Chương 2- Phật giáo với gia đình

19 Tháng Sáu 201610:11 CH(Xem: 2655)
Chương 2- Phật giáo với gia đình

Phật Học Tinh Yếu 3
HT Thích Thiền Tâm


Thiên Thứ Ba
Chương Hai

Phật Giáo Với Gia Đình

Tiết Mục:

I. Lược thuyết về năm thừa
II. Bổn phận cha con
III. Bổn phận vợ chồng
IV. Bổn phận chủ tớ

Kinh sách trích dẫn : - Các kinh: Biện ý Trưởng giả tử, Thiện Sanh, Trường A Hàm, Đại Tập, Tâm Địa Quán, Tạp Bảo Tạng, Tịnh Phạn Niết Bàn, Bản Sự, Vu Lan Bồn, Ngọc Gia Nữ, Trưởng giả Pháp Chí Thê.

- Đề yếu : Nhiều người hiểu lầm rằng: Tu phải là kẻ lớn tuổi, phải lìa bỏ tất cả việc đời, vui phận thanh đạm nâu sòng, sớm kệ chiều kinh, dưa muối chay lòng, gió trăng mát mặt. Tắt một lời: họ cho tu sĩ phải là con người thế ngoại. Những vị ấy chưa quan niệm được nghĩa tu là sửa đổi, sửa xấu thành tốt, dở ra hay, ác hóa lành, vọng thành chơn, phàm thành thánh. Và tu đã là sửa đổi, thì bất luận nam, nữ, già, trẻ, sang, hèn, tùy phần mình ai cũng có thể tu được.

Đức Phật ra đời không phải vì lợi ích riêng cho một hạng người, nên ngài đã tùy cơ di­ễn giảng năm thừa: Về Nhơn thừa, một trong năm nấc thang giáo pháp, đức Thế Tôn đã dạy bổn phận đối xử giữa cha và con, chồng vợ, chủ tớ... như sự trích dẫn nơi các tiết của bản chương. Đã biết Phật pháp bao hàm thế pháp, nếu nhận thức sâu hơn, các bạn có thể xóa tan quan niệm ranh giới giữa hai khu vực ấy.

Tiết I - Lược Thuật Năm Thừa

Đức Phật đã bảo thế giới của chúng ta đang ở có ngũ thú là : Địa ngục, Ngạ quỉ, Bàng sanh, Nhơn và Thiên. Ba nẻo trước gọi là ác thú hay ác đạo, hai nẻo sau là thiện thú hoặc thiện đạo. Các loài hữu tình do tạo nghiệp lành nên được sanh về thiện thú, và bởi gây nhân dữ nên bị đọa vào ác đạo.

Nhân duyên ấy như thế nào? - Trong kinh Biện Ý Trưởng Giả Tử, đức Phật nói: "Có năm việc được sanh lên cõi trời: 1- Giữ hạnh từ bi không giết hại loài hữu tình; thường phóng sanh, nuôi dưỡng, ái hộ vật mạng, khiến cho chúng được yên ổn. 2- Giữ hạnh hiền lương không tham lam, không trộm cướp tài vật của kẻ khác; bố thí giúp đỡ người nghèo nàn khốn khổ. 3- Nhẫn nhục, không làm não người. 4- Tinh tiến, khuyến hóa kẻ giải đãi. 5- Nhứt tâm, trọn hiếu, tận trung. Giữ trong năm điều này, sẽ làm người giàu sang, sống lâu, khỏe đẹp, có oai đức; hoặc làm vua chúa được mọi người kính mến thừa sự.

Có năm việc bị đọa vào loài bàng sanh: 1- Phạm giới, ngoại tình, trộm cướp. 2- Mắc nợ mà lừa lọc, ngang ngạnh, không chịu trả. 3- Ưa sát sanh, rượu thịt. 4- Không chịu nghe học kinh pháp. 5- Say mê theo tục duyên, không thích trì trai, giữ giới, bố thí.

Có năm việc bị đọa vào loài ngạ qủy : 1- Bỏn sẻn không thích bố thí. 2- Trộm cắp, bất hiếu với cha mẹ. 3- Ngu tối hẹp hòi, không có lòng rộng rãi, xót thương. 4- Chứa cất nhiều tiền của mà không dám ăn mặc, chi dùng. 5- Có tiền của, song không cấp dưỡng cha mẹ, anh em, vợ con, tôi tớ.

Có năm việc bị đọa địa ngục : 1- Không tin, Phật, Pháp, Tăng, khinh báng Thánh đạo. 2- Phá hoại chùa miếu. 3- Hủy báng bốn chúng của Phật, lung lăng không tin việc nhân qủa tội phước. 4- Ngỗ nghịch, không biết thượng hạ tôn ty, chẳng kể quân thần phụ tử, không chịu thuận tùng phục thiện theo lẽ phải. 5- Không nghe lời dạy chân chánh của thầy, tự cao, khinh mạn, hủy báng sư trưởng.

- Này Biện Ý! Đó là những nhân duyên sanh về thiện hay ác đạo(Kinh Biện Ý Trưởng Giả Tử) .

Bởi chúng sanh đều có tánh Phật và đều có thể thành Phật, nên Như Lai vận đức từ vô duyên, lòng bi đồng thể, nói ra năm thừa. Trong năm thừa này, Nhơn và Thiên thừa được thi thiết với mục đích khiến cho chúng sanh khỏi bị đọa vào ba đường ác khổ não, giữ thân trời, người, để lần lần gặp nhân duyên nghe pháp đắc ngộ. Nhưng phước nhơn thiên vẫn là hữu lậu, vô thường, còn trong nẻo luân hồi, khó bảo đảm khỏi bị sa đọa, nên đức Phật nói ra Thanh Văn, Duyên Giác thừa, để loài hữu tình thoát ly ba cõi, được vĩnh vi­ễn an vui. Tuy nhiên, hai thừa này còn chưa đi đến chỗ giải thoát cứu cánh; vì thế đức Như Lai lại nói ra Bồ Tát thừa để hàng tiểu quả tiến tu chứng lên cảnh an vui tự tại cực điểm là ngôi viên giác của Phật.

Tóm lại, Nhơn Thiên thừa chỉ là thế gian pháp. Thanh Văn, Duyên Giác thừa lấy cảnh Vô dư Niết Bàn làm chỗ quy túc, tuy cũng xót thương cứu độ loài hữu tình, nhưng lại chủ trương theo đường lối xuất thế. Còn Bồ Tát thừa thì quy túc nơi cảnh Vô trụ Niết Bàn; vì Niết bàn nên không đắm nhi­ễm thế gian, vì vô trụ nên không lìa bỏ thế gian, hằng gần gũi với đời, vận lòng bi trí tiến tu phước huệ cho đến khi thành Phật. Đây tức là xuất thế mà nhập thế, nhập thế mà xuất thế vậy.

Nếu ngộ tất cả pháp là Phật Pháp, thì dù nhập thế hay xuất thế, đối với thế gian, hành giả phải nhìn bằng con mắt bình đẳng, không nên khinh thường.

Tiết II - Bổn Phận Cha Con

Như trên đã nói, Phật pháp có năm thừa bao hàm cả pháp thế gian và xuất thế gian. Điều này chứng tỏ Phật giáo nhiếp hóa tất cả các hạng người, không luận nam nữ, già trẻ, tăng tục, giàu nghèo, sang hèn. Có người đã nghĩ: tu hành là phải lìa nhà vào nơi thanh vắng cạo tóc, mặc nâu sòng, ăn chay lạt, sớm mõ chiều chuông. Có vị lại bảo: tôi mắc gia đình, còn làm ăn, hoặc còn trẻ tuổi, chưa thể tu được. Đó là những quan niệm sai lầm về tu hành đối với Phật Pháp. Những đoạn kinh sau đây sẽ đính chánh quan niệm ấy.

Phận làm cha mẹ đối với con cái phải thế nào ?

Cha mẹ nên dùng năm việc để tỏ lòng thương lo săn sóc cho con: 1- Khuyên răn dạy bảo, cho học kinh sách đời và đạo. 2- Con lớn lên, lo phần đôi bạn, trai cưới vợ, gái gả chồng. 3- Mưu tính sự lợi ích cho con. 4- Giúp con gầy dựng cơ nghiệp. 5- Đem tiền của phân cấp cho con cái. (Kinh Phật Thuyết Thiện Sanh Tử).

Bổn phận con đối với cha mẹ như thế nào ? Con cái có năm điều phải thuận thảo với cha mẹ : 1- Chăm lo học tập hoặc siêng năng làm việc để giúp đỡ song thân. 2- Săn sóc thức ăn uống cho cha mẹ khi hôm sớm. 3- Đừng có hành động gì để cha mẹ phải lo buồn. 4- Thường nghĩ ơn cúc dục, luôn luôn lo báo bổ. 5- Khi song thân đau yếu, già nua, phải lo phần thuốc thang và phụng sự cho chu đáo. (Kinh Thiện Sanh)

Lại, đạo làm con phải kính dưỡng cha mẹ theo năm điều : 1- Tùy phần, làm hết sức mình trong việc cung phụng song thân. 2- Có hành động gì phải thưa trước cho cha mẹ biết. 3- Khéo uyển chuyển, đừng tỏ ra ngỗ nghịch đối với bề trên. 4- Cha mẹ bảo điều phải, chớ nên trái ý. 5- Đừng gàn trở, nên nối chí cha mẹ trong công việc chánh đáng. (Kinh Trường A Hàm).

Cha mẹ có ân lớn đối với con. Nếu đời không Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật. (Kinh Đại Tập).

Và, với con, người từ mẫu có mười đức : 1- Như đất chở: vì khi con chưa sanh, con nương nơi thai làm cho mẹ phải chịu nhiều điều nặng nhọc. 2- Hay sanh nở: ngày lâm bồn, mẹ phải trải qua nhiều đau khổ, thừa sống thiếu chết. 3- Khéo nâng sửa: thường dùng tay nâng sửa năm vóc cho con. 4- Chăm dưỡng dục: mẹ nằm chỗ ướt, để con nằm chỗ khô, bú sữa mớm cơm cho hài nhi, tùy nghi các mùa nuôi cho khôn lớn. 5- Cho trí huệ: thường dùng phương tiện khiến cho con phát sanh sự hiểu biết. 6- Hằng trang nghiêm: tùy phần lực, may y phục đẹp, hoặc sắm đồ trang sức cho con. 7- Năng an ổn : thường bồng ẵm, ôm con vào lòng cho nó được yên nghỉ. 8- Lo dạy dỗ: dắt dìu, dùng nhiều cách dạy dỗ con từ chút. 9- Hay khuyên răn : dùng lời từ hòa nhắc nhở, răn dạy con tránh chỗ hiểm nguy, xa nơi xấu ác. 10- Cho sự nghiệp: lo cho con có gia đình, sự nghiệp, tùy sở hữu thường cung cấp, thậm chí con đi xa, mẹ tựa cửa ngóng trông.

Này thiện nam tử! Vì thế các ông phải siêng năng tu tập để báo ân đức mẹ cha. (Kinh Tâm Địa Quán)

Không những đức Phật đem đạo hiếu dưỡng dạy người, mà trong tiền thân cho đến khi thành chánh giác, Ngài cũng đã thật hành theo hạnh thảo thuận ấy. Như đoạn kinh sau đây :

Đời quá khứ lâu xa về trước, trong núi Tuyết có con chim Anh Võ, vì cha mẹ già mắt lại mù, nên thường bay đi các nơi hái trái ngon đem về phụng dưỡng song thân. Bấy giờ có người điền chủ, trong khi gieo giống phát nguyện rằng:" Xin chư thần giúp đỡ cho hoa màu của tôi được tốt. Những lúa này khi kết hạt, xin cấp cho tất cả chúng sanh cùng hưởng". Chim Anh Võ nghe biết người điền chủ có tâm bố thí, nên vừa lúc lúa chín, thường lấy về cung phụng cha mẹ. Một hôm, điền chủ đi thăm ruộng thấy lúa mình bị loài phi cầm ăn hao hớt khá nhiều, bỗng sanh lòng ác não, liền làm một cái bẫy lưới và kết qủa bắt được chim Anh Võ. Khi bị sanh cầm, Anh Võ nói với điền chủ: " Trước kia ông đã có tâm bố thí, nên tôi mới dám đến đây lấy lúa, sao nay ông lại bắt tôi? Điền chủ hỏi:"Ngươi lấy lúa cho ai ăn ? " - Đáp :"Tôi có cha mẹ già lại mù lòa, nên lấy đem về cấp dưỡng". Điền chủ bỗng ngậm ngùi bảo:"Loài chim chóc còn biết hiếu thuận như thế, huống nữa là người ? Từ đây về sau, ta cho phép ngươi tự tiện đến lấy lúa. Chớ nghi ngờ sợ hãi chi cả !".

Đức Phật bảo các Tỷ Khưu: "Chim Anh Võ con thuở xưa, chính là tiền thân của ta ngày nay. Vị điền chủ lúc ấy là Xá Lợi Phất đây. Và hai con chim Anh Võ già lại mù lòa, là Tịnh Phạn vương cùng Ma Gia phu nhân, cha mẹ đời hiện tại của ta vậy". (Kinh Tạp Bảo Tạng).

Bấy giờ, Tịnh Phạn vương đau nặng sắp mất, trông nhớ đức Phật, cùng con thứ là Nan Đà, điệt tử A Nan và tôn tử La Vân.

Đức Phật biết được, liền cùng các vị ấy dùng sức thần túc đi đến vương cung. Khi đến nơi đức Thế Tôn phóng ánh sáng rực rỡ báo tin cho hay trước, rồi vào cung an ủi rằng:" Xin phụ vương chớ lo buồn suy nghĩ, vì tất cả pháp hữu vi đều vô thường và đạo đức của phụ vương cũng đã thuần bị ". Nói xong, từ trong áo cà sa, đức Thế Tôn đưa ra cánh tay sắc vàng, bàn tay như hoa sen, rờ nơi trán vua cha, ân cần thuyết pháp.

Sau khi nghe Phật an ủi và nói pháp yếu, Tịnh Phạn vương trong lòng vui vẻ, nắm tay Phật để lên ngực mình, rồi thưa rằng :" Đức Như Lai là bậc chí nhân, chúng sanh nào thấy từ dung, nghe thuyết pháp, đều được lợi ích. Nay tôi được chiêm ngưỡng Như Lai và thấy các vị Tôn giả, tâm nguyện đã mãn. Xin từ đây giã biệt!". Nói xong, vua chấp hai tay nơi ngực, tỏ dấu tâm lễ­ đức Thế Tôn, rồi yên ổn mà qua đời. Lúc ấy bàn tay của Phật còn để trên ngực vua cha.

Khi đó, các hàng Thích tử theo nghi thức tắm rửa tẩm liệm, rồi đưa kim quan Tịnh vương ra nơi bảo tòa. Đức Phật nghiêm túc đứng trước, Nan Đà, La Vân đứng sau linh quan. Ngài A Nan qùy bạch Phật rằng:" Xin Thế Tôn cho con đỡ linh quan của bá phụ". La Vân lại thưa: "Con cũng xin đỡ quan quách của tổ vương".

Bấy giờ đức Thế Tôn nghĩ người đời sau phần nhiều ngỗ nghịch với cha mẹ, không tưởng đến ân dưỡng dục; ngài muốn làm gương khuyến hóa kẻ bất hiếu hậu thế, nên đưa tay ra sắp đỡ linh quan để lên vai. Lúc ấy cõi đại thiên hốt nhiên chấn động sáu cách, các núi lớn nhỏ đều rung chuyển mạnh. Tất cả chư thiên ở Dục giới đều đồng bay xuống phó tang. Phương bắc, Tỳ Sa Môn thiên vương đem các thần Dạ xoa, phương đông Đề Đầu Lại Tra thiên vương đem các thần Cưu bàn trà, phương tây Tỳ Lưu Bác Xoa thiên vương cũng đem các Long thần bay xuống. Bốn vị thiên vương thành khẩn qùy bạch Phật, xin cho mình thay thế đỡ linh quan vua Tịnh Phạn. Đức Thế Tôn nhận lời, rồi tự bưng lư hương chậm rãi dẫn tang đi trước, đến chỗ trà tỳ. (Kinh Tịnh Phạn Vương Bát Niết Bàn).

Như trước đã nói, công ơn của cha mẹ đối với con rất sâu dày. Vậy bổ phận làm con phải làm thế nào để báo đáp? Đức Phật đã dạy:

- Chúng sanh có mối thâm ân khó đền đáp, đó là ơn cha mẹ. Giả sử có người suốt đời thường để cha mẹ trên hai vai, cung cấp cho áo mặc thức ăn và mọi thứ cần dùng, khi bịnh lại thuốc thang săn sóc, cũng chưa thể báo được ân sâu ấy. Tại sao thế? Vì ơn cha mẹ đối với con rất cao dày. Đại khái như những việc: chịu khổ lúc mang thai; sanh sản; chăm nom phần bú sữa sú cơm; thường tắm rửa cho sạch sẽ không kể sự hôi nhơ; dùng lòng từ ái săn sóc nuôi con cho đến khi khôn lớn; cung cấp cho trẻ y phục, thức ăn ngon, đồ chơi hoặc vật trang điểm; dạy dỗ con cách nói năng, những nghi thức, cho học hành; lo lắng khi con đau yếu; tâm thường muốn cho trẻ khỏi khổ được vui; chăm non tưởng nghĩ đến con như bóng theo hình.

- Ân cha mẹ đã sâu như thế, con phải đền đáp thế nào cho xứng !

- Nếu cha mẹ đối với Phật, Pháp, Tăng, không có lòng tin tưởng, con phải dùng phương tiện giảng giải, khuyến khích, tán dương về sự lợi ích phụng sự Tam Bảo, cho song thân sanh lòng tin. Như cha mẹ không giữ tịnh giới, con phải khuyên lơn cho thọ trì cấm giới. Nếu song thân chưa hiểu rộng về Phật pháp, con phải dùng phương tiện khiến cho nghe hiểu chánh pháp. Hoặc cha mẹ có tánh tham lam bỏn sẻn, không ưa bố thí, con phải giải rõ sự lợi hại trong việc ấy, và khuyên cho sanh tâm rộng rãi, thích làm việc bố thí. Nếu song thân bẩm tánh ngu tối, con phải thường dẫn giải, khuyến khích về đạo pháp, chỉ phương châm tu hành, cho cha mẹ phần thắng huệ.

Làm con đối với song thân như thế, mới gọi là chân thật báo đáp thâm ân (Kinh Bản Sự).

- Đức Phật bảo :"Các thiện nam, thiện nữ! Nếu hàng phật tử muốn tu hiếu thuận, nên thường tưởng niệm công ơn dưỡng dục, ân cần phụng sự cha mẹ hiện tại và nghĩ cách cứu độ song thân trong bảy đời. Mỗi năm vào ngày rằm tháng bảy, người con phải sắm l­ễ Vu Lan bồn cúng Phật và Tăng, để báo đáp ân đức trưởng dưỡng từ ái ấy.

Tất cả đệ tử của Phật đều nên phụng trì pháp này. (Kinh Phật Thuyết Vu Lan Bồn).

Tiết III - Bổn Phận Vợ Chồng

Trong gia đình người chồng nên khéo giữ năm việc đối với vợ : 1- Phải kính trọng, biết chiều thuận vợ theo lời khuyên hợp lý, đừng nên có thái độ rẻ rúng, tự chuyên. 2- Để ý săn sóc vợ trong việc ăn mặc. 3- Tùy phần sắm sửa đồ tư trang cho vợ. 4- Tín cẩn và giao phó cho vợ hiền nhà cửa, tiền bạc cùng của cải. 5- Không nên ngoại tình, tư riêng, để cho vợ sanh lòng lo buồn.

Đối lại, vợ cũng có năm việc phụng sự chồng : 1- Chồng ở ngoài về, phải vui vẻ đón chào. 2- Chồng đi làm, vợ ở nhà phải quét dọn sửa sang trong ngoài cho ngăn nắp sạch sẽ, và lo sẵn cơm nước chờ về để cùng ăn. 3- Không được ngoại tình; đôi khi bị chồng rầy la; phải nhẫn nại và nhẹ nhàng giải thích, chẳng nên cau có cãi mắng lại. 4- Biết nghe lời phải của chồng, không được cất giấu để của tư riêng. 5- Ban đêm, đợi chồng vào nằm rồi, tự mình kiểm soát cửa nẻo, đậy cất đồ vật, rồi mới đi nghỉ sau.

Nói rộng ra, bổn phận người vợ phải gắng giữ trọn vẹn mười bốn điều: 1- Khéo léo trong việc làm. 2- Vâng lời và làm cho xong việc chồng dặn dò, giao phó. 3- Cẩn thận trong việc xuất nhập, chi thu. 4- Sáng dậy sớm. 5- Tối ngủ muộn. 6- Rành rẽ việc nội trợ, nên tập cho biết các việc cần thiết để giúp chồng. 7- Trọn bổn phận khi chồng đi vắng. 8- săn sóc hỏi han chồng. 9- Dáng điệu từ hòa. 10- Nói năng nhu thuận. 11- Sửa sang dọn dẹp bàn ghế đồ đạc cho có ngăn nắp. 12- Khéo léo, sạch sẽ trong việc nấu ăn. 13- Rộng rãi, bố thí. 14- Sắm các thức cần dùng cho chồng.

Điểm cần yếu là vợ chồng phải trung thật với nhau, không nên có ngoại tâm. Bởi sự tà dâm có sáu điều nguy hại : 1- Khó giữ vẹn thân mình. 2- Gây sự xáo trộn buồn rầu cho gia đình con cái. 3- Công việc sanh nhai có thể do đó thất bại, sự sản tiêu hao. 4- Thân thuộc khinh chê, trong gia đình thường có hiềm nghi, chống trái. 5- Kẻ thù được cơ hội thuận tiện. 6- Các sự khổ càng ngày thêm buộc ràng, chồng chất. (Kinh Thiện Sanh).

Trưởng giả Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ cưới vợ cho con. Cô dâu là nàng Ngọc Gia, con gái của một vị đại thần của vua Ba Tư Nặc. Ngọc Gia nữ ỷ mình xinh đẹp, cậy thế phụ thân, xem thường chàng rể, thậm chí không cung kính cha mẹ chồng, cũng chẳng quy thuận Tam Bảo.

Trưởng giả lo buồn, thỉnh Phật quang lâm giáo hóa. Đức Thế Tôn đến nơi, gọi Ngọc Gia nữ dùng nhiều lời phủ dụ và bảo rằng :" Trong đời, kẻ làm vợ có bảy hạng: vợ như mẹ, vợ như em gái, vợ như thiện tri thức, vợ đúng tư cách người vợ, vợ như tôi tớ, vợ như oan gia, vợ như cừu địch. Nay ta vì ngươi giải thích, hãy chú tâm lắng nghe :

- Thế nào là vợ như mẹ? - Đó là người vợ nghĩ tưởng đến chồng như mẹ thương lo cho con. Mỗi ngày, từ sớm đến tối phụng dưỡng chồng không thiếu xót, thương mến và lo lắng cho chồng từ chút, chẳng khi nào nhàm chán tr­ễ nãi.

- Thế nào là vợ như em gái ? - Đó là người vợ biết phục tùng vâng lời, luôn luôn nhỏ nhẹ kính thuận chồng như em gái đối với anh. Khi có hoạn nạn, vui khổ, đồng cùng chung nhau, tợ tình cốt nhục.

- Thế nào là vợ như thiện tri thức? - Đó là người vợ hiểu biết rộng nhiều, thường khuyên chồng điều hay lẽ phải. Khi chồng có việc nan giải thì giúp ý kiến gỡ rối. Những duyên sự trong ngoài, công tư, đời hay đạo, thường cùng nhau mưu tính luận bàn.

- Thế nào là vợ đúng tư cách người vợ ? - Đó là người vợ rành rẽ việc nội trợ để cung phụng và giúp đỡ chồng. Khi hôm sớm, lúc chồng đi vắng hay có ở nhà, vẫn giữ tròn bổn phận, không phạm đạo nghĩa, không trái lễ­ độ.

- Thế nào là vợ như tôi tớ? - Đây là người vợ trung thuận hiền lành, đối với chồng như tôi thờ chúa. Khi chồng nặng lời vẫn nhẫn chịu, chồng hiếp đáp không oán hờn chống trả, miệng chẳng khi nào có lời thô, thân siêng năng làm lụng không biếng trễ­, và tâm hằng từ ái. Người vợ này trong việc ăn mặc không buồn hiềm vì ngon dở hay xấu đẹp, dù vui khổ vẫn cam chịu, không hai lòng.

- Thế nào là vợ như oan gia? - Đó là người vợ thường hay ganh hờn, không có thái độ vui vẻ với chồng. Kẻ này tuy cùng chồng sống chung, nhưng xem như ăn nhờ ở tạm, đối với chồng xuồng xả, không trọn việc nội trợ, chẳng siêng kế sanh nhai, cũng không để ý đến chuyện săn sóc, nuôi nấng dạy dỗ con cái. Có khi gây việc phạm pháp, làm cho liên lụy khổ nhục đến chồng.

Thế nào là vợ như cừu địch? - Đó là người vợ sâu độc, hung dữ, ngoại tình. Kẻ này hằng có thái độ vô l­ễ, thù hận, mắng chưởi chồng, mưu chiếm đoạt tiền bạc của cải, khi đã được rồi thì tìm cách ly thân. Đôi khi lại đồng lõa với người ngoài, âm mưu hại chồng, chồng chết liền trao thân cho kẻ khác.

- Này Ngọc Gia! Người vợ hiền lành trọn đạo đối với chồng, khi mạng chung sẽ được sanh lên cõi trời hưởng phước lạc tự nhiên. Lúc thọ số hết lại được sanh xuống nhân gian làm con cháu bậc vương hầu sang giàu quyền thế, tư dung xinh đẹp, mọi người đều kính mến. Còn kẻ ác phụ sẽ bị tiếng xấu, hiện đời thân không yên ổn, thường bị ác mộng, oan qủy theo bên mình, hoặc gặp bịnh khổ cùng tai nạn. Kẻ ấy sau khi chết sẽ đọa xuống tam đồ.

Ngọc Gia nữ nghe Phật thuyết pháp xong, hổ thẹn rơi lệ mà thưa rằng :" Bạch đức Thế Tôn ! Con vì ngu si nên có lỗi với cha mẹ chồng và không trọn đạo người hiền phụ. Từ đây về sau, con nguyện làm người vợ như tôi tớ, không còn dám khinh mạn nữa !".

Bạch xong, liền quỳ trước Phật, xin thọ quy giới. (Kinh Ngọc Gia Nữ )

Tiết IV - Bổn Phận Chủ Tớ

Chủ và tớ tuy không phải là người thân quyến, nhưng cũng ở trong phạm vi gia đình, thường gần gũi nhau, nên về nghĩa cũng đồng như quyến thuộc. Vậy chủ không nên ỷ lại mình là người bề trên mà mặc tình sai sử, đánh mắng, xem tôi tớ như đất bụi. Và tớ cũng phải trung thành giúp chủ, xem như công việc nhà của mình, chớ nên lười biếng gian ngoa. Như lời đức Phật đã dạy :

Người gia chủ phải y theo năm điều: 1- Sai làm những công việc vừa với khả năng, sức lực. 2- Sự ăn mặc phải cung cấp đầy đủ. 3- Cho tôi tớ có giờ nghỉ ngơi. Đừng bắt làm việc qúa thời. 4- Thỉnh thoảng có thức ngon nên chia cho tôi tớ cùng ăn. 5- Tôi tớ đau yếu, phải cho an dưỡng và săn sóc giúp đỡ về thuốc men tiền bạc.

Đối lại, kẻ giúp việc cũng có mười điều cung phụng chủ : 1- Làm lụng vén khéo. 2- Hoàn thành công việc của chủ giao phó. 3- Chi dụng phải cẩn thận vừa chừng. 4- Ngủ muộn. 5- Thức sớm. 6- Tập rành các công việc. 7- Siêng năng làm việc hết sức mình. 8- Đối với chủ nghèo không khinh mạng. 9- Chủ thất thế hay suy sụp, không phụ rãy bõ đi. 10- Ra ngoài nên ngợi khen, đừng nói xấu gia chủ. (Kinh Thiện Sanh ).

Vợ Trưởng giả Pháp Chí là một phụ nữ xa hoa mà khắc nghiệt. Bà mặc đồ trân phục quý lạ, trang sức bằng chuỗi anh lạc, ăn đủ các thức ngon, song đối với tôi tớ người nào có chút lỗi lầm, thì đánh mắng khổ nhục, không cho phân trần phải trái.

Biết bà có gieo nhân lành từ kiếp trước, một hôm Phật đến nhà để hóa độ. Khi tới nơi, đức Thế Tôn phóng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mười phương. Vợ Pháp Chí trưởng giả được quang minh soi đến thân, liền tự nghĩ rằng: "ánh sáng này rực rỡ êm dịu lạ thường, làm cho thân tâm ta mát mẻ an ổn, tan hết cả sự lo lắng nhọc mệt, trong người tươi nhuận không còn biết đói khát. Nhưng tại sao ta thích an vui, mà lại đánh mắng kẻ tôi đòi, làm cho họ đau buồn khổ sở! Và ánh sáng này từ đâu phát ra ?".

Nghĩ xong, bà bước ra phía trước trông thấy Phật, liền vội vã rước vào nhà. Nhìn đức Thế tôn từ dung lặng lẽ, tướng tốt rực rỡ trang nghiêm, bà bỗng sanh những mối cảm niệm: thương, mừng, hổ thẹn; liền phủ phục đảnh lễ­ nơi chân Phật, tận tình phát lộ những tội lỗi của mình và cầu xin sám hối. Đức Phật bảo lành thay! Nay ngươi đã biết ăn năn cải thiện, tất sẽ được những điều lợi ích an lành. Sở dĩ chúng sanh nhiều kiếp bị làm thân nữ, là do vì tình nhiễ­m nặng nề, ganh ghét, nhiều lời, kiêu căng tự thị, hay trao sửa dung sắc, và tâm ý buông lung. Phải biết cảnh đời đều vô thường, sự giàu sang quyền thế như trăng tròn rồi khuyết, mặt trời mọc rồi lặn, sóng, gió, lửa nổi dạy rồi tan. Vậy đối với kẻ thuộc hạ, ngươi nên ân cần hòa dịu, thương xót như con em, đừng đem lòng khắc nghiệt. Các cảnh khổ vui của Trời, Người, Tu la, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục, đều do chính mình tạo ra. Tất cả qủa pháp đời và đạo, cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật cũng như thế. Như thân ta ngày nay có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thần thông trí huệ thấu suốt mười phương, đều do nhân lành thể hiện".

Vợ Trưởng giả Pháp Chí nghe xong, tự trách mình trước đã tối tăm, không được phước duyên sớm nghe lời từ hóa, liền đảnh l­ễ Phật và xin quy y Tam bảo. Đức Thế Tôn lại nói thêm về Pháp Thập Thiện, Lục độ, Tứ vô lượng tâm, và khuyên bà đối với tôi tớ nên giảng giải cho chúng nghe về sự khổ vui, tội, phước, nhân quả, luân hồi. Chúng sẽ lần lần hiểu đạo và tự đi theo con đường lành. Công việc này còn có hiệu năng hơn đánh mắng.

Khi ấy, tất cả người giúp việc của Pháp chí trưởng giả đồng quỳ xuống thưa rằng : " Bạch đức Thế Tôn! Thân phận tôn, ty, giàu, nghèo, sang, hèn, từ kiếp này đến kiếp khác cũng vẫn thế, hay là có thể thay đổi ?" Đức Phật bảo: "Cảnh duyên vẫn không, và đều tùy tâm mà biến hiện.

Kẻ sang quí nếu tạo ác, tất sẽ hết phước, bị sa đọa; dù là hạng nô tỳ, như cố gắng tu thiện cũng có thể thành Phật. Các ngươi nên biết, tất cả pháp đều vô thường, duy có chân tâm sáng suốt là bất diệt. Chân tâm ấy ví như hư không, không tăng giảm và chẳng ai có thể phá hoại".

Chúng thuộc hạ của Pháp Chí trưởng giả nghe xong, đều vui mừng hớn hở, phát lòng bồ đề. ( Kinh Phật Thuyết Trưởng Giả Pháp Chí Thê).

Phật Học Tinh Yếu. Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Đánh máy: Từ Hỷ