là tưởng nhớ gia nghiệp mà lòng thường lo lắng. Chín là tánh tình hung dữ phát ngôn thô lỗ. Mười là lòng thường tưởng nhớ gia nghiệp. Mười một là ham thích món ngon thêm lớn tham dục. Mười hai là các nơi không lợi dưỡng thì chẳng sanh lòng hoan hỷ. Mười ba là hay sanh nghiệp não hại chướng ngại. Mười bốn là thường ưa thân cận các Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Mười lăm là chỉ nhớ ăn mặc mà qua ngày đêm. Mười sáu là luôn hỏi việc làm ăn thế gian. Mười bảy là thường ưa nói lời phi pháp. Mười tám là cậy mình kinh doanh sự vụ mà sanh kiêu mạn. Mười chín là chỉ tìm lỗi người mà chẳng tự quan sát. Hai mươi là đối với người thuyết pháp ôm lòng khinh rẻ”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“An trụ nghiệp hạ liệt
Rời xa hạnh thù thắng
Thối thất lợi ích lớn
Là lỗi ưa sự vụ
Bị chư đại Tỳ Kheo
Tụng kinh và tham thiền
Khinh khi và quở trách
Là lỗi ưa sự vụ
Thường tạo nghiệp sanh tử
Xa rời nhơn giải thoát
Luống thọ của tín thí
Là lỗi ưa sự vụ
Thích nhận các của báu
Chẳng được thì lo khổ
An trụ hạnh hạ liệt
Là lỗi ưa sự vụ
Người ấy nhiều ái nhiễm
Qua lại nhà dâm nữ
Như chim chui vào lồng
Là lỗi ưa sự vụ
Thường lo rầu gia nghiệp
Luôn ôm lòng nóng khổ
Lời nói người chẳng tin
Là lỗi ưa sự vụ
Chẳng thích nghe thầy dạy
Chống trả lại khinh tiện
Hủy phạm giới thanh tịnh
Là lỗi ưa sự vụ
Lòng họ nhiều tưởng nhớ
Siêng toan lo nghiệp đời
Chẳng thể tu định huệ
Là lỗi nhiều sự vụ
Lòng tham thường xí thạnh
Thích ưa những ngon đẹp
Không hề biết tri túc
Là lỗi nhiều sự vụ
Được lợi lòng vui mừng
Thất lợi lòng buồn lo
Tham lẫn không từ tâm
Là lỗi nhiều sự vụ
Hại người không xót thương
Thêm lớn những nghiệp ác
Dây ái cột chặt nhau
Là lỗi nhiều sự vụ
Xa rời các Sư Trưởng
Gần gũi các bạn dữ
Chê đuổi người trì giới
Là lỗi nhiều sự vụ
Ngày đêm không tưởng khác
Chỉ nhớ đến ăn mặc
Chẳng thích các công đức
Là lỗi nhiều sự vụ
Thường hỏi chuyện thế gian
Chẳng ưa lời xuất thế
Say mê các tà thuyết
Là lỗi nhiều sự vụ
Tự thị biết công việc
Khinh mạn chư Tỳ Kheo
Chẳng khác kẻ cuồng say
Là lỗi nhiều sự vụ
Thường rình tìm lỗi người
Chẳng thấy lỗi của mình
Khinh chê người có đức
Là lỗi nhiều sự vụ
Người ngu si như vậy
Không có phương tiện hay
Khinh mạn người thuyết pháp
Là lỗi nhiều sự vụ
Sự nghiệp hạ liệt ấy
Có đủ những lỗi lầm
Đâu có người trí huệ
Lại ưa học tập nó
Nghiệp thanh tịnh thù thắng
Đầy đủ các công đức
Đây là chỗ người trí
Ưa thích thường học tập
Nếu kẻ ưa sự đời
Người trí nên quở trách
Như người bỏ thất bảo
Tham lấy những sỏi đá
Thế nên người trí sáng
Nên bỏ sự nghiệp đời
Phải cầu pháp thắng thượng
Chư Phật thường khen ngợi”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Chư Bồ Tát ấy bỏ rời hạnh nghiệp tinh tiến thù thắng mà phát khởi sự vụ hạ liệt thế gian, nên biết họ là kẻ thiểu trí giác huệ cạn kém”.
Đức Phật dạy : “Nầy Di Lặc ! Nay ta bảo thiệt ông : Nếu có Bồ Tát chẳng tu công hạnh chẳng dứt phiền não chẳng tập thiền tụng kinh chẳng cầu đa văn, ta gọi người ấy chẳng phải người xuất gia.
Nầy Di Lặc ! Nếu có người siêng tu công hạnh trí đoạn, trí xuất sanh, trí thành tựu, chẳng làm nghiệp thế gian, chẳng kinh doanh sự vụ, ta gọi người nầy an trụ lời dạy Như Lai.
Nếu là Bồ Tát thì chẳng nên ưa nghiệp thế gian kinh doanh sự vụ. Nếu ưa làm thì ta gọi là kẻ an trụ sanh tử. Vì thế nên chư Bồ Tát phải xa rời.
Nầy Di Lặc ! Nếu có Bồ Tát kinh doanh nhiều sự vụ xây tạo tháp bảy báu khắp cõi Đại Thiên cũng chẳng làm cho ta hoan hỷ, cũng chẳng phải cung kính cúng dường ta.
Nầy Di Lặc ! Nếu có Bồ Tát ở nơi pháp tương ưng với Ba la mật, cho đến thọ trì bài kệ bốn câu rồi đọc tụng tu hành giảng nói cho người, đây nói là cung kính cúng dường ta. Tại sao? Vì chư Phật Bồ đề từ đa văn mà xuất sanh chớ chẳng phải từ các sự vụ.
Nầy Di Lặc ! Nếu có Bồ Tát kinh doanh nhiều sự vụ khiến các Bồ Tát trì tụng tu hành giảng thuyết đồng kinh doanh sự vụ, nên biết đó là tăng trưởng nghiệp
chướng không có phước lợi. Tại sao ? Vì ba thứ phước nghiệp đã được nói đều từ trí huệ mà phát sanh. Vì thế nên Bồ Tát kinh doanh sự vụ đối với chư Bồ Tát trì tụng tu hành diễn thuyết chẳng nên làm chướng ngại. Chư Bồ Tát trì tụng diễn thuyết đối với chư Bồ Tát tu thiền định chẳng nên làm chướng ngại lưu nạn.
Nầy Di Lặc ! Chư Bồ Tát kinh doanh sự vụ trong một Diêm Phù Đề nên cúng dường thân cận thừa sự một Bồ Tát đọc tụng tu hành diễn thuyết. Chư Bồ Tát trong một Diêm Phù Đề đọc tụng tu hành diễn thuyết nên thân cận thừa sự cúng dường một Bồ Tát chuyên cần tu thiền định. Thiện nghiệp như vậy được Như Lai tùy hỉ được Như Lai hứa khả.
Nếu thừa sự cúng dường Bồ Tát siêng tu trí huệ sẽ được khối phước đức vô lượng. Tại sao ? Vì nghiệp trí huệ là vô thượng tối thắng siêu hơn tất cả hành nghiệp của tam giới. Vì thế nên có Bồ Tát nào phát khởi tinh tiến thì nên siêng tu tập trí huệ”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Đức Như Lai đã khéo nói những lỗi lầm của hàng sơ nghiệp Bồ Tát ưa thích ồn náo nói chuyện thế gian ngủ nghỉ và nhiều sự vụ.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là lỗi của hí luận mà lúc quan sát khiến chư Bồ Tát sẽ an trụ tịch tĩnh không có những tranh luận.
Đức Phật dạy : “Nầy Di Lặc ! Sơ nghiệp Bồ Tát hí luận có vô lượng vô biên lỗi lầm nay ta lược nói hai mươi lỗi :
Một là hiện tại sanh nhiều khổ não, hai là tăng trưởng sân khuể thối thất nhẫn nhục, ba là bị kẻ oán thù làm hại, bốn là ma và dân
ma đều vui mừng, năm là thiện căn chưa sanh đều chẳng sanh, sáu là thiện căn đã sanh hay bị thối thất, bảy là thêm lòng oán ghét đấu tranh, tám là gây nghiệp địa ngục ác thú, chín là sẽ mắc quả xấu ác, mười là lưỡi chẳng dịu mềm nói năng cứng rít, mười một là giáo pháp được thọ chẳng thể ghi nhớ, mười hai là với kinh chưa từng nghe khi nghe không hiểu được, mười ba là bị chư thiện tri thức bỏ rời, mười bốn là mau gặp các ác tri thức, mười lăm là tu hành đạo hạnh khó được xuất ly, mười sáu là thường phải nghe lời không vừa ý, mười bảy là sanh vào chỗ nào cũng nhiều nghi lầm, mười tám là thường sanh chỗ nạn chẳng được nghe chánh pháp, mười chín là tu hành bạch pháp thì bị chướng ngại, hai mươi là chỗ thọ dụng bị nhiều oán ghét. Bồ Tát ham hí luận có hai mươi lỗi như vậy”.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
“Hiện đời thường khổ não
Mất nhẫn nhiều sân hận
Oán thù sanh lòng hại
Là lỗi ưa hí luận
Ma và quyến thuộc ma
Đều sanh lòng hoan hỉ
Hư mất các pháp lành
Là lỗi ưa hí luận
Lành chưa sanh chẳng sanh
Thường ở trong đấu tranh
Gây tạo nghiệp ác đạo
Là lỗi ưa hí luận
Thân hình nhiều thô xấu
Sanh vào nhà hạ liệt
Phát ngôn lời cứng rít
Là lỗi ưa hí luận
Nghe pháp chẳng nhớ được
Hoặc nghe chẳng lọt tai
Thường xa rời thiện hữu
Là lỗi ưa hí luận
Gặp gỡ các ác hữu
Tu hành khó xuất ly
Thường nghe lời trái ý
Là lỗi ưa hí luận
Tùy họ sanh chỗ nào
Thường ôm lòng nghi lầm
Chẳng hiểu được giáo pháp
Là lỗi ưa hí luận
Thường sanh trong bát nạn
Xa rời chỗ không nạn
Có đủ sự vô ích
Là lỗi ưa hí luận
Pháp lành nhiều chướng ngại
Hư mất chánh tư duy
Thọ dụng bị oán ghét
Là lỗi ưa hí luận
Các lỗi lầm như vậy
Đều do nơi hí luận
Vì thế nên người trí
Phải mau xa rời nó
Những người ưa hí luận
Khó chứng đại Bồ đề
Vì thế nên người trí
Cũng chẳng nên thân cận
Chỗ hí luận tranh cãi
Phát sanh nhiều phiền não
Người trí phải xa rời
Cách xa trăm do tuần
Cũng chẳng cất nhà ở
Gần những chỗ hí luận
Vì thế người xuất gia
Chẳng ở nơi tranh luận
Xuất gia không ruộng nhà
Vợ con và tôi tớ
Cũng không có chức vị
Cớ chi sanh tranh luận
Xuất gia ở tịch tĩnh
Thân mặc toàn pháp phục
Tiên thần đều kính thờ
Phải tu tâm nhẫn nhục
Những người ưa hí luận
Thêm lớn lòng độc hại
Sẽ phải đọa ác thú
Vì thế phải nhẫn nhục
Tù cấm và xiềng xích
Hình phạt và đánh khảo
Các sự khổ như vậy
Đều do nơi tranh luận
Những người ưa hí luận
Thường gặp ác tri thức
Danh tiếng bị hư mất
Luôn không lòng hoan hỉ
Nếu người bỏ tranh luận
Không ai rình gặp dịp
Quyến thuộc chẳng trái lìa
Thường được gặp thiện hữu
Nơi đạo được thanh tịnh
Nghiệp chướng hết không thừa
Xô dẹp các quân ma
Siêng tu hạnh nhẫn nhục
Tranh luận nhiều tội lỗi
Vô tranh nhiều công đức
Nếu là người tu hành
Phải an trụ nhẫn nhục”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Hi hữu Thế Tôn có thể khéo nói lỗi lầm của hí luận như vậy khiến chư Bồ Tát sanh lòng giác ngộ.
Bạch đức Thế Tôn ! Đời mạt thế sau trong năm trăm năm, có Bồ Tát nghe nói lỗi hí luận như vậy hay sanh lòng ưu hối rời lìa phiền não chăng ?”
Đức Phật dạy : “Nầy Di Lặc ! Đời mạt thế sau trong năm trăm năm ít có Bồ Tát hay sanh ưu hối lìa phiền não, có nhiều Bồ Tát tâm cang cường chẳng tôn kính nhau, ôm lòng tăng thượng mạn phải trái lẫn nhau, họ nghe nói nghĩa thú thậm thâm công đức thù thắng như vậy, dầu họ trì đọc tụng diễn thuyết, nhưng vì nghiệp chướng sâu nặng nên chẳng sanh được công đức thù thắng, nên họ chẳng tin, nghi hoặc kinh điển nầy rồi chẳng còn thọ trì diễn thuyết. Bấy giờ ma Ba Tuần thấy sự ấy, muốn gạt gẫm liền hiện hình Tỳ Kheo đến chỗ họ bảo rằng : Các kinh điển ấy là do người thế tục giỏi văn từ chế tạo ra, chẳng phải do Như Lai tuyên nói. Tại sao ? Vì công đức lợi ích trong kinh ấy nói các ngài đều chẳng được. Do lời gạt gẫm của ma Ba Tuần mà họ sanh lòng nghi hoặc đối với khế kinh thậm thâm tương ưng với nghĩa lợi tánh không nầy rồi phát khởi tranh luận chẳng còn thọ trì đọc tụng diễn thuyết.
Nầy Di Lặc ! Các người ngu si ấy chẳng biết được do nghiệp chướng của họ nên chẳng được công đức thù thắng, lúc nghiệp chướng tiêu rồi họ quyết định sẽ được”.
Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như Phật đã nói công đức của đức A Di Đà Phật và Cực Lạc thế giới. Nếu có chúng sanh phát mười tâm nguyện, tùy mỗi tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, khi mạng chung người ấy sẽ được vãng sanh Thế Giới Cực Lạc.
Bạch đức Thế Tôn ! Những gì là phát mười tâm nguyện, do tâm ấy niệm Phật A Di Đà mà sẽ được vãng sanh thế giới Cực Lạc của đức Phật ấy ?
Đức Phật dạy : “Nầy Di Lặc ! Mười tâm nguyện như vậy chẳng phải kẻ phàm ngu bất thiện đủ phiền não mà phát được.
Những gì là mười tâm nguyện ?
Một là đối với tất cả chúng sanh phát khởi tâm đại từ không làm tổn hại.
Hai là đối với tất cả chúng sanh phát khởi tâm đại bi không làm bức não.
Ba là đối với chánh pháp của Phật phát khởi tâm ưa thích thủ hộ chẳng tiếc thân mạng.
Bốn là đối với tất cả pháp phát sanh thắng nhẫn không có tâm chấp trước.
Năm là phát tâm nguyện thanh tịnh cung kính tôn trọng chẳng tham lợi dưỡng.
Sáu là phát tâm cầu Phật Nhứt thiết chủng trí không hề quên mất bất luận thời gian nào.
Bảy là đối với tất cả chúng sanh phát tâm tôn trọng cung kính không hạ liệt.
Tám là chẳng ham thế luận đối với Bồ đề phân sanh tâm quyết định.
Chín là tâm thanh tịnh trồng các thiện căn không tạp nhiễm.
Mười là đối với chư Phật Như Lai rời bỏ các tướng phát khởi tâm tùy niệm.
Nầy Di Lặc ! Đây là mười tâm nguyện. Do phát mười tâm nguyện ấy mà Bồ Tát sẽ được vãng sanh thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Nầy Di Lặc ! Trong mười tâm nguyện ấy, tùy thành tựu một tâm nào rồi ưa muốn sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà, nếu người nầy chẳng được vãng sanh thì không bao giờ có”.
Tôn giả A Nan bạch rằng : “Hi hữu Thế Tôn hay khai thị diễn nói công đức chơn thiệt của Như Lai, phát khởi chí nguyện thù thắng của Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy sẽ đặt tên là gì ? Chúng tôi sẽ thọ trì như thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “Nầy A Nan ! Kinh nầy tên kinh Phát Khởi Bồ Tát Chí Nguyện Thù Thắng, cũng gọi là kinh Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn. Các ông nên thọ trì như vậy.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Di Lặc Bồ Tát và chư Thanh Văn tất cả thế gian Thiên Nhơn, A Tu La, Càn Thát Bà v.v… nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
HẾT