Chương 10- Tiểu thừa và Đại thừa

19 Tháng Sáu 20169:06 CH(Xem: 3883)
Chương 10- Tiểu thừa và Đại thừa

Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tịnh Liên Đồ Thư Quán Tái Bản Lần Thứ Nhất tại Hoa Kỳ 2002

 

 

 

Thiên Thứ Nhất
Chương Mười
Tiểu Thừa Và Đại Thừa

Tiết Mục:

I. Ý nghĩa Tiểu thừa, Đại thừa 

II. Khởi nguyên phân biệt giữa hai phái 

III. Những điểm sai biệt của hai phái 

IV. Dung hội các thừa 

Kinh sách tham khảo: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Văn Thù Bát Nhã, Kinh Tạp A Hàm, Trí Độ Luận, Nhập Đại Thừa Luận, Ấn Độ Phật Giáo Sử Lược, Phật Giáo Khái Luận.

Đề yếu: Ý nghĩa Đại, Tiểu thừa và sự sai biệt giữa đôi bên, đã thường gây nhiều thắc mắc cho người sơ cơ học Phật. Để giải thích phần nào mối hoài nghi ấy, trong tiết thứ nhất thuộc bản chương đưa ra ba sự kiện: pháp môn, tế độ, quả vị, để lược bàn về quan điểm hơn kém của song phương. Hai tiết kế, tiếp tục nói qua nguyên nhân phân biệt và sự sai khác giữa Tiểu thừa Đại thừa, mà yếu tố chính không ngoài cảnh duyên và sự nhận thức của cá tính. A Hàm và đại ý phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa, chỉ rõ các thừa đều là những nấc thang phương tiện để đi đến Phật thừa, trong một đời thuyết giáo, đức Thế Tôn duy nói Nhất thừa pháp mà thôi.

Thể nhận nghĩa này, người học Phật sẽ tự giải thích được tâm niệm phân vân, chia rẽ.

Tiết I: Ý Nghĩa Tiểu Thừa, Đại Thừa

Khi đức Phật còn ở đời, vì tùy trình độ của mọi người, mà Ngài thuyết pháp có cạn sâu, cao thấp. Lại đôi khi, thính chúng tuy cùng nghe một giáo lý, nhưng sự lĩnh hội của mỗi người có thấp cao, rộng hẹp không đồng. Nhân đó, về sau mới nảy sinh ra sự phân biệt giữa Đại thừa (Mahàyàna) và Tiểu thừa (Hìnayàna).

Đại thừa là gì? Một lời tổng quát, đó là "giáo pháp dạy tất cả hữu tình thành Phật". Đứng về phương diện phân tích, chữ "Thừa" là vận tải, vận độ, nghĩa là chuyên chở. Giáo lý của Phật dạy có đủ công năng, phương pháp, dắt đường chỉ lối, chuyên chở chúng sanh từ cõi trần lao phiền não đến cảnh thanh tịnh an vui, từ biển sống chết luân hồi đến bến niết bàn giải thoát, nên gọi là "Thừa".

Trong danh từ Tiểu thừa, chữ "Tiểu" có những nghĩa: hẹp, nhỏ, thấp. Nghĩa "hẹp" của Tiểu thừa, là chỉ cho quan niệm của người tu duy lo tự độ, tự đưa mình đến chỗ giải thoát, không đoái hoài đến bao nhiêu chúng sinh khác đang ở trong biển trầm luân. Có điều nên phân biệt, nếu người nào có hoài bảo tha thiết độ sanh, tuy dùng pháp Tiểu thừa để giáo hóa, song thật ra lại thuộc về tâm niệm Đại thừa. Và những kẻ tuy ở nơi non cao rừng thẳm, không tiếp xúc với đời, nhưng có bi nguyện tự độ để độ tha, cũng thuộc về tâm niệm Đại thừa. Nghĩa "nhỏ" của Tiểu thừa, là chỉ cho giáo pháp cạn cợt, chỉ thích hợp, hóa độ được một hạng người, không thích hợp, hóa độ được mọi tầng lớp chúng sinh. Điểm cạn cợt này, là sự chấp nhận trong phạm vi giáo pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Một điều nên nhận định, tiểu pháp không thể bao hàm đại pháp, nhưng trái lại đại pháp bao hàm tiểu pháp; vì thế Tứ đế, Thập nhị nhân duyên cũng là một phương tiện trong sự độ sinh của Đại thừa. Nghĩa "thấp" của Tiểu thừa, là chỉ cho giáo pháp đưa người đến quả vị thấp của Thanh Văn, Duyên Giác, không đưa đến quả vị cao siêu cứu cánh của Phật đà. Giáo pháp này cũng chính là Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Tóm lại "Tiểu thừa" có ba ý nghĩa: "sự vận tải hẹp, nhỏ, thấp", như trên.

Phản ảnh lại, danh từ Đại thừa cũng có ba nghĩa: rộng, lớn và cao. "Rộng" là độ mình và tất cả chúng sinh; "lớn" là đủ các pháp môn thích hợp với mọi căn cơ; "cao" là đưa loài hữu tình đến quả vị Vô thượng chánh giác. Cả hai danh từ Tiểu thừa, Đại thừa, nếu mỗi bên thiếu một trong ba ý nghĩa trên, thì không thể thành lập.

Đại thừa, tiếng Phạn gọi là Ma ha Diễn Na (Mahàyàna). Đầu tiên, danh từ này không có tính cách để đối chọi với Tiểu thừa, đại ý của nó là chỉ cho những giáo lý cao thâm, những pháp môn rộng lớn có công năng độ khắp chúng sinh mà thôi. Vì thế, trong kinh Đại thừa vẫn có những danh từ thuộc Tiểu thừa, và trong kinh Tiểu thừa ta cũng thường thấy những danh từ thuộc Đại thừa. Khi đức Thế Tôn còn ở đời, giáo pháp của Ngài tuy hàm ẩn cả Đại, Tiểu thừa, nhưng trong giáo đoàn vẫn hòa hợp tu hành, không có sự phân biệt lớn nhỏ, cao thấp. Khoảng thời gian 600 năm sau Phật diệt độ, tuy chư Tăng chia thành nhiều bộ phái, song cũng không có sự đối lập giữa Đại, Tiểu thừa. Trong các chi phái thuộc ba hệ thống Hữu Bộ, Đại Chúng và Độc Tử, có nhiều vị nghiên cứu kinh luận Đại thừa. Như ngài Chân Đế nói: "Giáo đồ của Đại Chúng Bộ ở thành Vương Xá cũng học hỏi truyền bá những kinh điển Đại thừa như Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Thắng Mang, Duy Ma, Kim Quang Minh, Bát Nhã..."

Nhưng từ 600 năm sau Phật diệt độ trở đi, do tư tưởng tiến triển của quần chúng, do hoàn cảnh, nhân duyên, sự phân biệt và đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật giáo lâm vào tình trạng không thể tránh khỏi.

Tiết II: Khởi Nguyên Phân Biệt Giữa Hai Phái

Nhân duyên phân biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa, đại ước có ba điểm:

1. Do hoàn cảnh: Đại thừa Phật giáo bột hưng, một phần do ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài. Xét theo lịch sử, từ đời A Dục Vương về sau, quần chúng miền Bắc Ấn thường giao thiệp với dân tộc hai xứ Hy Lạp, Ba Tư. Những nhà học Phật ở Bắc Ấn lúc ấy càng ngày càng đông. Do sự tiếp xúc với ngoại nhân, họ dần dần chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo của hai xứ đó, nên có nhiều nhà học Phật chủ trương sùng bái cầu nguyện. Bởi nguyên nhân này, thuyết tha lực vãng sanh đã sẵn có trong kinh điển Phật giáo được đề khởi lên. Thời bấy giờ, phong trào cầu vãng sanh về cõi Đâu Suất của Di Lặc Bồ tát, cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, cõi Lưu Ly của Phật Dược Sư, cõi Diệu Hỷ của Phật A Súc Bệ rất thịnh hành. Trong đây chỉ có thuyết vãng sanh Cực Lạc là được lưu thông hơn cả. Người ta gọi phong trào này là Chủ tình đại thừa giáo.

Mặt khác, sau Phật diệt độ 500 năm, các phái ngoại đạo dần dần phục hưng, lý thuyết của họ càng ngày càng được cải cách thêm đến mức siêu việt. Song song với phong trào đó, kho tàng Phật giáo cũng phải được khai thác triệt để, mới có thể đối phó với ngoại đạo và giải quyết đầy đủ mối nghi ngờ của học giả. Vì thế, Đại thừa Phật giáo phải ra đời để thích ứng với thời đại.

2. Do trào lưu tư tưởng: Khởi nguyên tư tưởng Đại thừa Phật giáo lẽ dĩ nhiên đã có từ khi đức Như Lai còn tại thế. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ 100 năm, giáo đoàn đạo Phật chia thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, rồi dần dần phát sinh ra các chi phái. Giáo nghĩa của các bộ phái đó phần nhiều bao hàm cả đạo lý Đại thừa. Tư tưởng của học giả cũng biến thiên theo trào lưu, từ đời A Dục đến đời Ca Nị Sắc Ca, quan niệm Đại thừa giáo càng ngày càng phát hiện thêm rõ rệt.

Trên phương diện địa lý, tư tưởng này bắt nguồn từ xứ An Đạt La thuộc Nam Ấn Độ. Giáo nghĩa nẩy nở đầu tiên là Ma Ha Bát Nhã, phát xuất từ Đại Chúng Bộ. Trong kinh Bát Nhã có đoạn Phật dự ký: "Sau khi Như Lai niết bàn, kinh này được truyền về phương Nam, rồi từ đó lưu chuyển đến phương Tây và lên phương Bắc". Lời dự ký này đã chứng minh cho Đại thừa Bát Nhã xuất phát từ phương Nam. Đại thừa Phật giáo ở Bắc Ấn Độ phát nguyên từ địa phương nào, sự kê khảo chưa được chính xác. Nhưng theo ngài Huyền Trang thì tại xứ Câu Tát La (Kosala), kinh điển Đại thừa rất nhiều, Phật pháp ở đây cực thịnh và được truyền bá đi các nơi khác. Hoặc giả địa phương này là chỗ phát nguyện của Đại thừa Phật giáo miền Bắc Ấn chăng?

3. Do các học giả phát khởi: Sau khi Phật diệt độ, một mặt do trào lưu tư tưởng dần dần biến thiên, nên sự đòi hỏi thích ứng với quan niệm quần chúng càng ngày càng thêm cần thiết. Mặt khác, giáo nghĩa của ngoại đạo cũng dần dần được cải tiến, họ biết rút lấy cái hay của các phái khác trong ấy có cả đạo Phật, để bổ khuyết thêm cho học thuyết của mình. Vì thế, lập luận của họ càng ngày thêm vững vàng, trong đó các phái Thắng luận, Số luận, Phệ đàn đà luôn luôn bài xích Phật giáo. Giữa lúc ấy, phần đông chư Tăng lại thiên về khuynh hướng giải thoát, bảo thủ lấy truyền thống xưa, nên thanh thế Phật giáo dần dần thấy sút kém trước ảnh hưởng của ngoại đạo. Để cứu vãn tình thế và thích ứng thời cơ, sau Phật diệt độ 700 năm, hai ngài Mã Minh, Long Thọ nối nhau xuất hiện, trứ tác các bộ như: Đại Thừa Khởi Tín Luận, Đại Trang Nghiêm Luận Kinh, Trí Độ Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Trung Quán Luận, để phát huy ý nghĩa đại thừa Phật giáo. Kế tiếp sau hai ngài, có các vị như Đề Bà, La Hầu La, Bạt Đà La, Vô Trước, Thế Thân, cũng cực lực đề xướng đạo lý này.

Xét ra, đứng về mặt bao quát, Đại thừa kiêm cả Tiểu thừa. Nhưng Đại thừa giáo sở sĩ được biệt lập là để đối kháng với quan niệm bảo thủ và xu hướng tự giải thoát của phần đông chư Tăng thời bấy giờ. Nhưng hoàn cảnh hoặc trào lưu tư tưởng chỉ là nhân duyên phát khởi, mà thành quả lại do sự xướng lập của chư đại đức Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân. Cho nên người sau thường gọi các ngài là những nhà cách mạng Phật giáo.

Vậy, khởi nguyên của Đại thừa Phật giáo là bởi ba lý do trên. Quan niệm phân biệt, khen chê giữa Đại thừa và Tiểu thừa sau này, thật ra cũng có. Nhưng sự đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật giáo, là một lẽ tất nhiên của thời đại, mà dù muốn dù không, người ta vẫn không thể tránh.

Tiết III: Những Điểm Sai Biệt Của Hai Phái

Đứng về phương diện lịch sử mà nói, sự đối lập giữa Tiểu thừa và Đại thừa có ba nguyên nhân như trên. Nhưng về phương diện lập thuyết, thì hai phái hoàn toàn khác nhau từ chỗ phát tâm đến giáo, lý, hạnh, quả. Trong Trí Độ Luận, ngài Long Thọ nói: "Phật pháp đồng một vị, đó là vị giải thoát. Trong vị giải thoát này có hai thứ: một là chỉ vì mình, hai là vì tất cả chúng sinh. Cho nên, tuy đồng cầu giải thoát, mà có sự lợi mình và mình người đều lợi khác nhau. Vì thế, mới có sự sai biệt giữa Tiểu thừa, Đại thừa". Xem đây thì biết, sự khu phân của hai phái không phải chỉ thuộc trên nguyên nhân, mà còn trên phương diện chủ thuyết. Căn cứ theo Nhập Đại Thừa Luận của ngài Kiên Ý, và xét qua chủ trương lập thuyết đôi bên, ta có thể chia sự sai biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa thành tám điểm như sau:

1. Tâm lượng: Hàng Tiểu thừa tâm lượng hẹp hòi, gấp cầu giải thoát mọi sự khổ não trong đường sinh tử. Họ chỉ biết độ cho mình hơn là độ cho kẻ khác. Hàng Đại thừa tâm lượng rộng rãi, quyết đạt đến lý tưởng tự lợi lợi tha. Hơn nữa, họ còn lấy việc lợi tha làm chủ đích.

2. Căn cơ: Tiểu thừa là hàng căn tánh tối chậm, chỉ tin hiểu những tiểu pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Đại thừa là hạng có thắng giải đại tánh, không thích tiểu pháp mà ưa thọ trì những đại pháp như: Ngã pháp câu không, Duyên khởi như huyễn.

3. Nhân sinh quan: Tiểu thừa khuynh hướng về nhân sinh quan vô thường, nhiều khổ não. Vì vậy, họ chủ trương phá tan tiểu ngã, mong sớm chứng vào thể tánh vắng lặng, và lấy đó làm chỗ giải thoát an vui. Đại thừa cũng bắt đầu từ quan niệm ấy, nhưng lại hiểu rằng các pháp như huyễn, chúng sinh chính là tự tánh của mình. Cho nên lập thuyết của họ là phá chấp trên ngã, pháp, để khuyếch trương đại ngã, không cần phải lìa đời xa lánh chúng sinh, mà vẫn được giải thoát tự tại.

4. Vũ trụ quan: Tiểu thừa đối với vạn hữu thì cuộc hạn trong phạm vi hiện tượng luận sinh diệt, yếu tố để giải thích của họ duy có 75 pháp. Sự chứng biết của Tiểu thừa cũng chỉ trong vòng tam thiên đại thiên thế giới, cho nên họ không tin có tha phương Tịnh độ. Đại thừa thì ngoài hiện tượng sai biệt, còn thuyết minh chân như bình đẳng không sinh diệt để đạt đến bản thể luận. Yếu tố để giải thoát vạn hữu của họ gồm có 100 pháp. Họ tin nhận rằng, ngoài thế giới này còn có vô số uế độ và tịnh độ như vi trần. Tất cả đều là thể Như huyễn tự tánh thanh tịnh tánh.

5. Quan niệm Tam bảo: Về Phật bảo, hàng Tiểu thừa chỉ chấp nhận đức Thích Ca Mâu Ni và chư Phật của cõi Ta Bà, không tin có các đấng Như Lai ở tha phương thế giới. Về Pháp bảo, họ duy tính thuận những kinh Tiểu thừa như A Hàm, Pháp Cú..., không tin nhận những kinh Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Về Tăng bảo, họ chỉ hiểu biết các bậc A la hán như Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên...., không chấp nhận các bậc Bồ tát tha phương như: Phổ Hiền, Dược Vương, Nguyệt Quang, Thế Chí. Trái lại, Đại thừa tin nhận cả tiểu pháp lẫn đại pháp và ngôi Tam bảo ở cõi này cùng mười phương.

6. Tư lương tánh: Trên phương diện tu hành, hàng Tiểu thừa thiên về huệ, y theo Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Tam thập thất đạo phẩm, mục đích để phá trừ ngã chấp, chứng quả nhân không. Còn hàng Đại thừa thì y theo lục độ vạn hạnh gồm tu phước huệ, phá cả ngã chấp lẫn pháp chấp, chứng quả nhị không.

7. Thời gian tánh: Về Tiểu thừa, hàng Thanh văn phải từ ba đời đến 60 kiếp mới chứng quả A la hán; còn hàng Duyên giác phải tu từ bốn đời đến 100 kiếp mới chứng quả Bích Chi Phật. Còn bên Đại thừa phải dùng ba A tăng kỳ kiếp để tu sáu độ và 100 kiếp để tu nhân tướng tốt, mới chứng quả Phật.

8. Quả chứng: Giải thoát của Tiểu thừa là tiêu cực. Họ muốn lánh khỏi mọi sự khổ não ở hiện tại mà thể nhập vào cảnh không tịch. Cho nên mục đích chung cuộc của họ là cầu lấy quả A La Hán hoặc Bích Chi Phật. Giải thoát của Đại thừa là tích cực. Họ hiểu rằng phiền não vốn không và trong chúng ta có đủ đức tướng, trí huệ của Như Lai cùng vô lượng công đức. Vì thế họ lấy địa vị Phật đà làm lý tưởng chung cuộc. Về chúng sinh, Đại thừa quyết độ tất cả đều thành Phật. Về thế giới, họ quyết biến cõi uế ác thành cảnh thiện mỹ, trang nghiêm. Cho nên mục đích của Đại thừa gồm trong câu: "Trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh".

Tiết IV: Dung Hội Các Thừa

Theo Nguyên thủy Phật giáo, quả niết bàn giải thoát của hàng Thanh văn đồng với Phật, nhưng bậc Thanh văn phước trí chưa được đầy đủ bằng đức Thế Tôn. Theo Đại thừa Phật giáo, quả vô thượng bồ đề của Như Lai, duy những vị tu theo Bồ tát thừa mới chứng được. Đứng về mặt khách quan để khảo cứu kinh điển của hai phái, ta có thể chia lối thuyết pháp của Phật ra ba thời kỳ:

Thời kỳ thứ nhất, đức Thế Tôn vì muốn cho hàng đệ tử lìa khỏi nỗi khổ thân tâm hiện tại, hưởng sự an vui tịch tịnh, nên Ngài chỉ ngay những phương tiện giải thoát. Như đức Phật dạy: "Thế này là Khổ, thế này là Tập, thế này là Diệt, thế này là Đạo. Như Lai đã tu tập theo đường lối ấy, các ông nên thực hành theo. Như Lai đã đắc quả giải thoát theo đường lối ấy, các ông nên cố gắng để chứng nhập...Hiện nay sự sống chết của ta đã dứt, phạm hạnh đã thành lập, việc làm cũng đã xong, không còn thọ thân đời sau nữa...". Xuyên qua mấy lời này, đạt đáo điểm của Phật cùng với hàng đệ tử trong buổi đầu biểu dương bằng câu: "Hành đồng đạo, đắc đồng quả".

Qua thời kỳ thứ hai, đức Thế Tôn dần dần nói những đạo pháp cao rộng hơn. Như trong đoạn ngài Văn Thù trình bày kiến giải với Phật: Bạch đức Thế Tôn! Tu Bát Nhã ba la mật là không rời bỏ pháp phàm phu, không cầu lấy pháp hiền thánh. Tại sao thế? Vì người thực hành môn này, không thấy có pháp để lấy hoặc bỏ, cũng không thấy có Niết bàn đáng ưa, sinh tử đáng chán. Bởi Niết bàn cùng sinh tử, hành giả còn không thấy có, huống nữa là sự ưa chán ư? Đức Phật bảo: "Đúng như thế! Này Văn Thù! Đó là sở hành của các bậc Bồ tát ma ha tát. Cho đến hàng Thanh văn, Duyên giác, nói chung là bậc hữu học, vô học, đều không nên rời pháp ấn này mà tu đạo quả". Đoạn kinh văn trên đây, chứng minh đức Thế Tôn khuyến dụ hàng Thanh văn đi vào thâm pháp. Ngài còn bảo chính mình đă trải qua vô lượng kiếp, tu những nhân hạnh tự lợi lợi tha rộng lớn, mới thành tựu ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng của quả vô thượng bồ đề.

Đến thời kỳ thứ ba, đức Thế Tôn dung hòa ba thừa. Đại ý Ngài nói: "Những vị nghe tu theo pháp Tứ đế, chứng được đạo quả, gọi là Thanh văn thừa. Hạng căn cơ lanh lợi hơn, tự phát minh hoặc do ngôn giáo của Như Lai mà tỏ ngộ Thập nhị nhân duyên, gọi là Bồ tát thừa. Nhưng hàng Thanh văn, Duyên giác có thể hướng thượng và thành Phật; hai thừa này chỉ là những nấc thang để bước lên Bồ tát thừa mà thôi". Tóm lại, ba thừa chỉ là một, đức Như Lai ra đời không ngoài mục đích đưa chúng sinh đến quả Phật, và Ngài cũng chỉ dạy có đạo pháp Nhất thừa. Danh từ Nhất thừa, trong kinh điển của hai phái, đức Phật cũng thường nhắc nhở đến. Như kinh Tạp A Hàm nói: "Có Nhất thừa đạo hay khiến cho chúng sinh được thanh tịnh, đưa họ vượt qua sự thương lo buồn khổ, vào pháp chân như. Đó là Tứ niệm xứ..." Và đoạn:

Ta có pháp Nhất thừa 

Vì chúng sinh các cõi 

Diễn nói chánh pháp âm 

An ủi chúng sinh khổ 

Chư Phật đời quá khứ 

Dùng pháp này độ sinh 

Chư Phật đời vị lai 

Cũng diễn Nhất thừa pháp 

Chư Phật đời hiện tại 

Nương đây độ dòng mê 

Đưa khỏi bờ sinh tử... 

Kinh Pháp Hoa cũng nói: 

Vì thế, Xá Lỵ Phất 

Ta mới lập phương tiện 

Nói các pháp diệt khổ 

Chỉ bày nẻo Niết bàn 

Nhưng cảnh Niết bàn này 

Chưa phải chân diệt độ 

Các pháp từ xưa nay 

Tự hướng hằng vắng lặng 

Phật tử đã hành đạo 

Về sau sẽ thành Phật 

Ta dùng sức phương tiện 

Mở bày pháp tam thừa 

Tất cả chư Thế Tôn 

Đều nói Nhất thừa đạo 

Nay trong đại chúng đây 

Phải nên trừ nghi hoặc 

Lời chư Phật không khác 

Chỉ một, không hai thừa... 

Pháp tối diệu bậc nhất 

Vì các loại chúng sinh 

Phân biệt nói ba thừa 

Kẻ thấp ưa pháp nhỏ 

Không tin mình thành Phật 

Nên ta dùng phương tiện 

Chia ra các đạo quả 

Tuy là nói ba thừa 

Kỳ thật dạy Bồ tát... 

Căn cứ mấy đoạn kinh trên, thì từ trước đến sau, đức Phật chỉ dạy có Nhất thừa pháp, chẳng qua vì tùy trình độ chúng sinh mà phương tiện dẫn dụ thế thôi.

Tóm lại, trong một đời giáo hóa, nói rộng ra, tuy đức Thế Tôn dạy bảo Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, song không ngoài mục đích để thành tựu Phật thừa, tức là Nhất thừa đạo. Đối với hạng chưa thể tu theo đường giải thoát, Ngài khuyên dạy pháp Ngũ giới, Thập thiện, để cho họ trồng căn lành, khỏi sa vào ác đạo, gây nhân duyên đắc độ về sau. Với hạng có thể bước lên nẻo Niết bàn, Ngài khai thị pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, để họ thoát nỗi khổ luân hồi, hưởng sự vui tịch tịnh, rồi lần lượt dẫn dụ vào đại pháp. Với hạng đại căn cơ, Ngài chỉ ngay Bồ tát đạo, khiến cho họ mau thành tựu quả Phật. Đức từ bi, bình đẳng, trí huệ, phương tiện của Phật quả thật không lường! Thế thì dù Tiểu thừa hay Đại thừa, đều cùng là con của Phật, cùng sẽ về một tiêu điểm, người phật tử chỉ nên tự xét và tự hướng lối đi của mình đúng như lời dạy của đức Thế Tôn, chớ không nên cố tâm chia rẽ.